Trong thập niên 1970 danh
từ thi pháp (poétique) trở thành thông dụng, thi pháp học
dần dần trở thành một khoa học phổ biến, dính liền
với ngành ngữ học, trong một khung cảnh học thuật rộng
lớn hơn, là khoa ký hiệu học.
Thi pháp học không chỉ
nghiên cứu về bộ môn thi ca như nhiều người tưởng,
mà nhắm đối lượng lớn hơn: Tính cách thẩm mỹ của
ngôn ngữ. Ngôn ngữ có nhiều chức năng, chủ yếu là
thông tin, nhưng còn một chức năng đặc biệt, ít được
lưu tâm, là chức năng thẩm mỹ, bàng bạc trong mọi hình
thức diễn ngôn, lời nói ngày thường, lời ăn tiếng
nói của nhân dân, ngôn ngữ bập bẹ của trẻ con. Nhưng
chức năng thẩm mỹ cô đúc và phong phú nhất là trong
ngôn ngữ thi ca.
Do đó, thơ trở thành
khu điền giả, địa hạt thí nghiệm, thực tập cho khoa
thi pháp, truy lùng tận gốc rễ chức năng thẩm mỹ của
ngôn ngữ. Nói để nói cái gì với ai, là chức năng
thông tin. Nói để nói một lời nói đẹp, là chức năng
thẩm mỹ. Chức năng thẩm mỹ nằm chồng lên chức năng
thông tin để tăng mức hấp dẫn, sức thuyết phục cho
thông tin; nhưng tự thân nó tính thẩm mỹ, tính thi pháp,
là một chức năng độc lập.
Một ví dụ, cũng là
cách ví von:
Trúc xinh trúc mọc
đầu đình
Em xinh em đứng một
mình cũng xinh.
Thơ được sử dụng
như một phòng thí nghiệm của nhiều khoa học khác: ngôn
ngữ học, ký hiệu học, dân tộc học. Cho nên được ưu
đãi trong các công trình nghiên cứu, chứ không phải vì
thi ca quan trọng hơn các hình thức diễn ngôn khác.
Nói một cách quá đáng,
cho dể hiểu, thì thơ là con chuột bạch cho nhiều bộ
môn khoa học nhân văn hiện đại và đương đại.
Người đi tiên phong, có
những đóng góp phong phú và quyết định cho tư trào này
là nhà ngữ học Roman Jakobson, 1896 -1982, gốc Nga định cư
ở Mỹ và phạm vi hoạt động vòng quanh thế giới. Từ
1915, ông đã tích cực đóng góp vào trường phái hình
thức Nga, và một trong vài ba lãnh tụ Câu Lạc Bộ Ngôn
Ngữ Học Praha: nhóm này, tại hội nghị Ngôn ngữ học
Quốc tế họp tại Den Haag, Hà Lan, 1928 đã đặt
những viên đá đầu tiên cho nền ngữ học cấu trúc
(Linguistique Structurale) từng bước tiến bộ về sau, bước
sang nhiều lãnh vực khoa học và dần dà ngày một ngày
hai trong nửa thế kỷ, sẽ chiếm địa vị quan trọng -
nếu không phải là độc tôn, trong sinh hoạt nghiên cứu
khoa học nhân văn trên toàn cầu.
Đã có nhiều quan niệm,
định nghĩa về thơ. Những quan niệm thay đổi tùy nền
văn hóa, văn minh, thời đại, xã hội, giai cấp, trình
độ, hoàn cảnh, tâm lý cá nhân. Thậm chí một cá nhân,
người làm thơ hay người nghiên cứu, tùy lúc cũng có
những định nghĩa khác nhau. Tranh luận chỉ hao hơi và
mất ngày giờ.
Nhưng giới nghiên cứu
thế giới hiện nay dường như đồng thuận với quan niệm
Roman Jakobson đã phát biểu từ năm 1919 :
“ Cách đặt đối
tượng vào ngôn từ, vào khối từ ngữ: tôi gọi đó là
thời điểm duy nhất và thiết yếu của thơ, đụng không
những vào lối kết hợp chữ nghĩa mà còn đụng vào cái
vỏ của ngôn từ. Sự liên hợp tự động giữa ngữ âm
và ngữ nghĩa (le sens et le sens) nhanh chóng hơn thường lệ
(1919 : bài
Thơ Mới tại Nga).
1933, trong bài Thơ là
gì, ông định nghĩa rõ hơn bằng cách so sánh chức
năng thi pháp qua nhiều hình thức diễn ngôn, qua nhiều
sinh hoạt và tác giả khác nhau. Roman Jakobson là nhà Bác
học thâm sâu, còn là một nhà sư phạm tài ba: điều khó
đến đâu, cũng có cách làm người ta hiểu được.
Ông bắt đầu: muốn
biết thơ là gì, thì phải đối lập nó với cái không
phải là thơ - chuyện không đơn giản. Rồi nhắc lại :
“ Quan niệm về thơ là bất định, thay đổi với
thời gian, nhưng chức năng thơ, hay thi tính là một yếu
tố khu biệt, không thể máy móc ước lược vào những
thành tố khác . Phải cô lập nó để thấy đặc tính.
Nói chung thi tính cũng chỉ làm thành phần cho một cấu
trúc phức tạp, nhưng thành phần có khả năng biến thể
các thành tố khác để tạo nên một tổng thể chung
(...) khi thi tính, chức năng thi ca chiếm vị thế chủ đạo
trong một tác phẩm văn chương, thì ta gọi là thơ “ .
Ông ví von: dầu, không phải là món ăn riêng nhưng
nhiệm vụ của dầu sắc bén đến độ con cá chiên ...
không còn là cá (!)
Roman Jakobson lý giải
chính xác :
“Thi tính phát hiện
cách nào? một từ được cảm nhận như một từ, chứ
không phải cái thay thế cho sự vật được gọi tên, hay
một bùng vỡ cảm xúc . Rằng là : từ pháp và cú pháp,
ý nghĩa, ngoại hình và nội hình của chúng không phải
là những chỉ dấu dững dưng của thực tại, mà chúng
có trọng lượng riêng và giá trị nội tại”.
Tóm lại, thơ là một
ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng.
Chức năng thơ, trong
ngôn ngữ, là tạo giá trị thẩm mỹ cho lời nói thường,
để tăng mức độ thuyết phục cho thông tin hay biểu cảm
.
Còn về mặt xã hội,
chức năng thơ, hay tác phẩm thi ca là gì ?
“Thi phẩm, giữa toàn
thể giá trị xã hội, không chủ đạo, cũng không lấn
áp được những giá trị khác, nhưng vẫn là nguồn tổ
chức cơ bản của ý thức hệ luôn luôn có định hướng.
Thơ gìn giữ chúng ta chống lại tính máy móc, sự han rỉ
hăm dọa tâm hồn. Tình yêu và thù hận, nỗi loạn và
hòa giải, đức tin và phủ nhận” .
( Nguyên văn tiếng Tiệp,
dịch theo bản tiếng Pháp của Marguerite Derrida)
Chức năng thơ không
phải là thủ thuật của thi nhân. Thi tính do thiên tính,
trẻ con tập nói đã biết sử dụng . Lời ăn tiếng nói
của dân quê nhiều màu sắc độc đáo, nước nào cũng
vây . Về cuối đời, năm 1970 Roman Jakobson chứng minh điều
này qua văn học dân gian Nga, Ba Lan: tục ngữ, cao dao, câu
đố .
“Văn học dân gian cung
cấp cho ta ví dụ hùng hồn về những cơ cấu ngôn ngữ
mang nội dung phong phú và hiệu lực sắc bén, hoàn toàn
độc lập với lý luận trừu tượng”.
Công trình nghiên cứu
Roman Jakobson bao trùm nhiều lĩnh vực, ngôn ngữ nhiều
nước, là nguồn kiến thức cho giới nghiên cứu nhiều
dân tộc khác nhau trên thế giới.
***
Đóng góp lớn lao nhất
của Roman Jakobson trong lý luận về thi pháp là đã thuyết
minh tương quan giữa ngữ âm và ngữ nghĩa, giữa từ và
nghĩa, phản biện lý thuyết lừng danh của F.de Saussure
trong Giáo trình ngữ học đại cương (1913), kinh điển
của khoa ngữ học hiện đại: tương quan giữa ngữ âm (
cái biểu hiện ) và nghĩa ( cái được biểu hiện ) là
võ đoán. Nôm na là không có liên hệ.
Ngựơc lại trong loạt
Sáu bài giảng về âm và nghĩa 1942-1943 Roman Jakobson
đã chứng minh rằng có quan hệ giữa âm và nghĩa, chứ
không phải là võ đoán. Đây là tranh luận về lý thuyết
về ngôn ngữ giữa giới chuyên gia, nhưng với nguời đọc
trung bình cũng quan trọng .
Vì nếu Saussure nói
đúng: không có tương quan giữa âm và nghĩa, thì ... thì
sẽ không có thơ ! Hoặc giả ngôn ngữ thơ sẽ nghèo nàn
lắm, lý luận về thi ca sẽ khốn cùng . Thơ sẽ là lối
minh họa vần vè, một trò tiêu khiển phù phiếm .
Cuốn Vấn đề thi
pháp của Roman Jakobson xuất bản năm 1973, là sách kinh
điển cho giới lý luận. Còn Sáu Bài Giảng, là
những ghi chép làm nền cho giáo trình, cho nên mãi đến
năm 1976 tác giả mới công bố, nên ít người biết và
tham khảo. Nhưng đây là sách cơ bản .
Roman Jakobson bắt đầu
khảo sát âm vị (phonème), liên hệ với hình vị trong
mỗi hệ thống ngôn ngữ để đi đến kết luận rằng
không có một “nghĩa tự tại và độc lập: cái nghĩa
nào đó luôn luôn gắn liền với một ký hiệu“. “Trong
ngôn ngữ không có ý nào không lời, hoặc lời nào không
ý “. (Từ chính xác là cái biểu hiện và cái được
biểu hiện . Tôi dịch thoát cho nhẹ nhàng và dể hiểu
). Roman Jakobson lặp lại ý của Benveniste phản bác
Saussure “ giữa cái biểu hiện và cái được biểu
hiện, tương quan không võ đoán, nó thiết yếu”
(Acta Linguistica, tập I, 1939) - Về sau, nhà dân tộc học
Claude Levi- Strauss sẽ hưởng ứng quan niệm này và đẩy
lý luận xa hơn.
Tóm lại tương quan giữa
âm và nghĩa không phải là phát hiện của Roman Jakobson
nhưng ông là người giải minh rành rọt lại là tác giả
của hàng ngàn trang lý thuyết về thơ, cho nên quan điểm
của ông có giá trị cơ bản .
Trong phần kết luận
Sáu bài giảng ông còn nhắc lại một lần nữa, ý
kiến đã phát biểu từ 1919 : “ trong ngôn ngữ thi ca
ký hiệu tự bản thân nó đã hoàn tất một giá trị độc
lập” .
Roman Jakobson trước hết
là một chuyên gia ngữ học với kiến thức vừa bao la
vừa sâu sắc, ông mở biên giới ngữ học vào các lãnh
vực văn chương, nghệ thuật và các nền khoa học khác .
Riêng lãnh vực thi ca
được ông đặc biệt quan tâm và nghiên cứu vì lý do kỹ
thuật ngữ học, và cũng vì sở thích riêng. Nhờ đó,
giới nghiên cứu, hay khách yêu thơ được thừa hưởng
một phương pháp lý luận những kiến thức chuyên môn vô
giá. Ngoài ra, còn học được nơi ông niềm liêm chính từ
tốn và cần mẫn với khoa học niềm tin yêu và tận tụy
với con người, với loài người, trong thân phận làm
người .
Roman Jakobson bên trên
khoa học là một tâm thế, một tư cách .
Đặng Tiến