văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Showing posts with label hội họa mỹ thuật. Show all posts
Showing posts with label hội họa mỹ thuật. Show all posts

Wednesday, July 29, 2015

NGUYỄN THỊ HÀM ANH * Tranh Thái Tuấn

Đó là một ngày cuối năm, mùa mưa đã qua và mùa khô cũng đồng thời bắt đầu cho hoạt động mua bán tấp nập, các hoạt động văn nghệ chựng lại, dường như bị dẹp qua một bên nhường chỗ cho việc sửa soạn lễ Tết. Thế nhưng trong cái hối hả đó, một phòng tranh vẫn được long trọng khai mạc. Tôi đi cùng với bà quả phụ Trần Lê Nguyễn -vợ của cố nhà thơ, kịch tác gia Trần Lê Nguyễn mà sau này là một người rất nổi tiếng trong giới sưu tầm tranh- đến khách sạn Festival ở số 31 Cao Thắng, quận Ba. Nơi đây hiện diện một phòng triển lãm do đôi vợ chồng họa sĩ Lê Triều Điển - nhà thơ Phan thị Quý chủ trì, nằm sâu sau khoảnh sân. Phòng triển lãm trong khuôn viên khách sạn dường như càng lọt thỏm giữa các tiệm bánh và shop quần áo chung quanh. Con đường Cao Thắng vốn chật chội đông đúc, thế nhưng bước vào phòng tranh khác hẳn, cánh cửa kính khép lại đã ngăn cách khung cảnh xô bồ bên ngoài và mở ra một thế giới hội họa, một không gian Thái Tuấn riêng biệt.

Wednesday, October 30, 2013

TẠ TỴ * Họa Sĩ Và Người Mẫu

người mẫu NT Sinh [vợ BXP]

Tặng Bùi Xuân Phái , người bạn đẹp của tôi


Hắn dơ thẳng búa đập mạnh nhát cuối cùng vào chiếc đanh thước thợ. Vốn cẩn thận, hắn đưa tay lên lay mạnh xem nó đã chịu nổi nặng chưa. Hắn thở phào khoan khóai, không ngờ rằng hôm nay mình dò đúng mạch vôi một cách dễ dàng. Soay người, hắn nhìn vòng quanh gian phòng mà chu vi không rộng quá 10 thước vuông, treo la liệt tác phẩm. Ánh sáng đùng đục của chiều cuối năm dọi thoi thóp vào mầu sơn tươi mát. Chiếc tảu thuốc lá, mang hình thù
quái đản của chiếc đầu lâu sần sùi đè chĩu hẳn một bên môi hắn làm thành nụ cười nửa miệng. Đưa tay vuốt lại mái tóc thưa sòa trên vầng trán cao rộng, hắn mở to đôi mắt hung nâu nhìn đắm đuối vào bức tranh mới hoàn thành, thuốc sơn còn lóang ướt.

Sunday, October 27, 2013

HÀ CẨM TÂM * Ngựa Chứng Trên Tường Giấy

@ Hà Cẩm Tâm

       Vào mùa đông 1978 tôi có làm một cuộc triển lãm cá nhân tranh sơn dầu tại trường đại học Washington state. Tôi thường làm triển lãm riêng một mình - vì thói quen từ trong máu trong xương-, lâu thật lâu mới triển lãm chung nhóm. Làm ra tranh là làm lao động tinh thần và chân tay. Người mẹ bụng mang dạ chửa 9 tháng 10 ngày- có khi sớm hay muộn hơn hai ba tuần hoặc một vài tháng- mới sinh được đứa con đẹp ngoan, lại cũng có khi không đẹp không ngoan. Người họa sĩ đầu chửa, óc mang đứa con tinh thần nhiều khi cả mấy năm hay mấy chục năm mà chẳng bao giờ nở nhụy khai hoa, vẫn mịt mờ bóng chim tăm cá. Lại có nhiều khi anh ta hay chị ta mới thai nghén trong một vài ngày an ổn bình thường mây trắng trời xanh thì hạ sinh được đứa con vừa xấu lại vừa vô duyên hoặc trong tâm trạng khủng hoảng bất thường của một vài đêm nổi cơn điên loạn thì chàng ta nàng ta lại đẻ ra đứa con uy nghi lẫy lừng nam phương hoàng tử. Cũng có khi sinh đôi sinh ba, không đứa nào giống đứa nào nhưng tất cả đều là những giấc mơ kỳ ảo hiển lộ rong chơi trên khung bố huy hoàng.  Tông và gam. Màu và sắc và sự lặng thinh, hơn biết bao lần cái lưỡi và bao nhiêu cuộc họp hành.   

Monday, May 20, 2013

TRÚC GIANG MN * Họa Sĩ Lương Trường Thọ và Trường phái Ấn Tượng

Lương Trường Thọ

1 * Mở bài

Ông Jojo Marengo đang nổ lực sáng lập cho thế giới nghệ thuật một giải thưỏng danh giá, The World Master Art (WMA) để sánh vai cùng giải Oscar của điện ảnh và giải Grammy của âm nhạc.
World Art Foundation bao gồm 400 họa sĩ và điêu khắc gia của 53 quốc gia trên thế giới, được sáng lập bởi Jojo Marengo.

Monday, May 6, 2013

ĐẶNG TIẾN ◙ Suối Hoa, Thế Giới Ngoài Trọng Lực


Nghệ thuật hội họa Suối Hoa giàu âm sắc, nhưng đặc tính nổi bật, nét nhất quán, là tạo dựng nên một thế giới ngoài trọng lực : con người và vật thể thường bay bổng. Quá trình sáng tạo của chị vẽ lên một đường bay càng ngày càng rõ nét.

Monday, April 29, 2013

Huỳnh Hữu Ủy * Hồ Thành Đức

Hồ Thành Đức

Trong khi không khí của Hồ Hữu Thủ khá nhẹ nhàng, thì tranh Hồ Thành Đức lại đầy vẻ bi thảm; cái thơ mộng luôn luôn hiện ra dưới một hình thái buồn thảm, cô quạnh và phần nào hơi tan vỡ, nứt rạn.

Thursday, January 10, 2013

Luân Hoán * Nghiêu Đề cỡi ngựa về ‘Vùng Thanh Thoát’

họa sĩ Nghiêu Đề



Bản vẽ này là một tác phẩm của họa sĩ Nghiêu Đề, dành riêng dùng làm bìa cho tập thơ nhạc “ Hòa Bình Ơi Hãy Đến” của Lê Vĩnh Thọ, Phạm Thế Mỹ, Luân Hoán. Để hoàn tất tác phẩm này, ngoài Nghiêu Đề, tôi cũng có đóng góp một chút tài vặt. Công sức của Nghiêu Đề nằm ở não bộ giàu sáng tạo và đôi tay tài hoa của anh. Tài vặt của tôi nằm trong sự lì lợm quấy rầy và hối thúc! ...
        Kể từ khi có ý định in chung tác phẩm với hai anh Mỹ, Thọ, tôi có bổn phận tìm họa sĩ nhờ thực hiện mẫu bìa. Họa sĩ Nghiêu Đề đương nhiên là tay cọ tôi tín nhiệm tuyệt đối. Anh hết lòng với bạn bè, thường không từ chối những việc làm có liên quan đến nghệ thuật. Nhưng để anh chóng hoàn tất nhanh chóng một mẫu bìa không phải là chuyện dễ dàng. Với phong thái làm việc thong dong, tùy hứng, Nghiêu Đề không muốn bị ràng buộc, thúc dục. Anh không ưa có đôi mắt thiếu khả năng thẩm định nghệ thuật kè kè bên cạnh khi anh sáng tác. Còn tôi, bản tính khá xấu, khó bỏ, luôn luôn tò mò và nôn nóng muốn hoàn tất ngay những gì mình yêu cầu, nhờ vả sự gúp đỡ của bất cứ ai..

Phan Tấn Hải * Hoạ Sĩ Rừng Ra Mắt Sách, Triển Lãm "Tranh Mini"





Họa Sĩ Rừng đang ký vào sách, trong khi họa sĩ Hồ Thành Đức (phía sau) ngồi uống rượu.(Photo VB)


Họa Sĩ Rừng -- cũng là người ký tên Kinh Dương Vương khi viết truyện và ký tên Dung Nham khi làm thơ--  vừa thực hiện buổi triển lãm tranh và ra mắt sách hôm Thứ Bảy 19-3-2011 tại Anaheim, Quận Cam.

Thursday, December 27, 2012

Lâm Văn Sang * đào hải triều đọc đá vẽ tranh

     

Ngôn ngữ nghệ thuật xuất hiện trong lịch sử con người rất sớm. Dường như không có một quyển sách lịch sử nghệ thuật nào quên kể lại thuở mới bắt đầu có những thể hiện khách quan của kinh nghiệm con người bằng những hình ảnh ghi khắc trên xương, sừng, ngà và trên đá. Nhìn lại quá khứ đó, người ta dường như cũng đồng ý với nhau một điều: ký hiệu chữ đầu tiên được tạo cũng từ hình ảnh. Con người vẽ hình trước khi vẽ chữ. Con người còn vẽ hình trước khi gắn lên sinh hoạt đặc thù này hai chữ “nghệ thuật” (hay một chữ art) và trước khi kịp thời đặt tên cho kẻ tạo hình là “nghệ sĩ” (artist, người sáng tạo nghệ thuật). Điều này cũng c

Friday, December 21, 2012

Thanh Trí * TRƯỜNG CAO ĐẲNG MỸ THUẬT HUẾ



Thuở ấy tôi thường thích đạp xe lang thang bên bờ sông Bến Ngự để được đi ngang qua nhà ông Viễn Đệ. Nơi tôi hay thả hồn rong chơi, dưới những tàn lá um tùm đầy hoa thơm cỏ lạ .Cảnh trí nơi đây thật kỳ bí, tạo nên nhiều huyền thoại cho chủ nhân ngôi nhà đồ sộ này. Ông thuộc giòng họ quí tộc, con vua cháu chúa .

Thật là lạ lùng, một hôm chưa đạp qua khỏi khu vườn, ánh mắt của tôi đã chạm phải một tấm bảng thật to, màu trắng mới toanh chưa đọng một giot bụi, giọt sương, giọt thời gian nào. Tôi có cảm tưởng tôi là người đầu tiên dừng lại, ngẩng mặt chăm chú nhìn chiếc bảng, hay nói đúng hơn là chiêm ngưỡng mấy chữ viết trên dó. Rồi tự nhiên tôi cảm thấy quá xúc động .Lúc tôi nhẩm dọc lại từng chữ để được thấy tên trường một lần nữa ,



TRƯỜNG CAO ĐẲNG MỸ THUẬT HUẾ


Thuộc viện Đại học là chiếc bảng sờ sờ trên cổng của một dãy lầu hai tầng , có cây sanh cành rễ mọc từ trên cao buông rơi xuống, trông thật ma quái trước măt chứ không phải tôi nằm mơ. Tôi còn biết cây sanh này thuộc vùng đất Viễn Đệ, nay bị tường vôi ngăn cách , đã trở thành cái gốc dựng xe đạp của dãy nhà này. Mấy chữ CAO ĐẲNG MỸ THUẬT như có một mãnh lực thu hút. Tôi vội vàng dắt xe vào và dựng ở gốc cây, quên cả khoá lại, mạnh dạn bước vào văn phòng xin đơn để vào học (tính nhút nhát thường nhật như biến đâu mất). Ra khỏi văn phòng với tờ đơn cuộn lại, tôi đạp như bay về nhà để tin cho mạ biết. Mạ vốn đã biết rõ cô con gái út nhiều tật xấu già cười tươi khóc, chưa nói đã cười, khôn nhà dại chợ, sợ mọi thứ mọi loài, nhưng rất khéo tay, vẽ đẹp, khắc phấn cũng giỏi . Mạ thường khen con gái có hoa tay., nay thích học Mỹ Thuật là đúng quá rồi. Mạ để cho tôi nộp dơn xin hoc . Mạ chỉ hỏi “học đến khi mô mới xong”. Tôi đâu dám nói thời gian học, vì thời gian học quá dài, dài tới bốn năm . Sợ mạ lo rồi suy đi nghĩ lại, biết đâu mạ sẽ đổi ý, không cho nộp đơn thì nguy to. Tôi sẽ buồn và tuyệt vọng ! Tôi chỉ dạ dạ và giả vờ cà lăm ...một... một,,, môt ...một….n…ă…m là xong mạ nờ , thoáng thấy mạ cười không biết mạ có hiểu cái cà lăm của tôi là là là là bốn không hỉ ? Tôi đâu dối mẹ , tôi len lén lùi nhanh ra vườn để mạ cho qua chuyện này.

Ngày nhập học thật là vui. Tôi gặp vài bạn cũ ở Đồng Khánh, và nhiều nam sinh ở các trường xa gần Huế hay các tỉnh khác đến. Cũng có một vài người lớn tuổi cùng theo hoc chung . Lớp hoc thật đông, cuối năm lại phải qua một cuộc thi. Trong số đó chỉ trên mười người chúng tôi đươc chọn vào năm thứ nhất (khoá 1) của trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế mà thôi.Từ đó chúng tôi xem nhau như anh chị em, tình bằng hữu thật thắm thiết .

Niềm vui đến với tôi qua từng ngày, từng tháng năm. Qua từng môn học. Môn học nào cũng mới lạ, Càng học càng đam mê vẽ vời . Càng đặt hết thời giờ tâm trí vào , tôi lại càng nhận thức được cái đẹp. Ví dụ như vào những buổi đi vẽ phong cảnh. Chúng tôi sống với thiên nhiên. hoà mình với cỏ cây mây nước.Tôi nhìn quanh , cái chi cũng đẹp, cũng lạ, cũng là một nhà nghệ thuật, nhà sáng tạo . Tôi lại càng yêu vạn vật, yêu muôn sắc, muôn thể của thiên nhiên…

Tôi một loài yêu thương nghệ thuật lại gặp được môi trường nghệ thuật để khôn lớn, để trưởng thành dưới sự đào tạo của các thầy.Tôi thường nghĩ thầy là người khai tâm, chỉ lối cho minh đi đúng trong những bước đầu tiên rất cần yếu và tạo cho mình một sự tự tin . Các thầy dạy lại xuất thân từ trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương tại Hà Nôi, hay ở Đại học Bắc Kinh, hay từ các trường beaux-arts ở Pháp trở về dạy thì còn gì sung sướng và hãnh diện bằng. Cảm thấy mình quá may mắn , có thầy giỏi ắt hẳn tôi sẽ làm nên cái nghiệp của tôi như câu châm ngôn đã được nằm lòng.

Ngày hai buổi suốt bốn năm học hành ,với tâm niệm thành hoạ sĩ.Với tâm hồn son trẻ, khoẻ mạnh, hồn nhiên, yêu đời. Tôi đã phác hoạ chân dung tôi giữa trời bao la và gởi vào hư không lời nói vô âm, như nói với chính mình “Rồi một mai tôi thành hoạ sĩ . Giá vẽ bút cọ với bảng màu . Lang thang khắp chốn trần gian .Tình nghệ sĩ như phấn hoa vàng gởi gió “ .


Ngày tốt nghiệp đã đến, mảnh bằng đã cầm trong tay. Hạnh phúc và sung sướng biết bao, vì nghĩ mộng đã thành. Nhưng than ôi, vừa cởi chiếc áo sinh viên Cao đẳng Mỹ Thuật lại phải đội ngay vào chiếc mũ mô phạm, vành rộng che lấp cả một góc trời tâm tưởng của tôi . Nhưng biết làm sao , số phận đã an bài . Tôi phải rời xa Huế vào Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Sài Gòn học khoá Sư Phạm Hội Hoạ rồi vào Nha Trang để dạy .

Ngày đầu tiên đi dạy . Tôi buồn lắm không dậy nỗi…Nhưng rồi cái chi đến sẽ dến, và tôi cũng làm tròn chức năng với cả tấm lòng chơn chất. Măc dù trong tôi có bao cảm nghĩ chợt đến chợt đi, chợt vui chợt buồn. Nhìn hoa tưởng mình là hoa sớm nở chiều tàn. Nhìn chim bay giữa trời , mơ ước mình là loài dã thú. Có lúc vào lớp dạy hoc trò mà tưởng mình là chim bị bắt nhốt vào lồng diễn tuồng cho đám trẻ ngồi xem. Ngày lại ngày bấy nhiêu điều phải nói phải làm.

Nhưng tôi đã làm với cả tâm ý vì nghệ thuật. Vì tình yêu nghệ thuật của tôi, nên muốn các em hiểu nhiều về môn hội hoạ mà các em đang học . Hay nói đúng hơn là học cách chơi, cách nhìn cảnh vật, góp nhặt, ghi chép đùa vui với màu sắc, đường nét cho thư giãn tâm trí của các em. Sau những môn hoc khác phải nặn óc ,bức tai quá căng thẳng ,học một môn chơi bổ ích, chơi trong nghiêm túc và kỹ luật. Vốn là người có trách nhiệm , từ từ tôi cũng thích nghi với môi trường sống mới. Tôi thương yêu các khuôn mặt thơ ngây , những ánh mắt vui tươi , những nghich ngợm nhưng không thiếu sự lễ độ. Đó là cái dễ thương của các em nữ sinh Nữ Trung Học Nha Trang, trường đầu đời tôi dạy . Và quí mến cái thân tình gần gũi của các bạn nhà giáo đồng nghiệp, bản tính hồn nhiên, lại trở về trong tôi tuy thuở ấy tôi rất bận rộn . Cái chất lãng tữ trong hồn nghệ sĩ tuổi đôi mươi , hăm mấy ấy của tôi cũng đã ngủ yên lành trong nếp sống bình an hạnh phúc gia đình, trong học đường, ngoài xã hôi, cùng lớp lớp học trò thân thương ,


Vừa được mười ba năm thì vận nước ngã nghiêng, biển đổi sao dời.!!

……………. Rời xa Nha Trang vào dạy Sài Gòn . thành Phố này là trung tâm Mỹ Thuật của miền Nam Việt Nam trước đây. Không khí nghệ thuật còn đầy ắp . Tôi lại có dịp hít thở. Có dịp cầm bút cọ bản màu .Vừa đi dạy tại trường trung hoc Nguyễn Du , vừa cùng nhóm hoạ Sài Gòn vẽ vời để quên đi sự mất mác đổi đời !!! (giai đoạn này đã để lại trong lòng tôi bao kỷ niệm khó quên, bao chuyện cười không hở môi, cũng lắm trận khóc không nước mắt , và đó cũng là những điều dạy tôi khôn lớn, chửng chạc hơn. Ngoài ra trong đoạn đời đầy khúc khủyu này , tôi cũng đã gặp gỡ những bằng hữu tuổi bằng anh bằng chị chân tình đầy ấp , tri tâm trân quí một đời thương tưởng.

Nhẩm tính lại sau gần 24 năm đi dạy , tôi mới trở lại với nghệ thuật…với gói hành trang cũ kỷ, nhoà màu tuổi trẻ nhưng không sao nhờ kinh nghiêm trường đời. Hành trang của tôi lại đầy ấp những cảm nhận , cảm quan và cả cảm xúc trực tiếp về những vai trò tôi đã mang : người mẹ, người cha (chồng tôi ở tù , tù cải tạo) vợ “nguỵ”, thầy giáo, người lao động, nghệ sĩ , người vẽ tranh phong cảnh xuất khẩu, và mẫu guốc cho Ngoại Thương . Mỗi vai trò để lại bao kỷ niệm khó mà quên được ( hay nói đúng hơn , ngày càng đậm nét vui buồn của một thời còn son trẻ, hoat động không ngừng nghỉ ...)
Thời gian này tôi đã sáng tác rất nhiều tranh :Tranh màu nước trên lụa, trên giấy; vẽ sơn dầu trên bố , trên gỗ ; sơn mài ; vẽ chân dung . Tôi đã sáng tác trong đam mê, trong sự khuyến khích của bạn , và giới thưởng lãm , du khách ,các nhà sưu tập tranh nhiều nướcvềmua .
Cuộc sống của tôi lại đổi dời, một lần nữa tôi đã ra đi ….


Dù đời có đổi nhưng tôi vẫn không nguôi  tìm về nghiêp dĩ , cái nghiêp mà lắm lúc bị cắt khúc nối đoạn . Qua mỗi đoạn , mỗi tuổi đời, mỗi chặng đường nghệ thuật , tôi có mỗi suy tư , mỗi cảm nhận khác nhau . Và tôi không quên tích lũy giữ gìn nó như một hành trang quí giá của mình. ...


Thanh Trí


Friday, September 14, 2012

Ngô Nguyên Nghiễm * RỪNG – Kinh Dương Vương, Sự Hóa Thân Lộng Lẫy Trong Hội Họa – Văn Chương

tranh: họa sĩ Rừng

Bước vào không phận nghệ thuật, người nghệ sĩ đã hóa thân cùng cực trên sự sáng hóa kỳ vĩ mà chính bản thân đã soi rọi bằng ánh lửa biểu tượng đã chọn. Nhưng với Rừng- Kinh Dương Vương, thật tình nhiều lúc nghiêng tâm để chiêm nghiệm và định danh hướng đi kỳ ảo, mảnh liệt đầy lửa của anh, tôi cũng chưa bao giờ phân biệt giữa một họa sĩ Rừng và một nhà văn Kinh Dương Vương. Bề dày, của hai nhánh rẽ trên con đường chung anh đi, lại là những hóa thân kỳ diệu tụ chung của một con người đa bản ngã. Sự ngồn ngộn tư tưởng, phát sinh từ tâm thức sáng tạo, có lúc như vạch ra từ hiện thực những bí ẩn cực đoan của nhu cầu sự sống và hình thể.  Cũng có lúc như quạt đỏ ngọn lửa, đưa tri thức lập dựng một thế giới cùng cực săn đuổi bản ngã. Nét kỳ diệu trong tác phẩm của Rừng – Kinh Dương Vương, đều bộc phá mãnh liệt dù trên văn chương hay hội họa…đã khiến cháy bỏng cả một vũ trụ quan được lập dựng, hiển hiện đặc thù riêng biệt, dù ở đó là ký ức nguyên sơ, hay một dự phóng tương lai của một phương trời tạo lập khai sinh… Tác phẩm của Rừng – Kinh Dương Vương, đặt nặng một nhân bản sáng hóa thật bộc phá, hầu như tất cả nhào lộn trên ngọn lửa hóa sinh lập dựng một sinh thái đa dạng, mà ngôn ngữ chỉ là một cách diễn đạt sâu lắng của ý tưởng.
       
Cách đây hơn 40 năm, trong giai đoạn đất  nước đang oằn nặng bom đạn của mọi phía, trên não cân dân tộc bị rãi đầy kẽm gai, mìn chông, đã làm băng hoại mọi ý thức và sự sống…Sự bộc phát phản kháng trong nghệ thuật là một cách bày tỏ kiên định. Giao tế với bằng hữu trong thời gian này, là một sự lập dựng chân tình của những người trẻ cùng hướng chung một tâm thức. Dù ở giai đoạn nào, sự chân thành cũng là giềng mối, tạo thành một sự liên kết chặt chẽ, đa dạng cho chính nghệ thuật và nghệ sĩ. Anh em mỗi người một phương trời, đều mang trong tri thức một sự sáng tạo cống hiến, lập dựng cho chính văn hóa một góp mặt đa diện, làm phong phú cho nhân dáng văn hóa văn học quê hương. Chính vậy, mỗi người làm văn nghệ, phải tạo tác một hướng đi riêng biệt, và đứng sừng sững trên ngõ sáng tạo kỳ vĩ chính mình. Khoảng thời gian này, Rừng – Kinh Dương Vương đa dạng trong hội họa và văn chương. Người ta chào đón một hướng mới bập bùng ngọn lửa dương tính mãnh liệt, căng phồng sự sống nhân bản khiến tranh anh chứa đầy sự ẩn ức, biểu lộ một sức trăn trở đầy tư tưởng bộc phá. Điều đáng nói, là ý thức ngời sáng một cách kiên định trên một dòng tâm hướng phản chiến, bức bách trong cuộc sống ngột ngạt, tù đày của thân phận con người. Nét khác biệt của những họa sĩ đương thời, nhất là nhóm Họa sĩ Trẻ, mỗi người một phương cách chiêu hồn cho tranh riêng biệt. Giai đoạn, sự đấu tranh mãnh liệt của Rừng, đã đánh dấu bước lập dựng kỳ thú, chất ngất, như muốn động vỡ bản thể,  chui thoát khỏi sự bức bách nội tâm mà Huỳnh Hữu Ủy có lúc phát  biểu: Tranh Rừng, đập vào mắt người xem một cách vô cùng dữ dội, đẩy ta trở lại đối mặt với những gốc rễ của nền tảng nguyên thủy…Một vẻ nặng nề và trầm uất mà hồn nhiên, như tranh Gauguin hay nơi những trang sách Kamasutra, hay nơi một đền thờ Ấn Độ Giáo (Địa chỉ văn hóa TPHCM, XB 1990, Tr.298). Và nhà thơ Trần Hữu Dũng đã đưa ra một đoạn tiêu biểu giới thiệu cuộc hòa mình phiêu bạt và gian truân của Rừng – Kinh Dương Vương, đi-sống-vẽ-viết văn làm thơ như một thứ trò chơi quỷ ám, miệt mài sáng tạo bất chấp thành công hay thất bại, mà anh mê mãi ngụp lặn, bay bổng trong thế giới màu sắc của sự sáng tạo choáng ngộp, của một người nghệ sĩ đích thực của cuộc sống hôm nay. (Trích Nguyệt san Nghệ Thuật số 2/1994)

Sự đa dạng và tài hoa, Rừng – Kinh Dương Vương đã bộc phá một cách mãnh liệt trên ý thức nguyên bản, tạo lập một tư tưởng cùng cực mạnh bạo, và chiều sâu tâm thức như một sự soi lắng đột ngộ. Trên văn học, những truyện ngắn Kinh Dương Vương (như Bí Đái, Đường Kiến…) đăng rải rác trên Bán Nguyệt san Văn, Bách Khoa, Văn Học…của thời kỳ trước 1975, đã như một sự bộc phá tư tưởng, mà trong giai đoạn cuối của cuộc chiến trầm kha thường gây ngộ nhận. Nhưng phải công tâm mà nói, ở một thể chế đang ngụp lặn trong những tang thương mất mát một cách cùng cực của quê hương, sự hiểu biết đã hóa nhập đầy trong tư tưởng siêu đẳng của những người làm văn nghệ, đó là sự nới rộng của một nền nghệ thuật đích thực của miền Nam, là một điểm son rực rỡ, khiến nền văn học Việt Nam ít nhiều có giá trị trên ngôn ngữ và tư tưởng với văn học thế giới.

Sự bộc phát đa dạng của thời kỳ này, xuất hiện một lớp người văn nghệ chính thống, xây dựng cả con tim, khối óc…hóa thân kỳ diệu trên những tác phẩm kinh điển, mà lịch sử sẽ công tâm hơn. Tầng lớp văn nghệ sĩ của thời buổi xuân thu, chan đầy những tác phẩm chứng nhân, cho một dòng văn học miền Nam, không thể chối cải được, đã hầu như làm giàu rực rỡ thêm cho tiếng nói nhân văn của đất nước, ngang vai với những dòng văn học nước ngoài. Phải chăng, từ sự kiêu hãnh bay nhảy trên sáng hóa của người nghệ sĩ, lập dựng quan điểm tư tưởng như những phương trời hóa sinh kỳ diệu trong thế giới riêng của từng bằng hữu văn nghệ, đã tung rải hằng hà tinh tú lập dựng một không gian tuyệt diệu cho nghệ thuật.

Rừng – Kinh Dương Vương hóa thân một cách hoàn thiện trên khu rừng nghệ thuật bằng tư tưởng sáng hóa kỳ diệu, lập dựng màu sắc và ngôn ngữ riêng cho anh một cương thổ ngự trị phì nhiêu, sang trọng. Thời gian gần nửa thế kỷ trước, dù văn chương và hội họa là hai ngõ sáng tác và trưng bày, tức khắc hoạch định được một trí tuệ phong phú gây chú ý hòa đồng tuyệt diệu với khách thưởng ngoạn. Tranh của Rừng trong giai đoạn này, ngồn ngộn sinh khí đầy biểu tượng dương tính, phát huy tư hướng mãnh liệt đầy phong cách Rừng. Một phong cách biểu tượng hiện thực, chấm phá trên những gam màu nóng bỏng, như bùng vỡ trên từng centimet họa phẩm. Dữ dội như một hành tinh căng phồng chờ giây phút thiên khai để bùng vỡ và hủy diệt. Cái hiện hữu còn lại sau cơn chấn động tư tưởng, là hòa quyện giữa tâm thức một ngôn ngữ lập triết đầy tính phồn thực hóa sinh…

Cũng giai đoạn này, anh chan hòa trong một bản ngã khác là bước thênh thang trên khu vườn văn học, phải chăng đó lại là một kỳ thú tài hoa. Sự đa dạng của văn nghệ sĩ, thật ra không xa lạ gì, mà hằng thế kỷ trước trôi qua, những nhà khoa học lại là nhà văn, nhà điêu khắc, hội họa, thiên văn, địa lý…một cách kỳ diệu như: Léonade de Vinci…Kinh Dương Vương xuất hiện một loạt truyện ngắn đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa, Văn Học…vô hình chung phát huy được một tư tưởng lập dựng, đào xới tận cùng tâm thức, bày ra ánh sáng những bức xúc ngột ngạt , bất lực, chỉ vì muốn nảy sinh một mầm hy vọng, một mầm sống thực tiễn cho cõi đời. Bất cứ một sáng tác văn học nào của Kinh Dương Vương, cũng hình thành trong sự trăn trở màu nhiệm của cốt lõi nhân bản, dày xéo tan nát tận cùng bản ngã của bản năng sơ nguyên và sự hoàn thiện tính người. Đọc những tác phẩm anh, len lỏi giữa những kinh sợ là bản chất hiện thực của thú và người. Kinh Dương Vương đào sâu tận cùng gốc rễ của những cái có thể và cái không thể, luôn luôn sinh hoạt luân lưu trong tâm thức và đời sống của cái gọi là con người. Sự biến thiên phức tạp trong những tình huống nghiệt ngã của tâm thức đời thường và sự sống còn của bản năng. Lập dựng một hướng quy hoạch cho bất cứ tình cảnh nào cũng có thể xảy ra, biến đổi chức năng tối thượng của một sinh vật thượng đẳng, trở thành đích danh một loài thú tật nguyền. Nhào nắn trong tư hướng đa bản ngã, thường xuyên dằn vật trong cuộc sống hằng ngày, đưa đẩy sự đổi màu tri thức bằng những bản năng tâm lý cực kỳ lạnh lùng và tàn nhẫn. Cái Thiện, cái Ác hòa trộn trong một hướng đi không thể phân biệt, và sự phán đoán thù ghét hay cảm tính đều bị nhầm lẫn trong từng giai đoạn hóa thân của nhân vật. Phải chăng, bản chất của đời sống, tâm linh cũng như mây khói, và vật chất cũng là khoảnh khắc chớp nhoáng thoáng qua trong quá trình cải biến nếp sống thường ngày. Mọi hình ảnh ghi nhận được biến đổi một cách linh động, như sự đổi màu vô cùng kỳ thú của tắc kè hoa. Trong cái ghê rợn mà Kinh Dương Vương diễn tả trong nhiều cốt truyện, đều dựa trên một nguyên tắc là, tận tụy đào xới tận gốc rễ của nguyên sinh sự sống. Trong đó có bản năng, tâm thức, đạo vị, cuộc đời…giống như sự lẳng lặng vô cùng tận lắng sâu hằng ngàn đáp số bay nhảy trên kiếp sống, đầy những tục tằn xáo trộn trong một hiện thể sinh học bao bọc trong một lớp da nhân tạo, lập dựng một đời sống kỳ quặc của thú và người. Mọi việc đều thản nhiên trên bàn mổ, như robot cấy bằng những con chip vô hồn, mà mọi xáo trộn tâm thức đều được định vị tàn nhẫn từ bản năng sinh tồn, đập vỡ tất cả những ý niệm được hình thành truy đuổi tận cùng bản ngã đích thực giữa hiện diện con người và tư tưởng…

Mọi sự soi rọi sâu thẳm, khiến người đọc thường bất ngờ và choáng ngộp trong những diễn biến của câu chuyện, xoắn đầy giữa bản năng và trí tuệ. Trong lớp nhà văn trẻ thời chiến tranh, có thể nhận định Kinh Dương Vương là một tài hoa cực kỳ quý hiếm, vượt qua ngưỡng cửa kinh điển của các luồng gió văn học nhuốm đậm Âu  Tây của những văn sĩ Bắc hà xuôi Nam trong thời kỳ hơn nửa thế kỷ trước, thành danh và chiếm lĩnh văn đàn một cách ngạo nghễ. Sự bốc trần một cách hỗn man tách bạch mọi tư hướng trần trụi của bản ngã, xô đẩy cái thực tại sinh tồn dằn xé, đọa đày trong một tâm thức lương thiện còn phảng phất ở kiếp người. Sự xáo trộn giữa hiện thực bản năng và sự trăn trở tâm thức, hình như được Kinh Dương Vương nhào nắn thành một khối duy nhất, đưa đẩy nhị trùng bản ngã trải dài trên sân khấu tranh tối tranh sáng, hầu thể hiện một bi kịch kinh khiếp, được dẫn chứng ở từng câu chuyện sáng tạo trong văn Kinh Dương Vương.

Thời kỳ những năm tháng đã qua, Rừng – Kinh Dương Vương bay nhảy trên những gam màu đỏ rực trong hội họa, bộc phát sự phẫn nộ phản kháng kiêu kỳ của người họa sĩ trước chiến tranh, thì văn xuôi của anh cũng thấm đẫm một lý triết nhân sinh đào xới tận cùng cuộc săn đuổi bản ngã, đưa lên cán cân giữa hiện thực bản năng và tâm thức siêu hình.

Nét nhìn vời vợi của một nghệ sĩ tài hoa  cực điểm, giúp người thưởng ngoạn nhìn lại những bóng dáng khuynh khoát của các nhân tài thế giới ở mọi lãnh vực, nhất là hội họa và văn chương. Hầu như, sự ẩn nhập đều đạt đỉnh chiêu hồn trên các tác phẩm sáng hóa một cách huyền diệu. Thì, Rừng – Kinh Dương Vương từ nửa thế kỷ nay, bộc phát kỳ vĩ trên những tác phẩm đầy vẻ trí tuệ, tạo lập cho mình một thế giới riêng biệt, đầy sáng hóa không ảnh hưởng ở một trường phái nào khác. Chính vậy, minh định được rằng Rừng – Kinh Dương Vương độc tôn ở cõi riêng mình.

Thời gian gần đây, bắt đầu từ 1988, sự trở lại của Rừng với cuộc triển lãm đầu tiên: Bình Minh Mới, bùng vỡ dương tính làm rực rỡ cho mọi ảnh hưởng sâu rộng với tầng lớp bằng hữu văn nghệ miền Nam. Khoảnh khắc của cuộc triển lãm gây ấn tượng lan rộng cho mọi chiều hướng văn nghệ, một giai đoạn mở với không khí thoáng rộng giúp cho nhiều tác phẩm đang chìm ngấm trong cơn lốc quê hương, được lần lượt hồi sinh…Ngọn đuốc từ bản thân Rừng cũng bừng cháy mãnh liệt, với sức sáng tạo cuồng tín, đa tâm thức, với quan điểm sáng hóa ngồn ngộn, phát huy tận cùng với nhiều chiều hướng sinh động. Cùng lúc, tranh Rừng biến hóa như trò chơi quỷ ám, bay nhảy giữa những tầng không thanh khí đầy tư hướng siêu hình, một nét biểu tượng mới trong gia tài hội họa dày đặc lý triết. Nét biểu tượng của Trên Tầng Thanh Khí (2004), tinh túy gom trọn vẹn trong một cuộc hóa thân tuyệt diệu mà Lê Khắc Cầm cho là cuộc phiêu lưu mộng tưởng – ánh sáng và bóng tối. Đến nay, qua bao nhiêu cuộc triển lãm kế tiếp, phải chăng là những cuộc đầu thai hướng về những cuộc biến hình mới như những không gian sương khói phủ trùm làm ấm áp cội nguồn của sự sống. Cảm Tạ Người Nữ (2009), đưa 7 hình tượng Mẹ rực rỡ màu sắc và linh điển. Sự hiển linh của người nữ đã tuôn đẫm ánh sáng huyền ảo, cháy bỏng trong từng hơi thở tôn vinh và bùng vỡ như cuộc thánh lễ tôn giáo bái hỏa mà 80.000 năm về trước, giữa vũ trụ hoang khai vẫn bùng lên một sức sống kỳ diệu, viễn mộng, đầy ắp tinh hoa mẫu hệ của sơ nguyên cuồn cuộn dâng trào. Năm 2011, Rừng thật sự trầm lắng lại, bằng sự thiền vọng, đưa đẩy chân thức bước qua sự biến dịch vô ngã trong cái tĩnh uyên nguyên. Quan điểm sáng tác mới của họa sĩ Rừng, bước vào một chân nguyên kỳ bí mà Hà đồ Lạc thư xoáy vòng tâm thức Đông phương hằng mấy ngàn năm hóa hiện. Những biểu đồ âm dương, bát quái, ngũ hành…được thu gom trong một khung trời hội họa mang nặng tính lý triết, còn âm thầm phân giải đời sống của thiên, địa, nhân. Sự biến hóa vũ trụ nằm trên giác ngộ từng người, nên hướng tới của Rừng trên một hoạch diện lý dịch, được người nghệ sĩ bày tỏ bằng nét chấm phá tâm thức hoác ngộ, soi thẳng vào cuộc tìm kiếm cái mới cho người đồng hành, thâm nhập vào tận cùng ý nghĩa của thế giới huyễn tượng và kỳ bí. Chiếc khóa chưa được mở, nên vòng quay âm dương lưỡng nghi biến hóa cùng cực trên nếp áo, phục sinh từng màu sắc trắng, đỏ, đen,… bay lượn huyền bí trong tư tưởng mầu nhiệm của nghệ thuật.

Sự đột phá của Kinh Dương Vương, cũng không phải là bước đi mới của anh trong cuộc lữ hành tìm kiếm bản chất thực của con người. Mà hơn 40 năm qua, sự dâng trào tư tưởng đầy sáng hóa, Kinh DươngVương đã là một trong số ít người viết văn, nói lên được những nét dị thường, phức tạp trong đời sống thường ngày. Nét dị thường đó là bản năng của một kiến trúc đa dạng xấp lốp trong bản thể sinh vật. Họa chăng, chất người còn sót lại là những tiếng nói chân phương bị dằn xé trong cuộc sinh tồn, hay ngôn ngữ chỉ tượng trưng được phần nào cho sự ẩn ức sâu thẳm trong tâm hồn !?...

Tất cả chính kiến, nhà văn Kinh Dương Vương hoàn thành trong những toàn tập Thơ Văn ấn hành gần đây làm sáng tỏ một phương án lý triết được anh lập dựng gần nửa thế kỷ hóa thân trong cuộc sống trăn trở, đọa đày, dằn xé từ một cõi mê cung lộng lẫy của hội họa và văn chương vậy…..

NGÔ NGHUYÊN NGHIỄM

Viết tại thư trang Quang Hạnh
(Mùa hạ 2011)

Friday, August 17, 2012

ĐINH CƯỜNG * Đỗ Quang Em - Người Đặt Để Ánh Sáng Một Cách Quyền Uy

Đỗ Quang Em - Đinh Cường

Mượn lời Nguyễn Trung làm đề tựa, và ghi lại đây chút kỷ niệm cùng người bạn tôi quý mến . Để nói ông nghe nè … giọng miền Phan Rang của Đỗ Quang Em, hình như  khi nào cũng bắt đầu câu chuyên cùng nhau như vậy . Nhớ  một ngày mùa đông năm 1995, Đỗ Quang Em từ Sàigòn qua Los Angeles, California rồi qua Virginia thăm tôi, vẫn dáng điệu của những buổi sáng cà phê lề đường Đa Kao, những ngày lang thang cùng nhau Hà Nội, vẫn với chiếc mũ dạ xám, không chút hành trang, hai bàn tay trống trơn, hai bàn tay trong gió … Đỗ Quang Em chỉ ở lại một đêm , buổi chiều chúng tôi ra ngồi trên gốc cây gỗ mục ngoài vườn rộng, mừng gặp lại nhau, sáng hôm sau cùng người bạn lái xe đưa Đỗ Quang Em trở lại phi trường Newark, gần New York, trên xa lộ thênh thang êm đềm với rừng cây bạt ngàn xanh tươi hai bên, chúng tôi cùng nhắc lại vài câu chuyện cũ: cùng nhau đi mua cái ghế tre đan, căn nhà trong con hẻm Nguyễn Thiện Thuật một thời đã gỡ cánh cửa sắt đi bán, căn nhà một thời  trầm luân, sau khi chiếc ghe do chính người họa sĩ đóng, năm 1976 ra biển vượt biên bị lạc hướng phải tấp vào một bãi san hô … phải ngồi tù 3 năm. Chiếc bị mây, cây đèn dầu, cái lò đất nứt,  mấy que củi khô, ánh mắt người vợ nhìn ngây dại lạc thần được vẽ sau đó . Bức tranh nằm trong góc tối nhiều năm, bổng một hôm tôi lại được thấy treo trang trọng giữa phòng khách của một người sưu tập tranh ở gần nhà, tại Virginia cùng với mấy bức khác của Đỗ Quang Em. Vẫn nồng ấm một màu nâu được chuốt thật mịn mặt phẳng tranh, vẫn ánh sáng rất quý từ khuôn mặt, nếp áo, đồ vật, nhưng trên hết là bố cục, một bố cục mới và bạo, cho thấy tinh thần bức tranh hoàn toàn hiện đại so với không khí tranh cổ điển của sáng và tối, cũng một màu nâu, đỏ đậm đặc tuyệt vời thời Phục Hưng với Rembrandt, Vemeer…hay Ludovic Carrache.  



Vợ tôi và tôi , 1989
80 x100 cm

Đỗ Quang Em chỉ vẽ vợ, con ( sau này), cũng như Andrew Wyeth chỉ vẽ cô hàng xóm Helga Testorf ở Pennsylvania, miền đông bắc Hoa Kỳ, cũng như Egon Schiele, một họa sĩ tài hoa chết trẻ của nước Áo, thời gian đầu vì nghèo, đi đâu cũng kéo theo cái gương lớn, tự soi mình để vẽ .Tự vẽ chính mình, khốc liệt và đầy cuồng nộ, say đắm .Những chân dung tự họa ấy vẫn có một sức thu hút mãnh liệt, cũng như những tranh chân dung tự họa mịt mùng sâu thẳm của Đỗ Quang Em những năm gần đây. Cho nên, con người, đồ vật cũng chỉ là cái cớ, như anh đã nói “… quan trọng nhất là cốt lõi của sự vật - điều kiện bên ngoài chỉ là cái cớ, cái chất xúc tác thôi .Làm hết được cái bình thường nhất không phải là chuyện nhỏ đâu.Trong nghệ thuật không nhất thiết đòi hỏi sự cao siêu, triết lý này nọ, vấn đề là mình có đắm chìm trong sự im lặng của sáng tạo hay không…” ( Thế giới tranh Đỗ Quang Em - Niềm Hạnh Phúc Im Lặng - Phạm Chu sa, Thanh Niên Chủ Nhật số 80, 19-5-1996 ) Thật vậy, sự chín chắn  tài hoa toát ra từ chính bức tranh, ở sự gởi gấm thầm kín của họa sĩ, mà nghĩ cho cùng cũng chỉ là sự phong thần nỗi cô độc. Thế nên, khi Đỗ Quang Em ngồi trước tấm toile trắng, cảm dần ra tiếng nói của tiềm thức, loang ra từ tịch lặng, chút ánh sáng quý hiếm soi rọi lạ lùng kia, cho dù là cái ấm đất, những củ đậu, những chiếc ly thuỷ tinh, chén nước cặn, cành cây khô, những viên gạch đỏ, con chim giấy xếp -nhớ đến niềm say mê mài miệt thánh thiện trong nghệ thuật origami của Đinh Trường Giang -đến chiếc ghế tre, cây đàn tỳ bà, chiếc khăn choàng đầu của vợ, hay vòng ngọc xanh chiếc áo gấm đỏ ngày cưới của con gái đầu lòng, chỉ để Đỗ Quang Em sống trọn vẹn tâm hồn mình và tình cảm sâu lắng nhất cho những người thân yêu, cho nghệ thuật…cũng có thể ta bắt gặp ở đó cái không gian mênh mông màu nâu đen ”Đó là một không khí thâm u của một hiện tại như được ông làm cho lùi xa vào một quá khứ xa lắc, dồn nó vào góc tối sâu thẳm của thời gian và tất cả đều trở nên sinh động nhờ một nguồn ánh sáng mà ông đặt để một cách quyền uy …( Đỗ Quang Em – Ánh Sáng  và Trang Nghiêm, trích bài viết của Nguyễn Trung cho tập sách ĐQE chưa in ) . Để cho những đồ vật tầm thường nhất có sức mê hoặc người thuởng ngọan, qua mấy ngón tay run nhưng rất chính xác của anh, hay nói như Võ Đình:
’’ Tôi trân trọng bởi lẽ cái thang tre, cây đèn dầu, những viên gạch được Đỗ Quang Em vẽ ra thật tỉ mỉ, thật “thật”, nhưng sự “thật” này không đánh lừa ta, không quyến rũ ta vì cái đặc dị của đề tài, cái tài tình của kỹ thuật, cái tinh vi của bút pháp. Họa phẩm thu hút ta vì một sự có mặt tự tại. Một sự có mặt mầu nhiệm. Đúng thế, có thể nói, nói mà không ngại là đại ngôn: hình thể trong tranh Đỗ Quang Em, người cũng như vật, biểu hiện sự mầu nhiệm của hiện hữu …” ( Trường hợp Đỗ Quang Em , tạp chí Hợp Lưu số 28 tháng 5 và 6 năm 1966 )

Từ triển lãm của Hội Họa Sĩ Trẻ năm 1973 Đỗ Quang Em được nhớ nhiều với bức     “Tăng” vẽ Nguyễn Hữu Hiệu lúc ấy là Thích Chơn Pháp ở Đại Học Vạn Hạnh, hiện nay  ông đang ở Manassas, Virginia…cho đến những năm 1980,1990  tranh Đỗ Quang Em được sự chú ý đặc biệt trong các cuộc bày tranh chung cùng bạn bè ( Đinh Cường - Đỗ Quang Em - Trịnh Công Sơn , 14 -1 đến 24-1-1989, Nhà Hữu Nghị Tiệp Khắc , TPHCM và Trịnh Cung -  Đỗ Quang Em -Trịnh Công Sơn – Tôn Thất Văn tại Hội Giao Lưu Văn Hoá Việt Nhật, tháng 9.1991 tại The Floating Hotel ,TPHCM )  nhất là tại Galerie Lã Vọng ở Hong Kong  do các bà Shirley S. Hui và Judith Hughes Day điều hành, từ năm 1993 đến 1996, đã giới thiệu tranh Đỗ Quang Em một cách trang trọng đặc biệt cùng với tập sách  in đẹp .Tranh Đỗ Quang Em còn tham dự  triển lãm An Ocean Apart năm 1995, một cuộc triển lãm thú vị cho các họa sĩ Việt Nam trong nước và ngoài nước  do Smithsonian Institution Traveling  bảo trợ, được trưng bày tại bảo tàng các thành phố lớn nước  Mỹ . Trên The New York Times số ra ngày 29-11-1994 đã đăng tin một bức tranh của anh bán với giá rất cao , đó là bức “ Tôi và vợ tôi “ vẽ năm 1989, rất hiện thực mà cũng rất siêu thực có chút nào không khí tranh Salvador Dali, họa sĩ mà anh ưa thích.

Huỳnh Hữu Uỷ thì cho rằng :… “Đó là nghệ thuật của các nhà tân hiện thực, hay nói cho chính xác là cực thực, hypperréaliste, gần gũi với nhiếp ảnh nhưng hoàn toàn khác xa nhiếp ảnh, chỉ cách nhau một đường tơ nhưng là hai thế giới ngoài nhau hoàn toàn. Đối vật trong tranh Đỗ Quang Em hiện ra rất thực nhưng luôn luôn là bí mật, tạo nên một vẻ gì hư ảo vượt ra bên ngoài thực tại, dễ gây nên cảm giác về một điều gì đó rất quạnh hiu nhưng là một thứ quạnh hiu bất tử.” ( Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại , trang 182, VAALA – California 2008 ) .Cũng nên ghi nhớ, Đỗ Quang Em đã được sinh ra trong một gia đình nổi tiếng về nhiếp ảnh tại Phan Rang, còn tiếp nối cho đến nay bởi cô con gái anh: nhiếp ảnh gia Đỗ Ngọc Trâm. Anh và chị Thanh Nhàn vợ và cũng là người mẫu tuyệt vời nhất có ba gái một trai đã trưởng thành, đều ở Los Angeles- California.

Phan Rang, nơi người họa sĩ lớn lên, rong chơi một thời trẻ dại, có bóng ma Hời, có sân ga Mường Mán, tôi cứ nghĩ lan man thêm như vương vất một hồn Chàm ( khi xem bức tranh xưa nhất của Đỗ Quang Em trong bộ sưu tập của ông bà John T. Bennett- Marinka tại Alexandria, Virginia vẽ người phụ nữ Chàm đội chiếc hũ với áo dài xanh huyền diệu  tương tự bức chân dung Xuân tên gọi của Đỗ thị Liệu em gái anh, vẽ năm 1971, trước khi cô qua định cư tại Úc ). Đó là một tâm hồn lạ. Đỗ Quang Em cũng thật khắt khe và có quy luật trước đời sống, cho nên tranh anh được nhận ra bằng trái tim của một ẩn dụ không lời. Cuối cùng, Đỗ Quang Em đã vượt lên cái tân-hiện -thực mà nhiều người đã nghĩ. Bởi vì, tham vọng của họa sĩ là vẽ về thực tại như thực tại, nhưng thực tại cũng có thể là ảo tưởng của thực tại. “Kh ông có gì thực hơn cái không thực “ ( Nothing is more real than nothing ) như nhận định chí lý của Samuel Beckett về nghệ thuật . Cho nên tranh của bạn tôi, Đỗ Quang Em rất thực mà không thực. Là Hư Vô. Không Tánh .
Virginia, 12 Nov. 2011

Đỗ Quang Em sinh năm 1942 tại Ninh Thuận
Tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định 1965
Nguyên giảng viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định
Giải Văn Học Nghệ Thuật Tổng Thống 1971

Tác phẩm hội họa:



Chân dung Xuân ,1971
 86 x 66 cm
 



 




 
Áo cưới ,1993
86 x 99 cm
 

 








Bùa hộ mệnh , 85 x 100 cm






 


Tỳ Bà , 1989
63 x 76 cm



Friday, August 3, 2012

Du Tử Lê * Tạ Tỵ, người mở những cánh cửa lớn cho hội họa Việt Nam


Theo ghi nhận riêng của tôi, thì trong sinh hoạt hội họa của 20 năm văn học nghệ thuật miền Nam, họa sĩ Tạ Tỵ là người có công du nhập vào Việt Nam hai trường phái hội họa lớn là Lập Thể và, Trừu Tượng.Tuy nhiên, ông lại không được nhắc tới nhiều, như những họa sĩ khác. (1)



Tôi không biết có phải sự nghiệp của ông được định hình quá sớm, ngay từ giữa thập niên (19)40, khi cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân Việt bùng nổ?
Trong một bài viết nhan đề “Tạ Tỵ - ông ‘tổ’ tranh trừu tượng Việt Nam,” tác giả Bội Trân ghi nhận:

“...Vào năm 1948, trong chiến khu, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái và Văn Cao đã tổ chức một cuộc triển lãm nhóm đầu tiên. Tạ Tỵ khi ấy trưng bày những bức tranh lập thể, trừu tượng, còn Bùi Xuân Phái bày những bức tranh ấn tượng với những khu phố cổ cũ và những hẻm ngõ buồn heo hắt. Sau lần triển lãm này, các họa sĩ ít nhiều đã gặp rắc rối.” (2)

Giải thích cho sự kiện họa sĩ Tạ Tỵ ít được truyền thông của 20 năm VHNT miền Nam nhắc đến, có người cho rằng vì họa sĩ Tạ Tỵ thành danh quá sớm; lại ở giai đoạn “bản lề” hay “gạch nối” giữa hai giai đoạn VHNT quan trọng là tiền chiến và kháng chiến. Chưa kể ông vào Nam trước 1954, nghĩa là không thuộc thành phần văn nghệ sĩ miền Bắc di cư vào Nam, nên giới này đã đặt ông qua một bên (?).

Dù vậy, vai trò, vị trí tiền phong của họa sĩ Tạ Tỵ trong những năm tháng gần đây, đã được đánh giá và, nhìn nhận một cách công bằng, khách quan hơn, bởi chính những tên tuổi lớn trong sinh hoạt hội họa của chúng ta. Như một việc làm cụ thể liều lĩnh, của họa sĩ Bùi Xuân Phái, sau biến cố 30 tháng 4, 1975, họ Bùi đã không chỉ nói lên tình bạn giữa hai tên tuổi mà, còn thể hiện tấm lòng trân trọng của ông trước tài năng và, những đóng góp to lớn, quý báu cho hội họa Việt của họa sĩ Tạ Tỵ, qua trích đoạn dưới đây, cũng của tác giả Bội Trân:

“Năm 1953, Bùi Xuân Phái đã từ chối khi Tạ Tỵ rủ ông cùng vào Nam định cư, Bùi Xuân Phái có kể lại chuyện này, và có những giai đoạn quá ngặt nghèo, ông cũng đã tỏ ra than tiếc và đổ lỗi cho số phận. Tuy tình bạn của họ phải xa cách trong thời kỳ hai miền Việt Nam chia cắt, nhưng Bùi Xuân Phái vẫn thường kể lại những kỷ niệm về tình bạn với Tạ Tỵ với các bạn hữu. Năm 1979, Bùi Xuân Phái vào thăm Saigon và yêu cầu Thái Tuấn đưa đến thăm gia đình Tạ Tỵ, một họa sĩ di cư vào Nam rồi trở thành trung tá trong quân dội Saigon, hành động của Bùi Xuân Phái lúc bấy giờ được xem là can đảm và cảm động.”

“Lần cuối cùng tôi chứng kiến cảnh gặp lại của Tạ Tỵ với Bùi Xuân Phái, đó là lần Tạ Tỵ được ra khỏi trại cải tạo, trước khi trở lại Saigon đoàn tụ với gia đình, Tạ Tỵ đã tìm đến nhà Bùi Xuân Phái. Dáng người Tạ Tỵ cao lớn, ông đứng trước cửa nhà và gọi to khi vừa thấy Bùi Xuân Phái. Hai người bạn tay bắt mặt mừng khi gặp lại nhau sau hơn hai mươi năm xa cách. Nhưng chỉ sau những câu hỏi han ban đầu tiếp theo là sự im lặng của cả hai người. Tôi ấn tượng mãi về sự im lặng khó hiểu ấy, cả hai ông ngồi bên nhau hàng giờ đồng hồ mà chỉ im lặng thôi, nước mắt nhòe ướt đôi mắt họ.” (3)

Nói tới tài năng ngoại khổ của họa sĩ Tạ Tỵ mà, không nhắc tới biệt tài vẽ chân dung của họ Tạ, tôi cho là một thiếu sót, khó được tha thứ.

Như sự hiểu biết giới hạn của tôi thì, hầu hết các họa sĩ, dù theo đuổi trường phái nào, cũng thường tìm tới nghệ thuật vẽ chân dung. Chân dung chính họ, hay người khác.

Ở lãnh vực này, họa sĩ Tạ Tỵ cũng đã được ghi nhận như một trường hợp ngoại lệ. Phong cách vẽ chân dung của họ Tạ thường chỉ là vài nét phác. Nhưng chân dung với những nét tiêu biểu của người được ông phóng bút đã hiển lộ một cách sống động. Và, ngay cả khi ông không ký tên, người xem vẫn lập tức nhận ra, đó là nét vẽ (như khắc) của Tạ Tỵ.

 
Tranh SAY của Tạ Tỵ




Về những giờ phút cuối cùng của họa sĩ Tạ Tỵ, người có công mở những cánh cửa lớn cho lịch sử hội họa Việt Nam, tôi đã xúc động khi được đọc bài của nhà văn Văn Quang. Trong bài, có một chi tiết nhỏ, nhưng với cá nhân tôi, nó thật ý nghĩa! Tôi tin, ở thế giới bên kia, người họa sĩ ngoại khổ của chúng ta, chắc sẽ hài lòng. Ðó là:

“Trong số hàng trăm vòng hoa của thân hữu ở VN, tôi thấy có vòng hoa của anh Ðinh Cường từ Virginia đưa đến và một vòng hoa của Hội Nghệ Thuật thành phố Saigon.” (4)

Tôi biết, vòng hoa của họa sĩ Ðinh Cường ở Virginia, được gửi về từ tâm thái riêng của ông. Nhưng tôi muốn nhìn việc làm này như một đại diện và, hơn thế, một lời xin lỗi (dẫu muộn,) của những người làm hội họa miền Nam, 20 năm.

Du Tử Lê

(Tháng 7, 2012)
 
Chú thích:

(1) Họa sĩ Tạ Tỵ tên thật Tạ Văn Tỵ. Ông sinh ngày 24 tháng 9 năm 1921 tại Hà Nội. Nhưng khai sinh lại ghi sinh năm 1922. Ông tốt nghiệp trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Ðông Dương năm 1943. Cũng thời gian này, bức tranh “Mùa Hè” của ông được trao giải Salon Unique. Trước đó, khi còn là sinh viên Cao Ðẳng Mỹ Thuật, năm 1941, ông cũng đã được trao tặng một giải thưởng khác về hội họa. Từ giải thưởng này, ông được Quốc Trưởng Bảo Ðại mời viếng thăm Cố đô Huế. Và, ông được mời ngồi chung xe ngựa với Quốc Trưởng Bảo Ðại thưởng lãm toàn cảnh cố đô cổ kính này. Tạ Tỵ tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm 1946, là một trong vài giáo sư mỹ thuật đầu tiên ở Liên Khu 3. Năm 1950, họa sĩ Tạ Tỵ bỏ vùng kháng chiến về lại Hà Nội. Năm 1951, ông có cuộc triển lãm cá nhân tại Hà Nội, với 60 bức tranh gồm cả Lập Thể và Trừu Tượng. Năm 1953, ông rủ một trong 2 người bạn thân của ông là họa sĩ Bùi Xuân Phái, vào Saigon. Họ Bùi từ chối. (Bùi Xuân Phái bỏ chiến khu về lại Hà Nội năm 1952.) Tại Saigon, họa sĩ Tạ Tỵ có hai cuộc triển lãm cá nhân quan trọng vào những năm 1956, 1961. Năm 1982, sau nhiều năm tù cải tạo, ông cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ. Năm 2003, khi người bạn đời qua đời, ông quyết định trở về Saigon. Và, chỉ một năm sau, ông từ trần giữa quê nhà.

(2) Bội Trân, “Saigon xanh ký ức,” Hợp tuyển thơ, nhạc, họa Bến Tâm Hồn, trang 255, Nhà XB Thanh Niên, Saigon, 2012.

(3) Bội Trân, sđd. Trang 255, 256.

(4) Văn Quang, sđd. Trang 262.

Sunday, July 22, 2012

Đinh Cường * Để Đi Đến Xám Trắng Đen Nguyễn Trung Đã Là …

Ao  , 2010 , acrylic , house paint , pencil
and oil stick on canvas 180 x 180 cm

Xám trắng đen là tên cuộc triển lãm tranh Nguyễn Trung tại Galerie Quỳnh nơi chuyên bày tranh trừu tượng và nghệ thuật xếp đặt của những họa sĩ tiên phong, nổi tiếng ở đường Đề Thám, Sài Gòn từ 9.12 .2010 đến 26.2.2011. Với 19 bức tranh trừu tượng khổ lớn, nhưng theo Lý Đợi: “ Dự kiến treo 19, nhưng chỉ treo 12 tác phẩm, khổ lớn, từ 100x100 cm trở lên, phòng tranh Quỳnh trên lầu và duới đất đã kín vách… Theo chủ quan, triển lãm này đáng chú ý, không phải vì đã có 3 tác phẩm được bán ( hôm khai mạc, giá tranh từ 20.000 us đến 30.000 us một bức , chú thích của DC) mà vì nó có thể mang đến cho người xem mấy cách nhìn khác nhau: thích, không thích, hoặc băn khoăn… Cuối cùng, khi đứng ngoài sự thích, không thích, hoặc băn khoăn, xét về lịch sử và tiến trình hội họa, tôi vẫn cho rằng Nguyễn Trung là một trong những họa sĩ đáng nể của Việt Nam” (Mấy cách nhìn về Nguyễn Trung vanchuongviet.org). Không về xem được tận mắt, nơi xa này tôi vẫn theo dõi tin tức, bởi vì theo tôi đây là cuộc triển lãm đáng chú ý nhất của người bạn mà tôi đã được biết qua mấy chặng đường anh đã đi trong hội họa.
 
Ac , 2010 , acrylic, house paint, pencil and oil stick
on canvas 180 x 180 cm

Và nhân có anh chị bạn về đúng dịp, tôi nói anh chị thế nào cũng phải ghé xem phòng tranh rất đáng để xem này. Khi anh chị về lại Virginia tôi hỏi cho biết ý kiến, Ben nói : “I love the simplicity and clarity of his work “ -tôi yêu nét đơn giản và trong sáng trong những tác phẩm cuả anh ấy –
( Ben là tên bạn bè thường gọi của Dr.Sharp, tiến sĩ vật lý, chuyên về âm thanh hàng không, nghiên cứu ảnh hưởng của âm thanh phát từ các máy bay phản lực với sinh hoạt của người thành phố, tại miền quê, ảnh hưởng của máy bay phản lực với mức tăng trưởng và sinh sản của thú vật ở nông trại hoặc ở vùng hoang dã) -  vài hàng về Ben là để thấy một người đã quen với cái nhìn không gian trắng tinh khiết khi xem cái không gian trong tranh Nguyễn Trung, một không gian của sự chắt lọc để không còn       tiếng động của xanh đỏ tím vàng trông choá mắt mà đôi khi chẳng làm ta xúc động.

Một góc Galerie Quỳnh (ảnh Hoà Bình )

Tranh Nguyễn Trung từ bao giờ cũng làm tôi xúc động bởi tình yêu tuyệt đỉnh của nghệ thuật. Từ thời hai mươi tuổi Nguyễn Trung đã phát biểu:” Hội họa sẽ hi vọng có cuộc sống thực (kịp thời và đầy đủ) với điều kiện là phải cố tránh những hành động vô tình cản trở sự khai sinh của nó (vô ý thức, hủ lậu, kênh kiệu) bằng cách phải yêu cho thật tình, như chính ý nghĩa của cuộc sáng Thượng Đế,, như chính ý nghĩa Yêu đối với người con gái vậy.” (cuộc phỏng vấn về Quan niệm Hội Họa do Nguiễn–Ngu-Í phụ trách. Bách Khoa số 138 ngày 1.10.62). Tôi thấy anh Yêu thật tình con đường nghệ thuật mà anh đã chọn lựa, im lặng, miệt mài làm việc, luôn hướng đến một dấu mốc mới. Từ vẽ chất liệu tổng hợp trên chiếu (gallery Vĩnh Lợi, Feb.1999 – Presents 9 contemporary Vietnamese Painters from Hochiminh City: Nguyen Trung – Buu Chi – Do hoang Tuong - Ho huu Thu – Hua thanh Binh – Le Vuong –  Nguyen lam – Nguyen tan Cuong – Tran van Thao). Anh còn được xem là người nhen nhóm ngọn lửa sáng tạo cho các hoạ sĩ trẻ trong nhóm. Cũng như ngày xưa được bạn bè bầu làm chủ tịch Hội Hoạ Sĩ Trẻ kế tiếp chủ tịch đầu tiên  Nguyễn cao Nguyên (Ngy Cao Uyên, hiện ở Washington DC) và chủ tịch sau cùng là Mai Chửng (đã  mất  vào tháng 9 năm 2001 tại Dallas,Texas). Hội Hoạ Sĩ Trẻ thành lập năm 1966 tại Sài Gòn hoạt động cho đến năm 1974 …’’có thể nhìn nhận họ là những đại biểu đặc sằc nhất của một giai đoạn lịch sử mỹ thuật của Sài Gòn và miền Nam trước đây …” ( Huỳnh Hữu Uỷ - Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại, trang 133, VAALA. California 2008)     

Đến cuộc triển lãm tại gallery Tràng An Hà Nội tháng 12-1999, tiếng vang của tranh trừu tượng Nguyễn Trung thật nồng nàn, như tiếng chuông đưọc lan xa từ một chuông đồng quý - như chiếc chuông đồng chùa Thiên Mụ, làm nhớ Nhã Ca, nguời bạn thi sĩ thân nhất của anh:

  ’’Chuông òa vỡ trong tôi nghìn tiếng nói
Những mảnh đồng đen như da đêm tối
Những mảnh đồng đen như tiếng cựa mình
Những mảnh đồng đen như máu phục sinh
Những mảnh đồng đen kề nhau bước tới …”
(Tiếng chuông Thiên Mụ - Nhã Ca Thơ , trang 27 - Vietbook, USA 1999)
 
Nhã Ca, bút chì
Nguyễn Trung 1964

Tháng mười năm 2005, Nguyễn Trung qua New York nhân có cuộc bày tranh do bà Judith Hughes Day tổ chức, sau đó anh đã ở lại Texas trong vòng 3 tháng để vẽ và có cuộc bày tranh tại Việt Báo của Trần dạ Từ - Nhã Ca, một triển lãm đáng ghi nhớ trong lòng bạn bè và những người yêu hội hoạ, yêu tranh anh tại California, được dịp cùng anh hát vang trong chiều khai mạc …
 
Trên Việt Báo Xuân 2006, California, có bài phỏng vấn Nguyễn Trung của Sông Văn khá dài thật thú vị, xin trích ra đây một, hai trong rất nhiều câu hỏi …

SV: Và ông cảm giác thế nào về sự khác biệt (khi làm việc) giữa Figurative Art & Abstract Art ?
NT: Xin lưu ý một điều, bởi vì tôi đã chuyển bước từ figurative sang abstract mà không phải vì thế mà abstract là hiện đại hơn Figurative, một khuynh hướng nghệ thuật vẫn còn tiếp tục phát triển một cách đa dạng. Vậy thì vì sao tôi chọn abtract, vì sao nó thích hợp với tôi hơn là cái kia ?
Là bởi vì với nó, tôi có thể nói lời thô mộc giản dị mà không phải bóng bẩy rườm rà, trực tiếp mạnh mẽ mà không phải vòng vo tiểu xảo .Với nó tôi có thể đưa ra những hình ảnh sâu xa từ vô thức chứ không phải hình ảnh bên ngoài, nhiều màu sắc. Nói chung, một đàng là cái đẹp ngoại hình, có tính cách trang trí nhiều, một đàng là cái đẹp nội giới có thể chiêm nghiệm về lâu.

SV: Hội họa có ảnh hưởng nhiều đến đời sống riêng của ông không?   
NT: Rất nhiều, rất nhiều! Hay nói cách khác chính xác hơn, hội hoạ chính là đời sống của tôi và ngược lại. Không có nó tôi không biết làm gì. Không có nó không biết sống bằng gì, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, vật chất lẫn tinh thần.

Gia đình chài cá , sơn dầu trên bố 137 x 177 cm
Nguyễn Trung  1980

Nguyễn Trung, để đi đến Xám Trắng Đen năm nay hay Bảng Đen năm 2004 là cả một chuổi dài rượt nà theo nghệ thuật. Kể từ những năm năm mươi tại Đàm trường viễn kiến của Nguyễn đức Quỳnh, những năm sáu mươi ký Anh Oanh viết phê bình mỹ thuật trên Văn Nghệ chủ nhiệm Lý Hoàng Phong, thư ký toà soạn Ngọc Dũng, trị sự Phí Ích Nghiễm (Dương Nghiễm Mậu ), những năm tám mươi trông coi tờ Mỹ Thuật cùng Ca Lê Thắng, Nguyễn trọng Chức … Anh còn dịch Thiền của Suzuki rất sớm.
 
‘’… có lẽ là một trong những hoạ sĩ có nhiều cá tính , tài năng và trí tuệ bậc nhất của giai đoạn vừa qua …” ( Huỳnh Hữu Uỷ -NTTHVNHĐ trang 222).

Thật vậy, từ những dessins tài hoa đến những tranh thiếu nữ một thời là thứ ánh sáng như âm bản, anh có quyền buông thả hết để hôm nay chỉ vẽ như không vẽ mà thấy vẫn là những tác phẩm nghệ thuật đạt mức thượng thừa, hay nói như Nguyễn Thuyên: “Ông giống như một võ sư đã ra chiêu suốt đời rồi, bây giờ chỉ cần một động tác thật nhẹ cũng tạo nên một kình lực .”  ( DNSG CUỐI TUẦN .17.2.2010 )

Café buổi sáng, sơn dầu trên bố 800x100 cm, Nguyễn Trung 1962
(coll. of Mr. & Mrs. John T. Bennett Marinka, Alexandria, Virginia)
 
Những họa sĩ bậc thầy hiện đại mà Nguyễn Trung yêu thích như Cy Twombly, Rothko, Barnett Newman, Antoni Tàpies … những người mà anh thấy là có quá trình làm việc và tự vượt hơn người, “Tôi nghĩ họ phải vô cùng can đảm, đam mê, ý chí của họ mạnh mẽ để theo đuổi con đường mình đi. Tâm hồn của họ thật thanh cao, cô đơn, tịch mịch.”
(Nguyễn Trung  California 2006, Sông Văn -  Việt Báo Xuân )

Đinh Cường - Nguyễn Trung ,Virginia 2005
 
Tôi vẫn luôn nhớ một buổi chiều, năm ngoái khi về Sài Gòn, Nguyễn Trung hẹn tôi ở quán Annam Gourmet góc Hai Bà Trưng – Đông Du uống hai chai chát đỏ ngon …bạn gọi tôi là cố tri, và nhắc đến mùa tuyết lớn Virginia. Trong tuyết trắng xoá chiều nay, năm nay, tôi nhớ bạn vô cùng. Mong sao sẽ có một triển lãm retrospective Nguyễn Trung tại Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Việt Nam như triển lãm của Soulages ở Centre Pompidou, Paris cách đây hai năm. Để thấy một Nguyễn Trung với :

…cái đẹp thần ziệu mà anh mang nặng
cái thiên đàng huyền ẩn của tiềm thức
Để trên thế giới này không còn gì nưã
đã hé mở và thoáng hiện
một chân trời thanh khiết sau cùng của đời mình .
(Huyền Thoại gửi Nguyễn Trung –Nuages Mây – thơ Ngô văn Tao, trang 185 .Montréal 88 )
 
Nguyễn Trung đã là một trong vài ba nghệ sĩ lớn của miền Nam (là sản phẩm của miền Nam -chữ của Đặng Tiến ), xuất sắc nhất của mỹ thuật đương đại Việt Nam ./.

Đinh Cường