văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Monday, July 11, 2011

DU TỬ LÊ * Chim Đem Đi: Làm Lễ Tạ Ơn Người!?


đêm bảo dưỡng nụ hôn tôi đã gửi
chim đem đi: làm lễ tạ ơn người!?

  
Không biết đã bao đêm, cứ khoảng hai giờ sáng tôi lại bị rất nhiều cánh tay gió mưa hối hả lay, giựt tôi ra khỏi giấc ngủ muộn. Hai giờ sáng, tôi tỉnh dậy giữa tiếng gió khua, đập cùng cảm giác giông, bão không nguôi nện gót giầy giận dữ dưới thấp. Tôi sống chập chờn giữa khe hở hai đời sống. Một thứ nhị trùng hư ảnh: Hiện thực (và) quá khứ? (Hay sự trộn chấu thất bại đời thường trong dung dịch bóng tối?)

Khi tỉnh lại, bao giờ tôi cũng nằm im. Nhắm mắt. Nghe hai con sông ngược chiều, xiết trôi đôi bờ thân thể tôi rêm, nhức. Thường khi rất lâu, tôi mới nhận biết: Chuyến bay từ phi trường Houston đã trả chúng tôi về lại Orange County có dễ cũng gần một tháng.

S. đã trở lại với chiếc ghế gỗ. Hàng hiên nhỏ. Đường Bellehurst. S. trở lại với những con nắng trưa Tháng Ba lụa xanh, hớ hênh từ những mái dốc trượt chân rớt xuống lòng đường nền nã đen - - Cùng những trận ho khan như những mũi khoan nhỏ xíu xoáy sâu khoảng không gian đặc, khô, tĩnh lặng. Những ngọn dừa nước già làng xù xì lớp da chì bủng, lênh khênh không chỉ ngoảnh mặt khinh bạc, phủ nhận sự hiện diện của đám dừa non ba thân (và) hàng găng thấp - - (Mà,) chúng còn từ chối ngó xuống những trượt chân tình, nghĩa của bạn tôi  đập, va chới với vực không đáy.

Hy vọng đó không phải là dấu hiệu bạn tôi khởi đầu chuyến viễn du giã từ năm, tháng, khốn.
Tâm hồn tôi cũng đã trở lại ẩn, trú trong ngôi nhà dài lâu đường Lucille đang thay da, đổi thịt. Căn nhà phụ như cây nấm dại lì lợm mọc lên giữa khoảng sân sau, được nhiều bàn tay bằng hữu cơi rộng. Bốn vách ván từng trở thành chỗ treo tranh. Vung bút tích tung hoành thơ, văn của khá nhiều tình thân, giờ không dấu vết. Dàn chanh giấy từng “long tranh hổ đấu” với những giây hoa vàng quanh năm làm thành lối đi dưới...trái, dẫn vào hành lang (cũng treo rất nhiều tranh, ảnh.) Nơi tôi có nhiều năm ngồi với chiếc computer. Tiếp bạn. Nhả khói mịt mù. Giờ cũng không còn.

Tôi đem tâm hồn tôi tạm trú trên những nhánh cây treo lửng trong hai chiếc chuồng chim lớn. Tác phẩm lao động chân tay của họa sĩ N.Đ.T. Tôi nghĩ mình thật không phải khi đưa cái mặt ngổ ngáo, bậm trợn hù dọa đám chim cockatiel (vốn đã nhân mãn,) bắt chúng nhường đất cho mình. Cũng có khi tâm hồn tôi mắc võng trên những chạc ổi xá lị thấp tè, hoặc lẩn dưới tán bưởi nậm rượu sum xuê sát tường hàng xóm.

Những đêm hè hoa bưởi lén lút thoa lên mặt tôi, lớp phấn hương ân cần, thân thiết kỷ niệm.
Cái ân cần, thân thiết kỷ niệm bất chợt, như những tình cờ chạm đụng một thịt da quen thuộc nào, (mà) sao bỗng ngậm ngùi choáng váng! Cái ân cần, thân thiết kỷ niệm bất chợt, đôi khi chỉ thoảng trong ký-ức-khứu-giác, cũng đủ cho ta ngẩn ngơ tự hỏi, phải đã nghìn năm xa cách?!...
Nhưng cách gì, dù cho những con sông có chảy ngược / xuôi đôi miền lưu vực rêm, nhức thân thể tôi, (thì) cuối cùng tôi cũng hiểu ra những ngày ngắn ngủi ở Texas, gần nhất, chính là những bàn tay hối hả lay, giựt tôi ra khỏi giấc ngủ muộn.

Đó là buổi sáng với Tr3. Tr3. đã đem những cây sồi nứt xương thung lũng Camp Pendleton tháng mười 75, trồng lại trong cánh rừng quá khứ tôi tiêu trầm gió, bão.

Tr3. cũng đã cấy lại trên những bờ, luống tôi nhem nhuốc đìu hiu hình ảnh bằng hữu. Hiểu một nghĩa nào, họ đã đi xa. Quá xa! Họ đã tới những chân trời định mệnh dành riêng. (Những chân trời, đôi khi tôi có thầm mơ ước.) Đó là những Trần Tam Tiệp. Nguyên Sa. Ngọc Dũng. Nguyễn Thừa Dzu...Đó là Thục, của tình cờ di tản bật gốc, gặp lại. Là Thảo chưa qua tuổi hai mươi, trên chuyến xe bus nối Processing Center và trại Một, đọc tôi nghe bài thơ, tôi muốn quên: “Sinh nhật, 12.”

Nhưng, cách gì, dù cho gió khuya hiện thực hay mưa, bão ẩn ức tưởng tượng có làm thành nhị trùng cảm, nghiệm rối ren, (thì) cuối cùng, tôi cũng hiểu ra những ngày ngắn ngủi ở Texas mới đây, chính là những cánh tay lay, giựt tôi ra khỏi giấc ngủ muộn.

Buổi trưa, Việt Nguyên, Lê Văn Hào lại ném những đêm mưa, những ngày gió Houston từ 1993, vào tâm hồn tôi không phên / vách. Những ngày Cao Đông Khánh hiên ngang như một Từ Hải lấn cấn giữa biểu hiện cao bồi miền Viễn Tây và người hùng phương đông huỡn huỡn (không...gươm giáo.) Những ngày N. đem cơn điên phơi giữa đường Bell, trước khi mang chăn, gối ngủ trong chiếc xe Toyota cũ (của Lê Chuyên) tôi vứt lại trong bãi parking dài hạn phi trường. Những tối M. C. tìm tôi nhầu, nát (như những ngọn cây sung nhầu, nát) đường Milam / Travis...
Hiểu một nghĩa nào, họ cũng đã đi xa. Quá xa. Họ cũng đã tới những chân trời định mệnh dành riêng. (Những chân trời đôi khi tôi cũng thầm mơ ước tạt ngang, dừng chân, thăm hỏi.)

Cũng có thể, tôi nghĩ, chính những buổi tối, với Đăng Khánh,  Phương Hoa; với Lê Văn, Nguyên Bích, Nguyễn Ngọc Bảo…những thâm giao đã xô, đẩy tôi ngã giập mặt vào những bài thơ cũ / mới. Những bài thơ cũ / mới đi ra từ tôi. Xong. Mất hút.

Như sự mất hút nhiều buổi tối T. lúp xúp mang về lênh láng những trận mưa dai dẳng cay nghiệt, cùng những con gió thủ trong tay áo hàng chục lưỡi dao bén, rét, cắt ngọt thịt, da. Nơi chúng tôi ăn những bữa cơm tối với giấy báo trên mặt bàn dã chiến, cùng ngọn đèn treo lửng bấp bênh (và) tiếng hú quẫn bách của con Cocaine, kéo theo tiếng thở dài ngao ngán (rụt rè) của Tề Thiên, Chí Phèo.

Tôi đứng ngoài những bài thơ cũ / mới của mình. Như kẻ lạ mặt đứng trước ngôi nhà có quá nhiều cửa sổ. Thản hoặc tôi cũng nghiêng tai, kiễng chân nghe ngóng tiếng động, hình ảnh quen thuộc (hay lạ lẫm) di chuyển chập chờn trong những ngôi nhà này.

Không phải tôi không muốn nghe. Trái lại. Nhưng đó là lúc tâm hồn tôi còn ngầy ngật ngổn ngang những hình ảnh ngược / xuôi của xa lộ 290 đông / tây; và 45 nam / bắc.

Tôi vẫn chưa ra khỏi cái ám ảnh của những đám mây đen, nhiều chỗ bị xé rách bởi những bệt màu đỏ máu, cuồn cuộn hung khí lao về phiá chúng tôi; khi chiếc xe của Phương tăng tốc, cố ngốn nuốt nốt đoạn đường còn lại.

Giữa cảnh trời chiều (mà) chân trời là cả một đường vòng cung không điểm chuẩn, tôi có lại cái cảm nhận lơ lửng, bơ vơ, bất lực của một sinh vật mang tên con người. Tôi muốn nói với Phương dù con người đã cắm cờ trên mặt trăng, tìm thấy chứng tích có nước trên hoả tinh... Nhưng rốt ráo nhân loại cũng chỉ là một chấm đen, hay miếng puzzo trong hàng triệu miếng puzzle dưới bàn tay nghịch ngợm, tinh quái của Đấng Một.

Tuy nhiên, tôi đã giữ lại cho riêng tôi hình ảnh những gốc rạ khô, cháy lam nham, nhấp nhổm như những chân nhang cắm vụng trong biển cát. Và những bụi smoking- tree chỉ như những cụm khói èo uột tét đầu, bị gió lùa chạy thục mạng về nơi vô tận.

Tôi cũng giữ lại cho mình hình ảnh những mảnh gương vỡ khổng lồ, hờ hững cẩn bẹt trong những thửa ruộng sát lề đường. Chứng tích những trận mưa lộn nhào trời / đất. Những tấm gương vỡ phản chiếu từng khối mây đen (pha máu,) tượng hình cổ quái. Lũ hình tượng cổ quái chụp lên những ngày thơ ấu tôi, xưa.

Những ngày thơ ấu tôi từng run rẩy chôn chân trên bậc tam cấp ngôi nhà tôi được sinh ra. Ngôi nhà dẫn xuống bến sông Đáy, Phủ Lý những năm trước tản cư.

Những năm các anh tôi lần lượt bỏ nhà ra chiến khu. Gia đình tôi chỉ còn lại đám phụ nữ goá buạ (như mẹ tôi,) không chồng, con (như U Già, chị Vú.) Tôi thờ thẫn vào / ra giữa những dẫy nhà (mà) bất cứ một xó xỉnh nào cũng tồn đọng những bí ẩn hàm hồ, chấp chới rình rập.

Trong những buổi chiều chuyển mưa, khi những người đàn bà (gồm luôn cả chị T., sinh trước tôi vài năm) lo thu gom quần áo trên những sợi giây thép, hoặc cuống cuồng xúc những trái mơ vào bao tải, tôi lẻn ra cổng chính hướng về ngọn núi Vôi, bên kia sông. Ngọn núi vốn mầu xanh tím đã chuyển thành đen thẫm như một khối than hầm vĩ đại, cuồn cuộn lao tới tôi, hung hãn…

Lần nào tôi cũng cảm tưởng đám mây đang chuẩn bị vươn ngàn cánh tay bạch tuộc bủa lưới vây, chụp cuốn tôi đi. (Như chúng đang cuốn những chiếc lá, những mảnh giấy về các hố, hầm bí mật.)

Lần nào tôi cũng sợ điếng hồn. Toàn thân tôi tê liệt. Tôi há miệng kêu cứu. Không một tiếng nào thoát đi. Ngặt nỗi, dù sợ vã mồ hôi tôi vẫn không thể rời mắt khỏi đám mây ma, quỷ biến hóa. Mắt tôi dán chặt vào chúng như những con gà con lạc mẹ quíu chân chờ móng, vuốt diều hâu...Tôi chỉ may mắn hơn gà con ở chỗ: Tôi luôn được mẹ tôi tìm thấy trước khi những hạt mưa khổng lồ đầu tiên, rớt xuống.

Tôi nghĩ cũng chẳng nên nói với Phương (hay S.) về những hãi hùng ấu thơ tôi vừa sống lại. Để làm chi, khi mẹ tôi không còn. Chị T. tôi và bạn tôi, ở xa. Khi cuối cùng tôi cũng đã kịp vào nhà Phương.

Cánh cửa đã biệt, ly tôi và gió. Bão.
Tôi không biết có phải những ngày ngắn ngủi ở Texas gần nhất ở nhà Phương, những gặp lại Bình, Yến, Tâm, Tín, Oanh, Trọng, Hiến, Lài, Trung, Yên, Quỳnh, Nghiệp...nhắc nhở tôi:
- Phải chăng, đời sống chỉ là tổng số của những điều không thể hiểu? Như những sống / chết? Những gặp gỡ / chia lìa? Những thành / bại? Còn / mất?

Tôi không biết. Thực sự tôi không biết! Chẳng ai nói với tôi một điều gì dù gần / xa về những những cặp nhị nguyên vừa kể. Ngay tiếng hát nhỏ nhẹ (như chỉ muốn dành cho một người) của Hiến. Tiếng hát khuếch đại (tựa không đành bỏ sót một ai luôn ngọn nến, ly, tách, đĩa, bát trên bàn) của Quỳnh. Tiếng guitar biển rộng mang tham vọng bôi, xóa khoảng cách gia đình / bằng hữu của Phương - -  Tiếng cười loảng xoảng những rơi, vỡ trong hơi men hạnh ngộ của Yên, Bình, Trung, Trọng, Oanh, Tâm, Tín...

Tuy nhiên, điều tôi biết rất rõ (là) tôi có thể hình dung Trọng đã trở về với gạch, đá trường thành Alamo của Trọng ở San Antonio. Bình, Yến trở về ngôi nhà có tầu ngựa, ốm. Hiến, Lài đã ngồi xuống chiếc deck (đang thúc thắc làm dở) cùng ngọn lửa (cũng thúc thắc) dưới thùng bún bò Huế. Phương, Vương đã trở lại vị trí trong ca đoàn nhà thờ sáng Chúa Nhật...
Nhưng tôi không thể (dù rất muốn) hình dung Oanh, Tâm về đâu? Những mái hiên, ngôi nhà, ánh mắt nào ngóng, đợi họ?

Tôi cũng không thể (dù rất muốn) hình dung Trung với hai đứa con nhỏ ra sao, thế nào trên dậm trường về lại Dallas? Có ai hay điều gì ngóng, đợi ba cha con họ cuối chân trời đã lâu, đổ vỡ?
(Và) cho phép tôi, không hình dung (dù rất muốn) cảnh đời những người vắng mặt. Những người, theo một nghĩa nào, cũng đã đi xa, như tôi. Xa ngái!

Bạn tôi, bây giờ tôi hiểu rất rõ, điều gì đã thức tôi dậy lúc hai giờ sáng nhiều ngày qua. Tôi hiểu cửa khép. Tôi hiểu, mưa ngoài hiên. Gió cuồng nộ. Chân trời không điểm chuẩn. Tôi hiểu dù rất xa (hay quá đỗi gần gũi) tặng phẩm lớn lao duy nhất, cuối cùng, thượng đế đã chọn tôi để trao, gửi.

Tôi hiểu, dù rất xa hay quá đỗi gần gũi: Mùi tóc. Bàn tay. Cánh cửa. Môi hôn. Và tin cậy thăm thẳm. Lặng thinh. Sẽ được những cánh chim từ tâm đem vào đời, khác.

Tôi biết, rồi đây ngay cả những cánh chim…thiếu từ tâm cũng sẽ hân hoan đem nốt ngày, tháng còn lại của tôi vào đời, khác. Như cánh cửa ai kia sẽ không có thêm một lần mở lại./.

Du Tử Lê 
 

NGUYỄN MẠNH TRINH * Galang Một Thời Một Đời


Như thói quen mỗi buổi sáng ở freeway trên con đường đến sở, tôi lơ đãng bật đài phát thanh để nghe cho đỡ đường dài. Bỗng nhiên, nghe đoạn phóng sự những người tị nạn về Galang thăm lại cảnh cũ xưa, tưởng như mình lạc vào một thế giới khác. Trước mặt, không thấy cảnh kẹt xe nữa. Suy nghĩ miên man, đi quá mấy exit mà không biết. Trong tâm, bùi ngùi cảm xúc. Hai mươi năm, qua thật mau. Một thời đã qua. Một đời tiếp nối. Tự nhiên, những người trăm năm cũ hiện về. Từ ký ức chẳng thể nào quên. Những ngày tháng ấy.

Tôi vượt biển vào tháng tám năm 1980. Cũng đã đi nhiều lần, cũng lên “cá lớn, cá nhỏ” nhiều bận, bị lừa gạt, chạy xát bất xang bang nhiều phen, rốt cuộc đến được xứ sở tạm dung vào một ngày trăng tròn. Đến đảo Kuku, khi nơi đây dân tị nạn vừa chuyển tiếp từng đợt qua đảo lớn Galang nên chỗ này hoang vu lắm. Những dãy nhà dài bỏ không, cây cỏ xanh um. Ngôi chùa ở lưng đồi, trơ những hàng cột và những tấm bạt ni- lông rách bươm phần phật trong gió. Và nghĩa địa, nơi những người tị nạn sớm bỏ dương trần, những bia gỗ sắp hàng trong cái lạnh lùng hoang dã không sinh khí.

Nhưng, phong cảnh đảo thì tuyệt đẹp. Đi sâu vào trong, có dòng suối, có những mỏm đá hữu tình. Bờ biển cát trắng, nước trong. Những ngày đầu, trăng sáng lồng lộng. Qua một hành trình mệt nhọc trên biển, bây giờ mới biết chắc mình còn sống. Lúc đầu, chân lơ lửng bềnh bồng như trên sóng. Mấy ngày sau, mới bình thường đi lại vững vàng trên mặt đất.

Thời khắc mà nhìn biển với màu xanh mù mịt thăm thẳm đã qua. Nhớ lại cảm giác,trên hành trình, nhìn đại dương xanh biền biệt một màu, nhất là vào những buổi chiều tắt nắng sao cô đơn và phập phồng chi lạ. Biển với những tay sóng thịnh nộ như lúc nào cũng muốn ra oai vùi dập với con người và con thuyền gỗ nhỏ bé. Biết bao nhiêu người vùi mình dưới đáy đại dương. Biết bao nhiêu con thuyền vỡ tan trong giông bão. Đến lúc nhìn thấy những cánh chim sao ấm áp quá. Đất đã hiện ra, và cái sống đã như trở lại.

Bây giờ, biển lại hiền hòa vỗ về bờ cát. Bây giờ, biển lại âm vang những khúc tình ca. Ngay cả khi trong những cơn mưa nhiệt đới, dù mù mịt ngoài khơi nhưng trong bờ nước ấm áp dễ chịu. Ngọn núi ở phía trong, với những đường mòn khuất khúc, với những khoảng rừng thưa, như hứa hẹn những không gian nào, nơi chốn nào cho tìm tòi khám phá. Hết rồi những ngày bị dòm ngó, bị đe dọa ở quê hương. Saigòn, có những lúc rưng rưng nhớ. Thành phố của những ngày mới lớn, của những mơ ước, của những nỗi niềm.

Ở Kuku nửa tháng rồi có tàu lớn chở qua Galang, một cuộc sống khác bắt đầu, như ở một phố nhỏ nào lạ lẫm. Một con đường trải nhựa từ bến tàu đi vào trung tâm đảo. Những dãy nhà tôn hai bên, khu Galang I. Con đường đi qua tới cuối đảo là khu Galang II đang xây cất. Lúc ấy cả đảo có chừng gần hai chục ngàn thuyền nhân, có người di chuyển từ Mã Lai, Thái Lan hoặc Hồng Kông tới. Thuyền nhân Hồng Kông thì có bề ngoài bảnh bao hơn những nơi khác đến. Nhiều lần tôi ở trong những người đại diện trại đón tiếp và cũng nhiều lần được nghe những mẫu chuyện về đời thuyền nhân. Có những nghẹn ngào cố nén xúc động khi nhắc về những người đã khuất và những chuyện thương tâm. Biển đưa người đi nhưng biển cũng vô tình giết người.

Ở đó, một cuộc sống tạm bợ lạ lùng bắt đầu. Cũng có các nơi phải đến: nơi cấp lương thực hai tuần một lần, nơi phát thư để mong có những liên hệ với thế giới bên ngoài, có văn phòng cao ủy để làm thủ tục định cư, có ban đại diện trại để lo những công tác công cộng.

Nhìn bề ngoài thì như vậy, nhưng trong thâm tâm mỗi người tị nạn chất chứa đầy ắp những nỗi niềm. Cá nhân tôi, may mắn mọi chuyện chót lọt, không phải lo lắng đến chuyện đi Mỹ nên tâm tư thoải mái hơn. Dù rằng, vẫn nghĩ về quê hương với nỗi ngậm ngùi. Còn phần đông, với mọi người là cảnh huống nóng lòng chờ đợi ngày đi định cư. Những ngày ở đảo, dài theo chuỗi đợi chờ. Có nhiều người bị ở đây cả năm nên tinh thần khá sa sút. Những cái loa, báo tin mừng, tin buồn. Người đi vui vẻ. Người ở lại, lo lắng đợi chờ.

Nhưng, có những nỗi đau đớn lớn hơn. Có những người mất mát thân nhân ngoài biển cả. “Nghĩ đắt vô cùng giá tự do”, câu thơ Thanh Nam thật là đúng. Ở barrack tôi ở có ông già người Hoa cả đại gia đình cả mấy chục người chỉ còn sót lại có hai ông cháu. Buổi tối ông cõng đứa cháu nội trên vai lủi thủi đi xem truyền hình rồi nặng nề trở về trong đêm tối trông đau đớn làm sao. Có lần ông kể trong nước mắt, cái đêm mà cả đại gia đình của ông bị lính Mã Lai áp tải lên thuyền tống ra khơi rồi tất cả bị sóng cuốn đi. Tiếng khóc nén trong lồng ngực nghe tội nghiệp. Xoa đầu đứa bé ba bốn tuổi, ông nói nếu không có nó chắc ông cũng chẳng sống làm gì. Những người như vậy, chắc đến lúc họ xuôi tay về với đất mới có thể quên lãng được nỗi đau đớn ấy.
Nếu có dịp trở lại, tôi sẽ ghé về để nhìn lại barrack mà mình đã sống gần sáu tháng. Cũng như, sẽ bồi hồi biết bao khi đứng ở cầu tầu để đón những người đến và tiễn những người đi. Con đường xuyên qua đảo, biết bao nhiêu kỷ niệm. Những hình bóng thoáng qua. Những cuộc tình vời vợi. Cũng có những nuối tiếc bâng khuâng, ngày ấy tuy đã hơn ba mươi tuổi mà sao nghe già cỗi cuộc đời. Mới đây hai mươi lăm năm. Và, những người muôn năm cũ.. Tôi chợt nhớ đến một bài hát làm tôi xúc động. Bài “Trên đảo Galang nghe người hát” của anh Trần Đình Quân, bây giờ đã khuất núi. Bài hát mà tôi đã nghe chính tác giả hát trong một cuộc họp mặt có rất đông những người viết văn làm thơ viết nhạc ở nhà tôi với tiếng đàn đệm dương cầm của chị Quỳnh Giao. Bài nhạc đã làm cho tôi rưng rưng và mắt đỏ đến nỗi phải ra sau vườn để trấn tĩnh lại. Nốt nhạc buồn, ngôn ngữ bình dị nhưng truyền cảm, diễn tả một tam trạng mà bất cứ ai đã ở trại đảo đều cảm thấy. Hình như tôi đã thấy đôi mắt buồn vời vợi của người hát:

Chiều qua trên đảo Galang, nghe người hát bài Kembali Ké Jakarta (trở về Jakarta). NgườiI có Jakarta, người có quê hương để trở về thăm nhà.
Chiều nay trên đảo Galang quê người xa lạ một mình nghe lòng đau. Trở về đâu. Về đâu?
Quê ta! Về đâu! Về đâu! Trở về đâu! Về đâu!?
Quê ta đó ta không được ở. Nhà ta đó ta phải bỏ đi.
Cha mẹ ta tủi buồn thương nhớ. Người yêu ta đau đớn lìa xa. Anh em ta âm thầm từ biệt. Bạn bè ta câm nín ngậm ngùi”

Điệp khúc về đâu, về đâu cứ xoáy mạnh trong tim người nghe. Về đâu bây giờ, những người đã bỏ mình trong biển cả? Về đâu bây giờ những người lưu lạc bỏ lại quê hương? Không phải một mình anh Trần Đình Quân có câu hỏi ấy, lúc đó. Mà, bây giờ, cũng có nhiều người
ngậm ngùi hát điệp khúc ấy trong hồi ức như tôi, lúc này. Sao tôi muốn gửi theo những người thuyền nhân trở về thăm lại Galang, Bidong một chút tâm tình chia sẻ. Hãy thấp giùm tôi một nén nhang nơi nghĩa trang của những người nằm lại. Hãy đi giùm tôi lên nhà thờ trên dốc cao hay bước những bậc thang gỗ lên chùa để cầu nguyện và đa tạ đất trời. Tôi muốn cám ơn đất nước Indonesia đã dung chứa và bảo bọc chúng tôi. Tôi vẫn luôn luôn nghĩ mình là một người may mắn dù trong bất cứ hoàn cảnh ngặt nghèo nào. Làm lại cuộc đời ở tuổi trên ba mươi dù chậm nhưng vẫn còn chưa trễ. Định cư xứ người đi học, đi làm, tôi đã hiểu được cái giá mà khi mình vượt biển đã định. Cố gắng sao sống cho đúng con người, chu toàn bổn phận với chính bản thân mình, gia đình mình, đất nước mình. Có phải, đó là điều tôi thực hiện? Xin ơn trên dìu dắt tôi đi trên con đường ấy!

Nguyễn Mạnh Trinh

NGUYỄN BẮC SƠN * Nhị Hồng

Lòng vui sướng như một chiều nắng tốt
Cầm tay em chầm chậm bước qua sông
Tà áo em buồn trắng đã căng phồng
Những tình ý một đời chưa nói hết

Trong thành phố này từ lâu anh vẫn biết
Ở đâu đây còn chảy một dòng sông
Ở đâu đây còn có mặt trời hồng
Có bến tịnh đậu con thuyền trôi nổi

Thời tuổi nhỏ đời anh buồn quá đỗi
Nhà anh nghèo ngày không đủ cơm ăn
Mẹ hai tay lau nước mắt nhọc nhằn
Cay đắng quá đàn con đâu có biết

Khi lớn khôn nhiều đêm anh hối tiếc
Ðã bao ngày mê mải với văn chương
Nhưng bất tài không viết nổi tình thương
Của người mẹ tóc dài đang nhuốm tuyết

Em cũng biết tình yêu anh bát ngát
Và ngây thơ như đồng mía lau say
Biết ngày xưa anh là ngọn gió tây
Thổi quanh quẩn con đường nhà em mỗi tối

Ta về với nhau vợ chồng không đám cưới
Khi em thành sương phụ áo màu đen
Anh bán đi chồng sách quí nuôi em
Cuộc tình hai ta sao cũng buồn quá đỗi

Khu vườn nhà ta sáng nay có nhiều lá mới
Những lá già rã mục tự hôm qua
Trong lòng anh cũng nở một bông hoa
Ðóa hoa chỉ mỗi mình em ngó thấy
Nguyễn Bắc Sơn
tranh Hồ Hữu Thủ