viết để chào mừng cuộc triển lảm
S E V E N D O O R S
tại San José của các thân hữu:
Thomas Chu
Đào Hải Triều Jenny Do Lê Thị Quế Hương Trịnh Mai Nguyễn Trí Minh Quang Trương Thị Thịnh
Ngựa non nào không hấu đá
Trăng già vằng vặc đầu non Cây cọ rớt trong tim đã Rịm màu sắc tím hoàng hôn Nội tàng lửa khuya rực rã Ngoại tàng gió biếc chon von Thế kỷ vén màn vô ngả Ngựa non hí lộng chân bon ![]()
hải phương
|
Friday, June 22, 2012
hải phương * Thất Môn Chi Họa Phẩm
Trần Văn Sơn * Cõi Riêng Trần Kiêu Bạt [1945-2005]
![]() |
tranh Nguyễn Trung |
Trước năm 1975 tôi chưa hề gặp Trần Kiêu Bạt, chỉ biết tên nhau qua thơ văn đăng rải rác trên các tạp chí văn nghệ tại Sàigòn. Bạn quân cảnh Cần Thơ, tôi lính trận đóng quân ở tiền đồn heo hút quận Tánh Linh, Bình Tuy, giáp ranh tỉnh Lâm Đồng. Năm 1972, nhà xuất bản Khai Phá của nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm ấn hành tập thơ Vườn Dĩ Vãng của tôi, có giới thiệu in thơ của Trần Kiêu Bạt. Chờ mãi không thấy, có lẽ bạn tôi đang bận coi tù ở Côn Đảo, cách xa đất liền nên không tiện liên lạc để xúc tiến công việc như dự định.
Cuối tháng 10 năm 1993 gia đình tôi qua Mỹ theo diện H.O. Hà Thúc Sinh đưa TKB đến thăm tôi. Đó lần đầu tiên tôi và Bạt gặp mặt nhau. Nhà hai bạn gần này nhau, cách một con đường ở thành phố Alhambra, nhà tôi thì ở El Monte thuộc quận Los Angeles cách nhau 15 phút lái xe. Từ đó cứ mỗi cuối tuần, nửa tháng hoặc có tiệc vui 3 gia đình bọn tôi họp mặt, bạn bè con cái vui vẻ càng ngày càng thắt chặt thêm tình thân. Khề khà bên ly rượu 3 đứa tôi bàn chuyện thế sự, nhắc chuyện quê nhà, chuyện bạn bè người mất người còn, kẻ lưu lạc xứ người. Những lúc như vậy Phạm Nhã Dự, Trần Phù Thế ở các tiểu bang khác xa tận miền Đông Hoa Kỳ cũng thường gọi điện thoại góp chuyện.
Trần Kiêu Bạt ngâm thơ rất hay, giọng sang sảng cuốn hút người nghe. Khi ngà ngà say yêu cầu mãi anh mới ngâm vài bài thơ đắc ý của bạn. Hành Phương Nam, một tuyệt tác của nhà thơ Nguyễn Bính được bạn ngâm nhiều nhất:
...Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Mà ta với người buồn vậy thay
Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say
Lời thề buổi ấy cầu Tư mã
Mà áo khinh cừu không ai may...
“Mà ta với người buồn vậy thay”. Bạn vừa ngâm vừa nghẹn ngào rơi nước mắt, ngâm xong uống cạn ly bia, ôm đầu gục mặt khóc. Nỗi lòng của bạn, của tôi, của những người tị nạn sống trên đất tạm dung này đều như nhau. Nỗi buồn mất nước. Niềm đau của cả một dân tộc. “Vui là vui gượng kẻo mà”. Vui chỉ thoáng qua còn buồn thì vạn cổ. “Lời thề buổi ấy cầu Tư mã” Biết đâu...sẽ có một ngày...
TKB tính bộc trực, hào sảng, phóng khoáng, dám sống chết với bạn bè. Hà Thúc Sinh thì bệnh hoạn triền miên vì hậu quả của những trận đòn thù trong các trại tù cộng sản. hai khớp xương háng mục rệu được tháp lại bằng hai thanh inox. Anh em văn nghệ tặng anh biệt hiệu là “trung tâm y tế toàn khoa”. Mỗi lần trái gió trở trời, bệnh nặng hay nhẹ, HTS ới lên một tiếng là TKB đến cạo gió, đấm lưng, bóp tay chân... Vợ tôi vốn ốm yếu, nhỏ con, cân nặng chưa đầy 80 pound, qua Mỹ mấy ngày đã lao vào may vá, làm mỗi ngày trên 14 giờ, có khi còn thức trắng đêm. Một vài lần bị xỉu ngay trên bàn máy may. Nhà không có ai, các con đi học, tôi lo sợ cuống cuồng gần như tuyệt vọng, chính TKB đã chạy đến chở vợ tôi đi nhà thương cấp cứu.
Không những chỉ với gia đình tôi, gia đình HTS mà với tất cả mọi người, quen thân hay sơ, nếu cần bạn tôi có mặt ngay, giúp đở tận tình, kể cả tiền bạc. Bạn thường tâm sự với tôi: “mình qua Mỹ trắng tay, nay thêm một lần trắng tay nữa thì có sao đâu”. Con người của TKB là như thế. Tấm lòng nhân hậu của bạn tôi thể hiện qua sự chí thành, chí tình với tha nhân. Cung cách sống ấy khó có ai bì được. HTS thường giục chúng tôi in thơ. TKB ậm ừ cho qua chuyện. Làm sao in thơ được hở bạn hiền? Tôi tù cộng sản 9 năm, ra tù trốn trình diện, sống chui rúc bửa đói bửa no, tìm đường vượt biên. Thân tàn sức kiệt, lo chuyện cơm áo chưa xong thì đầu óc đâu nghĩ đến văn chương chữ nghĩa.. Tôi có làm một số bài thơ, học thuộc và dấu trong đầu. Thơ Tù. Thơ Đời. Thơ cho vợ con, bè bạn. Thơ cho tôi nhìn lại tôi, nghiền ngẫm về người, về đời, về một thời khốn nhục đã qua:
Đã lâu rồi ba không làm thơ nữa
bởi vì ba không nhìn thấy ba đâu
là chiếc bóng bên trời hiu quạnh
ba dật dờ như xác lá nổi trôi
Trong cuộc sống ba không là gì cả
trong gia đình ba là kẻ mộng du
nhìn bốn phía thấy mặt trời mọc khắp
nhưng mặt trời đâu phải của riêng ba
Con đừng hỏi tại sao ba im lặng
có điều gì đáng để nói đâu con
ba đã uống đắng cay trong men rượu
giết đời ba và giết cả đời con
Tình thân, sự gắn bó giữa 3 gia đình tưởng không thể rời xa. Vậy mà sau đó HTS bỏ Cali qua Charlotte với Vũ Uyên Giang, TKB sang Arizona. Mỗi lần ra đi đều có tiệc tiển đưa. Tửu lượng TKB vào hạng cừ khôi, bạn chấp tôi một bạn hai chai bia, HTS thì nhấp nháp cầm chừng. Tivi mới mua. Tủ lạnh mới mua. Sopha mới mua...hai bạn năn nỉ giao cho tôi giữ dùm gọi là để nhớ nhau. Làm sao tôi có thể nhận được? Gần 40 năm thân nhau như anh em ruột thịt, vừa là bạn văn nghệ vừa là tình chiến hữu, tôi nghèo, bạn nghèo, song chúng ta bao giờ cũng bảo vệ cho đến hơi thở cuối cùng danh dự của người lính, khí tiết của kẻ sĩ; dù bị hành hạ, tra tấn trong ngục tù CS hoặc bị nhận chìm dưới đáy địa ngục CS.
Xa nhau chúng tôi vẫn thường xuyên nhận được tin nhau. Một hôm, vào khoảng 4 giờ sáng điện thoại reo vang, bên kia đầu giây Phạm Nhã Dự báo tin động trời:”Trần Kiêu Bạt chết rồi mày biết không, mày có biết không?”. Tôi không tin ở tai mình, hỏi gặng: ”mày nói gì, nói lớn lên, TKB làm sao, làm sao?”. Đúng rồi, bạn tôi, nhà thơ tốt bụng ấy đã chết năm 2005 trong một tai nạn xe cộ vào lúc nửa đêm. Tôi chết điếng người, tự nhiên mệt muốn tắt thở.
HTS lúc đó bệnh nặng, tôi xe cộ không có, lại quá gấp rút nên không có mặt tiễn bạn đến nơi an nghỉ cuối cùng, đành phải gởi vòng hoa phúng điếu.
Năm sau, vợ chồng tôi đi Arizona mang chút quà mừng 2 cháu Đường Thi, Đường Vân ra trường, thắp nén hương, đọc bài thơ tôi khóc TKB:
Khóc Trần Kiêu Bạt
Tin dữ đến bất ngờ - lòng ta đau như cắt -
ba năm không gặp mặt - khoảnh khắc bạn xa đời –
ba năm không gặp mặt - giờ đã thành thiên thu -
Xưa đóng quân Võ Đắt - bạn quân cảnh Cần Thơ -
lính tiền đồn đánh giặc - biết nhau qua văn thơ -
trai giữa thời loạn lạc - sống chết có ai ngờ -
Quê người bạn phất phơ - mười năm còn ngơ ngác -
việc đến cứ bảo chờ - lần khân đầu đã bạc -
cánh buồm xưa rách nát - không ủ gió tương lai* -
Khóc bạn giọt lệ khô - nghẹn ngào câu tử biệt
con dại, vợ bơ vơ - giữa ta bà sinh diệt -
Có. Không. Bạn trở về - cõi riêng Trần Kiêu Bạt.
TVS – El Monte, CA. 2005
* thơ Trần Kiêu Bạt.
và đặt bài thơ trên bàn thờ bạn cùng bài thơ của Trần Phù Thế.
Hơn 3 năm nay, kể từ ngày bạn xa người đời, hình ảnh bạn vẫn còn ẩn hiện trong tâm trí tôi và sẽ còn mãi mãi... Tấm lòng nhân hậu của bạn. Cách thế sống của bạn. Tôi không tin là bạn đã vĩnh viễn ra đi mà bạn đang rong chơi một nơi nào đó an nhiên và thơ mộng hơn: Cõi Riêng Trần Kiêu Bạt.
Trần Văn Sơn
THƠ TRẦN KIÊU BẠT (trích)
Đêm ở Gia định thành đêm cận Tết Ất Mão
trên Nghinh Phong Các của Hà Thúc Sinh: 2/75
gác vắng đêm nay trời trở lạnh
chiếu chăn không ấm được lòng trai
đàn ai trong gió nghe buồn quá
nghe tựa hồ như tiếng thở dài
bạn hiền muốn gọi không đành gọi
độc ẩm như người chiến quốc xưa
cờ đời dang dở đau nghìn kiếp
mộng lớn tan rồi chuyện gió mưa
người xưa sống giữa thời dâu bể
chí lớn hai tay muốn vá trời
hỡi ơi, ta cũng đời dâu bể
sao lòng những tưởng chuyện rong chơi
tự do hề – ngày nay có khác
người xưa đất rộng dưới chân đi
ta nay hề đi không hết bước
quẩn quanh quanh quẩn một góc hè
người xưa hề, giận đi làm loạn
kiếm chém cho tan cái bất bằng (*)
ta nay hề, giận ngồi bó gối
ngó ngày ngó tháng ngó năm tan
cất giọng ngâm tràn câu khí khái
mềm môi không dứt, ý hoang mang
nghìn khuya rồi chỉ mình ta thức
đối ảnh đêm trường một bóng trăng
(* )ý thơ cổ
Những hồn tan nát kia ơi
hãy nhớ rằng ta vẫn sống
có phải đêm nay đông đủ cả
bạn ta những kẻ biết làm thơ
sống thời cô quạnh như đêm tối
mỗi ngày lụn chết một cơn mơ
có phải đêm nay không hẹn trước
vô tình sương gió dạt về đây
những cánh bướm xưa giờ đã rách
không còn giữ được gió tương lai
có phải lở rồi bao mong ước
bạn ta hồn lạnh bấy lâu nay
bạn ta tan nát vì chinh chiến
sống chết cầm như chuyện rũi may
có phải thương thân mà muốn khóc
hỡi ơi đầu bạc tuổi ba mươi
ngày bụi điểm mồ hôi chí lớn
đêm nghe máu nhỏ lịm đời vui
thì hãy cùng nhau mà uống rượu
tưởng người thất chí mùa thu xưa
dù sao hãy nhớ ta còn sống
sá gì dâu bể nắng cùng mưa
giang hồ như lá trong giòng lũ
thì hãy vui lên buổi gặp này
nhớ chăng hảo hán ngàn năm trước
tung chén cười run hơi rượu cay
sương xuống ngoài kia dù có lạnh
bạn ta hãy uống tàn canh thôi
tữu phá thành sầu ai đó nhỉ
hẳn giết bao nhiêu nỗi ngậm ngùi
2/75
Phải người là mộng tình tôi
gặp người trong buổi tà dương
áo bay loáng thoáng mùi hương đã gần
giọng tôi thưa rất ngập ngừng
hỏi rằng có phải mùa xuân đang về
gặp người như thể cơn mê
xuống tôi hồn quạnh bốn bề tịch liêu
lẫn trong sắc chút yêu kiều
ngoài khoe dáng nữ trong chiều thanh tân
gặp người chẳng ngại làm thân
nhìn trong đôi mắt ngỡ gần từ lâu
hồn tôi lâu lắm còn sầu
có thương xin gởi chút màu nhớ nhau.
Tàn cuộc
Chưa tới ba mươi mà đã chín
cả hồn lẫn xác tự hôm nao
khuya nay chút gió về run lá
lá rụng âm thầm một kiếp đau
15/1/75
Người đi là chết cả hồn tôi
gởi theo chút gió làm thương nhớ
người về đầu bãi cuối sông kia
vai nghiêng cho rớt vành trăng lạnh
là chết hồn tôi buổi cách chia
buồn cứ gượng vui mà muốn khóc
mỗi người nay đã mỗi đời riêng
còn đây, yêu dấu bao nhiêu đó
cũng đủ đời tôi đến lặng chìm
ra đi cầm chắc là tan hết
tháng ngày chất chứa tháng ngày đau
quanh đây hương phấn xưa nhiều lắm
mà thấy dường như đã nhạt màu
không đành như thể là vô vọng
lòng người đâu biết được buồn vui
tình yêu sót lại đời tôi đó
dẫu đến tàn hơi cũng ngậm ngùi
dẫu cho mai mốt hay hơn nữa
thuyền về xin đậu bến đò quen
hồn tôi áo trắng kia còn mới
là để chờ mang kích thước em.
ngày giã từ Cần Thơ
hôm đi, không gặp được người
ở nơi đưa tiễn mình tôi rất buồn
khi người về tới bến sông
thuyền tôi đã lướt trên giòng viễn du
hồn khuya phơi ướt sương mù
chờ người đau lắm kể từ hoàng hôn
thôi người ở lại sớm hôm
đường xưa ngọn cỏ như là dáng tôi.
Trần Kiêu Bạt
Thursday, June 21, 2012
KINH DƯƠNG VƯƠNG * Chị Yến
![]() |
tranh Hồ Thành Đức |
Kính tặng Thầy Hà Cẩm Tâm
Thời Pháp thuộc Liên Bang Đông Dương, cha tôi là công chức ngân khố làm việc ở Nam Vang, thủ đô Cao Miên. Tuy làm việc cho Pháp, ông có cảm tình với Việt Minh. Mỗi sáng trước khi đi làm, ông và anh cả tôi vào buồng, đóng kín cửa hát quốc ca, chào cờ đỏ sao vàng. Bị mật thám Pháp theo dõi, biết trước tình thế, nhân lúc có các vụ cáp duồn của người Cao Miên, ông cho mẹ và hai anh em tôi - em gái và tôi - về tá túc nhà ông bà ngoại ở làng Tịnh Thới, huyện Cao Lãnh tỉnh Sa Dec - nay là Đồng Tháp.
Ông bị Pháp bắt. Nhờ hiệp định Sơ Bộ 6/3, ký giữa Việt Minh và Pháp, có điều khoản trao trả tù chính trị, ông được thả, nhưng phải trở về nguyên quán tỉnh Phú Thọ, Tonkin, (Bắc Việt Nam). Trên chuyến tàu lửa Xuyên Việt từ Nam Vang về Tonkin, khi tàu ghé ga Sài gòn, Cochinchine (Nam Việt Nam) ông trốn ở lại, rồi tìm đường về Cao Lãnh với mẹ con tôi. Cao Lãnh lúc ấy còn là vùng thuộc Pháp, Việt Minh gọi là vùng tạm chiếm.
Cha tôi là người Bắc. Lúc ấy, để chia rẽ Bắc-Trung-Nam, Pháp vận động phong trào “bài Bắc”, người Nam nghe ai nói giọng Bắc họ đánh, nên ông không dám hé môi. Muốn mua thức ăn nước uống, ông chỉ ra dấu, như người câm. Ông tìm được đường về với vợ con.
Vẫn giữ tinh thần chống Pháp, ông đưa gia đình vào sống trong vùng tự do - vùng kháng chiến - lúc ấy là Đồng Tháp Mười, thuộc Khu 9 – Long Châu Sa, tức Vĩnh Long, Châu Đốc, SaDec. Gia tài của một gia đình hai vợ chồng ba đứa con chỉ chất đầy một chiếc xuồng. Quan trọng nhất là gạo và mấy lít muối hột. Vào Đồng Tháp Mười, gia đình tôi ghé lại xã Ba Sao. Nhờ một người hảo tâm giúp đỡ, cha tôi cất một vuông nhà bên bờ kinh xán, nửa trên bờ nửa dưới nước, cột kèo bằng tre, lợp đưng - một loại cỏ lác phơi khô – làm nơi trú ngụ và mở quán bán thức ăn sinh sống. Quán có tên là “Đoàn Kết”, cha tôi có hỗn danh là ông Đoàn Kết. Quán rất nổi tiếng. Cán bộ Khu 9 đi công tác qua Ba Sao đường sông, đường bộ đều ghé quán ăn uống, nghỉ ngơi. Những cán bộ là trí thức thành thị thích gặp và nói chuyện với cha tôi - ông phán chống Tây - trong tinh thần đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Chính trên một nền nhà này, cha tôi bốn lần cất lại nhà vì bị quân đội Pháp và lính Việt commando đi ruồng đốt và bom đánh sập. Khi căn nhà cuối cùng bị máy bay bắn cháy, cha tôi không đủ can đảm cất lần thứ năm nữa, ông mua một chiếc ghe có mui sống đời trôi nổi trên kinh rạch. Ba Sao, Mỹ Quí, Mỹ An, Thiên Hộ Dương, Đốc Binh Kiều … Ông sống với bác Bằng - một ông già, trước là người phụ bán quán ăn - quyết tâm theo kháng chiến đến cùng. Gần đến ngày Tổng phản công, máy bay Pháp bắn phá dữ dội. Mẹ tôi, sau nhiều lần cãi vã và bị cha tôi mắng “liếm gót giày thực dân ăn bơ thừa sữa cặn”, bà không chịu nổi cảnh máy bay bắn sớm bắn chiều, rồi đến cả đêm - hồi ấy gọi là “giờ độc lập” - bà đưa chúng tôi ra vùng tạm chiếm ở Cao Lãnh. Lại cũng một chiếc xuồng nhỏ, chờ đêm đến, kín đáo lặng lẽ ra đi trên sông… Chúng tôi bị du kích chặn lại, đòi bắn thả trôi sông. Mẹ tôi năn nỉ, họ để cho đi, nhưng giữ lại gạo và ít thức ăn, một con gà mái đẻ, bảo không được đem tiếp tế cho giặc.
Ba Sao là một xã nhỏ, đường giao thông chủ yếu là con kinh xán đào thông ra sông Tiền Giang - có lẽ là để rửa phèn. Trên bộ là con đường mòn đi theo bờ kinh rộng vài thước, hai bên lề cỏ mọc, mưa xuống đất nhão thành bùn. Ngôi chợ có nhà lồng lợp ngói xi măng, nhưng cuối cùng, sau nhiều lần bị máy bay đánh phá, chỉ còn trơ lại mấy cây cột cháy đen. Mé kinh có cây cầu gỗ bắt xa ra khỏi bờ làm bến cho tàu nhỏ, ghe thuyền đậu. Nước kinh nhiều phèn trong leo lẽo, áo quần giặt lâu ngày đóng vàng. Cá chốt dày đặc. Bỏ xuống một chút đồ ăn chúng bu lại trồi lên khỏi mặt nước. Cá chốt có ba sọc đen, nhỏ con gọi là cá chốt chuột, không ai ăn, chỉ để làm phân trồng cây thuốc lá. Vào mùa cá dại, khi độ phèn cao, cá không sống nổi, chết nổi lềnh bềnh đủ thứ cá. Cá rô, cá trê, cá lóc, cá trèn, cá chạch lấu... tha hồ vớt, ăn không xuể, mẹ tôi tiếc đem làm khô. Đêm trong, cả bầu trời trăng sao in trong lòng kinh. Tôi còn thuộc bài hát “Con kinh xanh xanh những chiều êm ả nước trôi...” Tôi hay ra đứng bên bờ kinh ngắm bầu trời trong nước. Mỗi khi có ghe thương hồ đi qua với giọng hò lơ đối đáp... Bầu trời tan ra, nước rẽ sau ghe để lại một vệt sáng dài.
Xã Ba Sao có một người đàn bà điên người Bắc. Bà xé hết áo quần, trần truồng đi từ đầu trên xuống xóm dưới với dáng đi rất lạ, bước dài, hai tay vung vẩy. Với mái tóc húi cua, răng nhuộm đen, bà nói lảm nhảm, khi cười, khi khóc, la hét suốt ngày. Bà là người đàn bà đầu tiên tôi thấy trong tư thế khoả thân. Đối với tôi, cậu bé tám tuổi, là một sự kiện gây nhiều ấn tượng. Tôi tò mò quan sát cặp vú xệ, núm đen, bộ phận sinh dục lông lơ thơ của bà, hoàn toàn không xúc động, nếu không muốn nói là có một cảm giác rờn rợn.
Chồng bà là một cán bộ thông tin xã. Tôi không biết tên ông, chỉ nghe gọi là “ông cán bộ”. Ông khoảng năm mươi tuổi, tóc hoa râm hớt cao, răng nhuộm đen. Trước đây là phu đồn điền cao su Pháp. Ông mặc áo bà ba vải trắng hiệu “Xe lửa” đã nhuộm bùn non. Lúc nào đến quán cha tôi ông cũng đội chiếc mũ lưỡi trai bộ đội, mang sắc cốt màu vàng ka ki đã cũ. Một hôm ông đến đúng lúc cha tôi đang xẻ bưởi. Trái bưởi to bằng đầu tôi, ông Bảy hàng xóm vừa mới cho. Trong khi cha tôi tách múi bưởi, ông hỏi xin chiếc vỏ. Cha tôi hỏi để làm gì, ông nói ông ăn. Cha tôi hơi ngac nhiên, nhưng đồng ý. Ông bẻ vỏ bưởi, cắn từng miếng, nhai nuốt ngon lành, khen “ngon đáo để”. Ông kể rằng tuổi thơ nhà nghèo, ông không được ăn bưởi. Ông thèm. Khi có ai xẻ bưởi ông xin vỏ để ăn. Lâu dần, vỏ bưởi trở thành một món ăn ngon đối với ông. Tôi nhìn ông ăn bằng cặp mắt hiếu kỳ, có hơi thương hại. Ông vừa nhai, nhìn lại tôi cười hồn nhiên. Loáng cái ông đã ăn sạch chiếc vỏ bưởi to. Cha tôi kín đáo nhìn ông, cố lấy vẻ thản nhiên dấu nỗi cảm động. Cha tôi mời ông ăn bưởi, ông vui vẻ ăn, khen “ngon quá, cực ngon”. Tôi để ý thấy ông không nhai, chỉ cho bưởi vào miệng, hình như trong cổ họng có một súc hút, bưởi trôi tuột vào ngay. “Ngon quá” thì tôi có nghe, nhưng “cực ngon” thì mới nghe lần đầu. Cha tôi và tôi cũng ăn, nhưng tôi thấy cha tôi chỉ ăn lấy lệ, cố tình nhường cho ông. Còn tôi nhìn ông ăn cũng cảm thấy ngon rồi. Ông bỏ hột bưởi xuống bàn nói “làm mồi câu cá tốt lắm đây”. Tôi học ông thêm một chuyện. Ông đã ăn hết luôn trái bưởi. Ông xin một tách trà. Ông uống nhanh, đứng lên vỗ bụng nói “no quá, lâu lắm mới được chén một bữa”. Ông cám ơn rồi ra về. Tôi nhìn theo ông, dáng ông đi chậm chạp, nặng nề. Lúc ấy tôi mới nhớ ra, ông đã ăn tiêu tan một trò chơi của tôi. Tôi hay lấy vỏ bưởi bóp với vôi, vắt lấy nước để đông lại như thạch, chơi trò mua bán.
Ông có một cô con gái khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, tôi gọi là chị Yến. Chị ở một mình làm ruộng trong đồng xa, thỉnh thoảng mới bơi xuồng ra xã bán vài con vịt chị nuôi, lấy tiền đi chợ. Mỗi lần như thế, chị ghé quán cho tôi vài mẫu kẹo đậu phọng làm bằng đường đen. Chị rất thương tôi, tôi cũng thương chị. Chị Yến rất đẹp. Thân hình nẩy nở cân đối. Mặt trái xoan trắng hồng, môi đỏ thắm với hàm răng trắng đều, khi chị cười mắt sáng lấp lánh, cả khuôn mặt chị sáng lên rạng rỡ. Tóc chị hơi hoe vàng - chắc vì dang nắng nhiều - Cha tôi có lần nói đùa xin bố chị cho chị về làm con dâu. Anh cả tôi lớn hơn chị vài tuổi, cùng tên với chị. Chị cười thẹn, đỏ mặt bỏ chạy. Tôi bỗng nhiên cảm thấy buồn buồn.
Chị Yến ở một mình trong căn chòi mà chung quanh chị phải cách xa hàng chục cây số mới có làng xóm. Nhiều ngày, tháng, chị không có ai để nói tiếng người, ngoài vài lời với mấy con vịt chị nuôi. Căn chòi của chị Yến tôi chưa lần nào đến, nhưng tôi hình dung ra được, vì có lần tôi ở với ông ngoại cũng làm ruộng trong đồng xa như chị. Căn chòi được dựng trên một mô đất - thường là gò mối - cao hơn mặt nước chừng bốn năm tấc, bằng mấy thanh tre, lợp đứng. Nhìn xa, căn chòi như nổi trên mặt nước. Trong chòi kê một chiếc giường tre ọp ẹp. Bếp là ba ông táo bằng đất, dụng cụ nấu ăn là vài chiếc nồi đất nung để nấu cơm, kho cá, nấu canh. Phương tiện đi lại duy nhất là một chiếc xuồng nhỏ. Nước cạn chống bằng sào, nước sâu bơi bằng dầm. Đồng Tháp Mười rộng mênh mông, mùa nước trông như biển. Đứng từ trong chòi hay trên xuồng, nhìn ra chung quanh, thấy chân trời vây như một chiếc chén úp. Con người sống heo hút, biệt lập chìm lỉm trong bao la đất trời. Chị Yến sống như thế từ năm này qua năm khác, làm ruộng nuôi gia đình.
Chị Yến còn một đứa em trai, bằng tuổi tôi. Tôi không biết nó tên gì, chỉ nghe mọi người gọi nó là “thằng Cu”. Có lẽ thằng Cu là người bạn đầu tiên của tôi ở Ba Sao. Đầu nó cũng húi cua như mẹ nó - bà điên. Quanh năm suốt tháng nó chỉ mặc một cái áo hở rốn, không thể gọi màu gì, vá miếng này chồng lên miếng khác. Chưa bao giờ tôi thấy nó mặc quần. Tôi hay chơi với nó và thương nó với một chút lòng thương hại. Tôi không biết nhà nó ở đâu, cũng không đi tìm, chỉ gặp khi nó đến nhà tôi hoặc lang thang ngoài đường. Nó là một đứa trẻ cô độc và cả cô đơn nhất thế giới, đối với tôi. Mẹ điên, chị làm ruộng xa, cha cán bộ đi công tác liên miên. Tôi không biết nó lấy gì ăn mà vẫn sống được. Thỉnh thoảng tôi chia với nó miếng kẹo, khúc mía, trái ổi. Khi nó đến mà tôi bận phụ cha tiếp khách, tôi thấy nó ngồi bẹp xuống đất mân mê cu nó, như một trò giải trí buồn tẻ. Một hôm nó rủ tôi ra bờ kinh chơi trò ném thia lia. Sau khi ném mỏi tay, nó bày tôi chơi trò đá cu. Nó đứng hơi ưỡn người, lộn cu nó ra một cách thành thạo - tôi nghĩ nó đã làm nhiều lần - tôi thấy đầu cu nó đỏ hồng, bóng loáng. Nó bảo tôi làm. Tôi cố gắng, nhưng đau quá không chịu nổi. Tôi chưa làm như vậy bao giờ. Cuối cùng nó nói “thôi cũng được” và bước đến gần tôi. Nó quẹt cu nó vào cu tôi. Cu nó cứng, cu tôi mềm. Tôi cảm thấy nhột nhột. Lần đầu tiên một cảm giác lạ rân rân thể xác tôi tiếp nhận.
Một buổi sáng sớm nước kinh lớn, sóng đánh dập dồn. Tôi chuẩn bị chống cửa quán lên đón khách, tôi nghe nhốn nháo tiếng những người đi chợ cột ghe xuồng vào cầu gỗ la lên “thằng chõng, thằng chõng, bà con ơi!” Người ta đổ đến xem. Tôi len lỏi ra tận đầu cầu để nhìn cho rõ. Thằng chõng là xác chết sình căng tròn của một cô gái. Cô còn mặc một chiếc áo bà ba màu đen, nhưng không có quần. Nước lớn, cái xác sình trôi từ trong đồng ra kinh để tìm đường ra sông cái. Thằng chõng kẹt vào giữa hai cột cầu, sóng đánh dập dềnh lên xuống. Người ta lật ngửa thằng chõng lại, nhiều tiếng người la lên cùng lúc: “Con Yến! con Yến!”. “Trời ơi! Con ông cán bộ”. Tôi nhìn kỹ lại thằng chõng, thấy lộ dần ra dáng dấp chị Yến. Tôi ôm mặt khóc rưng rức, bỏ chạy về nhà. Tôi đi tìm thằng Cu, kéo nó ra coi thằng chõng là chị nó, nhưng nó không chịu đi. Nó chỉ đứng xa xa nhìn, mặt nó trơ ra không cảm xúc, nhưng nét mặt nó có một vẻ gì khác lạ, như sự cố gắng chịu đựng. Tôi bỗng thấy nó lớn lên, mặc dù nó vẫn ở truồng. Rồi nó ngoe ngoảy bỏ đi một cách dứt khoát. Tôi muốn chạy theo, nhưng chân tôi không nhúc nhích. Tôi đứng tại chỗ nhìn cái đít tóp không có thịt của nó xa dần.
Giữa lúc người ta đang xôn xao bàn tính vớt thằng chõng lên, bỗng nghe một tiếng hét khản đặc trộn với tiếng khóc vang lên. Từ xa, bà điên trần truồng từ trên bờ lao xuống chiếc cầu gỗ. Người ta dạt ra nhường chỗ cho bà. Cảnh tượng một người đàn bà đầu trọc, trần truồng đứng nhìn chăm chăm vào thằng chõng với đôi mắt khô thất thần, miệng móm, lơ thơ mấy chiếc răng, môi run run phát ra những tiếng ư ử lạ tai, không biết đó có phải là tiếng khóc của một người mẹ điên khóc con hay không? Rồi bất ngờ, bà nhảy xuống nước, ôm chặt thằng chõng, khó khăn lắm người ta mới gỡ được bà ra.
Cha tôi, ông cán bộ và bà con vớt xác chị Yến lên, bó chiếu đem chôn trong gò mả xã Ba Sao.
Khi mọi người đã ra về rồi thằng Cu rủ tôi thăm mả chị nó. Khi đến nơi, chúng tôi thấy bà điên đang ôm nấm mộ mới đất còn ướt, mình mẩy lấm lem. Nó đứng chết trân nhìn cảnh tượng người đàn bà điên là mẹ nó với hai con mắt ráo hoảnh, trong khi người đàn bà điên vật vã, đầu gục gặc, tay vỗ lên nấm mồ đất ướt đồm độp. Hu hu! Hu hu! Bà đã khóc được thành tiếng. “Hu hu”, đã rõ là tiếng khóc của một con người! Bỗng thằng Cu quay lại ôm chặt tôi, úp mặt vào vai tôi khóc rấm rức. Tiếng khóc của nó rất lạ, như một đoạn nhạc có âm điệu đứt quãng, lập đi lập lại. Những tiếng hừ hứ… hừ hứ không thoát ra khỏi cổ họng nó làm cho ruột gan tôi cuộn lên. Bất ngờ, nó xô tôi ra, quay lại, hai tay chắp sau chiếc mông tóp, thong thả bước đi. Tôi nhìn theo nó, thấy nó lớn hẳn lên, không còn là “Thằng Cu” nữa. Bà điên khóc một hồi, bỏ đi. Còn tôi, đứng nhìn nấm mộ, nghĩ rằng từ nay tôi không bao giờ còn thấy chị Yến nữa, chị không về vuốt tóc tôi, cho tôi kẹo nữa. Người ta đã hãm hiếp chị, giết chị, thả xác chị xuống nước. Nghĩ đến cảnh ấy, bụng tôi đau thắt lại.
“Chi Yến.. ơ... ơi! Chị Yến ơ...ơ...ơ...” Tôi gào lên. Tôi muốn gào lên cho trời nghe, đất nghe. Giọng tôi âm vang trong khu gò mả đã đầy bóng tối. Tôi gào lên, nước mắt chảy ràn rụa. “Chị Yến ơ...ơ...ơ... ”
Kinh Dương Vương
Ông bị Pháp bắt. Nhờ hiệp định Sơ Bộ 6/3, ký giữa Việt Minh và Pháp, có điều khoản trao trả tù chính trị, ông được thả, nhưng phải trở về nguyên quán tỉnh Phú Thọ, Tonkin, (Bắc Việt Nam). Trên chuyến tàu lửa Xuyên Việt từ Nam Vang về Tonkin, khi tàu ghé ga Sài gòn, Cochinchine (Nam Việt Nam) ông trốn ở lại, rồi tìm đường về Cao Lãnh với mẹ con tôi. Cao Lãnh lúc ấy còn là vùng thuộc Pháp, Việt Minh gọi là vùng tạm chiếm.
Cha tôi là người Bắc. Lúc ấy, để chia rẽ Bắc-Trung-Nam, Pháp vận động phong trào “bài Bắc”, người Nam nghe ai nói giọng Bắc họ đánh, nên ông không dám hé môi. Muốn mua thức ăn nước uống, ông chỉ ra dấu, như người câm. Ông tìm được đường về với vợ con.
Vẫn giữ tinh thần chống Pháp, ông đưa gia đình vào sống trong vùng tự do - vùng kháng chiến - lúc ấy là Đồng Tháp Mười, thuộc Khu 9 – Long Châu Sa, tức Vĩnh Long, Châu Đốc, SaDec. Gia tài của một gia đình hai vợ chồng ba đứa con chỉ chất đầy một chiếc xuồng. Quan trọng nhất là gạo và mấy lít muối hột. Vào Đồng Tháp Mười, gia đình tôi ghé lại xã Ba Sao. Nhờ một người hảo tâm giúp đỡ, cha tôi cất một vuông nhà bên bờ kinh xán, nửa trên bờ nửa dưới nước, cột kèo bằng tre, lợp đưng - một loại cỏ lác phơi khô – làm nơi trú ngụ và mở quán bán thức ăn sinh sống. Quán có tên là “Đoàn Kết”, cha tôi có hỗn danh là ông Đoàn Kết. Quán rất nổi tiếng. Cán bộ Khu 9 đi công tác qua Ba Sao đường sông, đường bộ đều ghé quán ăn uống, nghỉ ngơi. Những cán bộ là trí thức thành thị thích gặp và nói chuyện với cha tôi - ông phán chống Tây - trong tinh thần đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Chính trên một nền nhà này, cha tôi bốn lần cất lại nhà vì bị quân đội Pháp và lính Việt commando đi ruồng đốt và bom đánh sập. Khi căn nhà cuối cùng bị máy bay bắn cháy, cha tôi không đủ can đảm cất lần thứ năm nữa, ông mua một chiếc ghe có mui sống đời trôi nổi trên kinh rạch. Ba Sao, Mỹ Quí, Mỹ An, Thiên Hộ Dương, Đốc Binh Kiều … Ông sống với bác Bằng - một ông già, trước là người phụ bán quán ăn - quyết tâm theo kháng chiến đến cùng. Gần đến ngày Tổng phản công, máy bay Pháp bắn phá dữ dội. Mẹ tôi, sau nhiều lần cãi vã và bị cha tôi mắng “liếm gót giày thực dân ăn bơ thừa sữa cặn”, bà không chịu nổi cảnh máy bay bắn sớm bắn chiều, rồi đến cả đêm - hồi ấy gọi là “giờ độc lập” - bà đưa chúng tôi ra vùng tạm chiếm ở Cao Lãnh. Lại cũng một chiếc xuồng nhỏ, chờ đêm đến, kín đáo lặng lẽ ra đi trên sông… Chúng tôi bị du kích chặn lại, đòi bắn thả trôi sông. Mẹ tôi năn nỉ, họ để cho đi, nhưng giữ lại gạo và ít thức ăn, một con gà mái đẻ, bảo không được đem tiếp tế cho giặc.
Ba Sao là một xã nhỏ, đường giao thông chủ yếu là con kinh xán đào thông ra sông Tiền Giang - có lẽ là để rửa phèn. Trên bộ là con đường mòn đi theo bờ kinh rộng vài thước, hai bên lề cỏ mọc, mưa xuống đất nhão thành bùn. Ngôi chợ có nhà lồng lợp ngói xi măng, nhưng cuối cùng, sau nhiều lần bị máy bay đánh phá, chỉ còn trơ lại mấy cây cột cháy đen. Mé kinh có cây cầu gỗ bắt xa ra khỏi bờ làm bến cho tàu nhỏ, ghe thuyền đậu. Nước kinh nhiều phèn trong leo lẽo, áo quần giặt lâu ngày đóng vàng. Cá chốt dày đặc. Bỏ xuống một chút đồ ăn chúng bu lại trồi lên khỏi mặt nước. Cá chốt có ba sọc đen, nhỏ con gọi là cá chốt chuột, không ai ăn, chỉ để làm phân trồng cây thuốc lá. Vào mùa cá dại, khi độ phèn cao, cá không sống nổi, chết nổi lềnh bềnh đủ thứ cá. Cá rô, cá trê, cá lóc, cá trèn, cá chạch lấu... tha hồ vớt, ăn không xuể, mẹ tôi tiếc đem làm khô. Đêm trong, cả bầu trời trăng sao in trong lòng kinh. Tôi còn thuộc bài hát “Con kinh xanh xanh những chiều êm ả nước trôi...” Tôi hay ra đứng bên bờ kinh ngắm bầu trời trong nước. Mỗi khi có ghe thương hồ đi qua với giọng hò lơ đối đáp... Bầu trời tan ra, nước rẽ sau ghe để lại một vệt sáng dài.
Xã Ba Sao có một người đàn bà điên người Bắc. Bà xé hết áo quần, trần truồng đi từ đầu trên xuống xóm dưới với dáng đi rất lạ, bước dài, hai tay vung vẩy. Với mái tóc húi cua, răng nhuộm đen, bà nói lảm nhảm, khi cười, khi khóc, la hét suốt ngày. Bà là người đàn bà đầu tiên tôi thấy trong tư thế khoả thân. Đối với tôi, cậu bé tám tuổi, là một sự kiện gây nhiều ấn tượng. Tôi tò mò quan sát cặp vú xệ, núm đen, bộ phận sinh dục lông lơ thơ của bà, hoàn toàn không xúc động, nếu không muốn nói là có một cảm giác rờn rợn.
Chồng bà là một cán bộ thông tin xã. Tôi không biết tên ông, chỉ nghe gọi là “ông cán bộ”. Ông khoảng năm mươi tuổi, tóc hoa râm hớt cao, răng nhuộm đen. Trước đây là phu đồn điền cao su Pháp. Ông mặc áo bà ba vải trắng hiệu “Xe lửa” đã nhuộm bùn non. Lúc nào đến quán cha tôi ông cũng đội chiếc mũ lưỡi trai bộ đội, mang sắc cốt màu vàng ka ki đã cũ. Một hôm ông đến đúng lúc cha tôi đang xẻ bưởi. Trái bưởi to bằng đầu tôi, ông Bảy hàng xóm vừa mới cho. Trong khi cha tôi tách múi bưởi, ông hỏi xin chiếc vỏ. Cha tôi hỏi để làm gì, ông nói ông ăn. Cha tôi hơi ngac nhiên, nhưng đồng ý. Ông bẻ vỏ bưởi, cắn từng miếng, nhai nuốt ngon lành, khen “ngon đáo để”. Ông kể rằng tuổi thơ nhà nghèo, ông không được ăn bưởi. Ông thèm. Khi có ai xẻ bưởi ông xin vỏ để ăn. Lâu dần, vỏ bưởi trở thành một món ăn ngon đối với ông. Tôi nhìn ông ăn bằng cặp mắt hiếu kỳ, có hơi thương hại. Ông vừa nhai, nhìn lại tôi cười hồn nhiên. Loáng cái ông đã ăn sạch chiếc vỏ bưởi to. Cha tôi kín đáo nhìn ông, cố lấy vẻ thản nhiên dấu nỗi cảm động. Cha tôi mời ông ăn bưởi, ông vui vẻ ăn, khen “ngon quá, cực ngon”. Tôi để ý thấy ông không nhai, chỉ cho bưởi vào miệng, hình như trong cổ họng có một súc hút, bưởi trôi tuột vào ngay. “Ngon quá” thì tôi có nghe, nhưng “cực ngon” thì mới nghe lần đầu. Cha tôi và tôi cũng ăn, nhưng tôi thấy cha tôi chỉ ăn lấy lệ, cố tình nhường cho ông. Còn tôi nhìn ông ăn cũng cảm thấy ngon rồi. Ông bỏ hột bưởi xuống bàn nói “làm mồi câu cá tốt lắm đây”. Tôi học ông thêm một chuyện. Ông đã ăn hết luôn trái bưởi. Ông xin một tách trà. Ông uống nhanh, đứng lên vỗ bụng nói “no quá, lâu lắm mới được chén một bữa”. Ông cám ơn rồi ra về. Tôi nhìn theo ông, dáng ông đi chậm chạp, nặng nề. Lúc ấy tôi mới nhớ ra, ông đã ăn tiêu tan một trò chơi của tôi. Tôi hay lấy vỏ bưởi bóp với vôi, vắt lấy nước để đông lại như thạch, chơi trò mua bán.
Ông có một cô con gái khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, tôi gọi là chị Yến. Chị ở một mình làm ruộng trong đồng xa, thỉnh thoảng mới bơi xuồng ra xã bán vài con vịt chị nuôi, lấy tiền đi chợ. Mỗi lần như thế, chị ghé quán cho tôi vài mẫu kẹo đậu phọng làm bằng đường đen. Chị rất thương tôi, tôi cũng thương chị. Chị Yến rất đẹp. Thân hình nẩy nở cân đối. Mặt trái xoan trắng hồng, môi đỏ thắm với hàm răng trắng đều, khi chị cười mắt sáng lấp lánh, cả khuôn mặt chị sáng lên rạng rỡ. Tóc chị hơi hoe vàng - chắc vì dang nắng nhiều - Cha tôi có lần nói đùa xin bố chị cho chị về làm con dâu. Anh cả tôi lớn hơn chị vài tuổi, cùng tên với chị. Chị cười thẹn, đỏ mặt bỏ chạy. Tôi bỗng nhiên cảm thấy buồn buồn.
Chị Yến ở một mình trong căn chòi mà chung quanh chị phải cách xa hàng chục cây số mới có làng xóm. Nhiều ngày, tháng, chị không có ai để nói tiếng người, ngoài vài lời với mấy con vịt chị nuôi. Căn chòi của chị Yến tôi chưa lần nào đến, nhưng tôi hình dung ra được, vì có lần tôi ở với ông ngoại cũng làm ruộng trong đồng xa như chị. Căn chòi được dựng trên một mô đất - thường là gò mối - cao hơn mặt nước chừng bốn năm tấc, bằng mấy thanh tre, lợp đứng. Nhìn xa, căn chòi như nổi trên mặt nước. Trong chòi kê một chiếc giường tre ọp ẹp. Bếp là ba ông táo bằng đất, dụng cụ nấu ăn là vài chiếc nồi đất nung để nấu cơm, kho cá, nấu canh. Phương tiện đi lại duy nhất là một chiếc xuồng nhỏ. Nước cạn chống bằng sào, nước sâu bơi bằng dầm. Đồng Tháp Mười rộng mênh mông, mùa nước trông như biển. Đứng từ trong chòi hay trên xuồng, nhìn ra chung quanh, thấy chân trời vây như một chiếc chén úp. Con người sống heo hút, biệt lập chìm lỉm trong bao la đất trời. Chị Yến sống như thế từ năm này qua năm khác, làm ruộng nuôi gia đình.
Chị Yến còn một đứa em trai, bằng tuổi tôi. Tôi không biết nó tên gì, chỉ nghe mọi người gọi nó là “thằng Cu”. Có lẽ thằng Cu là người bạn đầu tiên của tôi ở Ba Sao. Đầu nó cũng húi cua như mẹ nó - bà điên. Quanh năm suốt tháng nó chỉ mặc một cái áo hở rốn, không thể gọi màu gì, vá miếng này chồng lên miếng khác. Chưa bao giờ tôi thấy nó mặc quần. Tôi hay chơi với nó và thương nó với một chút lòng thương hại. Tôi không biết nhà nó ở đâu, cũng không đi tìm, chỉ gặp khi nó đến nhà tôi hoặc lang thang ngoài đường. Nó là một đứa trẻ cô độc và cả cô đơn nhất thế giới, đối với tôi. Mẹ điên, chị làm ruộng xa, cha cán bộ đi công tác liên miên. Tôi không biết nó lấy gì ăn mà vẫn sống được. Thỉnh thoảng tôi chia với nó miếng kẹo, khúc mía, trái ổi. Khi nó đến mà tôi bận phụ cha tiếp khách, tôi thấy nó ngồi bẹp xuống đất mân mê cu nó, như một trò giải trí buồn tẻ. Một hôm nó rủ tôi ra bờ kinh chơi trò ném thia lia. Sau khi ném mỏi tay, nó bày tôi chơi trò đá cu. Nó đứng hơi ưỡn người, lộn cu nó ra một cách thành thạo - tôi nghĩ nó đã làm nhiều lần - tôi thấy đầu cu nó đỏ hồng, bóng loáng. Nó bảo tôi làm. Tôi cố gắng, nhưng đau quá không chịu nổi. Tôi chưa làm như vậy bao giờ. Cuối cùng nó nói “thôi cũng được” và bước đến gần tôi. Nó quẹt cu nó vào cu tôi. Cu nó cứng, cu tôi mềm. Tôi cảm thấy nhột nhột. Lần đầu tiên một cảm giác lạ rân rân thể xác tôi tiếp nhận.
Một buổi sáng sớm nước kinh lớn, sóng đánh dập dồn. Tôi chuẩn bị chống cửa quán lên đón khách, tôi nghe nhốn nháo tiếng những người đi chợ cột ghe xuồng vào cầu gỗ la lên “thằng chõng, thằng chõng, bà con ơi!” Người ta đổ đến xem. Tôi len lỏi ra tận đầu cầu để nhìn cho rõ. Thằng chõng là xác chết sình căng tròn của một cô gái. Cô còn mặc một chiếc áo bà ba màu đen, nhưng không có quần. Nước lớn, cái xác sình trôi từ trong đồng ra kinh để tìm đường ra sông cái. Thằng chõng kẹt vào giữa hai cột cầu, sóng đánh dập dềnh lên xuống. Người ta lật ngửa thằng chõng lại, nhiều tiếng người la lên cùng lúc: “Con Yến! con Yến!”. “Trời ơi! Con ông cán bộ”. Tôi nhìn kỹ lại thằng chõng, thấy lộ dần ra dáng dấp chị Yến. Tôi ôm mặt khóc rưng rức, bỏ chạy về nhà. Tôi đi tìm thằng Cu, kéo nó ra coi thằng chõng là chị nó, nhưng nó không chịu đi. Nó chỉ đứng xa xa nhìn, mặt nó trơ ra không cảm xúc, nhưng nét mặt nó có một vẻ gì khác lạ, như sự cố gắng chịu đựng. Tôi bỗng thấy nó lớn lên, mặc dù nó vẫn ở truồng. Rồi nó ngoe ngoảy bỏ đi một cách dứt khoát. Tôi muốn chạy theo, nhưng chân tôi không nhúc nhích. Tôi đứng tại chỗ nhìn cái đít tóp không có thịt của nó xa dần.
Giữa lúc người ta đang xôn xao bàn tính vớt thằng chõng lên, bỗng nghe một tiếng hét khản đặc trộn với tiếng khóc vang lên. Từ xa, bà điên trần truồng từ trên bờ lao xuống chiếc cầu gỗ. Người ta dạt ra nhường chỗ cho bà. Cảnh tượng một người đàn bà đầu trọc, trần truồng đứng nhìn chăm chăm vào thằng chõng với đôi mắt khô thất thần, miệng móm, lơ thơ mấy chiếc răng, môi run run phát ra những tiếng ư ử lạ tai, không biết đó có phải là tiếng khóc của một người mẹ điên khóc con hay không? Rồi bất ngờ, bà nhảy xuống nước, ôm chặt thằng chõng, khó khăn lắm người ta mới gỡ được bà ra.
Cha tôi, ông cán bộ và bà con vớt xác chị Yến lên, bó chiếu đem chôn trong gò mả xã Ba Sao.
Khi mọi người đã ra về rồi thằng Cu rủ tôi thăm mả chị nó. Khi đến nơi, chúng tôi thấy bà điên đang ôm nấm mộ mới đất còn ướt, mình mẩy lấm lem. Nó đứng chết trân nhìn cảnh tượng người đàn bà điên là mẹ nó với hai con mắt ráo hoảnh, trong khi người đàn bà điên vật vã, đầu gục gặc, tay vỗ lên nấm mồ đất ướt đồm độp. Hu hu! Hu hu! Bà đã khóc được thành tiếng. “Hu hu”, đã rõ là tiếng khóc của một con người! Bỗng thằng Cu quay lại ôm chặt tôi, úp mặt vào vai tôi khóc rấm rức. Tiếng khóc của nó rất lạ, như một đoạn nhạc có âm điệu đứt quãng, lập đi lập lại. Những tiếng hừ hứ… hừ hứ không thoát ra khỏi cổ họng nó làm cho ruột gan tôi cuộn lên. Bất ngờ, nó xô tôi ra, quay lại, hai tay chắp sau chiếc mông tóp, thong thả bước đi. Tôi nhìn theo nó, thấy nó lớn hẳn lên, không còn là “Thằng Cu” nữa. Bà điên khóc một hồi, bỏ đi. Còn tôi, đứng nhìn nấm mộ, nghĩ rằng từ nay tôi không bao giờ còn thấy chị Yến nữa, chị không về vuốt tóc tôi, cho tôi kẹo nữa. Người ta đã hãm hiếp chị, giết chị, thả xác chị xuống nước. Nghĩ đến cảnh ấy, bụng tôi đau thắt lại.
“Chi Yến.. ơ... ơi! Chị Yến ơ...ơ...ơ...” Tôi gào lên. Tôi muốn gào lên cho trời nghe, đất nghe. Giọng tôi âm vang trong khu gò mả đã đầy bóng tối. Tôi gào lên, nước mắt chảy ràn rụa. “Chị Yến ơ...ơ...ơ... ”
Kinh Dương Vương
Subscribe to:
Posts (Atom)