văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Saturday, September 29, 2012

DU TỬ LÊ * Tô Thùy Yên, một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam



http://www.dutule.com/images/upload/Bang_Huu/ToThuyYen/TTYen-content.jpg

Tô Thùy Yên, theo tôi,  là một trong những nhà thơ của 20 năm văn học miền Nam, có ảnh hưởng rộng, lớn. Cái ảnh hưởng rộng, lớn ông có được, không phải vì ông cùng với Thanh Tâm Tuyền là hai “mũi nhọn xung kích” thổi bùng ngọn lửa thơ tự do ở miền Nam, như một số người ngộ nhận.

Sự thực, cùng với Thanh Tâm Tuyền, những người tận hiến tâm huyết mình, cho mục đích xiển dương thơ tự do ở miền Nam (giới hạn trong phạm vi tạp chí Sáng Tạo,) là Quách Thoại, Trần Dạ Từ, Trần Lê Nguyễn, Đỗ Quý Toàn, Ngọc Dũng, Người Sông Thương (bút hiệu của Nguyễn Sĩ Tế)…chứ không phải là Tô Thùy Yên. Những bài thơ của ông, được yêu thích nhất, cũng không phải là những bài thơ Tự Do mà, lại là thơ vần, điệu. Hoặc những bài ông dung hoà được đặc tính của thơ tự do và thơ cũ (như một số tác giả cùng thời khác đã thành công. Điển hình, như cố thi sĩ Nguyên Sa.)

Duyệt lại hành trình thi ca Tô Thùy Yên, 20 năm văn chương miền Nam, căn cứ trên mấy chục số tạp chí Sáng Tạo, từ bộ cũ đến bộ mới; bên cạnh những bài thơ tự do, Tô Thùy Yên còn có nhiều, khá nhiều, những bài thơ có vần, điệu.  Đôi khi vần, điệu của ông, nơi những bài thơ ấy, còn chặt chẽ hơn cả những thi sĩ thời tiền chiến nữa. Trong thể loại này, Tô Thùy Yên trội, bật nhất là thể thơ 7 chữ.

Bài thơ đầu tiên (?) của Tô Thùy Yên được giới thiệu trên Sáng Tạo, gây tiếng vang lớn và, dư âm của nó, kéo dài nhiều năm sau, là “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” viết tháng 4 năm 1956. Một bài thơ 7 chữ.

Bài thơ này có tất cả 15 câu, toàn vần “au.” Rất chặt chẽ. Bài thơ đó, nguyên văn như sau: 
“Trên cánh đồng hoang thuần một mầu
“Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
“Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
“Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.
“Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
“Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.
“Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
“Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
"Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
“Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
“Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
“Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.
“Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
“Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
“Chấm giữa nền nhung một vết nâu.” (1) 

Tôi nghĩ, có thể vì tính liên tục của cuộc rượt, đuổi giữa con ngựa và, chuyến tàu, nên tác giả đã cố tình không phân đoạn bài thơ của mình (?)
Nếu phân đoạn bài thơ trên với 4 câu cho mỗi khổ thơ, chúng ta sẽ có tất cả 4 khổ, mà khổ thơ chót, chỉ có 3 câu (Như thể đánh dấu sự bỏ cuộc, gục ngã bất ngờ, phút chót của con ngựa?!.)
Dựa trên việc phân đoạn, để sự tìm hiểu bài thơ dễ dàng hơn; ghi nhận đầu tiên của tôi là, Tô Thùy Yên đã dùng âm “trắc” cho chữ cuối cùng của câu thứ hai - - Nhưng không phải để hiệp vần “trắc” với chữ cuối cùng của câu thứ thư - -  Mà, nó chỉ là sự chuyển đổi vị trí. Bởi vì, ông vẫn cho hiệp vần “bằng” của các chữ cuối, ở những câu thứ nhất với các câu thứ ba và, thứ tư.
Nói về thơ 7 chữ, cũng như nói về thơ lục bát, những người có kinh nghiệm với cuộc chơi “chọn vần, lựa chữ,” đều hiểu rằng, ngoài luật định hiệp vần, còn có luật định về nhịp điệu riêng của thể thơ này nữa.

Nhìn lại những nhà thơ tiền chiến, từng được mô tả là thành công với thể thơ 7 chữ, tôi nghĩ, chúng ta có thể nhắc tới Huy Cận, với bài “Tràng giang.”
Khổ thơ thứ nhất của bài “Tràng giang,” nguyên văn như sau: 
“Sóng gợn tràng giang / buồn điệp điệp,
“Con thuyền xuôi mái / nước song song.
“Thuyền về nước lại, / sầu trăm ngả;
 “Củi một cành khô / lạc mấy dòng.” (2)  

Tôi dùng dấu gạch chéo / slash để phân nhịp cho mỗi câu thơ. Kết quả, tất cả 4 câu thơ này, đều có nhịp 4/3.

Bước qua một bài thơ 7 chữ khác, cũng của Huy Cận, ta thấy, chúng cũng có chung một nhịp 4/3 như thế. Như bài “Vạn lý tình.” Cũng đoạn thứ nhất:  
“Người ở bên trời, / ta ở đây;
“chờ mong phương nọ, / ngóng phương nầy.
“Tương tư đôi chốn / tình ngàn dặm,
“Vạn lý sầu lên / núi tiếp mây.” (3) 

Nhịp 4/3 cũng là nhịp của hầu hết những bài thơ 7 chữ của Lưu Trọng Lư. Tôi xin chọn bài 7 chữ của ông, quen thuộc nhất với chúng ta. Bài “Nắng mới”:  
“Mỗi lần nắng mới / hắt bên song,
“Xao xác gà trưa / gáy não nùng;
“Lòng rượi buồn theo / thời dĩ vãng,
“Chập chờn sống lại / những ngày không.” (4)  

Ngay Xuân Diệu (người được coi là luôn có những đổi mới đáng kể về hình thức, cũng như tu từ,) cũng dùng nhịp 4/3 cho thơ 7 chữ của ông: 
“Tôi nhớ Rimbaud / với Verlaine
“Hai chàng thi sĩ / choáng hơi men
“Say thơ xa lạ, / mê tình bạn,
“Khinh rẻ khuôn mòn, / bỏ lối quen.”
(Trích Tình trai.) (5) 

Nhưng Tô Thùy Yên đã cho thơ 7 chữ của ông một nhịp, điệu khác.
Trừ 2 câu đầu, và câu số 10, với nhịp 4/3 - - Tất cả những câu còn lại của bài “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu,” đều ở nhịp 3/4 ở những câu số 3, 4. Nhịp 3/2/2, ở những câu số 5, 9, 11, 13. Hoặc nhịp 2/5, ở những câu số 6, 14. Thậm chí ông còn cho câu số 12 của ông, một nhịp lạ hơn nữa. Đó là nhịp 2/1/4: “Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.”  

Tuy nhiên, bài thơ không chỉ tạo được sự chú ý chỉ bởi nhịp đi mới mẻ của nó!
Sâu xa hơn, theo tôi, lại là những gì nằm sâu, sau phần hình thức này.
Tôi nghĩ, hình ảnh con ngựa rượt, đuổi chuyến tàu, với phông nền là những cánh đồng nối nhau, hút mắt; là một bức tranh sống động vẽ bằng…ngôn ngữ. Sức sống động mạnh mẽ tới độ, chúng cho ta cảm tưởng tác giả đã chụp được một bức ảnh thời gian…Bằng tài năng đặc biệt của mình.

Lại nữa, sự đuối sức, đầu hàng, từ giã cuộc đua của con ngựa, vẫn theo tôi, là một ẩn dụ, nhắc nhở rằng: Ý chí, sức mạnh của con người, dù kiên quyết, lớn lao tới đâu, cũng vẫn bị lưỡi dao hữu hạn, đời người, chém đứt!.!
Nói cách khác, bất lực trước, sau, vẫn là thuộc tính của con người, khi con người phải đối diện với chiều dài thời gian. Vô tận.

Đọc lại bài thơ, một lần nữa, về phương diện nhịp, điệu, tôi chợt có cảm nhận rằng, khi Tô Thùy Yên chọn cho bài 7 chữ này của ông, những nhịp đi gập ghềnh, có dễ ông cũng muốn cho người đọc liên tưởng tới những hơi thở không đều của chuyến tàu, con ngựa trong cuộc rượt. Một cuộc rượt, đuổi với  tốc độ “tàu chạy mau mà qua rất lâu,” hay “tàu chạy mau, tàu chạy rất mau”… dẫn tới   kết quả là những hơi thở “hào hển” hoặc, “cúi đầu”…

Mọi ẩn dụ, liên tưởng mà, bài thơ đem được, đến cho người đọc, theo tôi là những chiếc chìa khoá quý giá, để độc giả được quyền thênh thang bay bổng, phiêu hốt trong đất, trời rất tư, riêng, của bài thơ ấy - - Dù cho (cũng dễ hiểu thôi,) nếu những cảm nhận của độc giả, thường…xa lạ, không ăn nhằm, chẳng liên hệ gì, tới tình, ý (mơ hồ?) của tác giả, khi sáng tác!.
Nhưng, điều đó, cũng chỉ có thể xẩy đến cho những bài thơ hay, đi ra từ những tài thơ lớn. Mà, “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu,” là một thí dụ cụ thể vậy.  

Một nét đặc thù khác trong thơ Tô Thùy Yên là chủ tâm sử dụng khá nhiều ngôn ngữ Nam…rặc. Chủ tâm này rất đáng kể; nếu người đọc nhớ lại rằng, đó là những câu thơ được viết trong khoảng thời gian 1956 tới 1975, trên một diễn đàn cổ suý văn chương…mới. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều ngôn ngữ đặc biệt kia, trong Tô Thùy Yên Thơ Tuyển (TTY/TT) in năm 1995, tại Hoa Kỳ. Như trong bài “Anh hùng tận,” ông viết: 
“Dựng súng trường, cởi nón sắt
“Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều.
“Trọn buổi chiều, ta nhậu nhẹt,
Mồi chẳng bao nhiêu, rượu rất nhiều.
(……)    
Thiệt tình, tên bạn ta không nhớ
“Nhưng mà trông mặt thấy quen quen.”
(……)
“Tiếng hò mời dzô, dzô tở mở,
“Muỗi thuỷ triều chừng cũng giạt ra…”
(Trích TTY/TT.) 

Hay một số chữ trong bài “Mòn gót chân sương nắng tháng năm”:  
“Vụt đuốc đi thầm đến mãn kiếp,
Lèm bèm ú ớ chuyện nhân gian,”
(……)
“Sáng ngày, đời giật mình ngơ ngác,
“Mường tượng đôi ba chuyện bắt quàng.”  
(……)
“Ta lại trồi lên dương thế rộn,
“Ngày ngày ra bãi vắng vời trông…”  
Hoặc: 
“Ra đi như nước ao lền đặc
(Trong bài “Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai,” TTY/TT.) 
“Thế giới làm sàm điếc lác nặng”
(Trong bài “Bất tận nỗi đời hung hãn đó,” TTY/TT.”  

Như đã nói, 7 chữ là đường kiếm lấp lánh nhất, trong cõi thơ Tô Thùy Yên, 20 năm, miền Nam. (Ngay bài thơ nổi tiếng “Ta về” Tô Thùy Yên viết tháng 7 năm 1985, hơn mười năm sau thời điểm vừa kể, cũng là thơ 7 chữ.)

Căn cứ vào tập TTY / TT, do chính tác giả xuất bản, tính riêng số thơ sáng tác trước tháng 4 năm 1975 của ông, có tất cả  21 bài; thì hết 14 bài viết theo thể 7 chữ. Bảy bài còn lại, dành cho tất cả những thể thơ khác.   

Hầu hết thơ 7 chữ của Tô Thùy Yên đều đậm tính “khẩu khí!” Rõ hơn, ông mượn loại thơ này, để bày tỏ tâm sự mình trước thế sự. Cái tâm sự kẻ sĩ ngao ngán, bất mãn trước thời cuộc và, kiếp người. Khi viết loại này, các thi sĩ thường chọn thể loại “Hành.”

Chỉ có thể loại này, mới giúp tác giả hiển lộ tính cảm-thán của mình. Đồng thời, nó cũng dễ gợi, khêu trong tâm hồn người đọc, cái phong vị hoài cổ. Chính vì thế mà, khi chọn thể loại “Hành,” ngoài yếu tố thơ 7 chữ, các tác giả thường xưng “ta với ngươi,” hoặc “ta với người.” Dường như các thi sĩ không bao giờ dùng nhân xưng đại danh tự “tôi!” Có dễ vì nó không thích hợp với phong cách ngang tàng, chán chường, bất cần đời mà, dạng thơ này, cung ứng.   

Nói về những bài “Hành” nổi tiếng từ thời tiền chiến, người ta thường nghĩ Thâm Tâm (6) với “Tống biệt hành;” và Nguyễn Bính (7) với “Hành phương nam.”
“Tống biệt hành” của Thâm Tâm ngắn hơn “Hành phương nam” của Nguyễn Bính. Nhưng bù lại, bài “hành” của Thâm Tâm không dùng một điển tích nào, trong khi Nguyễn Bính thì có.
Bài “Tống biệt hành” của Thâm Tâm có những câu như:  
“Đưa người ta chỉ đưa người ấy
“Một giã gia đình, một dửng dưng...
“- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
“Chí nhớn chưa về, bàn tay không,
“Thì không bao giờ nói trở lại!
“Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.”
(……)
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
“Chị thà coi như là hạt bụi,
“Em thà coi như hơi rượu say.”
(Trích “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân; nhà Văn Học Hà Nội, 1988.)  

Và bài “Hành phương nam’ của Nguyễn Bính, có những câu như:  
“Ngươi ơi buồn lắm mà không khóc
“Mà vẫn cười qua chén rượu này
“Vẫn dám ăn tiêu cho đến hết
“Ngày mai ra sao rồi sẽ hay.
“Ngày mai, có nghĩa gì đâu nhỉ?
“Cốt nhất cười vui trọn tối nay.
“Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
“Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay.
(……)
“Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
“Đã dấy phong yên khắp bốn trời
“Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
“Uống say mà gọi thế nhân ơi!
“Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
“Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
“Dằn chén hất cao đầu cỏ dại
“Hát rằng phương Nam ta với ngươi
“Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề! Ngươi ơi!...”
Nguyễn Bính, Đa kao 1943.
(Theo dactrung.com) 

Qua tới Tô Thùy Yên, tất cả những chữ “ngươi,” được thay thế bằng “bạn”: 
 “Tới đây toàn những tay hào sĩ
“Sống chết không làm thắt ruột gan.
“Cũng không ai nhắc gì thân thế
“Có vợ con mà như độc thân.
“Bạn hỏi thăm ta cho có lệ”
(……)
“Người thuở trước tìm vàng khẩn đất
“Tiêu xác thân, để lại oan hồn
Ngày nay, ta bạn đến đây nữa
“Đất thì không khẩn, vàng không tìm…
“Bạn nhủ ta: đừng hỏi khó
“Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm…” 
(TTY/TT.) 

Đôi khi, nhân vật thứ hai trong những bài “Hành” của Tô Thùy Yên, là kẻ vắng mặt. Kẻ “vắng mặt” ở đây, khi là thiên, địa; lúc là lẽ tử, sinh: 
“Nên ta phó mặc cho trời đất
“Trời đất vô ngôn lại bất nhân.
“Nên ta lẳng lặng đi đi khuất
“Trong lãng quên xanh hút thời gian.
(……)
“Trăng, bạn hiền xưa giờ tái ngộ
“Ta thức đêm nay chơi với trăng,
“Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi
“Quanh mồ ta, trăng phải lang thang.” 
Hay: 
“Những người thuở trước bây giờ lạc
“Trong dã sử nào như bóng mây,
“Trong trí nhớ nào như giọng hát.
“Hỡi ôi, trời đất lạnh tình thay!”
(TTY/TT.) 
Có lần, “nhân vật vắng mặt” kia, được ông mệnh danh là “Hiu Quạnh lớn”:  
“Mùa đông Bắc, gió miên man thổi
“Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
“Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
“Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ…”
(TTY/TT.)  

Ai làm ngơ? Thiên, địa; lẽ tử, sinh hay, tự thân cuộc đời đã vốn là một lãng quên, lớn?   
Về phương diện ngữ pháp, tôi nghĩ, trước Tô Thùy Yên (vẫn với thể thơ 7 chữ,) ít tác giả có những câu thơ như:
“Mưa lâu, trời mốc buồn hôi xưa.
“Con đường đáo nhậm xa như nhớ…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)
Hay:
“Đôi bàn tay vỗ nháng âm thanh.
(……)
“Cỏ cây lưu gió khóc mơ màng…
(……)
“Gió thổi chai người đứng lặng thinh.”
(Trong “Mòn gót chân sương nắng tháng năm,” TTY/TT.)
Hoặc:
“Ta dậy khi gà truyền nhiễm gáy,
“Chân trời rách đỏ vết thương dài.
(……)
“Còn lại chăng chút u hoài mốc.
 (……)
 “Ngọn cây, ô! đã giát hoàng hôn.
(Trong “Hề, ta trở lại căn nhà cỏ,” TTY/TT.)

Tô Thuỳ Yên cũng như nhiều tác giả khác, từ đông qua tây, thường đối diện với những câu hỏi lớn mang tính siêu hình. Khi đề cập tới những vấn đề này, ông cho thấy sự dứt khoát đi tới một cách quyết liệt, không khoan nhượng. Ông không chỉ đặt vấn đề về ý nghĩa rốt ráo của thân phận con người; như con người được sinh ra từ đâu? Để làm gì? Rồi, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Hay sự thực cuối cùng, thảm hại thay, tất cả cũng chỉ là hư không:
“Con chim nhào chết khô trên cửa,
“Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
“Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
“Sao người khai giải chưa về thăm?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)
Hay:
“Ta thấy mặt tinh cầu xếp nếp
“Như lằn nhăn tuổi tác hư không…”
(Trong “Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai,” TTY/TT.)

Với thơ Tô Thùy Yên, tôi không biết có một tương quan hữu cơ nào chăng, giữa con người, sự chết và, Thượng đế:
“Vì bom đạn bất dung,
“Thi thể chẳng ai thâu,
“Nào có chi đáng kể…”
(Trong chiều trên phá tam Giang,” TTY/TT.)
Hay:
“Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
“Thắp trắng thời gian mái tóc em.”
(Trong Goá phụ, TTY/TT.)
Hoặc:
“Ta bằng lòng phận que diêm tắt,
“Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông.
 (Trong “Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,” TTY/TT.)

Chưa kể, ông luôn cho người đọc như tôi, cảm nhận, với ông, chiến tranh cũng là một thứ thuộc tính của nhân loại, kiếp người:
“Tiếp tế khó - đôi lần phải lục
“Trên người bạn gục đạn mươi viên.
“Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
“Trong vết thương người bạn nín rên.
“Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
“Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)
Hoặc:
“Cỏ cây sống chết không ta than.
“Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)

Phải chăng, Tô Thùy Yên chọn lựa sự có mặt của mình, như một đối đầu sống, mái trước Thượng đế; dù có thể ông những hiểu rằng, cách gì, con người, cuối cùng cũng chỉ là một thứ con tin, trong vòng tay gai độc của định mệnh. Ông viết:
“Có đọc thuộc thánh thư,
“Linh hồn tôi vẫn vậy.
“Tôi vẫn không thể lạy
“Dù đứng trước hư vô.
(……)
“Đầu tôi cứng và trơn,
“Thượng đế làm sao ngự?”
(Trong “Thân phận của thi sĩ,” TTY/TT.)

Dù đứng ở góc độ nhân sinh, chủ quan nào, chấp nhận hay, ruồng rẫy tiếng thơ Tô Thùy Yên (8), tôi vẫn trân trọng kính mời quý độc giả, cùng tôi đọc lại bài “Trường sa hành,” của ông - - Mà, theo tôi, là một trong dăm bài Hành hay nhất, của văn học, nghệ thuật miền Nam, 20 năm: 

Trường Sa Hành
Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi. 
Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ. 
Đảo hoang vắng cả hồn ma quỷ.
Thảo mộc thời nguyên thuỷ lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên. 
Bốn trăm hải lý nhớ không tới.
Ta khóc cười như tự bạo hành,
Dập giận vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh. 
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời. 
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Dăm cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi? 
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng,
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh. 
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển.
Vầng khói chim đen thảng thốt quần.
Kinh động đất trời như cháy đảo.
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.  
Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi. 
Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ,
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu. 
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya,
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê. 
Ta nói với từng tinh tú một,
Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng.
Bãi lân tinh thức, âm u sáng.
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.  
Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn. 
Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên. 
Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh. 
San hô mọc tủa thêm cành nhánh.
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai.
Thời gian kết đá mốc u tịch,
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
3-1974.
(Theo TTY/TT.)

Chú thích:
(1)Trích “Tô Thùy Yên / Thơ Tuyển.” Tác giả xuất bản, 1995, Hoa Kỳ. Tr. 13.
(2,) (3,) (4,) (5): Nhà xuất bản Đồng Nai, tủ sách thơ Việt Nam.                 
(6) Nhà thơ Thâm Tâm tên thật Nguyễn Tuấn Trình. Ông sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917, tỉnh Hải Dương; mất ngày 18 tháng 8 năm 1950 ở gần Việt Bắc. 
(7) Nhà thơ Nguyễn Bính, tên thật Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh năm 1918 tại Vụ Bản, tỉnh Nam Định; mất ngày 20 tháng 1 năm 1966 ở nhà một người bạn, thuộc tỉnh Hà Nam.
(8) Tên thật Đinh Thành Tiên, Tô Thùy Yên sinh ngày 20 tháng 10 năm 1938 tại Gia Định. Ông có thơ đăng trên báo Đời Mới (thập niên 1950,) trước khi xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo. Sau 30-4-1975, ông bị nhà cầm quyền CS cầm tù 3 lần; tổng cộng gần 13 năm. Cùng gia đình, Tô Thùy Yên hiện cư ngụ tại thành phố Houston, Texas.

Hà Thúc Sinh * Buồn Quán Nhỏ


Góc đường Las Tunas và Rosemead trong thung lũng San Gabriel có một quán cà phê nhỏ. Tên quán là Hải Ký. Chủ nhân là một cặp vợ chồng người miền Nam. Cả hai tuổi đã ngoại lục tuần. Nghe nói xưa ông chủ là dân giang hồ, giỏi võ. Họ có cô con gái đẹp không dưới hăm lăm. Tên cô là Cẩm Hồng. Sau một thời gian ở Mỹ, Cẩm Hồng có theo chúng bạn học một hai năm ở đại học cộng đồng Pasadena, môn tâm lý hay xã hội gì đó, ông bà Hải Ký không rõ lắm, và cũng không quan tâm đến việc học lẫn thôi học của con. Nhưng từ đó họ hay nói “Con nhỏ cử nhơn nhà tui!”
 
Trước Cẩm Hồng ít ra quán, sau nghỉ học, cô ra thường xuyên và ngồi nơi ghế thu ngân. Cô thường chỉ tủm tỉm với những ông khách tử tế, còn thì ngồi chăm chú đọc sách dưới ngọn đèn nhỏ, giống như đó là nơi cho cô trốn tránh một số phận.
 
Cũng có một thanh niên tên là Huy Cường đôi khi có mặt ngoài quán. Anh ta phải ngoài ba mươi, to lớn, đầu hói sớm, có đôi mắt ngầu ngầu của hạng hảo hán, nhưng khi nói với khách lại có giọng ngọt ngào kiểu một anh kép cải lương đĩ tính. Huy Cường hay gấu ó với Cẩm Hồng sau bếp, kiểu như người anh lớn khó tính với đứa em gái chỉ có vũ khí là sự nín nhịn. Lâu lâu khách nghe thấy sau bếp có tiếng bốp bốp như tiếng bợp tai. Không ai la ó, không ai khóc, cứ như tất cả những người sau bếp đều là hạng quen chịu đựng nhau, giống cánh cửa có gió thì phải dập vào khung cửa, nếu khung cửa mà phản ứng thì hoạ đã có động đất. Mà động đất là hết, là chẳng ai còn hy vọng giữ được nguyên vẹn chút vốn liếng sau cùng.
 
“Cái tình cái nghĩa là trọng chớ. Ngũ quả thì phải mua cho có ý nghĩa, ít ra cũng phải cầu-dừa-đủ-xài-riêng. Mua chi toàn đồ rởm!”
 
Không thấy ông bố lên tiếng, chỉ bà mẹ khẽ nhằn:
“Táo lê nho cam chuối mà mày nói rởm sao Hai? Mày biết trái mãng cầu nhiêu hôn, hơn mười đồng. Trái đu đủ cũng sáu bảy đồng. Xoài trái mùa mắc như quỷ. Còn sầu riêng… Dĩa trái cây xíu xiu mấy chục bạc buôn bán lúc này tao chịu sao thấu!”
“Thì đừng cúng.”
“Thôi mày đi nhậu đi Hai, đi nhậu đi! Mày tưởng mày còn là cậu công tử sao Hai?”
 
Ngày rằm hay cúng quẩy chi đó khách thường nghe thấy Huy Cường mất đi giọng ngọt ngào cố hữu mà trở nên cọc cằn, cự nự mọi người trong bếp.
 
Lại có lúc Huy Cường hằn học vu vơ:
“Về nấu cho miếng cơm chớ! Bộ cây không trái gái không con không là vợ chồng sao? Tui như thằng chết vợ.”
Đến lúc đó Cẩm Hồng mới nói nhỏ:
“Anh mình ên. Anh ở không. Bộ anh tính làm công tử Bạc Liêu mãn đời sao? Tui ra giúp ba má, đói sao anh không ra đây ăn cho rồi, hành tui chi vậy? Bữa nào tui nấu cơm rồi cũng đem đổ.”
 
Lại có mấy tiếng bốp bốp:
“Nói nghe coi, đây quán cà phê hay quán cơm, đồ đĩ ngựa?”
Bấy giờ khách mới biết Cẩm Hồng và Huy Cường là đôi vợ chồng trẻ không hạnh phúc.
 
***
 
Ông Hải Ký rất thương yêu con gái nhưng ông không bênh. Ông tự hiểu ông không có quyền bênh. Thuyền theo lái gái theo chồng. Con ông giờ thuộc nhà khác dù vì hoàn cảnh nó vẫn tiếp tục sống trong nhà ông. Bà cũng vậy. Bà đứt ruột nín nhịn dù Cẩm Hồng là đứa con gái duy nhất còn sót lại sau lần vượt biển lắm tai ương. Họ quý rể không thì không biết, nhưng cách nào đó người ta ngờ ông bà có nợ nần bên con rể điều gì to lớn lắm, mà họ lại là người nghĩa khí, thà chịu đựng đau khổ hơn là mang tiếng phụ ân.
 
Trai gái yêu nhau, lấy nhau, rồi xung đột nhau, chuyện thường; nhưng bước kế tiếp bỏ nhau là ác mộng sau cùng của cặp vợ chồng già. Cho nên ông bà cố chịu đựng người con rể, khổ như chạy đua có sạn trong giày, nhưng đích đến đời họ nào còn bao xa! Mất hết rồi. Xứ người rốt cuộc chỉ còn nhiêu đây. Dù không êm chèo mát mái, ông bà vẫn cố giữ cho con tàu đừng chìm, cho hai đứa nhỏ hiểu rằng người ta khó sống khi không còn nhau.
 
***
 
Dù lắm rầu rĩ nhưng ông bà Hải Ký là người sở hữu sự ngọt ngào pha khôn lanh của người mở quán nhiều kinh nghiệm. Sự ngọt ngào khôn lanh ấy lôi được khách; còn nụ cười ẩn mật của cô gái thì giữ được họ, và khiến những khách thiếu hào hoa chồn tay khi muốn vơ về những đồng tiền lẻ.
 
Ông khách gặp cơn buồn nhưng chán những trà đình tửu điếm ồn ào? Ông sẽ đến quán Hải Ký. Ở đây ông bà chủ biết cách kín đáo giúp ông giải sầu. Họ không có nhiều món đâu, nhưng món lươn um sữa của họ không tệ, nhất là món cánh gà chiên bơ thì thật xuất sắc.
“Cho cái ấm đi!” Đó là mật hiệu.
 
Bà chủ chào khách bằng ánh mắt ấm áp. Bà mời khách ngồi vào chiếc bàn sâu phía trong. Chiếc ấm đem ra. Khách kín đáo rót vào cốc dòng bia vàng lạnh. Mươi phút sau khách đã có thể vừa nhâm nhi món ngon, vừa hưởng chút cảm giác hồi hộp của kẻ ăn vụng thứ khoái khẩu trong một quán nhậu vô phép tắc giữa một nước Mỹ đầy phép tắc.
 
Nhưng chín giờ tối quán nhất định ngưng giúp khách giải sầu. Khách quen lắm, buồn lắm quán mới bấm bụng mở lòng thêm cho đôi ba “cái ấm” với đĩa đậu phọng da cá, hay con mực nướng, coi như thiếp tạ chàng mối ân tình quyến luyến bấy lâu nay.
 
***
 
“Cho cái ấm đi!”
Ít ra cũng hơn hai tháng qua anh thanh niên đã đến với quán vào những giờ muộn màng. Và chỉ thứ bảy chủ nhật. Cẩm Hồng không nhớ rõ dịp nào anh ta đến làm quen với bộ bàn ghế nơi góc quán, chỗ nhìn ra con hẻm trồng nhiều liễu. Cô chỉ nhớ lần cô chú ý đến anh là bữa đó có trăng. Con trăng to và sáng, khi nhú lên khỏi toà cao ốc có rạp hát Edwards Theater, nó như bị lũ bạch đàn cao ngất níu kéo sao đó, khựng lúc lâu, giúp cô cơ hội thấy được bộ mặt anh như tráng một màu buồn phiền kỳ dị. Đó là bộ mặt có râu rậm, mái tóc nghệ sĩ bờm xờm, đôi mắt sâu u hoài như cố nhìn xuống đôi môi thường mím chặt. Trông anh có vẻ lúc nào cũng có một bài toán khó không giải không xong. Cẩm Hồng tìm thấy ở anh một nét đàn ông cô từng gặp đâu đó, có thể giống một anh đánh đàn từng xuất hiện trên truyền hình Việt Nam, mà cũng có thể trong một giấc mơ. Đã có lúc cô muốn tháo bỏ khỏi vách mấy tấm tranh in hình hiệp sĩ Nhật Bổn. Họ là những thần tượng của ba cô từ trẻ. Ông hay nói: “Lũ hói đó chỉ có tiến lên để sống hùng hoặc chết hùng. Tụi nó không bỏ chạy.” Nhưng giờ thì cô ghét những cái đầu hói, ghét quá trời.
 
Nhớ lần đầu má cô có lưỡng lự khi tiếp ông khách này. Bà bảo khẽ lúc này bọn cảnh sát cộng đồng đóng vai cớm chìm nhiều lắm. Rồi anh nói gì đó với bà và được toại nguyện. Một cái ấm và một đĩa đậu phọng rang.
 
Thường anh ngồi cả tiếng, tiêu chuẩn nhâm nhi đúng hai ấm, rồi đứng lên, tuồng như không bao giờ có ý biến mình thành người khách sau cùng. Anh giằn tiền dưới ấm, tờ mười đô, rồi lẳng lặng ra về.
 
Má cô nói: “Thiệt kỳ, chả không khi nào chịu chờ thối tiền nghe.” Nhưng nhờ đó anh nhanh chóng biến thành đối tượng quan tâm đặc biệt của bà, đến nỗi có lần phá lệ bà hỏi anh muốn ăn chi không. Anh chỉ nhẹ lắc đầu, giọng lạnh lùng: “Ăn rồi bà chủ!”
 
Ông Hải Ký có lần nói đùa: “Chắc phá sản hay hèn ra cũng mới thất nghiệp.” Nhưng Huy Cường không đồng ý, anh nói: “Tui sợ là giả mới chết vợ. Ai chớ tui...” Bà Hải Ký kín đáo nhìn con rể. Huy Cường thôi nói nhưng đó là lúc hiếm hoi anh nhìn vợ bằng đôi mắt dịu dàng.
 
***
 
Hai năm sau quán cà phê Hải Ký vẫn còn, nhưng khách hết đông như trước. Hoạ vô đơn chí. Sau lần vợ chồng xô xát nhau, Cẩm Hồng bỏ nhà đi không lâu thì Huy Cường tử nạn xe hơi. Xe Huy Cường lao xuống đèo siêu lộ 118 vào một chiều Thu. Đám cháy làm đen một khoảng cỏ vàng rộng lớn. Đống sắt vụn không để lại mấu chốt cho sở cảnh sát: Y say rượu, say ma tuý, y tự tử hay xe bị trục trặc dầu nhớt thắng lái?
 
Đôi khi bà Hải Ký thở dài: “Ghe ba má nó, tiền ba má nó, cái gì cũng của ba má nó; mình kiếp nào mới trả nổi?” Không hiểu sao lời than thở ấy làm được người đằm tính như ông Hải Ký phát nổi giận. Nhưng ông không nói gì hết, giống như ông muốn cơn giận sẽ là ngọn lửa chỉ để thiêu đốt âm thầm lòng ông, cho ông có dịp tạ lỗi với người bạn tri kỷ đầy tình nghĩa giang hồ.
 
Mười năm rồi ông không nhận được thư bạn. Hay đã vượt chuyến sau mang hoạ cả nhà? Nhưng ông vẫn nhớ lá thư đầu bạn gửi từ quê hương. Bạn viết: “Giữ thằng nhỏ giùm tui, cứ coi như mình là sui rồi đó.” Ông lại nhớ đến thư con gái ông để lại. Cẩm Hồng viết: “Đừng phi báo chi hết nghen ba má. Con chỉ đi xa một thời gian thôi. Đừng nghĩ con giận ai đâu nha. Có điều những con tàu chìm không cứu được nhau.” Nó viết chi kiêu kỳ quá, vợ chồng ông không hiểu được thấu đáo. Ông bà nghĩ con nhỏ đọc riết ngộ sách. Nhưng lá thư vẫn là bằng chứng cho ông bà yên tâm. Họ biết đâu đó con gái họ còn sống.
 
***
 
Bà chủ quán mừng rỡ gặp lại người khách cũ. Anh ta vẫn lặng lẽ như hai năm trước, duy có vẻ buồn hơn, xơ xác hơn và dường như cũng khó tính hơn. Anh nốc một hơi bia, đặt ly xuống, đôi môi vẫn mím. Một lát anh nói thật khẽ với chiếc ly:
 
“Con Lan đã sạch nợ đời, bắt chi cái thằng Điệp đứng giựt dây chuông hoài bà chủ!”
Anh đề nghị bà tắt đi bản vọng cổ. Rồi anh lại uống, uống tiếp hoài, uống cho tới khi anh biến thành người khách cuối cùng.
 
Ông Hải Ký mấy lần sửa soạn đóng cửa, nhưng nể khách quen lâu ngày gặp lại, ông đành rót cho ông một ly, bày thêm mấy miếng khô cá thiều trước sự nóng lòng của bà vợ.
Ông nốc một hơi, khà một tiếng:
“Lâu quá chú em không tới chơi, dễ hai năm rồi à nha.”
“Tôi đi làm ăn xa, ông chủ.”
“Hên chớ?”
“Dạ là sao?”
“Thì may mắn, cái chi cũng có thêm vô.”
“Ồ, vậy tôi chỉ mất thêm ra, mất ráo trọi. Mà ông chủ...”
“Gì chú?”
“Hỏi thiệt ông chủ... người ta sống nổi không nếu người ta đã mất ráo trọi?”
 
Ông Hải Ký rờ rờ chiếc cằm có nhiều cọng râu bạc, mắt lim dim:
“À à... khó đa. Nhưng chắc nổi khi người ta chưa biết chắc đã mất ráo trọi.” Ông đột ngột nhìn khách, dò xét: “Mà chú hỏi chi vậy?”
Anh thanh niên chỉ cười ngặt nghẽo, làm thêm ngụm bia, khẽ hỏi:
“Tôi nghe nói anh con rể ông chủ chết rồi?”
Bà Hải Ký thở dài:
“Nó bị tai nạn xe.”
 
Anh nhìn cả hai vợ chồng, giọng bất ngờ khó hiểu:
“Hay giả là kẻ đã biết chắc giả mất ráo trọi?”
Ông Hải Ký bối rối; còn bà vợ thì không muốn dây vào câu chuyện bà thấy khó hiểu, thấy kỳ cục. Bà nhìn ra trời khuya, nói đại:
“Chú say rồi đó. Về ngủ đi!”
 
Người thanh niên giờ mới trợn đôi mắt lên. Bộ râu rậm máy động. Nhưng anh không nhìn ông bà chủ quán nữa mà nhìn lên con trăng chênh chếch trên toà cao ốc, lẩm bẩm lập lại:
“Hay giả đã biết chắc giả mất ráo trọi?”
Bà vợ nói với chồng thay vì với khách:
“Ngưng uống nghe ông. Tui đóng cửa ạ!”
 
Anh thanh niên không đợi bị đuổi. Như bao giờ, anh móc tờ mười đô dằn dưới chiếc ấm. Anh xốc lại áo. Nhưng hơi khác xưa, lần này anh ra trước quầy, đứng nhìn đăm nụ cười ẩn mật của cô gái trong ảnh lúc lâu, rồi mới lặng lẽ kéo cao cổ áo, lặng lẽ bước ra.
 
Cơn gió đêm thổi những cành liễu rào rào. Mấy lon bia không của đám vô gia cư lăn leng keng trên hè phố đêm. Ông bà chủ quán nhìn theo anh thanh niên lắc đầu ái ngại. Họ đều tính hỏi lẫn nhau “Hay chú ấy đã thương thầm con Cẩm Hồng?”
 
Khi đóng cửa, ông bà Hải Ký còn thấy anh đứng ngắm con trăng nơi góc đường vắng người.
 
Ông nói khẽ với bà:
“Ở đây riết điên hết. Chú ấy chắc điên. Mà khi nãy tôi nói vậy đúng hay sai bà?”
“Ông nói gì?”
“Người ta sống nổi khi chưa biết chắc đã mất ráo trọi.”
Bà vợ khó chịu:
“Nghĩa là sao?”
“Nghĩa là người ta sẽ chết khi đã biết chắc mình mất ráo trọi!”
 
Câu chuyện nãy giờ khiến bà Hải Ký vừa bực lại vừa rối trí, nhưng chắc là bà đã thấy mọi việc chẳng có gì quan trọng nếu như đúng lúc đó bà đừng bồn chồn nghĩ tới đứa con gái thân thương vắng nhà.

Hà Thúc Sinh

Friday, September 28, 2012

Văn Quang * Từ chức khó lắm chứ!




Tưởng như nó ở giữa tính liêm sỉ và không liêm sỉ, nhưng thật ra ai cũng hiểu nó là một. Vậy thì tốt nhất hãy nhìn lại mình, can đảm từ chức nếu thấy nó cần thiết cho lương tâm thanh thản”.
Bỏ phiếu tín nhiệm “các quan” và “văn hóa” từ chức là đề tài nóng đang được nhiều người dân Việt Nam quan tâm. Chuyện râm ran từ ông “trí thức thành thị” nhanh chóng lan đến những “khách cà phê” ở những quán trung bình và những công tư chức lúc rảnh việc. Đây là một đề tài không mới đối với thế giới “các quan” trên thế giới, nhưng ở Việt Nam lại là một nét mới trong sinh hoạt chính trị, có ảnh hưởng lớn trong đời sống bình thường của người dân mỗi khi nhìn lên tư cách, đạo đức, tài năng của những vị đang trực tiếp chi phối cuộc sống của mình về mọi mặt.

Một đề tài cũ nhưng… rất mới đối với người dân Việt Nam
Trong những ngày gần đây, đề tài này đã được nhắc tới khá nhiều trong cuộc họp của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội Việt Nam khi bàn về “Đề án quy trình, thủ tục, cách thức thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc Hội, Hội Đồng Nhân Dân bầu hoặc phê chuẩn”.
Thực ra, “đề án” trên không hề đề cập việc bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm mà chỉ là một quy trình lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc Hội, Hội Đồng Nhân Dân bầu hoặc phê chuẩn. Nói cách khác, đây chỉ là một tiền đề (trong trường hợp tín nhiệm thấp) để đi tới quyết định tiếp theo là bỏ phiếu quyết định xem người đó có được tiếp tục giữ chức vụ đã được bầu hoặc phê chuẩn hay không.
Tuy nhiên, theo nhiều ủy viên trong Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội, việc lấy phiếu tín nhiệm sẽ là “cơ hội” cho các cán bộ lãnh đạo không đạt được tỉ lệ tín nhiệm cần thiết thể hiện “văn hóa từ chức” trước khi bị đưa ra bỏ phiếu bất tín nhiệm.
Đó chính là mấu chốt của vấn đề được người dân theo dõi, bởi cái vụ tín nhiệm hay không tín nhiệm, những “quan chức” đang làm việc nước hầu như chưa ai đặt ra bao giờ. Dù cho đó là một trong những hình thức dân chủ, được quyền “xâm phạm” tới tài năng đức độ của người đang có chức có quyền, tức là các “quan chức”. (Ở đây gọi chung là “cán bộ”). Một vấn đề trở nên rất mới đối với người dân Việt.

Quan bất tài vô dụng cũng cứ ngồi yên vị
Bởi từ trước đến nay, “cán bộ” giữ chức vụ do Quốc Hội, Hội Đồng Nhân Dân bầu hoặc phê chuẩn là coi như yên vị. Cho dù người đó làm việc tốt hay không, hiệu quả hay không, thậm chí gây hậu quả xấu thì vẫn kéo dài chức vụ cho đến hết nhiệm kỳ, thậm chí trúng tiếp nhiệm kỳ sau. Có những người giữ chức vụ quan trọng, nhưng tài ít đức mỏng, không hoàn thành trách nhiệm, nhưng không có cơ chế để bãi miễn. Nói rõ hơn là không có luật lệ, không có quy định nào tước cái chức vị của ông cán bộ đã được bầu đó. Bởi các ông ấy được “nhân dân” bầu chứ không phải cho “thủ trưởng” cơ quan hoặc cấp trên chỉ định. Hai chữ “nhân dân” gắn trên ngực áo ông lúc này có một quyền lực như bất khả xâm phạm.
Cho nên, những vụ được gọi là tiêu cực, là tham nhũng, hống hách, chèn ép… ở các ngành, các địa phương trong nhiều năm qua cho thấy nguyên nhân chính là do cán bộ lãnh đạo yếu kém, người dân biết rõ điều đó nhưng phải chấp nhận các ông quan bất tài vô dụng.

Mở đường cho “văn hóa từ chức”
Có ý kiến cho rằng bỏ phiếu bất tín nhiệm là mở đường cho “văn hóa từ chức”, nói khác đi là mở một lối thoát danh dự cho các quan chức yếu kém tự xin “về vườn”. Cần phải phát huy tinh thần từ chức để nó là chuyện bình thường trong đời sống như các nước khác trên thế giới.
Hãy nhìn lại, chuyện từ chức ở Việt Nam, nhất là với các chức vụ lãnh đạo cao, vốn rất hiếm hoi. Trong vài chục năm qua, mới có 2 trường hợp từ chức là Bộ Trưởng Nông Nghiệp - Phát Triển Nông Thôn Lê Huy Ngọ từ chức tháng 4-2004 do vụ Lã Thị Kim Oanh và Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải Đào Đình Bình từ chức tháng 4-2006 sau hàng loạt vụ bê bối như đổ tàu E1, công trình hầm chui Văn Thánh phẩm chất kém và đặc biệt là vụ tham nhũng quá lớn PMU18.
Việc từ chức quả thật là quá hiếm ở Việt Nam cho dù thời gian qua đã xảy ra nhiều vụ làm thất thoát tài sản quốc gia “động trời” làm chấn động dư luận. Bên cạnh các nguyên nhân như văn hóa từ chức, lòng tự trọng của cán bộ…, còn do nguyên nhân không kém phần quan trọng là cơ chế “tập thể chỉ huy” chồng chéo nên nhiều khi trách nhiệm cũng lại đổ cho “tập thể”, không rõ ràng, cứ như không có cá nhân nào chịu trách nhiệm nên không đổ tội cho đích danh quan nào được.
Theo dõi các phiên chất vấn tại Quốc Hội Việt Nam về các vụ thất thoát kinh hoàng xảy ra tại Vinashin hay Vinalines, có thể thấy rất rõ điều này.
Mặt khác, người dân không có quyền bỏ phiếu tín nhiệm các “cán bộ lãnh đạo”, nhưng dân biết rất rõ ông nào liêm khiết, ông nào tham nhũng, ông nào vì dân vì nước, ông nào vì bản thân và gia đình. Không qua mặt được nhân dân đâu. Do đó, lá phiếu tín nhiệm phải thể hiện được lòng dân.

Bỏ phiếu tín nhiệm cũng khó lắm
Phải quan niệm rõ ràng, hành vi từ chức là hành vi văn hóa, thể hiện lòng tự trọng của con người. Tín nhiệm thấp, làm không được việc mà cứ khư khư bám lấy cái ghế để cho dân chúng khinh thường thì làm người bình thường còn chưa xứng đáng huống nữa làm quan to.
Cho nên bỏ phiếu tín nhiệm hay không tín nhiệm thì người bỏ phiếu phải công tâm, có bản lãnh, trung thực thì lá phiếu mới có giá trị thực chất, còn xuê xoa cho qua hay phe cánh nâng đỡ nhau thì mục đích ban đầu của bỏ phiếu tín nhiệm sẽ là vô ích.
Mời bạn đọc ý kiến dưới đây của một người dân trên báo Dân Trí ngày 17-9:
Bạn Nguyễn Bá Thành Đạtviết: “Bỏ phiếu tín nhiệm nếu minh bạch, công khai, công bằng thì tốt nhưng ở nước ta lâu nay vấn nạn chạy chức, chạy quyền; ê kíp, bao che thấy rõ. Cấp dưới mang ơn cấp trên do cơ chế bổ nhiệm kiểu đề cử từ một số người. Trong các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan công quyền, tình trạng con ông, cháu cha và bạn bè thân hữu luôn chiếm số đông.
Làm gì có chuyện con, cháu bỏ phiếu bất tín nhiệm cha, ông, chú, bác, cô, dì nhà mình, phải không bạn? Càng không thể có chuyện cùng ê kíp, cùng ăn chia hoặc anh tuyên dương tôi, tôi đề cao thành tích của anh lại hất cẳng nhau bằng phiếu bất tín nhiệm. Nguy hại nhất là ở chỗ sẽ có không ít người, thậm chí là cả một nhóm người lợi dụng việc bỏ phiếu để hè nhau gạt bỏ những người có đạo đức, có năng lực ra khỏi bộ máy để dễ bề thao túng. Những anh thẳng thắn trung thực thường nói thẳng, đôi khi lại có cái vẻ ngang ngang, bởi anh ta không sợ sự thật nên nhiều người vừa sợ vừa ghét. Đó là thực tế bởi người trung thực, liêm chính không nhiều; người lừng khừng, ba phải không ít; nếu hè nhau bỏ phiếu thì... đó là một tai nạn lớn cho dân. Cho nên bỏ phiếu bất tín nhiệm khó lắm chứ, không phải là chuyện giản dị.
Từ chức và bị bãi miễn là hai vấn đề khác nhau. Một đằng là sự tự nguyện bởi lòng tự trọng hay nói cho đúng là phải có văn hóa xấu hổ mới có văn hóa từ chức. Một đằng là bị buộc phải rời bỏ chức vụ, hay nói cho đúng bị sa thải, bị bãi miễn. Nếu đã bị bỏ phiếu bất tín nhiệm rồi mới từ chức thì chẳng khác nào nhận được một ân huệ giảm khinh sau khi phạm tội. Cũng chẳng vinh dự gì. Tưởng như nó ở giữa tính liêm sỉ và không liêm sỉ, nhưng thật ra ai cũng hiểu nó là một. Vậy thì tốt nhất hãy nhìn lại mình, can đảm từ chức nếu thấy nó cần thiết cho lương tâm thanh thản”.

Từ chức có khó không?
Có bạn trẻ nói khôi hài rằng làm cái đơn xin từ chức là xong, ngại là ngại có dám đưa ra công khai không mà thôi. Chỉ sợ làm cái đơn rồi cứ thập thò để trong ngăn bàn, chẳng bao giờ dám đưa cho ai đọc. Thật ra bạn trẻ đó thừa biết sự từ chức ở Việt Nam khó hơn thế rất nhiều. Không phải vì sợ cấp trên và bạn “đồng liêu” quá yêu, quá tín nhiệm mà cố níu giữ anh lại theo cái kiểu “chỉ có anh mới xứng đáng ở chức vụ này, anh khác nhảy vào là hỏng việc ngay, chẳng anh nào xứng đáng đâu”. Ít có ông nào tự tin đến “khùng” quá như thế. Thật ra không dám từ chức vì lo ngại những dây mơ rễ má quấn quanh mình.
Trước hết là sợ kẻ thù. Từ khi anh nhậm chức đến nay, không thể tránh khỏi có những kẻ thù trước mặt và nguy hiểm hơn là kẻ thù sau lưng. Có kẻ thù “chính đáng” vì bất đồng quan điểm và cũng có cả những kẻ thù vì ghen ghét đố kỵ, dù anh có tài. Và đó là loại anh có thể liệt vào loại tiểu nhân, nhưng loại này mới thực sự nguy hiểm cho anh. Chúng sẽ nhân cơ hội này trả thù anh, triệt hạ anh bằng mọi cách. Rất có thể có những sự việc từ lâu anh đã quên, nhưng chúng nó nhớ. Bây giờ chúng mới “móc” ra, tấn công anh. Anh sẽ không thể “hạ cánh an toàn” như ý muốn. Đấy là chưa kể đến những ông bạn “cuốn theo chiều gió”, ôm chân sếp mới, nó đá giò lái anh gẫy xương.
Thứ hai là cả một “bộ sậu” vẫn trung thành đứng sau lưng anh, làm ăn, kiếm chác đều dựa vào cái chức cái quyền hành của anh. Họ hàng hang hốc nhà anh, nào con nào cháu, nào ông chú bà dì, người làng người xã, bạn bè gần xa… cũng sẽ chịu chung ảnh hưởng tai hại vì cái sự từ chức của anh. Anh có thể mất hết cơ nghiệp vì sự từ chức… dại dột này. Cái sự “hy sinh đời bố, củng cố đời con” chưa chắc đã thực hiện được. Có khi con cũng vạ lây.
Thứ ba là những thói quen ăn chơi sa đọa, bán trời không mời Thiên Lôi, những nhà hàng “miễn phí” đối với anh, nơi nào anh đặt chân tới cũng được nghênh tiếp trịnh trọng, tiệc chiêu đãi ăn hoài không hết, bây giờ anh không chức không quyền sẽ cảm thấy “hoang vắng”. Rồi những ông bà hàng xóm vẫn thấy anh chễm chệ xe hơi biển xanh, lính lác chạy lao nhao quanh nhà, họ sẽ nhìn anh và vợ con anh ra sao sau khi anh từ chức, nhà anh vắng hoe, chả ma nào thèm ngó tới.
Bằng ấy thứ bao vây quanh cái sự từ chức của anh. Nên phải nói thẳng ra là ở Việt Nam từ chức khó lắm, “tế nhị” lắm, gian nan lắm chứ không dễ đâu các bạn ạ.
Nhìn rõ thực trạng ấy, bạn Nguyễn Như Ý vừa có nhận định trên báo Dân Trí ngày 19-09-2012:
- “Việt Nam mà, làm gì có văn hóa từ chức, từ TW (trung ương) đến địa phương. Ngồi mà giữ ghế để hưởng bổng lộc mà, tôi thấy thất vọng... Không những vấn đề này mà còn nhiều việc khác như Vinasin, Vinaline, dầu khí, EVN. Nói thật, tôi rất lo sợ khi niềm tin không còn”.
- Bạn Nhat Vietcó nhận định mỉa mai: “Mình thấy ở Việt Nam là sướng nhất, an toàn nhất trên thế giới. Ở nước ngoài khi làm không được thì người ta thấy có lỗi với nhân dân, tự xin thôi chức. Ở Việt Nam thì khi làm không được thì chỉ biết rút kinh nghiệm, khiển trách để lần sau em sửa sai.
Chứ các bác không thấy sao: khi làm ở huyện không được thì xem xét rút kinh nghiệm để về tỉnh về thành phố làm tốt hơn. Chán thật!!!”.

Lại đến chuyện kiểm điểm nghiêm túc
Còn nếu không từ chức thì bài thuốc “kiểm điểm nghiêm túc” là phương thuốc “chữa cháy” rất hiệu quả. Nghe mãi trên truyền hình, đọc mãi trên báo chí, người dân Việt đến phát ốm vì những điệp khúc cũ mèm này. Cứ có họp hành, có phê bình “kiểm thảo” là có bài ca con cá “kiểm điểm nghiêm túc”. Nó thường được mở đầu bằng những hàng rào chắn rất kỹ, trước hết kể lể thành tích “công tác đã đạt được những kết quả tốt đẹp rất khả quan nhưng bên cạnh đó vẫn còn những yếu kém tồn tại. Hội nghị đã nghiêm túc kiểm điểm, nhận… thiếu sót và kiên quyết khắc phục”. Dù cho tội lỗi có tầy đình cũng “huề cả làng”.
Cụ thể, việc gần đây nhất, vụ di sản văn hóa quốc gia nổi tiếng chùa Trăm Gian thời Lý (xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP. Hà Nội) đang lâm vào thảm họa.

Người ta thản nhiên phá dỡ di tích lịch sử tan tành
Chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm hay còn gọi là chùa Tiên Lữ), một di sản văn hóa độc đáo được lập từ đờiLý Cao Tông, niên hiệu Trinh Phù thứ 10 - năm1185đã vĩnh viễn bị phá hủy.Xin tạm liệt kê vài thành tích phá di tích lịch sử chùa Trăm Gian:
- Gác khánh thâm nghiêm, cổ kính, quyến rũ, vững chãi như thế này. Vì sao họ đập ra để làm mới toàn bộ?
- Người ta dỡ trắng, như kiểu “giải phóng mặt bằng” cả nhà tổ, gác khánh, bỏ toàn bộ cấu trúc cũ, mua gỗ mới, đổ bê tông nền, lát đá - gạch mới toanh, dựng lên một di tích mới
- Khu nhà tổ rộng mênh mông giờ bị dỡ toàn bộ. Nền bị bóc lên, khoét sâu xuống, đổ bê-tông vĩnh cửu. Các cấu kiện bị dỡ xuống vứt chỏng kềnh, thay mới toàn bộ. Tượng bị khênh đi nơi khác. 100% gỗ mới, xi-măng, gạch ngói mới, xây lại cái nhà tổ theo đúng nghĩa đen.
Và, đau thương thay, gác Khánh là một di tích cổ kính tuyệt mỹ từng làm nao lòng bao người, cũng đã bị “giải phóng mặt bằng tuyệt đối” y như vậy.
Đường dẫn lên chùa, dãy cầu thang đá cao vút, rêu phong, người thợ xưa đẽo thủ công vững như bàn thạch. Đang tốt thế, người ta cho thợ vào dùng búa đập vỡ tan tành, mua đá mới xẻ bằng máy trắng phau lát vào. Đá cũ ném ngổn ngang trước cửa chùa…
- Toàn bộ cấu kiện gỗ, ngói lợp và chân tảng cũ của nhà Tổ và gác Khánh - những vật liệu đã làm nên một tác phẩm kiến trúc ngàn năm tuổi - bị chất đống phía sau chùa. Bậc cấp lên sân tiền đường được thay mới bằng đá xanh...
- Người dân vô tư hè nhau leo tuốt lên mái ngói, tha hồ bóc dỡ mang về… xây chuồng heo.

Cơ quan văn hóa không biết, không nghe, không thấy
Một ngôi chùa với hàng trăm gian, nằm ở khu dân cư đông đúc, cách trụ sở Ủy Ban Nhân Dân xã có hơn 1km, cách Ủy Ban Nhân Dân huyện có 4km, lại ở Thủ đô Hà Nội, đã bị đâp phá hơn một trăm ngày với tiếng búa, tiếng cưa và ngổn ngang vật liệu mà các cơ quan quản lý văn hóa cũng như chính quyền địa phương vẫn “không biết, không nghe, không thấy” thì không phải là chuyện “con voi chui lọt lỗ kim” mà là cả đàn voi chui lọt... lỗ tai. Hài hước thay, nó đã bị thay đổi 100% rồi, tức là chẳng biết đống gỗ rui mè thay ra có còn hay… chui vào bếp, thanh travăn hóa mới về thị sát và đình chỉ. Xin thưa, còn gì nữa mà thị với sát? Mà đình với chỉ?

Làm quan sướng lắm chứ
Đến nay, vụ phá hoại di tích lịch sử chùa Trăm Gian đã kết thúc, kỷ luật nghiêm những người vi phạm cứ như chuyện “xem qua rồi bỏ”. Thật ra hình thức kỷ luật này cũng chẳng khác mấy với các vụ vi phạm nghiêm trọng khác, vụ việc đã có hình thức kỷ luật rất… quen thuộc là “Kiểm điểm nghiêm túc, rút kinh nghiệm sâu sắc”!
Cụ thể là Ủy Ban Nhân Dân huyện Chương Mỹ nghiêm túc kiểm điểm sâu sắc,Ủy Ban Nhân Dân xã Tiên Phương bị khiển trách. Về cá nhân, nghiêm khắc phê bìnhphó chủ tịch phụ trách văn hóa xã Vũ Văn Đông. Hai ông trưởng phòng phó phòng Văn Hóa Thông Tin làHoàng Minh Hiến và Trịnh Văn Ban nhận mức khiển trách. Các ông Vũ Văn Doãn - chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã, ông Tống Bá Lương - phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã, ông Nguyễn Xuân Chít - cán bộ Văn Hóa xã cùng nhận mức cảnh cáo. Người duy nhất “đen đủi” bị cho thôi giữ chức là trưởng ban Quản Lý Di Tích. Và hết!
Thực ra không phải chỉ vụ việc này mà gần đây, nhiều vụ việc khi đưa ra kết luận xử lý đều khiến dư luận ngỡ ngàng bởi vụ việc thì lớn, hậu quả thì nghiêm trọng đến rất nghiêm trọng. Thế nhưng cái “roi” kỷ luật giơ lên rất cao song khi hạ xuống thì rất khẽ, nhẹ đến giật mình.
Không chỉ những vụ việc nhỏ mà cả những vụ án hình sự nghiêm trọng, số tài sản thất thoát ảnh hưởng đến nền kinh tế cả nước cũng được xử lý rất… tình cảm.
Một bạn đọc Emailnhuque85hb@gmail.comgửi cho báo chí một câu kết rất đúng người đúng cảnh: “Ở Việt Nam mình hay nhỉ. Làm sai chỉ cần kiểm điểm với phê bình là xong. Sướng thật!”.
Vâng, làm quan ở Việt Nam sướng lắm chứ! - (VQ)