văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Saturday, November 3, 2012

Phạm Tín An Ninh * NGƯỜI BẠN LÀNG TAM ÍCH




Bạn về gõ cửa đêm thâu
Ta nghe âm vọng nỗi sầu ngày xưa


Sau ba năm ngồi bên nhau ở trường Võ Tánh, chia tay, mỗi thằng đi mỗi ngã. Anh bạn của tôi thì vào trường luật, còn tôi thì vào trường...lính. Khi còn đi học, bạn chăm chỉ và giỏi hơn tôi nhiều. Hai đứa học trò nghèo, cùng ở quê lên tỉnh học, nên dễ dàng là bạn tâm giao. Con nhà nghèo nhưng tôi lại mê truyện François Sagan và thơ Xuân Diệu nên biết yêu hơi sớm, nên thay vì theo bạn học thêm vài ba chữ, thì tôi lại đắm say ngụp lặn trong một cuộc tình kiểu Aimez-vous Brahm. Mà dường như tình yêu nó làm cho người ta đổi thay ghê gớm lắm.

Không biết tình yêu ngày ấy có làm tôi "...chết ở trong lòng một ít, và... lạc lối giữa u sầu mù mịt" như ông Xuân Diệu hay không, nhưng nó đã biến tôi thành một thằng lính. Để cho có vẻ lãng mạn một chút, tôi tự cho mình là một thằng lính đa tình.

Trước ngày chia tay, anh bạn dẫn tôi về thăm quê. Từ Nha trang chúng tôi di xe đò Khánh Hòa. một trong những chiếc xe Renault sơn màu nửa xanh nửa trắng, quen thuộc một thời với đám học trò từ Vạn Giã, Ninh Hòa vào Nha Trang đi học. Qua khỏi đèo Rọ Tượng một lúc, xuống xe, anh bạn đèo tôi trên xe đạp về làng. Đi dọc theo con đường đất, hai bên bát ngát những ruộng đồng, hun hút phía xa xa, nằm ẩn hiện sau ngôi đình với bao tàn cây cổ thụ, là làng Tam Ích. Cái làng quê đẹp như bức tranh vẽ và thần tiên như trong cổ tích.

Ngay cả cái tên của bạn tôi cũng mộc mạc dễ thương như cánh đồng tôi vừa mới đi qua. Làng Tam Ích hiền hòa, êm đềm với tiếng gió đồng nội hòa cùng tíếng sóng rì rào tạo thành khúc nhạc huyền dịu của đất trời, và hun đúc cái hiền lành thánh thiện trong tâm hồn người bạn thời niên thiếu của tôi... Vậy mà chiến tranh cũng đã một thời cướp đi cái yên bình đầm ấm của ngôi làng. Ăn cơm chiều sớm, hai đứa chúng tôi chào những người thân, rồi đèo nhau ra phố Ninh Hòa ngủ qua đêm. Nếu chiến tranh ngày đó đã cướp mất của tôi bao nhiêu điều tốt đẹp, thì trong đó có cả cái lần tôi không được ở lại làng Tam Ích một đêm để cùng anh bạn tôi kéo giành bắt cá, đi câu, và ngồi ngắm ánh trăng lung linh trên đầm Nha Phu trong một vùng biển trời tĩnh mịch.

Ra khỏi quân trường tôi về Nha Trang tìm thăm bạn tôi một lần. Hai thằng rủ nhau ra tiệm sách Vĩnh An Thành, bên cạnh chợ Đầm, vờ mua sách để ngắm dung nhan cô chủ mà anh bạn của tôi đã từng say đắm một thời. Rồi kể từ đó biền biệt xa nhau. Chiến trường ngày càng ác liệt, những thằng lính đánh giặc như tôi chỉ biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Phố phường, bạn cũ trường xưa, là một quá khứ thật dễ thương, nhưng cũng đành phải mờ nhạt phía sau lưng.

Mười năm sau, khi cùng đơn vị sống chết từng phút từng giờ với chiến trường Kontum trong "mùa hè đỏ lửa", bất ngờ tôi gặp lại người bạn làng Tam Ích ngày xưa. Anh sinh viên trường luật ngày nào bây giờ chỉ huy một đơn vị CTCT, vừa từ Ban Mê Thuột lên hỗ trợ tinh thần cho đơn vị tôi. Bộ "chinh y" chưa làm cho chàng ta thay đổi. Vẫn nét mặt thư sinh cùng nụ cười hiền hậu ngày xưa. Hai thằng ôm nhau trong lúc đạn pháo trên các chiến xa T-54 thi nhau bắn vào căn cứ. Nửa khuya hôm ấy đơn vị tôi nhận lệnh di chuyển bất ngờ. Vậy là tâm tình chưa cạn thì hai thằng đã phải lặng lẽ chia tay, chưa kịp bắt chước nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn nắm tay hò hẹn:
"Ngày mai đánh giặc ta còn sống
Về ghé Pleiku* phá phách chơi..
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui "

Chiến tranh đã làm bạn bè tan tác, nhưng đến khi kết thúc lại còn tan tác bi thảm hơn. Sau tháng 4 /75, cái cổng trại cải tạo của nhà nước đã làm chia ly biết bao tình cảm con người. Bạn bè kẻ chết ở đầu non, người mỏi mòn góc bể. Người bạn làng Tam Ích bây giờ chỉ còn mờ mịt đâu đó trong ký ức hiu hắt của tôi.

Vậy mà Trời thương, hai thằng còn sống. Mang tấm thân tàn tạ về với gia đình. Tội nghiệp, nghe tin tôi về, anh bạn trọn tình, tìm đến nhà ông bà già vợ tôi ở Ninh Hòa thăm thằng bạn cũ. Lúc ấy chính quyền Cách Mạng không cho phép "tạm trú" với vợ con ở Ninh Hòa, tôi phải về sống với một bà cô ngoài quê nội, nên bạn tôi không gặp. (Ô hay, chẳng lẽ trên quê hương tôi đã từng có cái cảnh "gần trong gang tấc mà xa nghìn trùng " như thế hay sao ?)

Đúng ba mươi năm sau, từ những phương trời xa lạ, bất ngờ đọc trang web Ninh Hòa, bạn nhắn tìm tôi. Kẻ bên bắc Mỹ, người tận bắc Âu xa tít mịt mù, vậy mà tôi có cảm giác hai thằng đang ngồi bên nhau như lúc còn ở trường Võ Tánh. Trên đầu giây điện thoại, hai đứa nhắc nhau bao kỷ niệm vui buồn về bạn cũ trường xưa, cùng chia sẻ mọi nỗi niềm oan khổ từ những ngày "vì sao mà ra nông nỗi..".

Tội nghiệp người bạn một thời học hành chăm chỉ và khi làm lính thì vẫn hiền lành như một thư sinh, vậy mà hơn sáu năm tù đày trở về phải bỏ cái làng quê Tam Ích với biết bao dấu chân suốt một thời thơ ấu, dắt vợ con lang thang vào vùng kinh tế mới Đồng Bò. Chỉ hai năm sau, rừng thiêng nước độc đã cướp mất của bạn tôi người vợ hiền chung thủy cùng đứa con trai mà ngày cha vào tù nó chưa gọi được tiếng Ba.

Bạn chôn cất vợ con và chôn theo nỗi đau đớn tột cùng của đời mình, rồi trốn khỏi vùng kinh tế mới, đem hai đứa con còn lại gởi cho ông bà ngoại, đi làm bất cứ công việc gì để nuôi hai đứa con thơ. Con gà trống nuôi con trong túng quẫn, mà mỗi ngày vẫn nhìn con mình như nhìn về phía chân trời để có thêm nghị lực đứng lên và đi tới.

Cám ơn Trời Đất đã mở ra một con đường cho những người cuối đường bất hạnh. Mang hai đứa con đến Mỹ khi chúng vừa mới lớn, bạn tôi, con gà trống bây giờ lại nuôi con trên xứ lạ quê người. Bằng tấm lòng độ lượng của người cha, cuối cùng hai đứa con thơ cũng đến được chân trời. Ngày hai đứa con thực sự trưởng thành, như những con chim bắt đầu tự bay lên bằng chính đôi cánh vững chải của mình, người bạn của tôi tiễn cô con gái lớn theo chồng rồi trở về sống một mình với nỗi hiu quạnh của tuổi sáu mươi.

Hai năm trước đó, nhờ một nhịp cầu tao ngộ, bạn tôi gặp một cô "con gái" Long Khánh. "Hai người sống giữa cô đơn, nàng như cũng có nỗi buồn giống...tôi " nên trở thành đôi bạn tâm giao. Nhưng chờ lo cho con cái lớn khôn và có cuộc sống riêng, mới đây hai người mới về chung một mái nhà, cùng san sẻ nỗi niềm và cho nhau một chút hơi ấm ở chặng tuổi cuối đời.

Gặp nhau trên điện thoại viễn liên, tôi nghe được một giọng nói phúc hậu hiền lành. Chị cho tôi biết anh bạn tôi có thú làm thơ, đọc sách, còn chị thì thích trồng và chăm sóc mấy cành hoa. Tôi đùa: " thì chị cũng đang mỗi ngày chăm sóc một cành hoa Tam Ích đẹp đẽ đó thôi. Tôi hy vọng qua những ngày thiếu nắng thiếu nước, bây giờ cây hoa ấy được trồng trên vùng đất màu mỡ hiền hòa Long Khánh, chắc nó sẽ còn cho chị và cho đời nhiều bông hoa lắm đó ". Chị cười như cùng đồng cảm với những điều tôi vừa mới nói.

Tôi không biết nhiều về Long Khánh, ngoại trừ một lần duy nhất tôi ghé lại đây. Đó là cái ngày tôi ra khỏi trại tù Z 30 C. Sáu thằng tù vừa được thả, tiều tụy xanh xao, trong túi không có một đồng, đứng giữa rừng buổi trưa nắng cháy, đón xe quá giang xe về Sài Gòn, nơi có gia đình của ba trong sáu đứa. Anh tài xế xe lam còn nặng tình với những thằng lính cũ, không đón khách mà dành cả chiếc xe chở bọn tôi về bến xe Long Khánh và hứa sẽ tìm xe quen gởi chúng tôi về tận Sài gòn. Thời buổi ấy, muốn mua được cái vé xe đò có khi phải nằm ở bến chờ đợi mấy hôm, huống hồ gì chuyện quá giang.

 Đến bến xe Long Khánh, không còn chiếc xe nào, anh tài xế xe lam tốt bụng mời chúng tôi vào quán ăn, đãi một chầu phở. Trong quán cũng có mấy người đàn bà, hình như buôn bán gần đâu đó. Biết chúng tôi là tù cải tạo mới thả, họ bàn với chủ quán, thay vì mang phở ra, dọn cho sáu thằng chúng tôi một bữa cơm thịnh soạn. Chúng tôi từ chối, nhưng các bà nhất định không cho, bảo chúng tôi đừng phụ lòng của người Long Khánh. Khi xe đến, các bà gặp tài xế, trả tiền xe trước cho chúng tôi. Đã vậy, khi về đến Sài Gòn, anh tài xế còn chuyển lại cho chúng tôi một gói tiền của các bà gởi biếu. Chúng tôi cầm tiền mà muốn rơi nước mắt. Trong cái cảnh bi thương giữa một thời nhá nhem tình nghĩa, vẫn còn có biết bao tấm lòng như người Long Khánh.

Bây giờ bất ngờ gặp chị, nghe lại giọng nói hiền từ của một người Long Khánh, tôi bất giác nhớ lại chuyện xưa, và càng trân trọng chị. Chị đã mở rộng tấm lòng, đón nhận một người bạn đời trên tuổi sáu mươi, mà những vết thương trong tâm hồn vẫn chưa lành được. Xin cám ơn Long Khánh, đã sản sinh cho đời những người con gái giàu tình nặng nghĩa. Tôi mừng cho người bạn thật dễ thương, hiền hậu của tôi, tìm được vòng tay, an ủi, vỗ về, sau những đớn đau mất mát tưởng chừng chẳng còn gì lớn lao hơn

Ngồi nghe bạn kể về cuộc đời gió mưa của bạn, lòng tôi lắng xuống bâng khuâng. Tôi chợt nhớ một vài kỷ niệm thuở hai thằng còn đi học và cảm nhận có đôi điều dường như đã vận vào số phận của bạn, của tôi.

Ngay từ lúc còn là học sinh trung học, hai thằng đã nghèo mà lại còn mang cái bệnh "đa sầu đa cảm". Tôi thì mồ côi mẹ từ lúc mới lên hai, cả một thời ấu thơ và lớn lên trong vòng tay tình nghĩa của cô, dì, ông bà nội ngoại, nên lòng sớm biết u sầu. Vậy mà tôi không mau nước mắt và biết làm thơ buồn như người bạn làng Tam Ích của tôi. Mới học đệ ngũ đệ tứ gì đó mà dám đứng ra thành lập một "thi văn đoàn" giữa đất Ninh Hòa. Cái xứ mà dường như bây giờ mỗi người là một nhà thơ.
(Tôi còn nhớ lúc tôi còn nhỏ, ba tôi thường bảo, những đứa trẻ sớm có tính đa sầu đa cảm thì sau này cuộc đời sẽ buồn ghê lắm. Ông kể cho tôi nghe chuyện nữ thi sĩ Kiết Đào bên Trung Quốc. Lúc còn rất nhỏ, nàng đã thích thơ phú. Bà có người anh là một nhà thơ nổi tiếng, nên thường theo anh để học làm thơ. Năm Kiết Đào mới lên mười, trong một hôm mưa bão, người anh nhìn ra ngoài trời thấy một cây ngô đồng bị gió mưa tơi tả, bảo Kiết Đào làm mấy câu thơ vịnh thử, nàng liền ứng khẩu:

                          Chi nghênh nam bắc điểu
                          Diệp tống vãng lai phong

Ông anh nghe xong thất sắc, vừa phục tài nhưng vừa lo lắng điều không may cho hậu vận của em mình. Sau này, khi một triều đại Trung Hoa thay đổi, gia đình bị tù đày khổ ải, nên Kiết Đào đã có thời phải đi làm kỹ nữ. Từ ấy trong văn chương mới có câu " Gió lá cành chim", "đón đưa ai gió lá chim cành". Chuyện ba tôi kể đã trên năm mươi năm, không biết tôi nhớ sai hay đúng, nhưng nó vẫn cứ nằm mãi trong lòng, để liên tưởng tới hôm nay.)
.............

Năm đệ tam, trong giờ Việt văn của thầy Nguyễn Văn Châu, lúc cả lớp tranh luận về bài Tổng Vịnh Truyện Kiều, bạn và tôi đứng về phía Chu Mạnh Trinh hết lời bênh vực nàng Kiều: " Giả sử ngay khi trước Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng dở việc ma chay, quan lại công bằng, án viên ngoại tỏ ngay tình oan uổng, thì đâu đến nỗi son phấn mấy năm lưu lạc, đem thân cho thiên hạ mua cười, mà chắc rằng biên thùy một cõi nghênh ngang ai xui được anh hùng cởi giáp..."

..."Ta cũng nòi tình thương người đồng điệu, cái kiếp không hoa lẩm cẩm, con hồn xuân mộng bâng khuâng, ...lại toan đúc sẵn nhà vàng chờ người quốc sắc, lại muôn mượn chùm phương thảo hú vía thuyền quyên.. "
Năm đệ nhất, hai thằng lại cùng say mê những giờ văn học sử Pháp của Thầy Cung Giủ Nguyên, nên đã nắn nót viết vào tập và đọc đi đọc lại đến độ thuộc lòng mấy bài thơ lãng mạn của Lamartine, Chateaubriand, Jacques Prévert, Victor Hugo.
Cuối cùng thì cuộc đời hai thằng, dù là nam nhi, nhưng nào có khác gì thân phận trôi nổi của nàng Kiều:
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu
(Nguyễn Du)
hay của những chàng thủy thủ mịt mờ trong Oceano Nox:
Où sont-ils les marins sombrés dans les nuits noires ?....
Oh flots ! Que vous savez de lugubres histories !
(Victor Hugo)

Gặp lại tôi sau gần bốn mươi năm, trong những lời tâm tình, bạn cho tôi biết thêm một điều nuối tiếc:
"Tớ buồn quá, vì không tìm thấy cái làng Tam Ích nhỏ nhoi, nghèo mà quá đổi thân thương của mình trên tấm bản đồ Ninh-Hòa trong trang web Ninh-Hòa DOTcom. Cái làng mà ngày xưa bạn có lần về thăm với mình rồi vội vã ra đi ấy ! "

Tôi nghe lòng lắng xuống và thấy thương người bạn hiền thời thơ ấu rồi thương cả chính mình. Thế hệ chúng tôi sao bỗng dưng phải mất đi bao nhiêu điều quí giá, để cuối cùng lại trở thành "khúc ruột ngàn dặm" của quê hương?

Hình ảnh cái Làng Tam Ích ngày xưa của bạn tôi như đang nhạt nhòa trước mắt. Im lặng giây lát, tôi lấy lại bình tĩnh, rồi cười với bạn :
" Thì bạn hãy viết và gởi cho trang web Ninh Hòa, về cái làng của bạn đi, để bạn có cái cảm giác của một Từ Thức trở về nơi xưa chốn cũ, tìm lại dấu vết một thời cùng những "hang động tuổi thơ". Còn với mình, cái "làng Tam Ích dù không trọn một ngày" ấy vẫn mãi mãi còn lại trong lòng mình như một tấm bản đồ, có cả “tọa độ” ngôi đình làng, ngôi nhà của bạn và "điểm đứng" của hai đứa mình trong một ngày nào đó thật xa xưa"


phạm tín an ninh
* Trong nguyên tác của Nguyễn Bắc Sơn: "Về ghé Sông Mao phá phách chơi.".

Friday, November 2, 2012

Minh Nguyễn * Thấp Thoáng Trong Mây Bắt Gặp Bà Bà


Đang trên đường trở ra Hà Nội đón tết Nhâm Thìn cùng với gia đình chị Minh ở Nghi Tàm, nhưng khi vừa chạm đến Đà Nẵng tôi chợt nảy ra ý định muốn đi thăm Bà Nà trước, sau đó “bút” vé open-tour đi tiếp ra Hà Nội cũng còn kịp. Bởi, từ đây cho đến Tết âm lịch, thời gian hãy còn khá xa khiến một gả “thân cư di” như tôi cứ phải ngồi bó gối một chỗ chịu đời sao cho thấu. Hơn nữa, chợt nhớ câu slo-gan “Hãy đi để cảm nhận, thương yêu đất nước mình hơn” không hiểu sao cứ lai vảng trong đầu óc tôi lúc này.   

Vậy là tôi quyết định dừng chân lại Đà nẵng, ở nhờ nhà người bạn tên Thân trên đường Bạch Đằng. Ngôi nhà tuy nhỏ, nhưng nằm ở mặt tiền đường, tính theo thời giá có đến cả trăm cây vàng. Thú vị nhất, đêm về đứng trên hành lang tầng lầu, nhìn sang chiếc cầu xoay dây văng nối đôi bờ sông Hàn, lấp loáng trong ánh đèn màu sắc trông lãng mạn vô cùng. Những năm gần đây, xuôi ngược Nam-Băc nhiều lần, song tôi chỉ có đủ thời gian nhìn lướt qua thành phố sau ô cửa kính xe. Một thành phố được thiên nhiên hào phóng ban tặng cho nhiều núi non, sông ngòi, bãi biển mịn màng cát trắng trải dài tít tắp. Vì vậy, Đà Nẵng không chỉ là thành phố trẻ trung mà còn đẹp như một đoá hoa hàm tiếu, nhờ một bán đảo Sơn Trà - Điện Ngọc, Ngũ Hành Sơn, bãi biển Non Nước, phố cổ Hội An, cửa Đại, sông Thu Bồn; nhất là khí hậu trên “cao nguyên thu nhỏ Bà Nà” được xem như lá phổi xanh, hòn ngọc quí sánh ngang hàng với Đà Lạt ở Lâm Viên, Bạch Mã ở Thừa Thiên - Huế, Sapa ở Lào Cai, Tam Đảo ở Vĩnh Yên, Mẫu Sơn ở Lạng Sơn . . .

Chưa biết ý định của tôi ghé lại Đà Nẵng lần này nhằm khám phá Bà Nà, Thân buột miệng kêu: “lâu nay thấy ông đi loanh quanh, viết lách lăng nhăng về các vùng Tây Bắc, tưởng ông vớ được em Mây em Nhã nào rồi, hoá ra vẫn cứ độc thân như thuở nào. Vậy, lần này ông có định đi tìm cố nhân hay chỉ ghé qua đây vì công việc. Đừng bảo, ông không phải là thổ địa ở Đà Nẵng này đấy nhé?”. Tôi cười, không nhắc lại dăm ba chuyện tình đã đến với tôi, sợ gặp cảnh cố nhân tay ẳm tay bồng sẽ làm xấu đi hình ảnh người tình một thời mình ngưỡng mộ. Thôi thì, với nghề nghiệp bắt phải nay đây mai đó tôi đành chấp nhận cuộc sống độc thân để còn được lang thang trên mọi nẽo đường đời, tung tăng ca hát “em ơi có bao nhiêu/ Sáu mươi năm cuộc đời”(*) cho đỡ buồn thế mà hay.

Theo lời Thân. Từ trung tâm thành phố ra tới Bà Nà Hill, quãng đường đi dài gần ba mươi cây số trải nhựa phẳng lì. Ngoài taxi, xe ca, xe ôm ra chưa có tuyến xe buýt công cộng nào đưa vào khai thác. Cực chẳng đã, bạn nhường xe máy cho tôi để có thể chủ động trong việc di chuyển, vì mọi phương tiện khác đều không thoải mái cơ động bằng việc tự lái xe để cảm nhận hết sự thú vị qua mọi sinh hoạt của dân chúng cùng với hai phần ba rừng núi chập chùng, đua nhau xuất hiện trên suốt chiều dài tuyến đường.

Sáng sớm, tôi chạy xe loanh quanh qua những con phố mà ngày xưa tôi mất nhiều thời gian  lang thang đi dưới các vòm lá, làm cái đuôi bám theo những tà áo dài trắng nữ sinh trung học lượn bay trong nắng sớm. Chao ôi! Sao hôm nay mọi thứ bỗng trở nên xa lạ, suýt chút nữa tôi bị lạc đường mấy lần khi trờ tới vòng xoay có cái ngã năm mà trước đây thấy đầy rẩy hàng quán mang tên các bà, bán món bún thịt xào ăn với tỏi cay xé trong miệng hay món bánh xèo dòn rụm bé xinh trong lòng bàn tay; thay vào đó là những tòa nhà bề thế, cực kỳ sang trọng hiện ra trước mắt. Đang lúc bối rối chưa biết chọn ngõ nào để tìm đến con đường “năm sao”. May thay, có người mách tôi nên đi về phía có ngôi chợ truyền thống ở cuối đường. Thì ra, con đường “năm sao” trước đây vốn dĩ là con đường Bạch Đằng nằm dọc bên này con sông Hàn, sau 75 mở rộng kéo dài tới tận bãi biển Thanh Bình, tạo ra cảnh quan thoáng đãng thơ mộng nhờ có sự hiện diện của cây cầu treo dây võng Thuận Phước. Cây cầu không chỉ đẹp về mặt kiến trúc mà là biểu tượng đáng tự hào của người dân Đà Nẵng. Chẳng vì vậy, vào mỗi mùa lễ-tết, từng đôi nam thanh nữ tú thường kéo nhau lên đây chụp ảnh kỷ niệm, chụp ảnh cưới thật đông. Để thỏa mãn sự tò mò, tôi giữ chặt tay lái ôm một vòng cua, chạy xe lên đến giữa cầu trong cảm giác sợ hãi, bởi bên tai nghe tiếng gió thổi vù vù như muốn hất tung cả người lẫn xe ra khỏi thành cầu. Trước mặt, con sông Hàn kẻ một đường kẻ thẳng tắp, nối liền thành phố bên này với thành phố mới bên kia bằng những chiếc cầu hiện đại; ngoảnh lại sau lưng, thấy vịnh Đà Nẵng sầm uất với những con tàu no hàng đi và đến.        

Rời cầu Thuận Phước, tôi quay ngược đầu xe ra con đường lấn biển hít thở mùi gió biển ngai ngái từ khơi xa đưa về; bất ngờ, phát hiện đám đông dân chúng hiếu kỳ vây quanh những người thợ công ty trục vớt. Chưa biết chuyện gì xảy ra, tôi dừng xe hỏi thăm anh bạn trẻ đứng gần, mới hay “do ảnh hưởng trận bão thổi ngang qua đây tuần trước, đã đẩy mấy con tàu đánh cá từ ngoài khơi leo lên tận bờ ”. Bão. Vào năm 1972, trong lúc chờ chuyến bay từ Đà Nẵng về lại Sàigòn thì cơn bão Hester ập đến. Bão đã gây ra sự gảy đổ cho một số cây cổ thụ trên đường, đồng thời hất tung hàng chục mái tôn lên không trung; biến chúng thành những miếng giấy mỏng manh bay lơ lững trên bầu trời hết sức nguy hiểm. Chưa hả cơn giận dữ, bão đẩy cả con tàu bệnh viện khổng lồ Hope đến VN mỗ hàm ếch miễn phí cho trẻ em miền Trung, vào tận bờ của bảo tàng Viện Cổ Chàm. Có chứng kiến hậu quả tàn khốc do cơn bão để lại, người ta mới nhận ra sự nhỏ nhoi của con người đến dường nào. Đứng xem một lúc, tôi tiếp tục chạy xe ra quốc lộ 1A trước khi rẽ sang ngã ba 620 chạy một mạch đến thôn An Sơn, xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang, chợt thấy một Bà Nà thấp thoáng hiện ra trong sương trong mây từ rất xa.

Vậy là, sau hơn hai giờ chạy xe từ trung tâm thành phố Đà Nẵng ra đến chân núi Bà Nà, tôi đã có mặt đứng trước tiểu cảnh trưng bày trên đó vài ba chiếc lồng gỗ nâu, biểu tượng cáp treo cùng với tấm bảng ghi Bà Nà Hills - Mountain resort. Không chần chờ gì nữa, tôi tìm bãi gửi xe quăng xe vào đó rồi quay ra mua vé cáp treo; thay vì đi xe 16 chỗ ngồi như trước đây, bởi hiện nay xe hơi chỉ dành để dự phòng khi cáp treo nghỉ bảo dưỡng hay sửa chữa gì đó. Cũng hay, vì mỗi phương tiện di chuyển đều có sự thú vị riêng của nó, không thử làm sao có được cảm giác mới lạ cho chuyến đi. Hơn nữa, chẳng phải trước đây tôi đã có lần trải nghiệm trên cung đường bộ, vượt qua khá nhiều đoạn cua tay áo, nguy hiểm chẳng khác gì leo đèo Mã Pí Lèng ở Hà Giang cách đây vài năm hay sao? Lần đó, tôi đã có dịp sống trong phút giây hồi hộp khi gồng mình trước cảnh lái xe trổ tài chạy như bay qua các đoạn đường quanh co với những dốc cao dựng đứng như làm xiếc; khiến nhiều người yếu tim đã phải một phen hồn phiêu phách tán vì đã lỡ tham dự vào trò chơi cảm giác mạnh.

Cầm chiếc vé trên tay đi qua cửa kiểm soát, tôi nhập vào đám đông du khách nhanh chân ngồi vào cabin cho đủ số lượng tám người, rời ga Suối Mơ treo mình lên đỉnh Bà Nà. Ngồi trong khoang cáp treo, tôi nhìn những chiếc ca-bin đủ màu sắc xuôi-ngược bên ngoài như đèn cù tháng tám, liên tưởng tới những chiếc giỏ mua hàng trong siêu thị, trôi lơ lửng giữa vô vàn mây trắng. Càng lên cao, cáp treo càng giúp tôi khám phá ra nét hoang sơ, hùng vĩ trước tấm thảm xanh bạt ngàn nơi cánh rừng nguyên sinh bên dưới. Hẳn, đây là một bức tranh thiên nhiên vô cùng hoành tráng, vẽ ra cảnh bốn mùa mây trắng lượn bay trên dòng thác bạc, đổ hàng vạn khối nước từ trên chín tầng cao xuống triền núi đá, hóa thành mái Tóc Tiên đầy lãng mạn trước khi hòa mình vào dòng suối Mơ thơ mộng. Nghe kể, trước đây Bà Nà-Suối Mơ là hai điểm du lịch tách biệt, nhưng kể từ khi cáp treo được đưa vào sử dụng thì, cả hai trở thành một điểm du lịch khá hấp dẩn dành cho những ai thích trò chơi mạo hiểm. Có lẽ, do không thể kềm chế được sự háo hức, số đông người có mặt trong cabin đều đứng cả lên, người quay phim chụp ảnh, kẻ trầm trồ tắm tắc ca ngợi vẻ đẹp trữ tình qua khung cảnh miền Trung diễm lệ. Tôi đọc lướt qua tấm “brờ-sua” lấy từ điểm bán vé, ghi từ chân núi lên đỉnh Bà Nà- Núi Chúa dài mười lăm cây số đường bộ; ngược lại, đi cáp treo mất mười bảy phút, tha hồ chiêm ngưỡng thảm thưc vật tự nhiên đa dạng sinh học bên dưới . Có lẽ, dựa vào những yếu tố ấy mà tổ chức Giuness Records đã trao cho cáp treo Bà Nà hai kỷ lục thế giới về độ dài 5.042,62 mét và độ lệch giữa hai ga 1.291,81 mét; giành kỷ lục mà cáp treo Genting Skyway – Malaysia từng nắm giữ.

Nhắc đến Genting, bất kỳ ai một lần đặt chân đến đó vui chơi, khi trở về đều thừa nhận công nghệ giải trí không chỉ thật sự sôi động mà còn lôi cuốn hấp dẩn mọi người; trong khi ở khu du lịch Bà Nà-Núi Chúa mọi thứ đều ngược lại? Điều này đúng hay sai đối với tôi còn là ẩn số, vì quá lâu tôi không có dịp ghé lên Bà Nà thì làm sao dám làm cuộc so sánh? Tuy nhiên, chuyến đi thực tế dọc hành lang kinh tế Đông Tây (EWEC), thuộc tiểu vùng Mêkông bằng phương tiện ô tô, ghé lại ba nước Lào-Thái-Malaya chỉ  trong 20 ngày thì, hai ngày lưu lại trên cao nguyên giải trí vui chơi Genting hẳn không không thấm vào đâu so với các trò chơi vốn có tại đây. Bởi từ sáng cho tới khuya, lượng khách du lịch đi mua sắm tại hơn 80 cửa hàng bán lẻ, vui chơi tại 60 địa điểm giải trí, tham dự chương trình hoà nhạc, xem các show trình diễn quốc tế, chơi trò chơi đen đỏ  ở Casino hiện đại đông nghẹt người. . . song, điều làm cho tôi cảm động đến rơi nước mắt khi bất ngờ bắt gặp tại sảnh trưng bày, không chỉ có kỳ quan thế giới thu nhỏ với hình nộm gã chèo đò trên sông Venice, đồng hồ Big - Ben, tượng Nữ Thần Tự - Do, nhà hát Con Sò, tháp Eiffel, còn có ngôi nhà Việt Nam xây dựng theo lối kiến trúc Nam Bộ xưa, rộng hơn 100 mét vuông, do một người Việt quê ở Củ Chi xây dựng năm 2009, trang trí với toàn nón lá, lồng đèn Hội An, gốm Bát Tràng, gốm Chu Đậu. Riêng, trong thực đơn ẩm thực thấy có nhiều món ăn dân dã như: sườn xào chua ngọt, cá kho tộ, canh chua, gà kho xả ớt, gỏi gà. . . do các cô gái mặc trang phục áo dài màu đỏ-tím, di chuyển tới-lui phục vụ khách đến từng bàn. Tưởng chỉ có bấy nhiêu, lúc bước ra ngoài hành lang tôi bắt gặp xe bày bán món gỏi cuốn to cở đòn bánh tét, ăn một cuốn no tới khuya, do một cô gái mặc áo dài đứng giới thiệu sản phẩm. Trong lúc tán chuyện, tôi phát hiện ra chất giọng ngọt ngào như bánh đậu xanh đặc sản Hải Dương của cô gái. Cô vui vẻ cho biết “quanh đây còn rất nhiều bạn lao động người Việt”. Quả đúng như lời cô nói, lúc ăn cơm trưa ở nhà hàng Trung Quốc dưới chân núi, tôi gặp vài bạn trẻ mừng rỡ cho biết họ sang đây theo diện xuất khẩu lao động, họ than thở: “các anh có tiền đi du lịch sướng quá, bọn em mang tiếng ra nước ngoài làm việc, nhưng mỗi tháng thu nhập chỉ có năm triệu, điệu này chắc phải về quê lấy chồng thôi?” .
  
Tuyến cáp 1 dừng ở nhà ga Bà Nà cho mọi người xuống, trước khi chuyển sang ga Debay đi tiếp tuyến 2 lên đỉnh Núi Chúa. Tôi chẳng có việc gì phải vội vã, mặc kệ đám du khách xí-xa xí-xô chen nhau đi tiếp lên ga Morin. Còn lại một mình, tôi đảo mắt nhìn quanh thấy cửa hàng giải khát nằm ngay cạnh, liền chui vào tìm một tách cà phê nóng vừa uống cho tỉnh người, vừa thả hồn theo từng đám mây trắng bay la đà, lúc ở sườn núi bên này khi mất hút dưới con đường đèo quanh co ẩn hiện trong khu rừng bảo tồn thiên nhiên. Thì ra, đi lên Bà Nà -Núi chúa bằng cáp treo, không chỉ được thưởng ngoạn vẻ đẹp của chùa chiền, khu nghỉ mát, thác nước, suối chảy róc rách, pho tượng đức Phật Thích Ca uy nghi hịên ra sưng sửng trên bầu trời. . . mà còn khám phá những cột đá, mái ngói rêu phong của hơn mấy trăm ngôi biệt thự, nhà nghỉ, công trình lớn nhỏ bị hủy hoại gần như hoàn toàn; ngoại trừ hai ngôi biệt thự cổ Hoàng Lan, Lệ Nim còn sót lại bên lưng chừng núi, gợi lên mớ cảm hoài quá khứ “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.       

Nhấm nháp từng ngụm cà phê nhỏ, nghe loáng thoáng bên tai giọng nữ trôi bềnh bồng “Hương  đời khao khát vọng/ Mê ly ca phiêu bồng/ Nếu không cùng cuộc lữ/ Rong chơi với Bà Nà/ Làm sao em biết được/ Đỉnh trời gần hay xa “ (**) Vâng, nếu không một lần ghé lên Bà Nà làm sao tôi biết trời gần hay xa, biết cuộc hội ngộ tình cờ do tạo hóa sắp đặt cho tôi gặp lại Như. Người con gái có khuôn mặt mỹ nhân dấu sau mái tóc thề buông thả ngang vai, mỗi chiều đứng chờ tôi đi làm về bên chiếc cổng chung ở dãy phòng cho thuê trong con hẽm cống Mê Linh-Đà Nẵng. Cuộc hôi ngộ khá bất ngờ, khiến Như không sao dấu được sự ngạc nhiên vui mừng hét thật to lên: “Anh Nguyên hả. Còn nhớ con bé Như ngày xưa không?“. Ôi! Làm sao tôi quên được khuôn mặt kiều diễm, đôi môi mọng đỏ mà tôi từng gởi lên đó những nụ hôn: “Em biến đâu mất trong ngần ấy năm vậy Như?”. Giọng Như ấp úng kể: “Lần về nuôi mẹ, em phải bỏ học giữa chừng vì mẹ em bị bạo bệnh chết, em không còn nơi nương tựa đành phải lấy chồng, sau đó theo gia đình đi định cư ở nước ngoài”. Tôi nói như cố khỏa lấp nỗi buồn: “Thảo nào, anh nhắn tin tìm em khắp nơi nhưng bạn bè không biết em ở đâu”.

Uống cà phê xong, Như theo tôi đáp tuyến cáp thứ hai từ đồi Vọng Nguyệt lên ga Morin mất 3 phút treo lơ lửng trên cao. Đến nơi, bọn tôi hòa mình vào đám đông đang cố nhoài người qua khỏi các thanh tay vịn bằng xi măng giả gỗ, nhìn xuống thung lũng bên dưới như muốn thu tất cả hình ảnh Bà Nà mờ ảo trong mây vào mắt; ngược lại, Như thích thú ngắm nghía hết mấy khóm hoa tú cầu lại, đuổi theo những con bướm có đôi cánh giang rộng ra như một chiến đấu cơ hiện đại. Mấy anh bảo vệ trẻ đứng gần bên báo cho tôi biết ”quanh đây ngoài tú cầu ra còn có rất nhiều loài bướm lạ”. Bất chợt, Như quay đầu lại bắt gặp ánh mắt đắm đuối nơi tôi đang ngắm nhìn cô, khiến cô tỏ ra lúng túng. Mãi một lúc sau cô mới lấy lại được sự bình tỉnh, bước đến cạnh tôi dịu dàng nói “mình đi tiếp anh nhé”. Tôi quàng vai cô đi trên những lối mòn xanh rờn cỏ cây hoa lá, cho đến khi lạc bước vào “ hoa quả sơn “ lúc nào không hay. Chừng nghe tiếng con cháu Tề Thiên khỉ khọt, nhảy nhót làm trò trước đám đông du khách để được nhận những phần thưởng với vài ba chiếc bánh hoặc vài trái chuối chín vàng. Vừa ăn, chúng vừa nhe răng cảnh giác xem có ai chọc phá hoặc chìa tay ra xin thêm thức ăn một cách tham lam. Đứng xem lũ khỉ một lúc, nghe cô hướng dẩn nhắc mọi người đi đến suối Nai ngắm thác cầu Vòng, bọn tôi lẵng lặng bám đuôi đi theo phía sau. Đi khoảng 800 mét đường rừng đã nghe tiếng thác nước tuôn chảy rào rạt bên tai. Nhìn lên thấy một chiếc cầu vòng 7 màu nổi trên mặt thác. Lợi dụng lúc mọi người say sưa chụp ảnh- ngắm cảnh thác nước hùng vĩ, bọn tôi đi vòng về khách sạn Lệ Nim hay còn gọi Le Indochine, xuôi theo con đường nhỏ phía sau đến thăm cây cầu treo Debay xây dựng từ thời Pháp thuộc. Theo truyền khẩu, cây cầu rất linh thiêng đối với những mối tình trai gái, bởi những người yêu nhau nếu một lần nắm tay dắt đi qua cầu, sớm muộn gì đôi lứa cũng sẽ hoàn thành ước nguyện“. Không biết điều linh hiển đến mức độ nào, song  tôi quyết định không đi qua cầu, dù trước đây chúng tôi từng có thời gian yêu nhau? Nhìn vẻ mặt bối rối của tôi, Như ngạc nhiên hỏi: “Ồ! Cây cầu đẹp đến thế kia, sao đang đi bỗng dưng anh dừng lại làm gì?”. Tôi dối lòng: “Bụng anh chắc có vấn đề. Hay em chịu khó đi một mình rồi vòng trở lại đây, anh chờ”. Không biết dụng ý nơi tôi, Như ngoan ngoản đặt chân lên cầu, vừa đi vừa nhún nhảy thử xem chiếc cầu có lắc lư đến chóng mặt như lần đi trên chiếc cầu treo bện bằng mây trên dòng Sêrêpok ở buôn Đôn không? Tôi ngồi lại bên này, dõi theo hình bóng cô bé giờ đã thành vợ người ta, nghe từng bước chân cô dẫm nát trái tim mình. Được một lúc, đã thấy bóng Như quay về trong lớp sương mù giăng kín một phần bên kia cầu, sau đó lại cùng tôi tiếp tục đi tiếp lên đỉnh Bà Nà, chứng kiến cái cột mốc bằng xi măng xấu xí, do ai đó viết nguệch-ngoạc hàng chữ “Núi Chúa 1478 mét” xấu tệ. Tôi cảm thấy có chút thất vọng, nhưng bù lại sung sướng tận hưởng cảm giác thú vị như đang đi lạc trong mây, trong vô vàn sương khói bay lòa xòa trên đỉnh cao nhất Bà Nà-Núi Chúa. Chợt, hai cánh mũi tôi hít hà trong gió mùi hương nghe quen thuộc. Tôi vội quay đầu lại, nhận ra bóng dáng trẻ trung của Như đứng sát ngay bên cạnh, vô tình thả những sợi tóc gió bám đầy lên mắt mũi tôi, gợi nhớ chút hương trinh thời vụng dại con gái, đêm hai đứa ngồi cạnh nhau gửi gấm tâm sự. Có lẽ, phát hiện được ý nghĩ thầm kín trong tôi, Như làm động tác khéo như kịch, vờ chỉ tay về hướng có những khối bê tông mọc lên ở phía tây Núi Chúa, hỏi: “kia có phải là điểm vui chơi giải trí không?”. Tra bản đồ cầm tay, thấy ghi ở đó đã tái hiện ngôi làng Pháp thời trung cổ; ngoài ra, còn có cả dịch vụ vui chơi giải trí Fantasy park ẩn mình trong quần thể kiến trúc tuyệt đẹp, gồm 3 tầng hầm đào sâu trong núi cộng thêm 5 tầng nổi dành cho việc vui chơi. Tôi xác nhận điều Như nói là chính xác, khiến cô vui mừng cười nói với tôi “tối nay thế nào anh cũng phải đưa em ghé qua đấy vui chơi xả láng, không vui không về“. Tôi dấu, không muốn làm mất đi sự hào hứng đang có nơi cô, bởi Fantasy park chưa được phép mở Casino như ở Genting. Bất ngờ, mây đen từ dưới thung lũng ùn ùn kéo lên, báo hiệu cơn mưa sắp xảy ra. Như rùng mình, nép sát người vào tôi tìm chút hơi ấm. Tôi nhớ có mang theo trong ba-lô chiếc áo len dự phòng cho mùa lạnh phương Bắc, nên vội cởi áo khoác ngoài mặc lên người cho cô, còn tôi chui đầu qua chiếc áo len cao cổ. Chưa kịp nói lời cảm ơn tôi, cơn mưa đột ngột trút xuống quanh các sườn núi, trong khi chỗ chúng tôi đứng vẫn khô ráo, vẫn cảnh trời quang mây tạnh. Chẳng vì vậy, thời tiết trên Bà Nà được ví như một cô gái đỏng đảnh; bởi chỉ trong khoảnh khắc khí hậu trên này một ngày diễn ra có đến bốn mùa: Sáng se lạnh hơi xuân, trưa ấm nồng như hạ, chiều man mác chút thu, đêm lạnh lẽo sang đông.

Mãi rong chơi, ngắm nhìn phong cảnh thiên nhiên kỳ vĩ trên Bà Nà quên cả đói. Chừng nhìn lại thấy trưa trời trưa trật, tôi vội đưa Như vào nhà hàng nằm trong khu nhà ga Morin ăn uống, nghỉ ngơi. Sau đó theo tuyến cáp hai trở xuống đồi Vọng Nguyệt, thăm thú các danh lam thắng cảnh nổi tiếng không thể bỏ qua. Do tuyến cáp ngắn, việc lên-xuống không phải bỏ thêm tiền mua vé. Một anh bạn trẻ đi cùng ca-bin vui vẻ chia sẻ kinh nghiệm: “anh chị đã tham khảo lịch vận hành cáp chưa, nếu không muốn bị ngồi đồng hàng giờ như em từng nếm trải “. Hú hồn, nhờ có thông tin quan trọng này, bọn tôi không phải vất vả mò mẫm trong màn đêm cùng với vô số loài bướm, con nào con nấy to cở bàn tay, lỡ chạm vào người hãi đến xanh mặt.  

Xuống đến ga dưới, tôi đi bên Như theo hướng có mũi tên chỉ khu nghỉ mát Le Jardin. Trên đường đi, tôi bắt gặp nhiều bụi hoa cẩm tú đỏ, hồng, tím, trắng, đua nhau khoe mẻ màu sắc trước các dãy phòng đìu hiu nằm chờ khách với tấm biển nhỏ ghi “khu du lịch Bà Nà By Night”. Nhìn khắp nơi thấy bốn bề mây trắng giăng giăng cùng với không khí se lạnh, gợi nhớ trong tôi cái cảm giác như đang đi giữa Sapa hay trên Tam Đảo. Không ngờ, khu hầm rượu của đại úy pháo binh Debay hiện ra với bảng chữ điện néon  “Hầm rượu Bà Nà By Night” nằm gần đấy. Được biết, hầm rượu nay được giao cho người đàn ông có công mở ra con đường lên đỉnh Núi Chúa, sau hơn nữa thế kỷ bỏ hoang hóa (***). Do vậy, khi con đường thông xe, người ta ưu tiên cho người đàn ông khai thác khu hầm rượu củ. Để kinh doanh, ông bỏ nhiều tiền của, mở rộng khu hoang phế thành điểm du lịch thơ mộng gồm: khu nhà nghỉ liên hoàn, quày ba, hầm rượu Cave de Vin hay Cella Bà Nà. Như đứng trước hai pho tượng sư tử đá, chống hai chân trước lên quả cầu cùng với hầm rượu âm sâu vào vách núi, hào hứng muốn được thưởng thức ngay ly rượu vang hay ly cocktails, moctails gì đó từ một bartander điển trai. Tôi theo sát bên Như, đặt chân vào gian hầm khoét sâu trong lòng núi, thấy trên những chiếc cột chống lấy vòm đá, treo đủ mọi loại rượu nổi tiếng trên thế giới. Trước tiên, khách  được mời uống thử một ly rượu vang miễn phí, sau đó tùy vào tửu lượng có thể thưởng thức các loại rượu với giá hữu nghị.  

Nhấm nháp vài ly vang cùng với dĩa hạt điều rang muối, Như theo tôi đi về phía ngôi tượng Đức Bổn Sư nhô cao giữa biển mây màu trắng sữa. Theo thông tin ghi trong “brờ-sua”: tượng cao 27 mét, quét vôi màu trắng. Từ thành phố Đà Nẵng vào những ngày nắng ráo, có thể nhìn thấy bức tượng trắng nổi bật trên nền xanh của khu du lịch Bà Nà-Núi Chúa. Đang bước đi, Như bỗng khựng người đứng lại vì tình cờ phát hiện ra những chùm hoa giống như những chiếc chuông đỏ treo lửng lơ trên cành cao. Loài hoa không chỉ đẹp mà đặc biệt chỉ có trên Bà Nà, nhiều người nghe nói chứ chưa có dịp tận mắt nhìn thấy. Như luôn miệng xuýt xoa khen đẹp, định với tay hái lấy một chùm mang về nhà khoe nhưng kịp nhìn thấy bảng cấm, bèn co rúm người đứng tạo dáng trước ống kính, hối thúc tôi chụp cho vài tấm ảnh kỷ niệm, trước khi leo mấy chục bậc thang đá vòng vèo, dựng đứng đi lên chùa Linh Ứng. Như còn trẻ, nhưng cứ phải bám chặt lấy cánh tay tôi, leo mãi mới tới Quan Âm Các, ngồi bệt xuống bờ đá thở phì phò với những vệt mồ hôi thấm trên trán làm nhòe nhoẹt lớp son phấn trang điểm. Trông cô thật đáng thương dù tôi có muốn trêu chọc cô đến mấy cũng không đành lòng. Tôi kiên nhẫn đứng chờ cô dưới chân tượng đức Phật bà uy nghi, hướng đôi mắt nhân từ nhìn ra biển đông. Để làm dịu sự mệt mỏi, Như uống hết chai nước tinh khiết mang theo, nghỉ mệt một lúc, đi tiếp một mạch lên tới cổng tam quan bắt gặp ngôi chùa Linh Ứng hiện ra sau khoảng sân rộng lót bằng đá núi; trầm mặc uy nghi trong quần thể đình chùa thanh tịnh, chìm khuất trong màn sương như thể vây bọc sau một lớp voan mỏng. Được biết, đây là một trong ba ngôi chùa có lối kiến trúc giống với chùa Tam Thai, tọa lạc tại ba địa điểm khác nhau trong thành phố Đà Nẵng. Hàng năm, phật tử các nơi hội tụ về đây chiêm bái rất đông, nhất là vào các ngày rằm hay mùng một. 

Để kết thúc chuyến đi khám phá Bà Nà-Núi Chúa, tôi cùng Như đi trên chiếc cầu nhỏ nối chùa Linh Ứng tới chỗ tái hiện nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên hay còn gọi là vườn Ngự Uyển, chứng kiến vô số tượng Phật lớn nhỏ sắp đặt quanh vách đá. Sau đó, leo tiếp mấy chục bậc thang lên chỗ tượng Đức Bổn Sư đặt trên chiếc đế cao 8 mặt, mỗi mặt thể hiện một giai đoạn cuộc đời Đức Phật. Theo lời vị sư trẻ, tượng xây dựng rổng ruột bằng xi-măng cốt thép cùng với đá xanh khai thác từ trên núi. Vào những hôm trời trong, đứng từ khu vực này người ta nhìn thấy bán đảo Sơn Trà, bãi biển Non Nước, Ngũ Hành Sơn và cả con sông Thu Bồn chảy qua Hội An.       

Sáng hôm sau, tôi thức dậy từ rất sớm, ra ngồi nhìn ánh bình minh chiếu rọi qua những lăng kính mây, hắt lên bầu trời vô số ánh hào quang trông thật kỳ ảo, nhìn đến say lòng. Tạm biệt Bà Nà-Núi Chúa, tạm biệt thiên đường nghỉ dưỡng ít nhiều để lại ấn tượng trong tôi về những sắc hoa tú cầu, về những đàn bướm lạ, về màu đỏ hoa đào chuông lần đầu tiên trong đời tôi mới nhìn thấy.

Có điều, khi ngồi ăn uống vui vẻ với bạn bè ở Đà Nẵng, ai đó cắc cớ hỏi Như có đọc bài báo nói về hàng trăm kí vàng đang còn chôn dấu trên Bà Nà không?. Tôi ngạc nhiên, hèn gì thấy xuất hiện nhiều gương mặt bặm trợn trông thật cô hồn; chỉ  tiếc những thông tin qúi giá đến vậy giờ mới nghe, nếu không tôi đâu có bỏ lỡ cơ hội theo những người kia bén gót, biết đâu chẳng vớ được một ít vàng mang về ăn tết tưng bừng?”.

Chưa rõ chuyện chôn dấu vàng trên Bà Nà-Núi Chúa thực hư thế nào, nhưng nếu ai có máu phiêu lưu mạo hiểm; tưởng cũng nên thử thời vận một lần, biết đâu lại chẳng may mắn nhặt được một ít vàng mà còn được đi du lịch?

(*)     Nhạc Y Vân
(**)   Chiều Bà Nà – nhạc Duy Trực, phổ thơ Tô Như Châu
(***)  Ông Nguyễn Vọng  



 

 

thơ hồ chí bữu


hochibuu

KÍNH THƯA EM

           Tặng Minh Dung

Mẹ của mấy thằng con trai quậy
Nuôi lớn lên để thiên hạ nhờ
Con gái thì gả về miền tây xa lắc
Không có đứa nào giống bố làm thơ

Kính thưa em – người đàn bà đẹp
Ghen cở hàng mệnh phụ Hoạn Thư
Người đàn bà nỡ nào bắt ta xách dép
Chẳng chịu căn cơ nên mới mệt nhừ

Kính thưa em – người đàn bà Bắc
Ở Hà Nam sao chạy tuốt vô Saigon
Hận thù nhau nên tối ngày làm giặc
Đánh đấm tưng bừng ra bốn chú lon ton

Kính thưa em- kính thưa quỷ sứ
Cảm ơn em bốn chúc năm ròng
Bốn nươi năm mà như chưa đủ
Của cuộc đời vốn có như không

Cảm ơn em – cảm ơn bà xã
Đẹp não nùng như mới hai mươi
Cứ e thẹn như còn xa lạ
Làm ta nhìn muốn nổ con ngươi.




THÁP NGÀ

Sáng ra ta hét : Ta còn sống !
Còn thở cho không khí của trời
Mới biết đêm qua ta nằm mộng
Sống, chết là điều dễ hiểu thôi

Kinh Kha cà chớn qua sông Dịch
Còn ta cà khịa mới yêu em
Khuất Nguyên ôm đá gieo dòng Mịch
Còn ta ôm rượu ngủ say mèm

Người ta mộng lớn làm danh tướng
Ta chẳng công hầu với đỉnh chung
Cuộc sống hẳn là điều vay mượn
Nên ta chẳng dám luận anh hùng

Thì thôi – ta cứ tên hàn sĩ
Quanh quẩn sân nhà nghe gió ru
Bên ta còn có người tri kỷ
Ngồi đếm lá vàng nghe chớm thu.

Thơ Trần Tuấn Kiệt



trantuankiet

 * Tượng


Em đi chân bước lạc đà
Suốt miền ải hạn giữa sa mạc người
Phượng hoàng xuống đậu hai vai
Ngậm hoa quỳ nhớ thiên thai không về
Ngàn năm mây trắng trôi đi
Với hồn xưa động bốn bề không gian

* Lời Thi Sĩ Gởi Cho Nàng Thơ


tranh luongtruongtho

Người đi mất hay vẫn còn đứng ngóng
Màu chiều bay cánh mỏng dặm băng đồi
Người đứng lại giữa cây tàn bóng xế
Trần gian nào thả mặc địa cầu trôi

Trên bóng trăng cao hay lòng đất mát
Giữa đại dương ôm ấp mãi tình người
Bàn tay bỏ hay bàn tay buông bắt
Dặm tình xưa thần thoại đã lên ngôi

Hỡi thi sĩ của trần gian khô héo
Cỏ hoa kia sao chẳng thấy nô cười
Ngày biền biệt lơ thơ làn tóc nhỏ
Tự thuở nào em đã đứng bên tôi

Tôi hát khúc trân gian đầy ân ái
Em dạo cung hồ cầm đó ngày xưa
Cơn gió xuân xa, lưng trời thổi lại
Mông bình yên thôi đã mất bao giờ

Bước mải miết trên cỏ đồi có mỏi
Làn hơi xanh môi má đã mơn hồng
Em ngồi đó bàn tay đầy hoa lá
Chắn buổi chiều dùm em nhé bão giông

Người thi sĩ đã một ngày gặp gỡ
Thì ngàn năm bóng sáng vẫn chưa tan
Hỡi đôi mắt của nàng tôn nữ đó
Chớp nhanh chi hay ngại ánh xuân tàn

Em cứ bỏ về non xanh dặm biển
Ta cứ xa vời xa thẳm hoài mong
Rồi phút chốc bút sầu ta hiển hiện
Cánh tay em thành một áng cầu vồng

Em hãy khóc để lá vàng rơi rụng
Chuỗi sầu mơ kết lại trái hoa đời
Mai trần thế phai mờ như chiếc bóng
Ta và em dựng lại chút tình người

Wednesday, October 31, 2012

TÔ THÙY YÊN * Chim kêu bãi quạnh





Dưới lũng, trên triền, nắng xếp nhỏ.
Nước ròng sâu, sông lảng lảng xa.

Khắc khoải chim kêu ngày tận tuyệt.
Ai trầm luân đó có về qua?
Mông quạnh bãi phơi vũng vướng mắc,
Con cò lặng ngẩng lắng hơi thu.

Xác cây gục hỗn mang cành rễ.
Rừng đứng quanh đây, rừng tận đâu?
Gió thấp thoáng, xa xôi hiện ẩn.
Đêm nay, mây đậu nghỉ phương nào?

Khắc khoải chim kêu hồn khuất giạt
Cảnh nổi trôi giờ đã lặng chưa?
Ngấn nước đục khoen lem cỏ sậy,
Lưu mà chi chỉ dấu phù hư?

Xương cốt vẫn là xương cốt cũ,
Đành rêm nhức mãi trở trời xưa.
Linh chăng những vàng tiền mẹ đốt?
Cửa để, con đi chơi về khuya.

Khắc khoải chim kêu đời khổ nạn.
Còn ai ngồi rạng cội cây già?
Chim vút lên như hòn đá ném,
Rồi thôi, cái có chỉ là qua.

Chiều nay, trên bãi sông dun rủi,
Mường tượng dòng sông trôi tro ta.
Một mai, ngoài cõi gió hao đuối,
Ai hỏi ai về ai trước kia?

Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải.
Hành nhân về bên giếng quê nhà.
Ngõ trúc chiều ngát cơm gạo mới.
Ngọn đèn thắp đợi đã rền hoa,

Cởi đôi giày vẹt, tấm áo tả,
Xót xa như lột một lần da.
Chiêm bao, âu cũng chiêm bao cả.
Mưa lớn, chừng mưa rợp hải hà.

Chiều bóc, bóc dần những rớt nắng
Loi ngoi nắm níu lũng triền xa.

Nguyễn Mạnh Trinh * Nguyễn Đình Toàn: Tình Yêu Và Tuổi Trẻ Trong Thơ Văn

nguyendinhtoan



Nói đến Nguyễn Đình Toàn, là phải đề cập đến ba chân dung nghệ sĩ: Văn sĩ, thi sĩ và nhạc sĩ. Ba chân dung này có nhiều khi ở ba lãnh vực khác nhau nhưng lại có những quan hệ mật thiết với nhau. Một điều rõ ràng là bất cứ trong lãnh vực nghệ thuật nào, cũng đều thấy một con đường khác lạ với mọi người.

Thơ, văn, hay nhạc, cũng đều là một cách thế để suy tư, để sống bằng cảm quan của mình. Đời sống như dệt ra bằng những nỗi buồn và ở nơi ông =, với một sức khỏe mong manh lại làm cho cuộc nhân sinh như bị u ám thêm. Suốt từ lúc còn trẻ tuổi, đi vào văn chương với cái bút hiệu Tô Hà Vân của thời Hà Nội xa xưa đến lúc vào Sài Gòn, viết tác phẩm đầu tay là Chị Em Hải đăng từng kỳ trên nhật báo Tự Do, rồi đến các tác phẩm sau này, cũng đều là những tác phẩm về tình yêu & tuổi trẻ, tuy hình thức có khác đi, vẫn là biểu hiện của một cách thế sống, một suy nghiệm sống.

Nguyễn Đình Toàn được kể như một người viết chịu ảnh hưởng nhất của phong trào Tân Tiểu Thuyết, một phong trào viết tiều thuyết mà còn được gọi là anti-roman, với chủ trương mới lạ đi ngược lại cách viết tiểu thuyết cổ điển như đã hiện hữu trong văn chương từ trước. Chủ trương của những nhà văn như Alan Robble Grillet, Claude Simon, Nathalie Sarraute... là nhà văn phải xóa bỏ chủ quan khi cầm bút. Cách viết phải rất khách quan, như ống kính của người chụp ảnh, ghi chép lại nguyên vẹn sự việc và không có xúc cảm hoặc nhận định chủ quan chen vào. Tân tiểu thuyết ( nouveau roman) còn có tên mệnh danh khác là trường phái của cái nhìn, nghĩa là y hệt một cặp mắt, nhìn, quan sát trung thực sự vật không bị biến tướng biến dạng bởi sự cảm nhận cá nhân.

Nhưng khi được hỏi về phong trào tân tiểu thuyết ở Việt Nam trong thời kỳ thập niên 60 thì Nguyễn Đình Toàn trả lời rằng ông nghĩ sao thì viết vậy mà thôi. Câu hỏi tiếp là liệu có chính xác không khi nói ông và một số bạn đồng hành chịu ảnh hưởng của tân tiểu thuyết như Huỳnh Phan Anh, Hoàng Ngọc Biên, Đặng Phùng Quân,…? Thì Nguyễn Đình Toàn trả lời là đó là những nhóm bạn viết trẻ hơn ông thường gặp nhau ở quán cà phê La Pagode chứ không phải là cố tình tạo ra một phong trào văn học mới lạ ở Miền Nam lúc ấy.

Có một điều khi ông là một trong ba người lựa chọn bài vở cho tạp chí Văn thời mà Trần Phong Giao làm chủ biên, thì bài vở được lựa chọn nhất là ở bộ môn văn đã có nhiều khám phá và các người cầm bút trẻ đã có bước khởi đầu tốt đẹp. Cũng như các trào lưu văn học cũng như các tác giả nổi tiếng trên thế giới được viết thành những chủ đề như những cánh cửa mở ra nền văn chương quốc tế.

Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Toàn có cách tạo dựng nhân vật khá độc đáo. Những nhân vật ấy sống ơ hờ trong một không gian, thời gian mỏng mảnh, của bàng bạc những suy tư và nội tâm là những rối rắm phức tạp. Ông mang tuổi trẻ đi vào tình yêu và mỗi một nhân vật là mang theo một định mệnh mà ở đó con người bị lôi cuốn đi trong những mê thức chập chùng mà cuộc sống đã sẵn dành.

Đọc trong các tiểu thuyết của ông như Con Đường, như Ngày Tháng, như Không Một Ai, như Đồng Cỏ, .. hoặc một số truyện ngắn như trong tập Đêm lãng Quên chẳng hạn, thì thấy rõ cung cách của một người viết tạo ra một chỗ đứng cho tác phẩm của mình. Cùng với những cây bút khác, quả thực ông có tạo ra thành một phong trào mà nhà văn Mai Thảo gọi là có một chút thành công và thất bại.Thành công là phong trào này đã đem lại cho văn chương tiểu thuyết một chân trời mới mà kỹ thuật và ngôn ngữ là những khai phá bất ngờ đầy hứng thú. Nhưng thất bại vì không thể làm thay đổi được cảm quan của người đọc về tiểu thuyết truyền thống. Trước sau, tiểu thuyết vẫn là biểu hiện của đời sống qua ý nghĩ chủ quan người viết.

Nguyễn Đình Toàn có lẽ sáng tác cũng không hề để ý đến những thành tựu hay mất mát thua được của tân tiểu thuyết mà ông chỉ viết theo ý thích của mình. ông có niềm tin vào công việc mình làm và xác tín một thái độ rất trí thức nên tiểu thuyết của ông được kể đến như những thành tựu và rõ ràng ông đã có địa vị của một nhà văn đáng kể trong hai mươi năm văn học miền Nam…

Đọc Con Đường, để thấy được định mệnh của một người đàn bà sẵn dành riêng một góc tối đau khổ.Nhân vật ấy có một cuộc đời bị bủa vây bời tất cả những điều khốn khó nhất mà lại bất thường với khuôn mặt có vết chàm khó coi. Cha mất sớm, mẹ bỏ đi lấy chồng, thân thể thì dị dạng nên con người sống gần với bản năng hơn là lý trí. Cô ta không có một chọn lựa nào khác là đầu hàng nghịch cảnh và sau chuyến đi thăm người mẹ trở về đã dễ dàng ngả vào bàn tay của một người đàn ông xa lạ và trở thành đàn bà từ đêm dọc đường ấy cùng với sự khám phá về nỗi sung sướng vô biên của nhục cảm. Nhân vật xưng tôi trong Con Đường đã bị trôi vào một bi kịch cũng như người mẹ mười năm trước cũng đã lang chạ ngoại tình và rút cuộc chỉ là một dòng lệ rớt trên mi khi đưa tiễn đứa con trở về từ bến xe.

Nhân vật xưng tôi trong truyện và nhân vật “người viết kịch” đã đóng một vai kịch của những cuộc đời mà ở đó đã sẵn mầm chứa của những điều tối tăm ẩn sâu trong nội tâm con người. Thêm một nhân vật “bà ở chung” đã làm thành một vở kịch tay ba mà ở đó người đàn ông đã giương một cái bẫy để cho hai người phái nữ vào sụp hố. Và sâu khấu kịch không là chỗ nào khác hơn là cái giường, nơi tình yêu có khi là hỗn hợp của sự ngu ngốc khờ dại và lòng đam mê nhục dục cao độ.

Con đường với cô bé xấu xí bây giờ giống như con đường mà mẹ cô đã đi xa vĩnh viễn đứa con gái của mình. Một con đường định mệnh mà sự gian truân là hành trang mang theo. Trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Toàn, đầy dẫy những nghịch cảnh và con người luôn luôn thủ vai người thua bại. Họ đi trên những con đường mù mịt mà không cưỡng lại được những cảnh trớ trêu bày sẵn…

Trong Con Đường, tác gỉa bắt nhân vật phải xuôi theo định mệnh và chầp nhận tất cả những hậu quả bi đát dù có phi lý đến đâu chăng nữa. Cuộc đời sẵn dành cho mỗi con người một phận số và sẽ chẳng thể phản kháng được mà phải giơ tay đầu hàng trước những trớ trêu nghiệt ngã của cuộc đời…

Đọc một tác phẩm khác, Ngày Tháng, lại thấy được một số phận của người đàn bà bị lôi vào những mảnh sống đầy khúc mắc mà sự bó tay bất lực đã làm đời sống tưởng như bị triệt hủy thối rữa. Tiểu thuyết của ông là ray rứt nôi tâm, là những cảnh ngộ bị lôi cuốn vào, là sự tranh đấu giữa dục vọng và thánh thiện để rồi bản năng đã dẫn dắt con người .Nhân vật nữ tên Hà sống trong nỗi mòn mỏi cuộc sống, không dám liều bước sợ bị vấp ngã, nên cứ đành trôi theo cuộc đời. Nhân vật ấy như được treo lơ lửng bằng những chán chường và người đàn ông chỉ có giá trị như là một sự kềm hãm, một sự cho phép ngấm ngầm kể cả chuyện làm tình. Thân phận của một người đàn bà 30 tuổi góa chồng sống một mình cô đơn thảm thiết dầy vò kể cả việc tự sờ mó thân thể mình trong cơn dục vọng.Người chồng đã chết vẫn ám ảnh nàng với hình ảnh của bộ đồ bay phi công và những ngày tháng sống ở thành phố biển đã là một ám ảnh không nguôi.

Hà gặp Vinh, một phóng viên chiến tranh và một mối tình bắt đầu với đam mê nhưng lại kéo theo những khúc mắc của đời sống, Hà sợ cô đơn nhưng cô đơn lại như một ám ảnh khiến đời sống như cứ dài ra nỗi khắc khoải.. Hai người yêu nhau nhưng tự biết khó thể gần nhau vì mỗi người đều có cuộc sống riêng, có phận đời riêng. Nhưng dục vọng và sự ân ái cứ như sợi dây trói buộc và con người như không thoát ra được. Cuộc sống như một chọn lựa bắt buộc. Có lúc Hà muốn bắt cặp với một người Mỹ say mê nàng nhưng rồi vẫn chỉ là những nửa vời của mê đồ không ngõ thoát.

Ở Nguyễn Đình Toàn và tiểu thuyết Ngày Tháng, nhân vật như lúc nào cũng ở trong trạng thái chiếu đấu khốc liệt giữa bản năng và sự hướng thiện. Khi nằm ôm người tình để ngày mai đi vào quân trường, sự cô đơn như nỗi chết cứ chập choạng vây quanh đời sống.

Nhân vật của Con Đường và Ngày Tháng là đàn bà thì trong tiểu thuyết Không Một Ai thì nhân vật lại là một người thanh niên bị thương trong một cuộc hành quân giải ngũ trở về thành phố làm một công việc văn phòng. Vết thương về thể xác vẫn còn trong khi về tâm não thì cũng bị khủng hoảng theo. Nhân vật ở đại danh từ ngôi thứ nhất xưng tôi là một người có ý hướng muốn thay đổi cuộc sống mình, quên và bỏ đi những ký ức cũ, và cả hiện tại cũng đầy vết thương. Nhưng tất cả chỉ ở trong ý nghĩ thôi, và đời sống cứ như thế một mực chán chường của những vết thương không lành miệng.

Tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn thường xuất hiện rất ít nhân vật và những nhân vật thường hay độc thoại, ít fối thoại và thường là những khám phá đi sâu vào nội tâm con người. Ở trong tiểu thuyết Không Một Ai, cũng chỉ có bốn nhân vật, gồm chàng thanh niên xưng tôi, người nư õlúc bỏ đi lúc trở lại tên Ph., Trang , người đàn bà đau khổ có số phận không may và Kế , người đàn ông đứng tuổi nhưng lại có đam mê của thời mới lớn. Những nhân vật ấy chia xẻ với nhau những định mệnh , mà sự bất hạnh dường như lúc nào cũng lẩn khuất và hạnh phúc là những giây phút chen lẫn ngắn ngủi. Chàng trai xưng tôi trong truyện thì người tình vừa bỏ đi, đời sống thì đầy những cơn đau về thể xác lẫn lộn về những ảo tưởng của tâm trí nêncuộc sống ấy như phủ đấy những bóng tối. Trang , người đàn bà làm chung sở cũng chẳng may mắn hơn , cũng chuyện tình cảm gãy đổ, sống với bà mẹ và hai đứa con và trong lòng luôn khao khát một cuộc tình , để lấp cho đầy khoảng trống. Chàng trai thì lại nhìn Trang để nghĩ tới người tình đã bỏ đi , ân ái với Trang để tưởng tới những thỏa mãn nhục dục từ Ph., người tình lang chạ.

Tình yêu trong phần đông tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn phần đông đều có những gãy đổ và thường là những nửa vời trong cuộc sống họ. Có y chỉ là ý nghĩ, rất mong manh và thoảng qua. Nó phác họa một thế giới khác, một không gian thời gian khác mà rất ít chất cụ thể. Nó gần như của một con người khác luc 1nào cũng tự đi kiến mình và đời sống mình dù con người ấy, ngày tháng ấy, khung cảnh ấy vẫn sờ sờ trướcc mặt. Họ vong thân trong chính cuộc sống của họ. Trong Không Một Ai, nhân vật nào cũng đều có một thế giới riêng . Ngay cả Kế, một người lớn tuổi cũng làm việc chung với nhân vật xưng tôi và Trang cũng là một nhân vật lạ lùng. Khi nghe người con là trung úy Quân y bị chết ở chiến trường, cũng là lúc vừa được lên chức, Kế như người bị phân đôi và chẳng biết làm gì nên rủ người bạn trẻ đi hút. Chiến tranh, hiện hữu với vết thương của nhân vật xưng tôi, hay cái chết của con trai Kế, chỉ là một nhắc nhở về cơn dông bão mà thôi.

Rồi những phức tạp, những xếp đặt của định mệng để Trang ngủ với Kế, rồi tính phá thai rồi nhân vật tôi lại muốn cứu vớt, rồi Ph. Người tình trở về , rồi trang chết. Tất cả những diễn tiến ấy là đoạn kết của Không Một Ai. Một câu truyện rất hiện sinh , của những người hiện hữu trong cái phút giây hững hờ của cuộc sống. Mà, tiểu thuyết ấy cũng chính là một hành trình của những cuộc viễn du vào thế giới nội tâm, mà những con đường hình như đầy ngõ rẽ và nhiều bóng tối, của chính cuộc sống và những cảm nghĩ về cuộc sống.

Trong văn chương, Nguyễn Đình Toàn đã có định kiến về cõi sống, một định kiến mà chiều sâu của sự u ám bi quan đã làm khuất lấp đi bề mặt của cuộc sống hiện hưũ. Ông muốn đi sâu vào ý thức, để từ đó soi rọi thêm những nhận định, nhìn rõ thêm chân dung con người và đôi khi cả mặt sau của chân dung ấy. Ông viết như một cách thế để “kể về “hoặc “nói về” mà không phải là “viết về”. Và cách nói hay kể cũng đềutrầm lắng , mà cảm quan thì được dấu đi những phẫn nộ hay phản kháng, thành ra tiểu thuyết của ông có nét riêng của một sự chấp nhận. Chấp nhận cã những hữu lý và vô lý của cuộc đời. Những nhân vật ấy, tuy đầy dẫy trong thế giới chúng ta nhưng lại được nhìn và tả khác đi thnah những nhân vật của riêng Nguyễn Đình Toàn với tất cả cá tính của một cuộc sống bề trên thì có vẻ tĩnh lặng nhưng bề sâu là đầy những cuộc sóng lớn. Và, dù ở trong một đất nước hciến tranh, cuộc chiến vẫn là những bề sau khuất lấp, tuy nhiều ảnh hưởng nhưng lại có mặt như một nỗi tình cờ…

Đọc văn Nguyễn Đình Toàn, thấy thấp thoáng những khuôn trời thơ mộng. Và với Aùo Mơ Phai, xuất bản năm 1973 đã đoạt giải thưởng văn học toàn quốc.

Sống ở hải ngoại, ông viết mục phác họa chân dung tác giả cho các báo và sau đó ông chọn lại và in Bông Hồng Tạ Ơn.

Suốt một hành trình văn chương dài hơn nửa thế kỷ, tác giả “ Bông Hồng Tạ Ơn” đã có thật nhiều dịp tiếp xúc, làm việc, hoặc thân tình với nhiều nghệ sĩ trong nhiều bộ môn nghệ thuật. Thành ra những cảm nhận của ông về người, về thơ, về văn, về nhạc .. đều có nét chính xác cũng như sâu sắc và khiến người đọc hình tượng được những cá tính của những khuôn dáng nghệ sĩ ấy. Với 190 tác giả Việt Nam được phác họa trong bộ sách 2 tâp, độc giả có thể mường tượng được một thời kỳ văn học nghệ thuật có nhiều khai phá, Với cách viết ngắn gọn nhưng cô đọng và khá đầy đủ, từng tác giả và từng tác phẩm được biểu hiện trung thực. Đây có lẽ là một công trình làm phong phú hơn sinh hoạt văn học ở hải ngoại và là những tài liệu cho những người còn yêu ngôn ngữ Việt và văn chương Việt. Có nhiều tác giả khá lạ với người đọc cũng như có nhiều bài nhạc bài thơ tưởng đã quên lãng thì với cái trí nhớ gần như xuất thần , tác giả ghi chép lại khá chính xác và đó chính là điểm rất đặc biệt của tác phẩm “ Bông hồng Tạ Ơn”…

Hình như, những chân dung nghệ sĩ được đề cập đến được chọn lựa tùy cảm hứng và không có một tiêu chuẩn nào. Và tác giả cũng không muốn làm công việc chọn lọc những vóc dáng nghệ sĩ tiêu biểu trong tập sách này. Ông yêu thích và nhớ được tác giả và tác phẩm rồi viết ra với cảm tình của mình.

Nguyễn Đình Toàn cũng là một nhà thơ nổi tiếng. Những tập kịch thơ như Phạm Thái Trương Quỳnh Như hay tập thơ Hồi Sinh, hoặc tập thơ đầu Mật Đắng tạo cho ông có một vóc dáng hti sĩ mà về sau này ông đã mang ngôn ngữ của thi ca hòa hợp cùng với cung bậc của âm nhạc thành những ca khác có sức lôi cuốn thính giả.

Ở trong những tập sách bìa dầy chép thơ của các cô cậu học trò thường có nhiều bài thơ được chép với sự nâng niu trìu mến. Khi tuổi đã lớn, đọc lại những bài thơ ấy, như có một chút vọng động nào ngân nga. Có thể là bước đi về của thuở hoa niên ngày cũ..

Thơ Nguyễn Đình Toàn, nhẹ nhàng như bài thơ Khi Em Về:

Khi em về trời xanh và gió mát
Con đường mòn thơm lá mục quê hương
Vườn cải ngồng rủ ong bướm về sân
Anh nằm đây buổi trưa và tiếng nắng
Mặt đất mềm bước chân em chợt nhẹ
Lá tre vàng dồn thổi mùa thu đi
Luống huệ ấy xòe những vầng hoa trắng
Và dầy thêm lá rụng lớp phên che
Quê mẹ đấy ưu phiền nhiều qua 1lắm
Hàng cau già mo thương bẹ quắt queo
Anh nằm đếm những ngày rồi những tháng
Đi qua dần khi nước mắt buông theo..”

Có khi là thơ buồn, thơ của những lời ru từ xa xưa vọng lại, từ hiện tai thổi về, Thơ của lời ru cuối cùng cho một cuộc tình xa cách:

Ru em lần cuối cùng này
Bằng hơi mát của một ngày sắp xa
Bằng giờ phút sắp chia xa
Rồi thôi rồi chẳng bao giờ nữa đâu
Giòng kinh năm ngón son cầu
Với môi mặn với hồn trao nghẹn lời
Với sầu xưa ngút trên vai
Tóc xanh non với khuy cài áo thơm
Hàm răng mát tuổi má tròn
Đường thêu chỉ đã hao mòn đây em
Gió trời xin ngủ bình yên
Coi như giấc mộng ưu phiền đấy thôi
Mây cao với mắt trông vời
Soi gương trán bỏng quên người tôi đi”

Có khi thơ lại là những bước đi về. THƠ Nguyễn Đình Toàn đấy nhữngchỗ đi và nơi về, nơi chốn mà không gian thời gian ngưng đọng từ nỗi buồn chia xa của sẵn thiên cổ riêng dành:

Khi em trở về
trời mùa đông đen
căn nhà không người
và mùi ẩm mốc
Khi em trở về
Tay đầy nước mắt
Trên thành cửa bụi
Tuổi thơ đi qua
Khi em trở về
Mộ người yêu đó
Hoa trên phiến đá
Cỏ buồn ngón chân
Và cơn gió rét
Que diêm bật lên
Que diêm bật lên
Những mơ ước cũ
Sáng lên một lần
Những hình ảnh cũ
Tắt đi một lần
Khi em trở về
Bàn tay khói hương
Buồn xưa sắp hết
Nói gì đi em!”

Viết về văn sĩ và thi sĩ Nguyễn Đình Toàn như vậy vẫn chưa đủ.tôi muốn viết nhiều hơn về nghà nghệ sĩ của tình yêu tuổi trẻ một thời. Nhưng xin hẹn một bài khác. Để tiếp tục, tôi viết về phần tới sẽ đăng tiếp ở kỳ tới. Chân dung nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn và chương trình Nhạc Chủ Đề lẫy lừng ngày xưa, một chương trình của những người trẻ thời ấy. Bây giờ, đã thành những người muôn năm cũ hướng vọng về một thuở nào sống mãi trong ký ức của đời người