văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Friday, February 10, 2012

KIM TUẤN * XUÂN TẬN MIỀN XA


Hải Xuân

Chiều qua biên giới xuân vừa đến
ngẩng mặt nhìn lên chỏm núi xa
gió qua Hạ Lào mây giăng thấp
rừng lá chồi xanh bỗng nhớ nhà

Nhớ nhà xa lắc phương trời đó
nhìn dưới đèo cao mây trắng bay
đêm có mình ta nơi đất lạ
cũng buồn như những thoáng men say

Men say chất ngất chiều chưa hết
Tây bắc rừng xanh màu lá xanh
Tây bắc người đi chưa trở lại
Sông buồn con nước chảy loanh quanh

Sông buồn con nước trôi ra biển
gửi mộng về xuôi nặng mối sầu
gửi mộng về xuôi đường dốc ngược
phương trời chinh chiến nhớ thương nhau

Thương nhau đêm gối tay trên đất
nằm giữa rừng hoang nghe gió qua
bóng cây xào xạc rung cành lá
ta có mùa xuân tuổi đã già

Kim Tuấn

Wednesday, February 8, 2012

TIỂU TỬ * Xíu


Lương Trường Thọ

Nàng là người Việt gốc Hoa. Tên nàng là Trịnh Tiểu Mi, một cái tên rất... "tài tử Hồng Kông". Mà thật sự, nàng cũng có nét tài tử Hồng Kông, bởi vì nàng đẹp. Ở nhà gọi nàng là "A Xíu", một cái tên có âm thanh thật dễ thương. Và cũng hạp với con người của nàng: nhỏ nhỏ thon thon, cân đối gọn gàng như con búp-bế.
 
Gia đình nàng có nhà ở Chợ Cũ Sàigòn.Tầng dưới là cửa hàng bán cà phê đã rang rồi, cà phê hột và cà phê xay đủ loại. Hai tầng trên để ở và sân thượng là nơi rang cà phê.
Nàng là con gái duy nhứt của gia đình, lại là đứa con út nên được cưng như trứng mỏng. Hai người anh đã có gia đình, đã "ra riêng", cũng bán cà phê nhưng ở tuốt trong chợ lớn. Ngày ngày, nàng phụ "mà má" đứng bán cà phê. Khách hàng tới mua nườm nượp, nhất là giới trai trẻ. Cà phê được pha trộn và rang theo lối thủ công gia truyền, ngon có tiếng. Bán đắt đã đành nhưng cửa hàng đông khách, có lẽ phần lớn tại vì nàng duyên dáng dễ thương ! Bằng cớ là thiên hạ nói "Cà phê A Xíu" chớ không ai nói "Cà phê Hối Ký" là bản hiệu của cửa hàng !
 
...Chàng là người Việt "chánh cống", quê ở Cần Thơ. Chàng thuộc gia đình nông dân, ba đời làm ruộng. Chàng tên là Bảy vì là thứ bảy. Dáng vóc chàng cao ráo, "đô" con, nhưng tánh tình thì trầm lặng ít nói, còn có vẻ... lù đù nữa ! Vì vậy nên hồi đi lính quốc gia, bạn đồng đội "gắn" cho hỗn danh "thằng Bảy Lù".
 
Hồi thời trước, nhờ bà con quen lớn sao đó mà chàng được về làm việc văn phòng ở tổng tham mưu. Chàng mướn một căn gác nhỏ ở khu cổng xe lửa số 6 để ở, rồi ngày ngày đi làm bằng xe đạp. Chàng không đủ sức mua Honda nên lúc nào cũng thấy đi xe đạp, cho dầu phải đạp xa cách mấy...
 
Chàng và nàng gặp nhau lần đầu trong bữa tiệc cưới của một người bạn chung. Chú rễ này cố tình sắp cho họ ngồi cạnh nhau, cùng bàn. Bởi vì khi giới thiệu, anh ta nói : "Đây là Tiểu Mi, người đẹp Chợ Cũ. Chưa có kép nào được lọt mắt xanh của nàng hết. Mày liệu thử thời vận coi ra sau. Còn đây là thằng Bảy, bạn cùng đơn vị. Nó hơi cù lần nhưng dễ thương như một tờ giấy trắng. Anh sắp nó ngồi cạnh Tiểu Mi để nó... hầu Tiểu Mi đó nghen !" Nàng nhìn chàng, mỉm cười mà hai vành tai đỏ ửng. Chàng gật đầu, nói lí nhí : "Hân hạnh...". Vậy rồi họ quen nhau...
 
Về đơn vị chàng giới thiệu "cà phê A Xíu". Mấy xếp lớn xếp nhỏ uống thử, khen ngon. Sau đó, cứ vài hôm là chàng đạp xe xuống Chợ Cũ mua cà phê giùm mấy xếp. Nhờ vậy, họ thân nhau. "Pà-pá , mà-má" của Xíu cũng mến "thằng Bảy", nên thường nói : "Tội nghiệp thằng nhỏ ! Đạp xe lên xuống mua cà phê hoài mà không nghe than một tiếng".
 
Rồi họ được phép đi chơi với nhau. Đi xe đạp, mỗi đứa một chiếc, chạy song song. Những lúc đi như vậy, chỉ có mình nàng nói, còn chàng thì mỉm cười lắng tai nghe, lâu lâu góp vào vài câu, nhưng góp đúng lúc. Nàng thích chàng ở chỗ tế nhị đó. Còn chàng thì thích nghe nàng nói, nói bất cứ chuyện gì. Bởi vì giọng nói của nàng đã dễ thương mà cách nàng nói càng dễ thương gấp bội.
 
Vậy rồi họ yêu nhau lúc nào không biết ! Họ chưa từng nói "yêu nhau" nhưng họ biết họ yêu nhau. Bởi vì họ nói tình yêu bằng đôi mắt và họ nghe lời yêu bằng tất cả con tim...
Một hôm -chàng nhớ hoài cái hôm đó, đến bây giờ vẫn còn nhớ rõ, và có lẽ mãi mãi về sau ... ờ... mãi mãi về sau ... chắc chẳng bao giờ quên- hai đứa hẹn nhau đi chơi, Xíu nói : "Em để xe đạp ở nhà. Đi chơi mà đạp xe song song cứ phải nhìn qua ngó lại, sợ té sợ đụng, có khi quên bẵng đi mình đang nói cái gì ... thành ra mất đi cái thú đi chung với nhau". Rồi nàng nghiêng nghiêng đầu nhìn chàng, cười cười : "Em muốn anh chở em đi, được không ?". Chàng sung sướng, gật đầu. Nàng ngồi lên pọt-ba-ga, hai chân buôn thõng một bên, một tay nắm lấy phía sau yên xe. Dáng nàng ngồi thong dong thoải mái. Chàng đạp xe, nghe nhẹ phiêu phiêu. Một lúc, chàng hỏi "Xíu ngồi có được không ?". Nàng trả lời: "Được chớ anh". Rồi tiếp: "Anh thấy không ? Mình đi chung một xe như vầy, nói chuyện với nhau có phải thích hơn không ? Dĩ nhiên, anh ngồi phía trước, em phía sau, mình không nhìn nhau được trong khi nói chuyện. Nhưng mình đâu cần nhìn nhau mà mình vẫn thấy nhau phải không anh ?".Chàng nghe mát cả lòng. Chàng gật đầu rồi nhấn mạnh lên bàn đạp cho xe đi nhanh nhanh như để nói lên niềm phấn khởi ! Rồi đột nhiên chàng nói, lời lẽ không biết từ đâu tuôn ra : "Xíu à ! Chở Xíu đi như vầy, có phải đạp suốt ngày, suốt tháng, suốt năm... anh cũng đạp nổi." Nàng cười sung sướng, đưa tay véo hông chàng một cái. Sao nàng thèm cắn người yêu thật đau cho hả "cái gì đó" đang căng đầy lồng ngực...
Từ đó, có đi chung thì luôn luôn chàng đèo nàng sau xe...Dễ thương quá là tình yêu của Bảy và Xíu !
 
 
Vậy rồi có ngày 30 tháng tư 1975... Phải có ngày đó, để đổ nát được cách mạng đề cao. Phải có ngày đó, để hoang tàn được cách mạng xem là thành tích. Miền Nam giống như nùi giẻ rách, nhờ đã được giải phóng hoàn toàn !
 
Hai người anh của Xíu đã đưa vợ con di-tản. Pà-pá, mà-má và Xíu ở lại buôn bán lai rai, chờ coi có "làm ăn gì được không". Cửa hàng bây giờ thâu gọn lại chỉ còn có hai thùng kiếng nhỏ đặt phía trước. Bảng hiệu đã được gỡ xuống cất trên sân thượng. Mấy dụng cụ rang cà phê được chất ngổn ngang trong một góc, giống như đồ phế thải. Làm như vậy để thấy cái vẻ nghèo nàn, làm ăn khó khăn...
 
Bảy học tập ba hôm rồi về làm thợ phụ cho bác Năm thợ hồ ở cùng xóm. Chàng có "xẹt" qua Chợ Cũ thăm người yêu mấy lần. Bây giờ họ không còn thì giờ để đi chơi với nhau bởi vì ai cũng bận rộn bởi các buổi hội họp, học tập, khai báo, đi mết tinh v.v... là những thứ sanh hoạt rất cần thiết để đưa nhân dân lên làm chủ (Nhà Nước nói như vậy). Thành ra mỗi lần họ gặp nhau, họ coi thời gian quý như vàng ! Có lẽ vì vậy mà bây giờ họ nhìn nhau nhiều hơn là họ nói chuyện với nhau...
 
Thời gian sau, chánh quyền "đánh tư sản mại bản".Gia đình Xíu không tránh khỏi "đại nạn" này. Những người "cách mạng" xong vào nhà ngang nhiên và hùng hổ như một bọn cướp. Họ "bươi" từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước... giống như gà bươi đống rác. Gặp gì kiểm kê nấy. Vậy rồi... hốt hết ! Mà-má và Xíu chỉ biết ôm nhau mà khóc, còn Pà-pá thì ngồi trên ghế xích-đu, xích tới xích lui hút thuốc, nín thinh.
 
Sau "trận" đó, nhiều người nhảy lầu tự tử. Nghe thấy như vậy, Pà-pá nói: "Làm như vậy đâu có giải quyết cái gì ? Tụi nó còn cười, nói mình ngu ! Từ từ rồi tính nữa." Trong khi chờ đợi pà-pá "tính nữa", mẹ con Xíu ngồi xổm trên vỉa hè bán giò-cháo-quẩy bánh tiêu... Bây giờ, Bảy vẫn đạp xe xuống thăm Xíu. Lần nào cũng được nàng cho một cái bánh. Chàng ngồi xổm một bên, ăn. Không đói, nhưng vẩn ăn. Và ăn thấy ngon !
 
Cách mạng không..."quản lý" được thời gian nên thời gian vẫn đi qua, ngạo nghễ. Thiên hạ lần lượt đi chui-cũng gọi là "vượt biên" -Phần đông đi bằng đường biển. Có người đi thoát, có người bị bắt. Những người đi thoát, có khi mất tích, có khi bị cướp. Dầu vậy, đi chui cũng đã trở thành gần như là một phong trào !
 
Thấy mỗi người vượt biên phải đóng nhiều cây vàng cho người tổ chức, cán bộ cách mạng "nhào ra làm ăn". Họ cũng tổ chức đi chui, nhưng là một loại đi chui không sợ bị bắt vì có chánh quyền ... hộ tống. Vì vậy, thiên hạ gọi là "đi chui bán chánh thức" ! Người Tàu được ưu tiên đi bằng cách này. Cho nên họ đi ồ ạt...
 
 
Một hôm, được thơ hẹn của Xíu, Bảy xin nghỉ việc buổi chiều, đạp xe xuống "Con Rùa" đường Duy Tân, đợi. Một cô gái chở Xíu tới bằng Honda, gật đầu chào Bảy, đợi Xíu bước xuống rồi quay xe đi vội vã. Xíu mặc áo dài trắng, tóc được cột túm lại sau ót. Nhìn đôi mắt mọng đỏ của người yêu, Bảy linh cảm có một cái gì không ổn. Bảy hỏi: "Có chuyện gì vậy, Xíu ?". Nàng không trả lời, nhưng nói giọng trống rỗng: "Anh chở em đi. Đi đâu cũng được". Đợi nàng vén vạt áo ngồi vững vàng lên pọt-pa-ga, chàng mới đạp xe đi. Đi chầm chậm, đi thẳng. Lần này, Xíu không nắm phía sau yên xe. Xíu vòng một tay ôm lấy nửa người của Bảy. Lần đầu tiên được bàn tay thon nhỏ của người yêu đặt lên bụng mình, Bảy thật xúc động. Chàng đạp xe mà tưởng chừng như trên đường phố chỉ còn lại có hai đứa...
Một lúc sau, Xíu mới nói: "Pàpá cho phép em đi chơi với anh từ giờ tới năm giờ chiều". Rồi nàng nghẹn ngào: "Đi với nhau lần cuối". Bỗng nàng chồm tới, vòng cả hai tay ôm chặt lấy người yêu, úp mặt lên lưng chàng, khóc ngất. Chàng nghe rớt ra từng tiếng rời rã trên lưng: "Tối ... nay ... em ... đi ...". Mồ hôi bỗng vã ra như tắm, nhưng Bảy vẫn còn tỉnh táo để đặt một bàn tay lên bàn tay người yêu bóp nhẹ. Cử chỉ đó làm Xíu không kềm được nữa. Nàng vừa khóc lớn vừa giúi giúi mặt lên lưng người yêu, mạnh thật mạnh- Làm như nàng muốn chui hẳn vào người của chàng để hai đứa chỉ còn là một, để nước mắt và mồ hôi của hai đứa hòa quyện với nhau cùng chung niềm thống khổ, để đừng thấy đừng nghe đừng biết gì gì nữa, chết lịm đi cho cuộc tình khép lại, vĩnh viễn khép lại... Tội nghiệp ! Rồi ngày mai, rồi mãi mãi, cuộc đời này còn ý nghĩa gì nữa đâu ?
 
Hai người vẫn đèo nhau đi... Đầu óc trống rỗng. Chẳng còn nói được với nhau chuyện gì hết. Và chắc cũng chẳng còn biết phát âm là gì nữa ! Niềm đau quá lớn đã làm cho họ như người câm. Hai người câm...
 
Xíu vẫn ôm lấy người yêu, áp một bên má lên cái lưng chắc nịch của người yêu, quên mất rằng đây là lần đầu tiên Xíu chạm vào người của Bảy ! Lâu nay, mặc dầu yêu nhau tha thiết, họ chỉ dám nắm tay nhau thôi, và nắm tay nhau chỉ có mấy lần. Xíu nhắm mắt, tưởng chừng như thời gian đang ngừng lại. Nàng bỗng nghe rõ hơi thở, nghe rỏ nhịp tim của Bảy, những thứ mà lâu nay nàng chưa từng nghe. Mũi nàng bỗng hửi được mùi mồ hôi, hửi được mùi da thịt của Bảy, những thứ mà lâu nay nàng chưa từng dám nghĩ tới. Nàng bỗng nghe hơi ấm từ người của Bảy chuyền sang người nàng âm thầm nhưng rõ rệt, thứ cảm giác dìu dịu lân lân mà lâu nay nàng chưa từng được biết. Nàng bỗng nhận thức rằng người yêu nàng là đây, còn hiển hiện trong vòng tay. Rồi sẽ không bao giờ được như vầy nữa. Bởi vì đây là lần đầu và cũng là lần cuối, lần cuối... Thương xót quá ! Nàng siết chặt người yêu với tất cả sức mình mà nước mắt trào ra không dứt..
.
...Rồi Bảy cũng phải đưa Xíu về. Chàng vừa thắng xe, chống chân xuống đất, nàng đã đứng xuống chạy ù vào nhà. Tà áo dài trắng của nàng lất phất vài cái như vẫy chào lần cuối trước khi khuất sau cánh cửa. Bảy chống tay lên ghi-đông, đầu gục xuống giữa hai vai. Chàng có cảm giác như mình đã kiệt sức...
 
...Xíu đi rồi, ngày nào Bảy cũng đạp xe đi long bong. Không biết đi đâu, cứ đạp chầm chậm, đạp hoài. Khát, thì tấp vô uống cái gì đó. Đói, thì tấp vô ăn đại cái gì đó. Ăn gì uống gì, không cần để ý tới nữa.
 
Vậy mà Bảy cũng đạp tới cái công viên nhỏ mà hai đứa thường hẹn nhau. Chàng dựng xe cạnh chiếc băng xi măng mà hai đứa thường ngồi, rồi bước lại ngồi giống như ngày xưa chàng vẫn ngồi để đợi nàng tới. Nhưng bây giờ thì chàng ngồi một mình, ngồi thật lâu. Và không biết tại sao lại phải ngồi như vậy !
 
Rồi lại đạp xe đi loanh quanh. Không cần biết đi đâu...
Vậy mà Bảy cũng đi đến "Con Rùa" đường Duy Tân, chỗ hai đứa thường đến ăn kem, uống nước dừa. Chàng dựng xe rồi lại ngồi lên bệ gạch, chỗ quen ngồi để đợi nàng đến. Chỗ đó nhìn thẳng xuống sau lưng nhà thờ Đức Bà, nàng luôn luôn đi từ hướng đó đi lên, hướng mà bây giờ chàng nhìn đâm đâm, nhìn mãi...
 
Vậy mà Bảy cũng đi đến con đường Đinh Tiên Hoàng, khúc rộng thênh thang dẫn dài xuống bờ sông. Hai đứa thường đi bộ ở đó vì đường vắng và mát. Đường đó bây giờ vẫn vắng và mát, Bảy dẫn xe đi bộ chầm chậm như ngày xưa...
 
Rồi Bảy còn đến nhiều nơi nữa : sở thú, vườn Tao Đàn, con đò Thủ Thiêm, chùa Vĩnh Nghiêm, quán thạch chè Hiển Khánh... Những nơi những chốn mà hai đứa, ngày xưa, đã từng đến một lần, hai lần, nhiều lần. Không biết cái gì đã đưa đẩy chàng đi như vậy ?
Bảy không biết rằng mình đang đi lượm những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không có cái "ngày cách mạng thành công", thì cuộc tình đó đã không bị đập tan thành mảnh vụn... Để thấy cái gọi là "cách mạng thành công" đã thật sự thành công trong nhiệm vụ phá tan đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt tầm thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó !
 
Chuyện không nói Xíu có đi được đến bờ đến bến nào không. Điều mà người ta biết là có vài chiếc tàu "đi chui bán chánh thức" bị chìm vì gặp sóng to gió lớn. Việt cộng đã cho đi bằng loại tàu gần như phế thải, không còn đủ tiêu chuẩn vượt đại dương.
Nhưng chuyện nói rằng Bảy vẫn đạp xe đi loanh quanh, hết ngày này qua tháng khác. Và bây giờ Bảy hay đứng ở bờ sông Sàigòn, nhìn xa xâm rất lâu để chỉ gọi thầm có hai tiếng : "Xíu ơi...".
 
 
Tiểu Tử

Tuesday, February 7, 2012

MH. HOÀI LINH PHƯƠNG * Về Soi Bóng Mình



ngôthụymiên phổ thành ca khúc “ Về Soi Bóng Mình “
qua các giọng ca Quang Tuấn, Đoàn Thanh Tuyền.


 

Tiếng hát người buồn, làm tôi muốn khóc
Trí tưởng chợt về... những tháng năm xưa
Tôi cúi mặt dấu giọt buồn trong tóc
Môi ngậm ngùi qua hàng lá bay mưa


Người đánh thức niềm đau nào trở dậy
Tuổi thơ xa như quá khứ mịt mù
Nghe thấp thoáng bước chân mình trở lại
Những con đường kỷ niệm đã hoang vu

Chỉ còn dấu chim trên bờ cát ướt
Thành phố hoa vàng hiu quạnh mùa đông
Cô bé ngày xưa... mắt tròn bỡ ngỡ
Cách biệt như đời của một giòng sông

Tiếng hát người buồn, nên hồn tôi... bỗng khóc
Khi được một lần nhìn lại tuổi tên
Khi được một lần soi mình rạng rỡ
Về một khoảng trời biền biệt chìm quên.


 

mh.hoailinhphuong

Monday, February 6, 2012

LINH PHƯƠNG * Sinh nhật tháng hai 2012



Mùa xuân
em
sớm mai hồng
Vai ngoan anh giữ
thơm nồng áo xưa
Tháng hai
mở hội giao mùa
Bầy chim én
báo tin vừa sang xuân

Nến tình
thắp sáng đầu năm
Chờ giờ nguyên đán
em nằm cùng anh
Sáng mồng một tết
mới tinh
Nụ hôn xông đất
ra giêng em về

Tiễn nhau
cuối nẻo sương che
Tiễn nhau
cuối nẻo đường xe
đường đời
Sài Gòn
đẹp quá trời ơi !
Ngày sinh nhật
của
một người tháng hai


Linh Phương


 

ĐẶNG TIẾN * Bùi Giáng Nguồn Xuân

 




Ta về rũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
(Ta về, -Thơ Bùi Giáng)

Hôm mùng ba mùng bốn theo nhau đẩy lùi mồng một mồng hai của hôm nay Nguyên Đán
(Mưa Nguồn, tr. 164)

Câu thơ văn xuôi này của Bùi Giáng mang hai đặc tính: một là ý nghĩa nói về ngày Tết và mùa Xuân, hai là chữ nghĩa đi ngược chiều thời gian. Dĩ nhiên là mồng ba đẩy lùi mồng hai; mồng hai đẩy lùi mồng một. Như vậy hôm nay Nguyên Đán nằm ở vị trí nào trên chuỗi tháng ngày? Nói khác đi, Bùi Giáng đứng từ thời điểm nào ở đầu tháng giêng để phát ngôn?

Lời thơ theo trật tự số mục, và lối đếm thông thường: mùng một, mùng hai... mùng ba, mùng bốn... Nhưng theo ý nghĩa câu thơ, thì phải nói ngược lại: mùng bốn mùng ba (sẽ) theo nhau đẩy lùi mồng hai mồng một. Như vậy, nhà thơ phát ngôn từ ngày hôm nay Nguyên Đán, như Nguyễn Bính năm 1940:

Năm mới tháng giêng mồng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một trời Xuân

Nhưng nếu hiểu (đã) theo nhau, thì tác giả lên tiếng vào ngày mồng Năm. Và trong cả hai giả thuyết, trật tự chữ nghĩa trong câu thơ Bùi Giáng vẫn không thuận chiều.

Rối rắm như vậy để nói lên một điều cơ bản: thơ Bùi Giáng là một ''dòng nước ngược'', một tâm thức đi ngược chiều thời gian, trong một Sử Lịch, ngược dòng Lịch Sử.

Trong hàng vạn trang sách để lại, Bùi Giáng thường dùng từ Sử Lịch. Chỉ một lần dùng chữ Lịch sử để chối bỏ:

Sử Lịch phai trang
Chạy quàng
Là Lịch Sử
(Lá Hoa Cồn, tr. 55)

Xuân trong thơ Bùi Giáng là xuân không mùa, xuân duy nhất và tuyệt đối, mà ông gọi là Nguyên Xuân (Lá Hoa Cồn, tr. 26), là khởi thủy của nguồn sống, nguồn thơ, quê của Em Mọi, của Đười Ươi, đồng thời là đối tượng, là cứu cánh của sáng tạo, của Lời Cố Quận, Tiếng Gọi Về:

Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
(Mưa Nguồn, tr. 25)

Tác phẩm, và cuộc đời Bùi Giáng là niềm thủy chung trước sau như một với một Màu Hoa Trên Ngàn: ông khởi đi từ đây và trở về lại đấy.

Xuân là nguồn mạch thơ tuôn tuôn từ miền xa biệt:

Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết tự sơ ngộ màu hoa trên ngàn
 
*
 
Mùa Xuân xuất hiện thường xuyên trong tập Mưa Nguồn, và tái hiện trong Lá Hoa Cồn, về sau chỉ thấp thoáng mỗi ngày một ít, ở những thi phẩm cuối đời.

Mưa Nguồn thi phẩm đầu tay và đều tay nhất của Bùi Giáng được in năm 1962, gồm có nhiều bài làm từ 1948. Lời thơ trong sáng, tươi thắm và tha thiết, vào tập bằng hai câu mào đầu:

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau

là câu thơ nổi tiếng sớm nhất của Bùi Giáng, vì nó có thể được sử dụng ở nhiều tần số khác nhau: buồn hay vui, u hoài hay đùa cợt, ví dụ khi bè bạn gặp nhau ngoài phố, lặp lại câu thơ: xin chào nhau giữa con đường, dù không hiểu miên trường là gì.
Và ý tác giả có thể ngược lại: mùa xuân phía sau, miên trường phía trước. Cũng cần nói thêm, thời đó, 1962, thơ Bùi Giáng chỉ được truyền tụng trong một giới độc giả và bằng hữu, đồng hương, chứ không phải là một ''hiện tượng văn học'' như gần đây.

Có thể là thơ của tuổi xanh, nên tập Mưa Nguồn đã khởi đi từ nhiều hình ảnh thắm tươi, điệu thơ ánh ỏi:

Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này
(Những Nhành Mai, Mưa Nguồn, tr. 10)

Lời thơ tham dự với đất trời vào niềm hoan lạc của mùa xuân. Thể thơ cổ điển, nhưng tác giả đã trộn lẫn thơ bảy và tám chữ, với âm điệu lạ ở câu hai. Nhưng đặc sắc trong thơ Bùi Giáng, thời ấy là những hình ảnh tân kỳ, trong thể thơ truyền thống:

Tay lẩy bẩy níu gì xuân bay biến
Ô thiều quang! Làn nước cũ trôi mau
Em đi lên vói bắt mấy hương màu
Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mọc
Xa biệt lắm Mưa Nguồn trên mái tóc
Đã mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa
(Giã từ Đà Lạt, 1958, Mưa Nguồn, tr. 94)
 

Lời thơ diễn tả niềm hoang mang trước thời gian, ý tưởng không mới, nhưng lối kết hợp ẩn dụ thì mới, so với lối thơ tám chữ trước đó.

Ở Xuân Diệu, Huy Cận niềm ám ảnh của phôi pha không gây bất ngờ như với Ôi thiều quang! làn nước cũ trôi mau…

Trần gian phôi pha, thời gian hủy diệt, nhưng nhà thơ chấp nhận quy luật, nên đã ghì siết hai tay, Nàng Thơ đẹp của trần gian ứa lệ:

Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
(…)
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cành mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay vói kiểng chân cao
Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rồi ra vĩnh biệt với ngươi thôi
Ta chết lặng bó tay đầu lắc
Đài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi
(Phụng Hiến, Mưa Nguồn, tr. 30)

Những bài thơ tin yêu cuộc sống, tươi sáng và thắm thiết như vậy ít khi thấy ở những tập thơ sau, mà cũng ít người nhắc đến. Âu cũng là một thiệt thòi cho ông. Chúng tôi trích dẫn một bài thơ xuân thắm tươi, có lẽ làm vào mùa xuân 1973, toàn văn:

Nắng Nguyên Đán

Chạy đi em, nắng gió bốn chân trời
Về chân đất dưới chân em mọc cỏ
Nắng Nguyên Đán lục lam hay hồng đỏ
Tía vi vu hồng lục cũng bao hàm
Chạy đi em! sương gió nắng thênh thang
Trời đất đẹp từ bình minh vũ trụ
Nắng Nguyên Đán của nguyên xuân đầy đủ
Cỏ hoa hương chồi nhú lộc miên man
Nắng xuân xanh mở cỏ mọc hai hàng
Và riêng mở duy Một Hàng Ẩn Mật
Nắng phơ phất vì sắc hương phơ phất
Dưới khung trời mặt đất mở thênh thang
Chạy đi em, gót ngọc bỏ hai hàng.
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 54)

Phong cách nhắc lại một bài thơ trước:

Chạy đi em, qua vườn thắm theo ngày
Cùng với phút giây này phơi mở lá
Em ngó nhé cành xanh cây giục giã
Hoa nghiêng đầu ríu rít cạnh chim kêu …
(Mưa Nguồn, tr. 96)

Nhưng nhịp thơ nhanh, âm điệu khỏe, hình ảnh rộn ràng hơn, một điệu thơ hiếm có ở Bùi Giáng, nhưng vẫn lấy lại chủ đề nguyên xuân, và giọng lẳng lơ cố hữu, cỏ mọc hai hàng, đi đến ngôn ngữ Ẩn Mật về sau. Tóm lại, một bài thơ không Bùi Giáng mà vẫn Bùi Giáng.

Trở lại với giai đoạn Mưa Nguồn, chàng thanh niên Bùi Giáng còn giữ niềm tin ở mùa xuân, ở trần thế trong thời gian, ở Màu Xuân:

Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt,

hay trong bài Bờ Xuân tiếp theo:

Mùa xuân bữa trước mùa xuân bữa sau, xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích.
(Mưa Nguồn, tr. 38-39)

Mùa xuân, mùa xuân hiển hiện, lung linh ánh sáng, long lanh thinh sắc. Trong niềm hoan lạc của đất trời, con người an tâm vui hưởng, vì tin ở sự tuần hoàn miên viễn, như tin vào một cánh én:

Én đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
(Mưa Nguồn, tr. 62)

Người ta thường nói: xuân về. Chữ về tin tưởng an lạc như Về Cố Quận. Xuân về với gió đông, xuân mang thương nhớ trở về (Nguyễn Bính). Chữ về gây cảm giác ấm cúng, thân thiết, tin cậy:

Mùa xuân hẹn Thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
Với dòng trong em hẹn ở bên đường
Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời ai vạn đợi đã chia lìa
Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.
(Mưa Nguồn, tr. 61)


Thơ là hạnh phúc của ngôn từ như trong Một Ngày Lễ Hội, tên một bài thơ Holderlin được Heidegger bình minh. Hạnh phúc trong lời nói, của lời nói, dù nói để chẳng nói gì: thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia. Câu thơ không mang lại một thông tin nào cả. Xưa kia làm gì? Bờ nước ấy: ấy nào? Nào ai biết. Chỉ biết là không gian và thời gian hạnh phúc. Hạnh phúc không cần nội dung. Hạnh phúc không cần lý do, không cần tự thức.
Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài, cổng xô còn vọng... Bùi Giáng mách ta thế, và có lần kể:

Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên
(Ca dao, Mưa Nguồn, tr. 143)

Nhà thơ không cho biết đã có lần làm gì, nhớ gì và quên gì, nhưng chúng ta cảm rằng xưa kia ấy là hạnh phúc, ngay trong nhịp thơ tần ngần, ngập ngừng, lơ đãng. Hồ Dzếnh rất được Bùi Giáng yêu thích, đã thật thà hơn:

Có lần tôi thấy tôi yêu
Dáng cô thôn nữ khăn điều cuối thôn
Xa rồi, nay đã lớn khôn
Biết cô hàng xóm có còn nhớ nhau?

Chúng ta đối chiếu, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai tác giả, và đặc sắc của thơ Bùi Giáng mà chúng tôi gọi là hạnh phúc của ngôn ngữ:

Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn

Hạnh phúc ấy là Xuân Trần Gian, ăm ắp trong thơ Bùi Giáng, thời điểm mưa nguồn trên mái tóc. Cùng với tinh thần đó, trước khi mất, ông đặt cái tên Thơ Vô Tận Vui cho một tập di cảo sắp sửa được xuất bản.

Tuy nhiên, niềm vui vô tận ở đây chỉ là một minh triết về cuộc sống. Từ đó không thể nói đời và thơ Bùi Giáng lúc nào cũng vui, dù theo lẽ buồn vui tương đối của sự đời. Vui ở đây hiểu theo nghĩa hiền triết Đông Phương, như cá vui, bướm vui trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Nhìn dưới góc độ tư tưởng hiện sinh của Phương Tây, thì ngược lại, có thể nói đến “bi kịch”.

Từ 1948, Bùi Giáng có câu thơ sấm ký: Ngày Xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu (Mưa Nguồn, tr. 57). Câu thơ quan trọng, mang mâu thuẫn, có tính cách biện chứng, giữa thiên thu và sơ ngộ. Một mặt, nó nằm trong mạch Vũ Trụ Ca của Huy Cận:

Lòng chim gieo sáng dệt vân sa
Trên bước đường xuân trở lại nhà
Mở sách chép rằng: vui một sáng
Nghìn năm còn mãi tấm lòng ta
(Áo Xuân, 1942)

Mặt khác, nó báo hiệu cho chủ đề ''chết từ sơ ngộ'', và Màu Hoa trên Ngàn sơ khai đã là Màu Hoa Cuối Cùng:

Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ Màu Hoa Cuối Cùng
(Chớp Biển, tr. 45)

Bùi Giáng, rất sớm, đã linh cảm rằng mình suốt đời đứng nguyên ở một tọa độ, xác định bởi một không gian Cố Quận và một thời điểm Nguyên Xuân:

Rồi tôi lớn, đi vào đời chân bước
Cỏ Mùa Xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu? Xưa chính ở chỗ này
(Chỗ Này, Mưa Nguồn, tr. 82)

Có một mùa xuân nào, tuần hoàn trong trời đất, cùng với niềm vui nào đó. Nhưng có một hạnh phúc khác, màu xuân khác không bao giờ trở lại với nhân gian:

Mưa Nguồn cũ quá xa rồi một trận
Ôi xuân xanh vĩnh biệt như thể nào
(…) Người viết mãi một màu xanh cho cỏ
Người viết hoài một màu cỏ cho xuân…
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 22-23)

Rồi suốt đời, khi sáng suốt, khi cuồng điên, qua hằng vạn trang sách, người thơ chỉ làm hoài làm hủy một bài thơ, vẽ cho mình một chân dung duy nhất, như viết hoài một màu cỏ cho xuân.

Xuân mười sáu suốt bến xuân chìm tắt
Một bài thơ gieo suốt tự bao giờ
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 11)

Năm mười sáu tuổi đã xảy ra biến cố gì trong đời tác giả làm chìm tắt mùa xuân? Chúng ta không biết, chỉ biết là ông làm thơ từ tuổi ấy, khoảng 1942, tại Huế, theo lời ông kể ở đầu sách Lời Cố Quận.

Xuân về xuân lại xuân đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về

Hai câu thơ đơn giản. Ngớ ngẩn mà thâm sâu. Vớ vẩn mà thần sầu.
Thâm sâu ở chỗ: lời nói tự hủy, tự lời bôi xóa lời. Câu thơ có nghĩa là: tôi vô nghĩa.
Thần sầu ở chỗ: không mấy ai thấy cái chốn thâm sâu.

Thơ Việt Nam nhiều câu hay. Nhưng hay kiểu Bùi Giáng, xưa nay có một.

*

Mưa Nguồn, tên sách là một từ ngữ, hình ảnh thông thường, như trong thành ngữ dân gian, chớp bể mưa nguồn.

Những trận mưa rừng núi là hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, có lẽ Bùi Giáng đã nhiều lần chứng kiến cụ thể thời trai trẻ, khi chăn dê miền Trung du Trung Phước, khoảng 1946. Đây là những trận mưa giông lớn, ào ạt đổ xuống rất nhanh, nhất là vào mùa hè, gây ấn tượng mạnh. Mưa Nguồn có thể hiểu theo nghĩa đen.

Lại thêm nghĩa bóng: mưa móc, ân sủng dội xuống nơi cội nguồn cuộc sống, ào tuôn, ''giáng'' xuống một lần rồi thôi, nhưng cũng có thể trở lại, trong lẽ tuần hoàn, như lời chờ mong của Tản Đà: Nước đi ra bể lại mưa về nguồn, trong Thề Non Nước.

Cần hiểu thêm, chữ nguồn, ở quê Bùi Giáng, còn có nghĩa đời sống của dân tộc thiểu số ở miền trung du Trung Bộ, mà Bùi Giáng thường xuyên tiếp xúc. Họ thuộc nhiều chủng tộc, chủ yếu là người Gié Triêng và Ca Tu, mà cuộc đời hoang dã đã tạo ra và lưu lại nhiều ấn tượng sâu xa trong tâm thức Bùi Giáng. Cuộc trao đổi hàng hóa giữa hai miền xuôi ngược – ngày nay gọi là Kinh Thượng – đã để lại câu ca dao:

Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên

Nậu nguồn là những thương nhân chuyên môn buôn bán với Mạn Ngược. Và ở đây có thể phát âm hai vần ngùn/chùn theo giọng Quảng Nam của Bùi Giáng, cũng như Mưa Ngùn. Như vậy mới kết vần được hai câu ca dao địa phương khác, mà Tế Hanh hay Sơn Nam ưa tham chiếu:

Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên ngùn (nguồn) đốt than

Thơ Bùi Giáng, có khi cần phải phát âm theo giọng tác giả, mới thú vị:

Chén trà sương sớm bên thềm
Vừa chờ chim hót vừa thèm chim (chiêm) bao.
(Chén Trà, báo Thời Văn, tr. 24)
Chim hót đối ngẫu với chim (chiêm) bao.

Chữ Nguồn ở Bùi Giáng là một hình ảnh vừa quê mùa vừa uyên bác, tự nhiên mà tinh tế. Gốc Hán Việt là ''nguyên'', là nguồn cội, là nguồn sống, là Sơ Nguyên Ngọn Suối: con chim điên vì nhớ Suối vô cùng. Suối cũ Suối xanh Suối bờ mọc cỏ. Suối võ vàng em có hai tay Suối mừng nhìn thấy. Suối khóc suốt đêm bây giờ suối nín… (Gió Nguồn, Lá Hoa Cồn, tr. 75).

Suối ở đây là Nguồn Xuân Tinh Thể. Nhưng nói vậy là nói lắp, vì Xuân đã là Nguồn, và Suối đã là Xuân. Tiếng Anh rất hàm súc khi dùng một từ Spring để chỉ Xuân và Nguồn. Trong thơ Bùi Giáng, Xuân đồng nghĩa với Nguồn, như trong tiếng Anh. Nó là cõi uyên nguyên có trước Trời Đất, là ''cái cửa khe huyền diệu'' - ''huyền tẫn chi môn'' theo lời Lão Tử. Chữ ''tẫn'' Ngô Tất Tố diễn dịch là khe, mà có người ''cắt nghĩa là giống cái, tức là mẹ đẻ của muôn vật. Đó cũng là một nghĩa''. [1]

Có lẽ, từ đó hình ảnh khe, kết hợp với người Nữ, thường xuất hiện nơi thơ Bùi Giáng. Chữ môn nghĩa là cửa (nhân tạo), linh mục Dòng Tên, Claude Larre dịch là Porte (des secrètes merveilles) [2] có lẽ, về sau đã gợi ý cho Bùi Giáng làm đoạn thơ nổi tiếng bắt đầu với hai chữ ngõ là cửa:

Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài
Cửa xô còn vọng điệu tài tử qua

Niềm vui, nghĩa sống con người đã xô cửa bước ra từ cõi ban sơ ấy, và ngân dài, âm vọng qua lời thơ của người tài tử. Nhưng về sau lại lỡ từ lạc bước bước ra… và tác giả, hay độc giả có thể tùy nghi ráp nối nhiều câu lục bát khác vào đoạn trên, như Tuệ Sĩ đã gợi ý trong một bài báo rất uyên bác, trên báo Văn 1973:

Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Hoặc:
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay

Vân vân... Như đã nói: toàn bộ tác phẩm Bùi Giáng có thể xem như là một bài thơ duy nhất, một nét chữ lên đàng quẩn quanh. Và người đọc lý thú, vì cảm giác tham dự vào cuộc chơi, thậm chí là đồng tác.

Người đời thường trích dẫn mấy câu thơ hay, bề ngoài đơn giản, nhưng kỳ thật là phức tạp:

Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
(Chớp Biển, tr. 132)

Hai câu đầu là một hình ảnh từ chương. Câu sau đã khó hiểu hơn: một, hai, ba nghĩa là gì? Hoặc ta cho là thơ cà chớn, không cần tìm hiểu; hoặc ta tìm hiểu và tham chiếu vào Đạo Đức Kinh, lời Lão Tử: ''Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật''; ý thức con người đong đưa giữa cái nghi và cái diệu: không nghi thì không có diệu, không nhờ cái diệu thì không giải tỏa được cái nghi. Đo và Đếm là hai thao tác của Tâm và Tưởng để tiếp xúc và nhận thức ngoại giới: đo cái liên tục và đếm cái gián đoạn. Nhưng còn là, là gì? Là môi giới qua Lời Nói. Nhưng Lời Nói là gì? Chúng ta trở về vị trí đong đưa sóng biển giữa Diệu và Nghi.

Hiểu thơ Bùi Giáng không phải lúc nào cũng đơn giản. Mà không hiểu, chưa chắc đã đơn giản.

Bàn về một chữ Xuân mà phải dàn xa dặm dài, như vậy phải biết ngừng lời, vì:

Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
(Chào Nguyên Xuân, Mưa Nguồn, tr. 25)

*

Tháng 5/1969, Bùi Giáng vào dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh đã từ ''cuồng nhẹ chuyển sang cuồng nặng'', các bác sĩ trong viện đã hỏi ông về hình ảnh cô Em Mọi Nhỏ thường thấy trong thơ, và họ kể lại:

''Trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một bước đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bờ suối, anh vừa dừng chân thì ''bông hoa rừng'' nó cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm cười với anh, và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng chừng mình đang lạc vào suối Đào Nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm'' [3].

Câu chuyện, nếu quả có xảy ra thực cũng nên xem như một giai thoại và một biểu tượng. Người Em Mọi Nhỏ xuất hiện thường xuyên trong đời thơ Bùi Giáng, suốt một nửa thế kỷ khói lửa và biển dâu, không dễ gì giải thích được bằng một nụ cười sơn cước. Cuộc đời, đời ai và đời gì, cũng không đơn giản như vậy và đời Bùi Giáng lại có phần phức tạp hơn bình thường.

Gái Núi, hay Em Mọi Nhỏ, còn có tên Duồng mô Din, là một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng, và có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Đầu Nguồn, một sử lịch sơ khai, một Suối Xuân diễm tuyệt như đoạn trên đã nói.

Gái Núi là một khai thị, khai tâm, khai tứ, khai từ:

Em từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên thần mở ra
(Mười Hai Con Mắt, tr. 71)

Mở mắt để tiếp thu mùa Xuân Tinh Thể
Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân
Ban Sơ núi đỏ chào mừng non xanh
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 34)

Em Mọi là quần thể, lập thành xã hội sơ khai một ảo ảnh mà nhà thơ đã tiếp thị thời hoa niên, và dần dà ngày một ngày hai đã cấu trúc thành một triết lý uyên nguyên, cấu trúc nguồn thơ và tiềm năng sáng tạo:

Em ở trong rừng
Mọi chị mọi em
Sinh bình quay quần
Suốt mấy mùa xuân
Một thời thơ dại
Em là em mọi
Em ở đâu rồi
(Tặng Em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 215)

Mọi chị mọi em, vị chi là nhiều em mọi.

Kết hợp với mấy mùa xuân, thời thơ dại, hình ảnh Em Mọi ở đây, cũng như ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu ở nơi khác, không phải là hoang tưởng tình ái nam nữ song phương, kiểu Kinh Thượng giao duyên, như trong những bài hát Bông Hoa Rừng, hay Nụ Cười Sơn Cước.

Thậm chí trong thơ Đinh Hùng:

Nàng lớn lên giữa mùa xuân hoa cỏ
Nửa linh hồn u ám bóng non xanh
Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ
Nàng yêu ta, huyền hoặc mối kỳ tình
(…)
Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt
Làm đôi người cô độc thuở sơ khai
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài
Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc
Nàng là Gái Muôn Đời không đổi khác
Bộ ngực tròn nuôi dòng sống đương xuân
(Người Gái Thiên Nhiên, trong Mê Hồn Ca)

Người Gái Thiên Nhiên ở Đinh Hùng là một giấc mơ hiện đại, với bộ ngực tròn trên tấm thân mỹ nữ như trong những tiết mục trình diễn thi hoa hậu ở Âu Tây.

Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài là hoang tưởng lãng mạn từ Chateaubriand hồi đầu thế kỷ 19 còn ngân dài qua văn học, đến Đinh Hùng và nhiều tác gia khác.

Nhưng Bùi Giáng đã gặp thơ Đinh Hùng, và thân thiết với cá nhân Đinh Hùng. Bùi Giáng viết nhiều bài khảo luận về các nhà thơ đương thời và quen biết với mình, nhưng dường như chỉ tha thiết với thi phẩm của hai người, là Tuệ Sĩ và Đinh Hùng:
''Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận. Ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy. Ông muốn mang linh hồn nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh…'' (Thi Ca Tư Tưởng, tr. 132).

Tuy nhiên giữa cuộc gặp gỡ đó, có điều khác nhau: Nguyên Thủy trong thơ Đinh Hùng chỉ làm đề tài thi ca, cùng lắm là một ẩn ước. Ở Bùi Giáng là khối ẩn ức, hiểu theo nghĩa đẹp mà Bùi Giáng gọi là Mnemosyne, niềm nhớ nhung sâu kín, nỗi u hoài thao thiết, nguồn thi hứng chủ đạo.
Đinh Hùng đã có những câu thơ tình diễm lệ:

Thương nhau gói trọn hồn trong áo
Mất nhau từ trong tà lụa bay
(Hờn Giận, Đường vào Tình Sử)

Những nét diễm tình này, không thấy ở Bùi Giáng, cho dù về sau, Bùi Giáng cũng có vài lời thơ mang âm hao Đinh Hùng:

Em ở trong rừng một buổi xưa
Ngẫu nhiên tao ngộ gió sang mùa
Hai bờ lãnh địa đau lòng gọi
Sầu suốt giang sơn vọng tiếng thừa
Em ở trong rừng em cũng đi
Xuân tàn lửa hạ đốt trang ghi
Rừng thiêng sự tích mờ vân thạch
Vĩnh biệt lâm tuyền em bỏ đi
Mất hết rừng xanh suối ngọc rồi
Em từng là mọi mộng khơi vơi
Rừng xanh nắng biếc em cười nói
Một thoáng bình sinh giữa bốn trời
(Em Mọi là Em, Chớp Biển, tr. 84-85)

Rừng xanh, rừng thiêng, lâm tuyền ở đây không hẹn hò kỳ ngộ như ở Đinh Hùng, mà là nỗi tổn thương không cứu vãn.
Một trần gian lạc dấu Mùa Xuân:

Còn ngọn suối ngọn sông nào mất ngọn
Ngọn nguồn đi trên không ngọn không nguồn
Tôi leo mãi những ngọn đồi xa ngọn
Về xa xuôi những thung lũng xa nguồn
Nằm giữa phố giữa trưa tôi vẽ bóng
Con chuồn chuồn cuối hạ đón đầu thu
Con châu chấu cuối thu về lóng cóng
Sắp sang đông từ giã nguyệt hư phù
(Bài thơ Hay Nhất, Chớp Biển, tr.87)

Ở đây, một năm chỉ còn lại ba mùa, vì rừng đã thiêu rụi mùa xuân:

Em là em mọi
Xưa ở trong rừng
Nay rừng cháy hết
Em lạc ở đâu
(Tặng em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 214)

Trong chủ đề Người em Mọi, đời sống sơ nguyên, Mê Hồn Ca của Đinh Hùng không mang lại ảnh hưởng gì cho nguồn thơ Bùi Giáng lúc đó đã định hình, vững chắc, nhưng có lẽ đã vun đắp thêm vào niềm tự tin trong thi hứng của Bùi Giáng.

Trường hợp tư tưởng phương Tây, như của Heidegger, có lẽ cũng tác dụng như vậy, khi Bùi Giáng tiếp cận Heidegger. Triết gia Đức này bình luận thơ Holderlin, đề cập đến nguồn gốc vũ trụ, thời Hỗn Mang (Chaos) và Định Danh (Nomos) và tính hoang dã thần thánh (sainte sauvageté) đâm chồi nảy lộc, những hoang dã linh thiêng (sauvagetés sacrées), hoang dã vụng về trong thi tập Les Titans [4].

Và có lúc, Bùi Giáng đã đẩy niềm u hoài tiền sử của mình lên xa hơn nữa trong thời gian, qua hình ảnh Đười Ươi – người chưa thành người:

Ta về rũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
(Ta Về, Thơ Bùi Giáng, tr. 198)

Đi vào cảnh giới si mê
Gọi đười ươi dậy nhe răng ra cười
(Nhe Răng u buồn, trong Sa Mạc Trường Ca)

Bùi Giáng có bài thơ tổng kết đời mình:
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Điệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân
(Thuở Chưa Điên, Thơ Bùi Giáng, tr. 86)

Hai chữ Đười Ươi ở đây sao mà bùi ngùi, thê thiết!

Đười Ươi Thi Sĩ, nhiều lần Bùi Giáng tự xưng như thế, để bày tỏ niềm hoài vọng tìm lại thiên tính của con người, khi chưa lập thành xã hội, trong cõi trời đất Sơ Nguyên.

Thuở Uyên Nguyên ấy, là mùa Xuân của Đất Trời, mùa Xuân của Con Người.

Nói chuyện Mùa Xuân trong thơ Bùi Giáng mà chưa lên tận Ngọn Nguồn để diện kiến Đười Ươi, thì chưa vui.

Viết đến đây, chợt về đôi kỷ niệm, chung quanh ngày Tết và mùa Xuân, hiểu theo nghĩa thông thường, không ẩn ý hay biểu tượng, triết lý gì. Ba ngày Tết, ba tháng Xuân, và hình ảnh Tuổi Xuân, như một cành hoa mai, nở một lần trong thơ Bùi Giáng:
Xuân này em có về không
Nhành mai cố quận nở bông dịu dàng
(Thơ Bùi Giáng, tr. 85)

Tiếp theo là một hình ảnh khác của ngày Tết Nguyên Đán:
Mồng ba Tết ra đường con gặp
Một trẻ em đi bán đậu phụng rang
-''Thầy mua giúp! Đầu năm, dịp Tết”
Con mua nhiều, rồi nước mắt chứa chan
Vì con biết ngày Mồng ba một dịp
Không còn về cho bao đứa trẻ con
Bán đậu phụng hay lau giày lau dép
Đã lang thang đầu gối rụng mỏi mòn.
(...)
Hỡi Thượng Đế! Cúi đầu con thưa lại
Ở trần gian ai cũng khổ liên miên
Người đã dựng cảnh tù đày đọa mãi
Để làm gì? Cho sáng nghĩa Vô Biên?
(Chớp Biển, tr. 127-128)


Bài thơ hé mở một góc độ khác trong tâm hồn Bùi Giáng: khía cạnh xã hội, nhân đạo trong thơ ông, xuất hiện ngay ở tập thơ đầu, nhưng càng ngày càng rõ nét về sau. Nhất là từ khoảng 1970, trong đời sống lang thang bên hè phố, ông chung đụng với nhiều lớp người cùng khổ, chủ yếu là trẻ em nghèo khó và côi cút, mà ông rất mực yêu thương, chia sẻ từng miếng cơm manh áo. Đây là thời gian ông ý thức rõ tình người trong cơ khổ:

Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ,
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu
(Anh vẫn Tưởng, Bài Ca Quần Đảo, tr. 48)

Trong cảnh dân tộc điêu linh và xã hội lầm than, thì những phong tục hình thức ngày xuân trở thành vô nghĩa:
Mỗi mùa xuân lá trổ bông
Quên tờ cung chúc cũng không hề gì
(Huế làm Thơ, Bài Ca Quần Đảo, tr. 44)

Trong chừng mực nào đó – xin nói rõ: trong chừng mực nào đó – Bùi Giáng thuộc về thế hệ thanh niên không có mùa xuân, mà Tạ Ký (1928-1979), một nhà thơ xuýt xoát đồng tuế và đồng hương với Bùi Giáng, gọi làThế Hệ Bốn Lăm:
Chúng tôi:
Thế hệ bốn lăm
Vui chưa bao nhiêu, nhiều lúc khóc thầm
Một phần tư thế kỷ
Bốn lăm! bốn lăm
Những kẻ ra đi, những kẻ đang nằm
Những kẻ chết, những kẻ còn vất vưởng 6
Có lần nhà thơ Tạ Ký mô tả làng Trung Phước quê hương mà Bùi Giáng gọi chung làCố Quận, chìm trong khói lửa:
Con lạc mẹ, bao đêm chồng khóc vợ
Măng bẻ rồi, tre không kín niềm quê 6
Và ngày Tết, mùa Xuân với thế hệ ông:
Cười nghiêng núi thẳm xuân gian khổ
Khóc đứng quê xa tết dạn dày
(...) Có những con người không nói hết
Căm căm thế sự nhíu đôi mày
Cố tri dăm đứa nghèo xơ xác
Ăn chực nằm chờ khắp đó đây 6
Nhà văn Võ Phiến, trên báo Bách Khoa 1963, trong bài viết về Đỗ Tấn, cùng quê, đã mô tả thế hệ này, trong đó có mình:
“Chừng ấy biến đổi dập dồn vào một thế hệ (...) mới lớn lên đã gặp ngay cơn biến động.

Trong những năm đáng lẽ nồng nhiệt hăng say nhất của đời họ, thì một niềm tin vừa nhóm lên liền bị phá vỡ, một giấc mơ vừa thành hình vội vàng bị đánh tan. Hy vọng nổ tan tành, liên tiếp, dễ như quả bóng cao su xanh đỏ của trẻ con” [5].
Dĩ nhiên đây là tâm trạng của một lớp trung niên thi sĩ, ở vào một địa phương, chúng ta không nên khái quát. Thiên hạ thiếu gì người lập thân, lập công, lập danh, lập tài sản, nhờ vào cái mà Võ Phiến gọi là “biến động”, người khác gọi là Lịch Sử, và Bùi Giáng gọi là Sử Lịch.
Nhà thơ Hoàng Trúc Ly, trong lứa tuổi đó, và thân thiết với Bùi Giáng, có câu thơ được truyền tụng một thời:
Mùa Xuân còn gì thưa em
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi
Và Phạm Công Thiện cũng gần gũi với Bùi Giáng, năm 1964, dạy học ở Đà Lạt, có bài thơ Xuân được bạn bè yêu thích:
Mùa Xuân bay thành khói
Tôi ca hát một mình
Suốt đời không biết nói
Nước chảy tràn con kinh
Tạ Ký lúc ấy cũng dạy ở Đà Lạt, rất thích bài thơ này, nhưng bực mình khi nghe một bài hát thời thượng, phổ nhạc thơ Kim Tuấn:
Anh cho em mùa Xuân
Nụ hoa vàng mới nở
Mùa Xuân nào nhung nhớ (...)
Ông bực vì cho là thơ xạo và xảo, vì anh làm quái gì có mùa Xuân mà cho ai, hay cho em? (dù rằng ở cõi đời này, yêu nhau có khi là cho nhau những cái mình không có).
Trong tâm trạng này, Tạ Ký có bài thơ Xuân tặng Phạm Công Thiện:
Trời mùa đông rừng núi
Đời mùa đông vô cùng
Hút thuốc trong bóng tối
Khói có bay lên không? [6]
Vào thời điểm ấy, Đà Lạt 1964, Phạm Công Thiện, có đọc cho tôi nghe câu thơ mới làm:
Cô đơn về trắng sương rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.
Pháp, 1984: bài thơ được in lại trong một album đẹp mà anh tặng tôi. Câu thơ xưa đổi lốt:
Rắn trườn vỡ trứng chim rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.
Rắn: vì tác giả tuổi Tỵ (1941).
Giữa hai thoại, không biết câu nào hay hơn. Tôi kể lại chuyện này, vì thấm thoát đã tròn hai mươi năm. Và bốn mươi năm.
Đây là thời gian chúng tôi bắt đầu tiếp cận thơ Bùi Giáng.
Một mùa xuân xa...
Xa.

                                                                            
Bùi Giáng là một nghịch lý.
Ông là một tác giả hàng đầu, một nhà thơ lớn trong văn học Việt Nam hiện đại, đã sống, làm thơ và qua đời, bên lề dòng văn học chính thống. Rồi trong những điều kiện lịch sử nhất định, thơ ông được truyền tụng, truyền khẩu, tạo nên một hiện tượng xã hội và chính trị Bùi Giáng, vào ba thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi.
Tác giả Bùi Giáng, và nhà thơ Bùi Giáng đích thực, bị chen lấn giữa những huyền thoại Bùi Giáng. Và những kẻ mến yêu Bùi Giáng đầy thiện chí, đã nhiệt tình viết bài ca ngợi, càng làm rối mù thêm tọa độ của ông trên văn đàn, thêm phần tơ chỉ rối chiêm bao.
Bùi Giáng cả đời chăm chỉ đặt hai bàn chân, chân trái và chân mặt, bên lề chính trị và xã hội, nhưng đã lừng danh - phần nào đó - nhờ những điều kiện xã hội và chính trị. Đây là một nghịch lý, giới hiện sinh một thời có thể gọi là phi lý.
Bài này dĩ nhiên là không có tham vọng giải quyết nghịch lý nói trên. Nó thoạt tiên chỉ là một bài báo Xuân. Nhưng lần theo ý xuân đến thượng nguồn thơ Bùi Giáng, người đọc có thể tìm lại được một trong nhiều sợi tơ mành xuyên qua thi phẩm và tư tưởng Bùi Giáng.

Niềm xuân cố quận tê tê / Được chăng góp nhặt lời quê dông dài…
Người rằng:
Nói nữa là sai
Mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào.


Đặng Tiến
Orléans, Toussaint
-----------------------
Thơ Bùi Giáng trích từ: Mưa Nguồn, 1962; Lá Hoa Cồn, 1963; Bài Ca Quần Đảo, 1973; Thi Ca và Tư Tưởng, bản in lại 1998; Thơ Bùi Giáng, Montreal, 1990; Chớp Biển, 1996; Mười Hai Con Mắt, 2002; Báo Văn, Sài Gòn, 5/1973; Báo Thời Văn, TPHCM, số 19, 1997. Có câu ghi theo trí nhớ.






Friday, February 3, 2012

PHAN * Chiều Plano


gởi Trần Dạ Từ, Phan Bá Thụy Dương

Chiều giáp tết mưa buồn thêm phố cổ
nhớ hàng cây xanh thỏ thẻ tháng 10
gió se lạnh rồi, thu sớm muộn thôi
đông đă về góp nhặt lá cuốn trôi
hàng cây đứng bên đời khô khốc

Người Mễ lậu đứng bên đường cô độc
t́ìm việc làm nhưng chỉ có mưa thôi
người ăn mày chữ nghĩa dạt trôi
chiều giáp tết ngồi nhì́n mưa xứ lạ
giờ này bên nhà chị thương vất vả
hứng dột che mưa tơi tả một đời
mai giao thừa cũng chỉ có mồng tơi,
rau bù ngót quanh nhà không đi chợ

Giờ này bên nhà, tiếng ai đ̣òi nợ
chó sủa thay lời khất tới sang năm
giờ này cường quyền kẻ hỏi người thăm
trang liệt nữ nằm xà lim cay đắng
giờ này bên Đài trời mưa hay nắng?
cô gái sông Tiền thức trắng đêm thâu
giờ này Hà thành con hỏi cha đâu?
mẹ cúi mặt đi làm thuê xa lắm

Giờ này kinh đô mưa mờ lăng tẩm
sông Hương nước chảy lững lờ
dưới sông có đĩ trên bờ có vua
giờ này, nơi này tôi bán ai mua
chiều giáp tết trời mưa giá buốt
người Mễ lậu ra về nghe sót ruột
gă ăn mày khắc khoải bóng quê hương

PHAN

NGUYỄN MẠNH TRINH * Một vì sao vừa tắt: thi sĩ Hà Thượng Nhân


Một văn tinh vừa tắt. Nhà thơ Hà Thượng Nhân vừa từ trần ngày 11 tháng 10 vừa qua.

Ông người làng Hà Thượng, huyện Hậu Lộc, tỉmh Thanh Hóa, đã từng đi theo Kháng chiến rồi trở về thành và di cư vào Nam... Ông là chân dung của một nghệ sĩ đích thực. Của một ông đồ nho thấm nhuần truyền thống uyên áo của dân tộc. Của một nhà truyền thông lão luyện đã giữ những trọng trách suốt một thời gian dài. Của một chính khách có uy tín nhưng lại không chạy theo danh vọng. Của một người Việt Nam đã trải qua nhiều biến cố lịch sử gần như suốt một thế kỷ và đời sống trôi theo nhịp thăng trầm của đất nước loạn ly. Và, của một thi sĩ, luôn nâng niu thi ca như một báu vật của trời và tầm mắt luôn hướng vọng về những chân trời của Đông Phương lãng mạn…Những chân dung rực rỡ và đa diện ấy chỉ là một phần trong tổng thể vóc dáng của nhà thơ Hà Thượng Nhân. Trong hành trình tìm kiếm chân dung đích thực của ông, tôi đã tìm kiếm được rất nhiều bất ngờ lý thú.

Ông sinh năm 1920, Hà Thượng Nhân là bút hiệu có nguyên danh là Hoàng Sĩ Trinh, sau khi vào Thành, lấy tên khác là Phạm Xuân Ninh theo phả hệ của cụ Phạm Xuân Độ mà ông coi như là cha nuôi. Ông đã dạy học tại trường Dũng Lạc ở Hà Nội và trường Thiếu Sinh Quân Liên Khu IV rồi theo kháng chiến chống Pháp đến năm 1952 thì về Thành rồi di cư vào Nam năm 1954. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ông gia nhập quân đội với cấp bậc đại úy đồng hóa. Ông đã soạn thảo tập Sơ Thảo Lý Thuyết Chiến Tranh Tâm Lý và đảm nhiệm Nha Chiến Tranh Tâm Lý sau phát triển thành Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.

Ông làm Giám Đốc Đài Phát Thanh Quốc Gia, Chủ bút rồi Chủ nhiệm nhật báo Tiền Tuyến là cơ quan ngôn luận chính thức của QLVNCH. Khi viết báo Tự Do, ông thường ký bút hiệu Tiểu Nhã và phụ trách mục thơ châm biếm Đàn Ngang Cung. Trên báo Ngôn Luận ông dùng bút hiệu Nam Phương Sóc cho các bài viết của mình.

Tôi đọc “THơ Hà Thượng Nhân” và qua phần Thân Hữu Cảm Khái đã biết được một phần nào chân dung kẻ sĩ phương đông của ông.Trong bài “Kỷ niệm Tiền Tuyến” của Nhất Giang, kể lại hai việc mà anh cho rằng là của kẻ sĩ uy vũ bất năng khuất. Khi tờ báo bị lỗi kỹ thuật và bị cấp trên (tức Trung tướng Trần Văn Trung) “hỏi thăm“ ông nhận lỗi cho thuộc cấp và chỉ cảnh cáo sơ sài những người phạm lỗi:

“ - Trình Trung tá có Trung tướng muốn nói chuyện với Trung tá!

Trung tướng đây là Trung tướng Trần Văn Trung, tổng cục trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, người trực tiếp chỉ huy cao cấp nhất của chúng tôi. Trung tá Ninh thản nhiên cầm điện thoại

- Alô, chào Trung tướng tôi nghe.

Từ đầu dây bên kia có giọng nói của ông tướng đầy vẻ bực bội:

- Anh Ninh, sáng ni anh đã đọc báo của anh chưa?

Giọng của ông Ninh vẫn điềm đạm bình thản:

- Tôi mới vào tòa soạn nên chưa kịp đọc, có chuyện gì vậy thưa Trung tướng?

Giọng ông tướng càng có vẻ bực dọc hơn:

- Anh có thấy Việt Cộng có cái loại vũ khí chi lạ: nó pháo kích vô Nam Vang mà lại làm sập đài phát tuyến ở Quán Tre!

Ông Ninh ra hiệu cho thượng sĩ Cót đưa trang nhất của tờ báo để ông liếc sơ qua, xong ông nói:

- Thưa Trung tướng, có thể đây là lỗi kỹ thuật, Trung tướng để tôi xem lại rồi sẽ trình trung tướng rõ.

- Được rồi, nhưng anh phải tường trình cho tôi biết rõ ràng sự việc nội buổi sáng nay. Anh nên nhớ sáng nào tổng thống cũng đều đọc báo của anh. Lỡ tổng thống hỏi tôi biết trả lời mần răng?

Mà lỗi kỹ thuật thật! Chả là vì ông ”xếp ty pô” đã vô ý bốc nhầm hai ”pac kê” 2 cái tít của hai bản tin hai cột khác nhau cùng loan tin Việt Cộng pháo kích nhưng một cái là ”Cộng Quân pháo kích Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung gây thiệt hại cho đài phát tuyến Quán Tre” còn một cái tít khác là ”Cộng Quân pháo kích thành phố Nam Vang nhưng ông thầy sắp chữ đã bê nhầm vế trên của cái tin hai cột này đặt vào vế dưới của tin hai cột kia nên mới có chuyện râu ông nọ cắm cằm bà kia như vậy. Khi truy nguyên ra sự việc, các ông tổng thư ký, thầy cò (tức người có trách nhiệm sửa lỗi các bản in thử) và xếp typô là Thầy Tiều ( cũng là lính cơ hữu của Tiền Tuyến) chỉ bị ông Ninh nhẹ nhàng khiển trách vì ông biết việc này hoàn toàn chỉ là một tai nạn nghề nghiệp. Sau đó ông ra lệnh cho thượng sĩ Cót làm một bản tường trình với ông Tướng cùng với đề nghị ông tự phạt mình 30 ngày trọng cấm... ”

Và còn nhiều ví dụ khác như ông đã thuyết phục được Tổng thống Ngô Đình Diệm thay đổi quyết định khi cho các linh mục có chương trình tôn giáo trên đài phát thanh quốc gia lúc ông làm Giám Đốc đài. Khi Tổng thống hỏi ông có nên đưa một chương trình của Công giáo từ hệ thống C lên hệ thống A không thì ông đã trả lời thẳng là không nên vì làm vậy 4 tôn giáo lớn khác sẽ so bì và tổng thống đã đồng ý theo nhận định đứng đắn của ông. Hay như khi làm chủ nhiệm nhật báo Tiền Tuyến, mặc dù là cơ quan truyền thông của QLVNCH nhưng cũng hưởng ứng làng báo Sài Gòn đình bản một ngày trong việc chống lại tăng giá bông giấy. Những việc làm của ông phải là của một người lãnh đạo dám nhận trách nhiệm của mình.

Khi vào tù Cộng sản, ông cũng thản nhiên và dùng văn thơ như một cách để sống thực và biểu lộ tâm tình của mình với gia đình, với đất nước. Như khi viết Bên Trời Lận Đận, ông đã mượn Tỳ Bà Hành để nói lên tâm sự của mình. Ông viết:

“Tâm sự, cảnh ngộ của Bạch Cư Dị đâu phải là tâm sự cảnh ngộ của tôi, nhưng tấc lòng đắng cay Bên Trời Lận Đận kia cũng là tấc lòng đắng cay của chính mình.

Tỳ Bà Hành chỉ là một cái cớ để tôi nói lên tâm sự của riêng mình. Bạn đọc sẽ bắt gặp trong tập thơ này nhiều ý, nhiều câu trùng hợp, điều đó cũng không quan trọng. Điều quan trọng là liệu tôi có dựa vào nỗi lòng của cố nhân để gửi gấm được chút gì nỗi lòng của mình không? Liệu những oan trái mà tôi và các bạn tôi đã trải qua có thể làm cho người đọc bồi hồi xúc động như tôi đã bồi hồi xúc động khi đọc Tỳ Bà Hành chăng? Từ đó liệu con đường đi tìm Chân Ly, đi tìm Lẽ Phải có bớt chông gai được chút nào chăng?”

Bên Trời Lận Đận có những câu thơ như nói với người xưa mà gửi lại thế hệ hôm nay. Thơ như lúc nào cũng vẳng lại âm điệu đoạn trường của tiếng đàn ngày xưa trên sông nước nhưng cũng chính là tiếng lòng rung động của một người bị trói buộc vào những cảnh ngộ đau lòng:

“Ôi cơn gió heo may thuở trước

Lạnh ngàn năm sông nước Tầm Dương

Về đây rừng núi Thanh Chương

Nghe heo may nổi canh trường ngẩn ngơ

Trước đã có nhà thơ cùng quẫn

Ngàn năm sau sao vẫn còn ta?

Đời gần tưởng đã rất xa

Bâng khuâng vì tiếng tỳ bà chưa nghe... ”

Có những câu thơ phải viết và phải nhớ, vì không viết không nhớ không được. Có phải là tiếng kêu vọng lên trời xanh để gửi những uất hận liếp người vào vô tận. Ngày xưa. Bạch Cư Dị và Tỳ Bà Hành thì bây giờ, ở xó rừng tù ngục, Hà Thượng Nhân và Bên Trời Lận Đận như có giây phút giao thoa với nhau để thành cung bậc xót thương cho kiếp nhân sinh đọa đầy…

Với tôi, một người yêu thơ và cũng là một người tù cải tạo, sau năm 1975, tôi được nghe nhiều về ông qua hai bài thơ viết về những ngày sa cơ trong trại tù Cộng Sản là bài “Mưa ở Long Giao” và bài “Xin Làm Cỏ Biếc“. Bài thơ “Mưa ở Long Giao“ được nhạc sĩ cũng bị giam chung với ông Vũ Đức Nghiêm phổ nhạc và truyền tụng về tới dư luận ở Sài Gòn qua tay của các bà vợ đi thăm nuôi chồng rồi trở ngược lại trong các trại tù. Lúc ấy tụi tôi chỉ biết là thơ của một thi sĩ nổi danh trước đây thôi chứ không biết là của nhà thơ Hà Thượng Nhân và nhạc của nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm. Bài thơ đã nói lên tâm sự của một người tù trước cảnh quốc phá gia vong:

“Trời có điều chi buồn

mà trời mưa mãi thế?

Cỏ cây có chi buồn

Mà cỏ cây đẫm lệ?

Thương Em từng phút

Nhớ con từng giây

Chim nào không có cánh

Cánh nào không thèm bay?

Người nào không có tình

Tình nào không đắm say?

Trao làm sao nỗi nhớ

Gửi làm sao niềm thương!

Nhớ thương như trời đất

Trời đất vốn vô thường!

Ngày xưa chim hồng hộc

Bay cao chín tầng mây

Ngày xưa khắp năm châu

Bước chân đi nhỏ hẹp

Ngày nay giữa Long Giao

Nằm nghe mưa sùi sụt

Mời nhau điếu thuốc lào

mình say... mình say sao?”

Thơ dàn trải những nỗi niềm. Của những con người của một thời thế lịch sử đầy bi kịch. Hoàn cảnh ấy không phải chỉ riêng của một người như Hà Thượng Nhân hay Vũ Đức Nghiêm. Mà nó thành của chung của nhiều người của hàng trăn ngàn quân cán chính VNCH bị đầy ải trong ngục tù Cộng sản. Bản nhạc được phổ biến và hát lén lút trong tù. Cho tới bây giờ bài thơ và bài hát vẫn còn ghi khắc trong bộ nhớ của những người cùng chung số phận với thi sĩ và nhạc sĩ như một chứng tích không thể nào lãng quên của lịch sử Việt Nam.

Bài thơ thứ hai là bài “Xin Làm Cỏ Biếc”, ông viết trong lúc chuyển trại từ trại tù Thác Bà, Yên Bái về trại 6 Thanh Chương, Hà Tĩnh năm 1979:

“anh cầm tay em

bàn tay khô héo

anh nhìn mắt em

gió lùa lạnh lẽo

anh nhìn lòng mình

mùa xuân mông mênh

cỏ non mùa xuân

còn vương dấu chân

trăng non mùa hạ

ướt đôi vai trần

có xa không nhỉ?

Ngày xưa thật gần

Thời gian! Thời gian

Em vẫn là em

Nụ cười rạng rỡ

Ngày nào vừa quen

Mai đưa em về

Xin làm cỏ biếc

Vương chân em đi

Xin làm giọt mưa

mưa giầm rưng rức

Trên vai người yêu... ”

Trong tù ngục Cộng sản, thì nhớ về gia đình là một phương cách để người tù ”gắng sống mà trở về”. Đã có biết bao nhiêu cơn mơ của người tù cải tạo, đêm đêm nằm trong vòng lao ngục nhưng vẫn mơ đến gia đình, nhớ thương đến những người thân yêu đang xa cách. Nhà thơ Hà Thượng Nhân cũng thế, ở trong những trại giam khắc nghiệt nhất của chế độ Cộng sản, trong lúc bị chuyển trại nhọc nhằn từ địa ngục này sang cõi a tỳ khác, nhà thơ vẫn thản nhiên nghĩ về tình yêu của mình của thuở ngày xưa tươi đẹp. Đó là một phản ứng để quên đi thực tại đen tối của những người bị cả một chính sách quy mô đầy đọa.

Bài thơ này thiết tha của một tình yêu, vượt qua được cảnh giới u ám đen thẳm của những trại tù để về miền ký ức của ngày xưa, của tình cảm không phai nhòa dù trải qua nhiều cảnh huống đoạn trường của cuộc sống.

Khi nói về những bài thơ “Thư Của Chúng Mình” ông viết: ”Đọc lại thơ cũ tôi vẫn bồi hồi xúc động như ngày nào. Ba mươi tám năm trời trôi qua (Tập thơ được viết vào năm 1949). Tập thơ vẫn chưa hề được công bố. Tôi bỗng nghĩ rắng: ”Cuộc đời này tạm bợ còn có ý nghĩa hơn là tình yêu nữa không? Nỗi lòng của chúng tôi cũng như nỗi lòng của triệu triệu người vào cùng một lứa tuổi. Vậy thì tại sao không công bố? Tình yêu không có tuổi, lòng ta không già...”

Theo tài liệu của Wikipedia tiếng Việt thì ”Về tài văn thơ ông có biệt tài làm thơ trào lộng nhưng khi còn trẻ tuổi ông cũng sính thơ Đường. Khi vào Huế trong một cuộc chơi ông có ứng khẩu một bài thơ vịnh ”trăng thu” mà được cụ Ung Bình chấm là hay nhất và khen:

“Trăm mặt thẹn thua chàng tuổi trẻ

Một bài cũng đủ gọi Thi ông”.

Hai nhà thơ Hữu Loan và Hà Thượng Nhân là bạn cùng lứa tuổi và cùng quê quán ở Thanh Hóa nên rất thân thiết. Hữu Loan, một nhà thơ trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, người đã phê bình sự dốt nát của các quan “văn nghệ Cộng Sản” bằng hình ảnh ví von thật ác: “Những mắt lợn thưởng tranh. Những tai trâu huấn nhạc.” Và cũng chính Hữu Loan, tác giả của bài thơ “Mầu tím hoa sim”, người đã không thèm cầm bút theo sự chỉ huy của chính quyền chuyên chế, về cày ruộng thồ đá, lao động như một nông dân chính hiệu.

Nhà thơ Hà Thượng Nhân đã có những câu thơ phác họa chân dung bạn mình thật sống động như:

“... Nguyễn Hữu Loan

hồn nhiên như con trẻ

đơn sơ như miệng cười

dám chân thành làm một con người

giữa bão tố quyết không là cây sậy

chỉ biết cúi đầu vâng lời lẽ phải.

Với bạn bè gìn giữ thủy chung

Đỗ Phủ xưa dù lớn vô cùng

Nguyễn Hữu Loan không chịu là Đỗ Phủ

Ba mươi mấy năm chân trần lam lũ.

- Đói khôngLoan?

Khổ không Loan?

Tao chẳng khổ bao giờ

Tao đi cày như tao làm thơ

- Mày đi cày vì mày dám làm thơ.

Thơ vĩ đại vì thơ không đánh đĩ

Bọn dối trá chẳng thể là thi sĩ

Kiệt Trụ đừng nói chuyện thi ca.

Nhớ Nguyễn Du xưa rau cháo xanh da

Nửa tháng ốm không có tiền mua thuốc.

Không cần thép thơ vẫn thành bó đuốc.

Thơ nâng người cao sát với thần linh…”

Thi sĩ Hà Thượng Nhân không ca tụng Hữu Loan với tư cách một người bạn mà ông muốn qua chân dung thi sĩ, mà có người ví von là một “cây thước gỗ lim vuông cành cạch”, để tố cáo một chế độ cai trị độc tài sắt máu gây ra bao nhiêu thảm cảnh cho toàn dân. Thơ của ông nói về một nhà thơ chính trực như Hữu Loan còn là tiếng nói chính luận của lương tri của những người Việt Nam yêu tự do dân chủ...

Thi sĩ Hà Thượng Nhân là một nhà thơ thông tuệ, làm thơ Đường Luật rất nhanh và chỉnh. Có người đã nói ông giống như Tào Thực ngày xưa đi bảy bướcc là đã hoàn thành được một bài thơ tuyệt tác. Thế mà thơ của ông đã làm xong tới cả hàng ngàn bài mà trong đời của ông mới chỉ in một tập thơ nhỏ vì lời yêu cầu của nhiều người ái mộ ông. Cho đến khi ông bị bệnh nặng, nằm trong bệnh viện và lại đang trong cảnh “lá già khóc lá xanh” khi người con trai thứ là Pham Xuân Dương từ trần, nên để cho thi sĩ gượng vui nên đã in Thơ Hà Thượng Nhân để có một dấu tích của kỷ niệm đẹp cho văn học Việt Nam. Và ngày ra mắt tuyển tập thơ ấy, nhà thơ như trẻ lại. Xem DVD thu hình lại buổi lễ, thấy ông miên man nói về thơ, về văn chương với cả một sự đam mê trân trọng đến quên đi cuộc đời nhiều bi kịch của những người lưu lạc Việt Nam hôm nay.

Nhưng, hôm nay, nhà thơ đã đi vào cõi vĩnh hằng. Chín chục năm góp mặt với đời, qua bao nhiêu biến cố lịch sử, bao nhiêu cuộc thăng trầm, những bài thơ vẫn còn như một chứng tích của tấm lòng vuông tròn với cuộc sống. Là một quan võ nhưng lại có lối hành xử của quan văn, là một người đã trải qua và hiểu được chế độ Cộng Sản, ông như người đặt rường cột cho ngành chiến tranh tâm lý mà sau này phát triển thành tổng cục chiến tranh chính trị. Nhưng, bất cứ ở đâu và bất cứ ở một vị trí nào, ông cũng là người yêu nước và yêu văn chương và muốn chữ nghĩa tạo được sự tốt đẹp cho cuộc nhân sinh.

Một kẻ hậu sinh như tôi viết bài này như một cách thế đốt nén tâm hương để gửi đến người thi sĩ đã vừa ra đi.

Nguyễn Mạnh Trinh