|
tranh Đằng Giao |
Tôi phải ngồi lại trên các bậc đá nghỉ
chân đến ba lần trước khi bước vào cổng chùa. Ngôi
chùa nhỏ nằm trên một triền núi, được phủ mát bởi
những tàng cây. Ngôi nhà khách bằng gỗ, khá xinh xắn,
nằm trong một khu vườn toàn hoa vạn thọ. Phía trước
là một tượng Phật ngồi dươi gốc cây bồ đề, cành
lá được cắt tỉa công phu. Chung quanh là cả một vùng
núi trời tĩnh mịch.Tôi không phải là phật tử, nhưng
ngồi nghe tiếng mõ và lời cầu kinh trong chùa vọng ra,
cũng thấy lòng nhẹ hẳn đi trước bao nhiêu điều phiền
não.
Hôm nay là mồng một tết, nhưng cảnh chùa khá im ắng,
bởi chùa nằm khá xa khu dân chúng. Ngày hôm qua tôi có
đến đây, nhưng thầy trụ trì đi vắng. Tôi đã để
lại tấm danh thiếp của chồng tôi, viết vài dòng phía
sau xin hẹn thầy hôm nay trở lại.
Chú tiểu còn rất trẻ, mang trà ra mời và xin tôi chờ
thêm mươi phút nữa, vì thầy trụ trì đang khai kinh cho
buổi lễ tân niên. Tôi nôn nao muốn sớm được nhìn mặt
vị ân nhân của mình, nhưng cũng dặn lòng phải kiên
nhẫn và cẩn trọng ý tứ trước một nhà sư.
Hơn ba mươi năm trước. Lúc ấy tôi còn là cô bé học
trò trường trung học An Túc, nằm giữa thị trấn An Khê,
bên QL 19 nối liền Qui Nhơn với Pleiku. Chiến tranh đang
thời kỳ ác liệt. Tuổi còn nhỏ, nhưng ngày nào tôi
cũng nghe cha mẹ và các thầy cô bàn chuyện chiến trường:
đánh lớn ở Pleime, Dakto, Tân Cảnh. Mấy năm nay, An Khê
tương đồi bình yên, nhờ Sư Đòan 101 Không Kỵ Hoa Kỳ
có căn cứ ở đây, và dọc theo đèo An Khê có đồn bót
của các đơn vị thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Giữa
lúc chiến tranh ngày khốc liệt, bất ngờ lực lượng
đồng minh rút quân về nước, làm dân chúng ở đây
hoang mang, lo lắng. Xứ họ đạo của tôi cũng được cha
chánh xứ tổ chức những toán tự vệ, phối hợp với
quận, lo canh gác khu vực của mình.
Chiều ba mươi Tết, được thông báo của tỉnh, các
cơ quan trên quận phối hợp với các thầy cô giáo và cả
Hội Đồng giáo xứ đi mọi nhà kêu gọi đóng góp những
gói quà tượng trưng dành tặng cho anh em chiến sĩ của
một đơn vị từ xa tới, thay thế lực lượng đồng
minh, đồn trú ở đây.
- Tôi nghiệp, nghe nói anh em đã phải rời căn cứ từ
sáng sớm 30 để chiều mồng một Tết có mặt ở đây.
Họ có biết tết nhất gì đâu! Ông cha xứ nói với
chúng tôi như thế.
.............
Cả quận vui mừng, nô nức trước tin vui.
Riêng tôi còn vui hơn khi tưởng tượng sẽ có nhiều anh
lính đến cái thị trấn nhỏ xíu buồn tênh này, nên rất
sốt sắng trong việc gói quà. Tôi tự tay thực hiện được
hai gói quà, gồm một số bánh mức, chiếc khăn tay do tôi
thêu lấy, kèm theo lá thơ chúc mừng năm mới tới hai anh
chiến sĩ vô danh nào đó. Tôi nắn nót viết thật đẹp
rồi đề tên, lớp và trường học phía dưới. Vì “sao
y bản chánh” từ một bài luận văn tháng trước, nên
hai lá thư giống nhau như đúc. Nhìn hai gói quà tôi mỉm
cười, khi nghĩ sẽ có hai “người tình không chân dung”
nào đó nhận được lá thư nồng nàn của một cô “em
gái hậu phương”. Ban đầu, các thầy cô cho biết, đám
học trò chúng tôi được hướng dẫn vào căn cứ để
tận tay tặng quà cho các anh chiến sĩ. Bọn tôi đứa nào
cũng hớn hở, lăng xăng giặt ủi lại chiếc áo dài
trắng ưng ý nhất. Nhưng sau đó dưới tỉnh cho biết là
trước khi vào An Khê, các đơn vị này còn phải hành
quân mở đường, giải tỏa một số đồn bót của lực
lượng Đại Hàn nằm dọc theo đèo An Khê, bị địch
quân bao vây đã ba hôm nay. Cuối cùng tất cả quà đều
được nộp cho trường, và thầy hiệu trưởng cùng các
thầy cô giáo sẽ mang vào cho đơn vị để trao lại cho
anh em chiến sĩ khi tình hình an ninh cho phép. Bọn học trò
chúng tôi tiếc hùi hụi vì mất một dịp được vào xem
căn cứ và ủy lạo các anh chiến sĩ.
- Nam Mô A Di Đà Phật. Xin chào bà. Xin lỗi, chắc là
bà đã chờ tôi lâu lắm phải không ?
Câu hỏi của thầy trụ trì cắt đứt dòng hồi tưởng
của tôi. Tôi đứng lên, vụng về chấp hai tay trước
ngực chào lại thầy. Tôi muốn nhìn thật kỹ khuôn mặt
của thầy, nhưng thấy ái ngại, nên chỉ cúi đầu im
lặng.
- Cái cổng tam quan, ngôi nhà khách này, và những bậc
đá trên con đường mà bà vừa đi lên là do tiền cúng
dường của ông bà. Chúng tôi xin tán thán công đức và
cầu xin chư Phật gia hộ cho ông bà cùng gia đình. Bà có
muốn đi một vòng xem cảnh chùa không ? Xin mời bà.
Thầy vừa nói vừa chỉ tay về phía cổng tam quan.
- Dạ, công ơn của thầy đối với gia đình tôi lớn
lao quá. Biết làm sao đền đáp. Xin thầy đừng nhắc tới
công đức, làm tôi thêm xấu hổ. Tôi vừa bước theo
phía sau thầy, vừa nói.
- Mô Phật ! Giúp người, đó là nhiệm vụ của kẻ tu
hành, dù là tôn giáo nào. Sao bà lại gọi là công ơn.
Thầy nở một nụ cười độ lượng.
Đi phía sau, nhìn dáng đi khoan thai của
thầy, tôi băn khoăn suy nghĩ: Khuôn mặt thì có nhiều nét
giống, nhưng với cái dáng đi thì lại khác hẳn. Có thể
ngày xưa là lính nên cần phải nhanh nhẹn. Tôi nghĩ thầm
như thế.
Khi đến cửa tam quan, thầy dừng lại và chỉ tay về
hướng bờ biển, nơi có mấy tảng đá ở triền núi,
phía dưới là một khu rừng rậm:
- Chính ở nơi đó, tôi đã tìm gặp chồng của bà
Năm ấy, khi chồng tôi vừa mới trốn về từ trại tù
cải tạo Gia Trung (anh chỉ là thầy giáo, dạy một trường
trong khu người Thượng, bị bắt năm 1979 vì bị kết tội
hợp tác với lực lượng Fulro chống lại chính quyền
Cộng sản), được một người bạn thân cho đi theo một
chuyến vượt biển do gia đình anh ta tổ chức. Lúc ấy
ai cũng nghĩ ra đi là không bao giờ gặp lại vợ con, mà
có ở lại cũng sống không yên, chỉ làm khổ cho gia
đình. Hơn nữa lúc ấy tôi vừa mới sanh đứa con đầu
lòng, nên không thể đi cùng. Chúng tôi đành gạt lệ
chia tay mà không dám nghĩ sẽ có ngày tái ngộ.
Tàu vừa ra khơi hơn một ngày thì bị hỏng máy, trong
lúc gió mưa tầm tã. Tất cả mọi người phải đem sinh
mạng chống chọi với phong ba. Cuối cùng, sau gần ba ngày
bềnh bồng trên biển, nhờ những cơn gió nhiệm màu đã
đẩy chiếc tàu với hơn một nửa số người sống sót,
giạt vào một ghềnh đá lúc trời nhá nhem tối. Tưởng
đã thoát chết, nào ngờ khi vừa leo lên bờ thì bị một
toán công an biên phòng vây bắt. Một số người yếu sức
thì đành đưa tay cho họ trói. Chồng tôi cùng một vài
thanh niên khác dùng hết tàn lực chạy trốn trong các hốc
đá bên triền núi. Mấy lần thoát chết dưới những
tràng đạn. Nhờ trời tối anh chạy thoát vào khu rừng
trước khi kiệt sức. Khi tỉnh lại, anh thấy mình nằm
trong ngôi chùa nhỏ nằm bên triền núi. Anh được vị
trụ trì săn sóc và che dấu chu đáo, mặc dù biết anh là
người công giáo, bởi trên cổ có đeo thánh giá. Sau hơn
một tuần, nhờ thầy giúp cạo đầu, cho áo quần để
cải dạng một thầy tu, và gởi theo một chiếc xe đò
của một phật tử thân quen, chồng tôi mới trốn được
vào nhà bà cô ruột ở Cam Ranh. Sau đó nhờ chính bà cô
này tìm đường để vượt biển tiếp.Và lần này anh đã
đươc tàu Pháp vớt, nên được sang định cư bên Pháp.
Ba năm sau, tôi và đứa con được anh bảo lãnh với diện
đoàn tụ gia đình.
- Mô Phật! Tôi nghiệp, ông ấy đã về tìm thăm tôi
hai lần, và giúp cho tôi khá nhiều tiền để lập lại
ngôi chùa này và một nhà từ thiện nuôi các em bé tật
nguyền dưới xóm. Công đức của ông bà thật lớn lắm.
Tôi nhớ lại tấm ảnh mà chồng tôi chụp
chung với thầy trong lần thứ nhì về thăm thầy. Bao
nhiêu lần tôi đã nhìn kỷ tấm ảnh, lại nghe chồng tôi
bảo, ngày xưa thầy cũng là lính, nên tôi đã ngồi hằng
giờ hình dung, nhớ lại một người quen lúc trước.
- Thực ra anh ấy ngại không muốn về, nhưng vì nhớ
ơn thầy mà anh ấy mới về gặp thầy. Lần này chính
tôi đề nghị được thay anh về thăm thầy, nhân dịp
thăm mẹ của tôi đang ốm nặng.
- Mô Phật ! Tôi hiểu nỗi khổ tâm của ông ấy.
Tôi nghe tiếng thở dài của vị trụ trì, và thấy
thầy đưa mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Từ lúc
mới gặp nhau trong ngôi nhà khách, tôi nghĩ là thầy đã
nhận ra tôi. Tôi chờ thầy hỏi, nhưng có thể thầy đã
quên hay bây giờ là kẻ tu hành, nên thầy không muốn
nhắc lại chuyện thế tục ngày xưa. Không để lỡ mất
cơ hội, tôi lên tiếng:
- Tôi về đây, gặp thầy cũng để muốn xin được
hỏi thầy một điều, mà bấy lâu nay cứ băn khoăn mãi
trong lòng, nhưng ngại thầy là bậc tu hành, nên tôi không
dám .
Thầy nhìn tôi, im lặng giây lát rồi lên tiếng :
- Mô Phật! Kẻ tu hành lúc nào cũng muốn đem ánh sáng
cho chúng sinh hầu giải tỏa những lo âu phiền não. Xin
bà cứ tự nhiên.
- Xin thầy tha lỗi, nếu có điều gì không phải. Có
phải thế danh của thầy là Quế, Lê Phương Quế ?
Thầy ngạc nhiên nhìn tôi, rồi nhìn lên khoảng không,
nhíu mày.
- Mô Phật! Làm sao mà bà biết được tên của tôi ?
- Thầy còn nhớ anh Lân, trung sĩ Đỗ Lân, ở Sư Đoàn
23 BB, có đóng quân ở An Khê vào những ngày tết năm
1972 ?
- Bà còn biết cả bạn tôi? Anh Lân đã tử trận ở
Kontum từ mùa hè 72 . Bà có biết không?
Tôi có một thoáng giận thầy, vì nghĩ là
đến bây giờ ông vẫn chưa nhận ra mình. Chẳng lẽ thầy
vô tình đến thế. Nhưng ngay sau đó tôi hối hận về ý
nghĩ của mình. Sao lại đem chuyện đời để mà trách
một vị chân tu, một người đã xa lánh chuyện hồng
trần, thế sự. Thầy đã cho mình hỏi và sẳn sàng tâm
sự đã là một điều hỉ xả rồi.
- Dạ, tôi có biết, và tôi cũng có đến Kontum thăm mộ
anh mấy lần. Sau này tôi về tìm để xây lại ngôi mộ
cho anh, thì nghĩa trang không còn nữa, và không ai biết mộ
anh đã chuyển đi đâu .
Đôi mắt của vị trụ trì sáng hẳn lên. Thầy mở
đôi mắt thật to nhìn tôi, đưa tay lên định nắm vai
tôi, nhưng rồi kịp khựng lại.
- Vậy là Xuân ? Bà là cô Xuân ngày xưa? Mô Phật! Sao
lại có chuyện kỳ ngộ lạ lùng này.
Vâng, tôi chính là Xuân, cô bé học trò trường trung
học An Túc ngày xưa. Người đã gói hai gói quà Xuân ủy
lạo cho những chiến sĩ đến giữ an ninh cho quê tôi vào
đúng chiều ngày mồng một tết. Hai gói quà được nộp
cho trường để chuyển tới cho các anh, vì lúc ấy đơn
vị đang hành quân mở đường để đến nơi trú đóng.
Sau một cái tết an bình, cả thị trấn nhỏ của tôi
nhộn nhịp hẳn lên bởi sự có mặt của một trung đoàn
lính chiến, ngày mồng tám tết, đám học trò chúng tôi
trở lại trường, nhưng các thầy cô biết là trong lòng
đám học trò ai cũng còn dư âm ngày tết, nên cho chúng
tôi tập họp lại hát hò và kể chuyện vui. Trong lúc
thầy hướng dẫn đệm đàn cho cả đám học trò ca hát,
thầy giám thị đến tìm tôi, bảo tôi lên văn phòng có
người nhà muốn gặp. Bước theo thầy giám thị mà lòng
tôi lo lắng không biết ở nhà có chuyện gì, thì ông đưa
tay chỉ hai anh lính đang ngồi chờ trên chiếc ghế đá
trong sân trường.
Hai anh lính thật trẻ đứng lên chào tôi,
nhoẻn miệng cười :
- Hai đứa tôi đến để cám ơn Xuân và chúc mừng
Xuân năm mới .
Tôi thoáng một chút ngạc nhiên và bẽn lẽn :
- Em có làm gì đâu mà hai anh cám ơn ? Mà sao hai anh
biết được tên em ?
Hai anh cùng mở túi áo lấy ra bức thư. Vừa kịp nhận
ra đó là hai bức thư mà tôi đã “sao y bản chánh” bỏ
trong hai gói quà ủy lạo, thì một anh lên tiếng :
- Tôi là Đỗ Lân, và người bạn thân của tôi đây
là Lê Phương Quế. Trông anh hiền như con gái, nhưng Xuân
đừng nhầm với nữ ca sĩ Phương Hồng Quế nghe, mặc dù
anh Quế bạn tôi cũng có giọng hát rất hay, không thua gì
Phương Hồng Quế . Hai đứa tôi nhận hai gói quà của
Xuân. Quà cáp như nhau và lời lẽ trong cả hai bức thơ
cũng giống nhau như đúc. Cô Xuân thật công bình. Cám ơn
nghe!
Tôi hơi quê, nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên:
- Hai anh tới trường tìm Xuân, không sợ thầy giám thị
la Xuân hà ?
Anh lính thứ nhì, tên Quế, lên tiếng :
- Bọn tôi bảo là anh em bà con với Xuân, đi lính xa
nhà bây giờ mới gặp. Thầy giám thị coi bộ cũng thương
lính lắm, nên chắc không nở la rầy người yêu, à xin
lỗi, người em của lính đâu!
Mặc dù thấy hai anh chàng có vẻ thư sinh, vui tính,
nhưng nhớ lời bà chị thường bảo mấy ông lính bạo
dạn và tán gái hay lắm. Phải coi chừng. Tôi nhủ thầm
như thế. Và để xem hai anh chàng này có thực sự bạo
dạn hay không tôi khoanh tay:
- Nghe nói anh Quế hát hay không thua gì Phương Hồng
Quế, em xin mời hai anh vào lớp em chơi. Bọn em cũng đang
ca hát trong đó, chứ không có học hành gì đâu. Đám bạn
em sẽ mừng lắm đó.
Hai anh nhìn nhau cười, rồi gật đầu, theo tôi vào
lớp.
Cả đám bạn học trò im bặt, tò mò nhìn
ra khi thấy tôi dắt theo hai anh lính trẻ. Tôi nói với vị
giáo sư hướng dẫn :
- Thưa thầy, có hai anh lính nhận được quà tết của
lớp mình, đến cám ơn và xin hát cho cả lớp mình nghe .
Thầy hướng dẫn lớp gật đầu, đến bắt tay hai
anh, tươi cười :
- Hồi nãy tới giờ mấy cô chỉ hát những bài tình
yêu lính chiến, bây giờ đích thân lính chiến hát tặng
mấy cô thì còn gì hay bằng, phải không ?
Cả lớp vỗ tay .
Anh lính tên Lân bước lên bục giảng, hai tay mân mê
chiếc nón bê- rê :
- Kính thưa thầy, thưa các bạn. Tôi không biết hát,
nên xin dành phần nói trước.
Chúng tôi xin cám ơn những gói quà Tết của nhà
trường, của các bạn. Trong không khí Tết, vì nhiệm vụ
phải xa nhà, được những món quà của các bạn chúng
tôi thấy ấm áp nhiều lắm. Đặc biệt hai đứa tôi đây
đã nhận được quà của cô Xuân. Chỉ cần cái tên của
cô là hai đứa chúng tôi cũng đã có cả một mùa xuân
rồi . Xin cám ơn và kính chúc thầy, chúc các bạn một
năm mới vạn điều như ý.
Cả lớp lại rộn lên tiếng cười và những tràng vỗ
tay không dứt. Một con bạn có tiếng nghịch nhất lớp
quay về hướng tôi ngồi :
- Xuân ơi, mày chỉ được chọn một trong hai thôi. Còn
để dành cho đứa khác nữa chứ!
Đúng là nhất quỉ nhì ba, còn thứ ba là bọn này. Tôi
đoán hai anh chàng lính sữa đang nghĩ như thế. Anh lính
tên Lân bẽn lẽn, ngừng lại đôi phút rồi đưa tay về
hướng người bạn, tiếp tục :
- Bây giờ, xin giới thiệu anh bạn thân nhất của tôi,
Lê Phương Quế, mà chúng tôi thường gọi là Phương Hồng
Quế, tiếng hát hàng đầu của trường Thiếu Sinh Quân
Vũng Tàu, sẽ lên hát một vài bài tặng thầy và các bạn
.
Tôi cũng phục tài ăn nói khá “tâm lý
chiến” của anh chàng Lân này. Cái giọng Huế nghe cũng
êm ái, cứ như rót mật vào tai người ta. Bây giờ nhìn
kỹ thấy anh ta cũng đẹp trai, nụ cười cũng có duyên
ghê lắm. Lính cỡ này chắc sẽ làm khổ vài cô em gái
hậu phương đây. Tôi mỉm cười với ý nghĩ vừa thoáng
trong đầu.
Anh Quế bước lại chỗ thầy hướng dẫn để xin nhờ
thầy đệm đàn. Anh hát bài Xuân Này Con Không Về của
nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Trông anh có dáng dấp thư sinh
và khuôn mặt hiền lành như một thầy tu.
Tiếng hát cất lên làm cả lớp im bặt. Đúng là giọng
hát của anh rất hay, điêu luyện, lúc réo rắt lúc trầm
buồn không thua một ca sĩ chuyên nghiệp. Dường như có
cùng tâm trạng với nội dung bài hát, nên anh đã hát với
tất cả cảm xúc, làm dao động trái tim mọi người. Bài
hát chấm dứt, mà cả lớp dường như còn thẫn thờ,
yên lặng. Sau đó bùng vỡ bởi những tràng vỗ tay và
nhiều tiếng la: bis, bis...
Anh cúi xuống một lúc, hình như để dấu sự cảm
xúc, rồi ngước lên nói nhỏ hai tiếng cám ơn và xin hát
tiếp bài Chiều Trên Phá Tam Giang, thơ của Tô Thùy Yên
phổ nhạc.
Lần này, chính tôi không cầm được nước mắt. Không
chỉ vì anh hát hay, nhưng tôi thấy xúc động, thấm thía
hơn cuộc đời của những người lính chiến.
- Thưa thầy. Bây giờ đã đi tu rồi, thầy có còn hát
những bản nhạc tình lính ngày xưa? Tôi vẫn còn nhớ
cái cảm xúc khi thầy hát cho cả lớp tôi nghe, sau cái
tết năm nào ở trường An Túc. Thầy hát thật hay và
truyền cảm. Hôm ấy là lần đầu tiên tôi được gặp
thầy và anh Lân.
- Mô Phật ! Bây giờ tôi chỉ còn biết tụng kinh gõ
mõ, cầu cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc. Nhưng
những gì bà vừa nhắc lại, cũng là con người, làm sao
tôi có thể quên.
- Xin thầy thứ lỗi, nếu tôi đã nhắc thầy nhớ lại
chuyện đời để làm bận lòng một bậc chân tu.
- Mô Phật! Đạo ở trong Đời, cũng như hai kẻ đồng
hành. Hành đạo là để giúp đời. Kẻ tu hành như chúng
tôi cũng chỉ là “cư trần lạc đạo” mà thôi, thưa
bà.
- Cư trần lạc đạo là sao, thưa thầy?
- Có nghĩa là hiện diện nơi trần thế mà hành đạo,
vui đạo. Chứ không phải xa lánh trần thế đầy khổ
nhục để tìm sự thanh thản riêng cho bản thân mình.
- Cám ơn thầy. Thầy giảng hay quá. Ngày đầu tiên gặp
thầy, và nhất là lúc nhìn thầy đứng hát trên bục
lớp, tôi đã thấy thầy giống một nhà tu. Có lẽ thầy
đã có căn duyên từ trước, phải không thầy ?
- Mô Phật! Ai cũng có thể tu hành, và bất cứ ai cũng
có thể thành Phật được, thưa bà .
Không ngờ lần gặp gỡ đầu tiên năm ấy
lại mang đến cho tôi mối tình đầu. Sau vài lần gặp
nhau, tôi biết Lân và Quế là hai người bạn thân thiết
từ lúc còn học trong trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu.
Ra trường về cùng đơn vị, nên sống với nhau như anh
em, mặc dù tôn giáo khác nhau. Quế đạo Phật còn Lân là
tín đồ Công giáo. Những ngày chủ nhật không bận hành
quân, Lân đều đi lễ nhà thờ, nên chúng tôi thường
gặp nhau hơn. Và lần nào tôi cũng mời Lân về nhà. Cha
mẹ tôi cũng rất thương quí Lân, nhất là sau khi biết
cha mẹ Lân đã chết trong biến cố tết Mậu Thân. Tính
tình Lân lại hiền lành chân chất và hiếu học. Dù bận
hành quân liên miên, nhưng anh vẫn cố gắng tự học để
thi tú tài vào mùa hè này. Cũng có đôi lần Quế theo Lân
đến nhà tôi chơi. Càng lúc chúng tôi càng thân nhau hơn.
Tôi biết là Lân cũng thích tôi. Trong túi áo của anh
lúc nào cũng có chiếc khăn tay tôi đã tặng anh trong gói
quà Xuân. Mỗi lần chia tay, anh bịn rịn lưu luyến không
muốn rời tôi. Còn tôi, cũng thấy nhớ anh da diết và
mong chờ anh từng ngày trong các lần anh đi hành quân. Tối
nào tôi cũng đọc kinh cầu nguyên cho anh được bình yên
trở về.
Bây giờ tôi mới biết tình yêu là gì. Tôi bắt đầu
biết tương tư, mơ mộng, nhớ nhung và man mác buồn khi
thiếu vắng anh. Những bản nhạc tình lính, người yêu
của lính, dường như càng lúc tôi càng thấy hay hơn, và
tôi hát nhiều hơn. Sau mỗi lần hành quân, Lân đều mang
về tặng tôi những cánh hoa lan rừng. Tôi nghe nói vùng
núi rừng An Khê này có nhiều hoa lan. Có những loại hoa
lạ, thật đẹp mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy hoặc biết
tên. Chỉ sau hai tháng, trong phòng tôi treo đầy hoa lan
rừng. Tôi thích nhất là những cánh hoa màu tím. Có lẽ
tôi nhớ tới màu tím hoa sim trong một bản nhạc mà tôi
thường hay hát..
Chiến tranh lại ngày càng ác liệt. Ngồi trong lớp
học, bọn tôi vẫn thường nghe tiếng súng, tiếng máy
bay vần vũ trên bầu trời. Ban đêm, nhìn qua cửa sổ,
những trái hỏa châu lơ lững giữa trời, soi sáng cả
một vùng núi non nào đó. Rồi tôi nghe tin Dakto mất, Tân
Cãnh thất thủ, thành phố Kontum bị pháo kích..Một số
người đã phải bỏ nhà chạy xuống Pleiku, sống trong
các trường học, được chính quyền dùng làm trại tiếp
cư.
Hơn một tuần, tôi chưa gặp Lân bởi đơn
vị anh có lệnh cắm trại, ứng chiến. Bất ngờ gặp
lại anh trong lễ sáng chủ nhật ở nhà thờ. Khi tôi đang
quỳ gối cầu kinh, Lân đến sau, quỳ xuống bên cạnh.
Tan lễ, vừa bước ra khỏi nhà thờ thì chúng tôi gặp
anh Quế đứng đợi từ lúc nào. Tôi mời hai anh về nhà.
Trên đường đi, cả hai anh im lặng, không nói một lời
gì. Nhìn nét mặt thật buồn, tôi nghĩ là họ đang ưu tư
điều gì. Tôi hỏi, nhưng hai anh chỉ nhìn nhau rồi lắc
đầu, không nói.
Suốt ngày hôm ấy hai anh ở lại nhà tôi. Mẹ tôi đãi
hai anh một con gà tơ. Trong lúc Lân và Quế rượt bắt gà
trong vườn, tôi tìm hái mấy trái cà, trái mướp và rau
thơm. Cả ba chúng tôi cùng làm bếp, đùa giỡn, ca hát
líu lo, không còn chút ưu tư nào trên khuôn mặt của mọi
người. Ăn cơm xong, chúng tôi rủ nhau ra ngồi dưới
những cây dừa rợp bóng, nghe Quế hát, rồi chúng tôi
cùng hát theo những bài tình ca quen thuộc. Buổi chiều,
Quế cáo từ tôi, chào ba mẹ tôi xin về trước. Trong
phòng tôi chỉ còn có tôi và Lân. Lần đầu tiên tôi
nghe Lân rụt rè tỏ tình. Anh bảo, đời chiến binh rày
đây mai đó, rồi có một ngày, anh sẽ phải đi xa, nhưng
lúc nào cũng mang theo bóng hình của tôi vào những nơi
gió cát. Những lời anh nói làm tôi nhớ tới những câu
thơ Chinh Phụ Ngâm thật hay của bà Đoàn thị Điểm dịch
mà tôi đã học. Những câu thơ thật buồn bây giờ lại
càng buồn hơn. Tôi khóc.
Lần đầu tiên tôi khóc, không biết là vì hạnh phúc
đến bất chợt của mối tình đầu hay là vì nghĩ tới
nỗi cô đơn của người Chinh Phụ. Tôi giật mình, khi
Lân ôm tôi vào lòng. Tôi đứng im, bất động, đón nhận
nụ hôn tình yêu đầu đời trong hai hàng nước mắt. Tôi
tiễn Lân ra đầu làng, hai đứa ôm lấy nhau khi bóng
chiều vừa tắt.
Sáng hôm sau, ngồi trong lớp học, khi thấy từng đoàn
xe nhà binh chở đầy lính chạy về hướng Pleiku, lòng
tôi thẫn thờ khi nghĩ là Lân đã đi xa..Tôi vội lên xin
phép cô giáo ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa chạy đến hàng
thông phía trước, thì đoàn xe cuối cùng đã chạy qua
bên kia cầu .
Xuân ơi,
Anh đang ở phi trường Pleiku để chuận bị được
không vận lên Kontum. Chiến trường đang ác liệt. Căn cứ
Tân Cảnh vừa thất thủ. Địch quân đang tràn xuống uy
hiếp thành phố Kontum. Thành phố đang bị cô lập nởi
những cái chốt của địch quân trên đỉnh núi ChuPao,
cắt đứt quôc lộ 14 nối liền với Pleiku. Sợ lên
Kontum rồi, anh không liên lạc được với em, nên viết
vội ít dòng tin em và cũng xin lỗi em vì hôm qua, khi chia
tay ở nhà em, anh không nói chuyện anh đi. Mong em thông cảm
bởi đó là bí mật quân sự, anh không được phép tiết
lộ, mặc dù anh rất yêu em và tin em..
Không biết đến bao giờ mình mới gặp lại, nhưng
dù bất cứ hoàn cảnh nào, anh vẫn luôn mang theo trong tim
mình hình bóng của em. Em nhớ cầu nguyện cho anh nghe.Xin
cho anh kính lời hỏi thăm hai bác cùng gia đình. Cầu xin
Chúa và Đức Mẹ Maria luôn che chở em cùng tất cả mọi
người.
Hôn em
Đỗ Lân
Không ngờ lá thư này là lá thư cuối cùng
tôi nhận được của Lân. Chỉ ba tuần sau, Lân hy sinh.
Người báo tin buồn này chính là Lê Phương Quế, người
bạn chí thân của Lân và sau này cũng là bạn của tôi.
Lá thư có kèm theo vài di vật, Quế đã nhờ một anh phi
công gởi cho tôi từ Pleiku , sau một chuyến đổ quân cho
đơn vị của Quế ở Kontum. Lân đã bị thương rất nặng
khi cùng với vị tiểu đoàn trưởng chui qua hàng rào
phòng thủ, mở đường vào giải cứu Bệnh Viện 2 Dã
Chiến, đang bị địch quân xua xe tăng đánh chiếm, với
ý đồ lợi dụng những thương binh nằm trong bệnh viện,
làm bàn đạp tấn công vào khu phi trường nằm sát thị
xã Kontum. Lân chết lúc chờ máy bay tản thương. Chính
Quế là người đã vuốt mắt cho Lân và nghe những lời
trăn trối cuối cùng. Anh nhờ Quế giữ để trao lại cho
tôi cái dây chuyền có mang thánh giá cùng mấy tấm ảnh
có hình của cha mẹ anh và của anh mặc lễ phục trắng
đội bê rê đỏ khi còn là thiếu sinh quân. Những tấm
ảnh ấy bây giờ vẫn còn trong nhà thờ An Túc, và sợi
dây chuyền tôi vẫn còn cất giữ đến hôm nay. Anh Quế
còn cho biết thêm, trước khi trút hơi thở cuối cùng,
Lân còn thì thào gọi tên tôi, và khi lục trong túi áo,
anh Quế còn thấy cái khăn tay và lá thư của tôi tặng
Lân trong gói quà tết hôm nào.
- Thưa thầy, cuối năm 1973 tôi có nhận được thư của
thầy. Lúc ấy thầy bị thương nặng, nằm ở quân y viện
Pleiku. Tôi có tìm đến thăm, nhưng người ta bảo là thầy
đã được chuyển về quân y viện Nguyễn Huệ ở Nha
Trang, để được gần nhà. Lúc ấy đoạn đèo An Khê lại
bị địch chiếm, nên xe đò không chạy được. Mấy
tháng sau, khi đi được xuống NhaTrang tìm thăm thầy, thì
thầy đã xuất viện. Tôi có hỏi nhưng bệnh viện không
biết thầy ở đâu.
- Mô Phật! Đúng như bà nói. Tôi được Hội Đồng
Giám Định Y Khoa cho xuất ngũ, vì thương tích. Tôi về
sống với mẹ già. Lúc ấy bà cũng đang tu tại gia, ăn
chay trường. Suốt một đời bà đã lo lắng cầu nguyện
cho cha tôi, rồi đến tôi. Cha tôi cũng đã tử trận năm
1965, trong trận Đồng Xoài, khi ấy tôi chỉ vừa 11 tuổi.
- Nhờ vậy mà thầy đã đi tu .
- Lý do đó chỉ một phần. Cái chính là do tôi đã
sống trong chiến tranh, chứng kiến bao nhiêu cái chết quá
đau lòng, như cái chết của những người còn quá trẻ
như Lân. Họ đâu có tội tình gì. Tôi nghĩ tới cuộc
chiến phi nghĩa, khi mà anh em cùng một nhà lại chém giết
thù hận lẫn nhau. Nhất là những người lính miền bắc,
chỉ vì một số người cầm quyền nhân danh các thứ chủ
nghĩa này nọ, để xua họ vào miền nam chém giết chính
đồng bào mình. Trước khi nhắm mắt, có lẽ họ chẳng
biết họ chết trong núi rừng, trong đói khổ, để cho ai
và được điều gì ? Gia đình, cha mẹ hay vợ con họ ra
sao ? Tôi nghĩ tới cái Vô Thường, Vô Minh mà Đức Phật
đã dạy, nên tôi đã tìm tới cửa Thiền để mong trút
bỏ mọi ám ảnh, oan khiên.
Như vừa nhớ ra một điều gì, thầy chỉ
tay về hướng sau chùa :
- Mời bà đi theo tôi. Mong bà sẽ tìm thấy một điều
kỳ diệu.
Tôi theo thầy đi dọc theo triền đồi, đến một nơi
tương đối bằng phẳng. Lại một khu vườn nhỏ toàn
hoa sim. Tuyêt diệu hơn, bên trên các khung cây được treo
đầy những cánh lan rừng. Tôi nhớ tới những cành lan
mà Lân thường mang về tặng tôi sau các cuộc hành quân.
Ngày xuân, tất cả đang nở rộ một mùa hoa. Điều làm
tôi ngạc nhiên hơn là giữa khu vườn là một ngôi mộ,
trên tấm bia lại có cây thánh giá. Tôi thắc mắc hỏi
thầy.
Thầy im lặng, không trả lời, ra dấu bảo tôi cùng
thầy đến gần ngôi mộ. Tôi bàng hoàng khi đọc mấy
dòng chữ trên mô bia :
Giuse Đỗ Lân
Sinh ngày 10.7. 1953 tại Huế
Tử ngày 11. 5. 1972 tại Kontum
Tôi quỳ trước ngôi mộ, đưa tay lên ngực làm dấu
thánh giá rồi khóc sụt sùi. Một cơn gió xào xạc làm
chao động cả rừng cây. Dường như tôi đã ngồi ở đây
lâu lắm. Khi lau nước mắt đứng lên tôi không còn thấy
thầy trụ trì. Có lẽ thầy muốn để tôi ngồi khóc một
mình mà thổn thức với người xưa, hay là muốn tránh xa
chuyện vui buồn của thế tục.
Khi trở lại chùa, tôi có cảm giác như chân mình đang
bước vào khoảng không, hụt hẫng. Chú tiểu chờ tôi
trong căn nhà khách, chuyển lại lời xin lỗi của thầy
trụ trì và trao lại cho tôi một tờ giấy học trò được
xếp làm đôi. Thầy trụ trì đang cúng ngọ. Tôi mở tờ
giấy ra đọc, trong lúc tiếng chuông chùa ngân nga như
muốn làm dịu đi phần nào những cơn sóng đang bềnh
bồng trong lòng tôi. Trên tờ giấy chỉ có mấy dòng chữ
:
Xin chào bà và cám ơn bà. Chính tôi đã
mang hài cốt của anh Lân về cải táng trong vườn chùa,
khi được tin nghĩa trang trong thành phố Kontum bị giải
tỏa. Anh Lân mồ côi, không còn ai thân thích.Từ nay, xin
bà hãy cầu nguyện cho anh Lân, theo nghi thức tôn giáo của
bà.
Nam Mô A Di Đà Phật.
phạmtínanninh
(Tác giả viết lại phỏng theo lời kể
của một nữ độc giả. Độc giả này sau khi đọc bài
Trên Chiến Trường Xưa (Kontum) của tác giả, được phổ
biến trên nhiều số báo nhân ngày 30.4.2008, đã tìm cách
liên lạc với tác giả để tìm hiểu vế cái chết của
người tình cũ. Anh đã tử thương trong trận tái chiếm
Bệnh Viện 2 Dã Chiến, Kontum ngày 11.5.1972)