văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Thursday, June 21, 2012

NGUYỄN TRUNG DŨNG * Cái Chết Về Như Lá Mùa Thu


tranh Đằng Giao


“hãy để cuộc đời tươi đẹp như hoa
 và hãy để cái chết về như lá mùa Thu”
 [Tagor]


Trên lầu cao, từ cửa sổ ngó xuống phố, mắt ông đăm chiêu nhìn những cái lá. Những cái  lá trên  ngọn của một cây sồi già. Những cái lá đó, trước khi bắt đầu thành hình, chúng chỉ là những cái trồi non mới nhú. Trồi nom như những cái cựa gà. Những cái cựa lớn dần rồi dài ra. Chúng hình thoi. Màu trắng. Màu của những đọt măng.

Suốt nhiều tháng, trên lầu cao, từ cửa sổ ngó xuống  phố, ông thấy chúng đã mang hình thể của những cái lá hình thoi, cuống dính vào cành, màu nom  xanh  hơn, mỗi sớm mai thức dậy, ngồi uống chén trà, ông nghe chúng mừng vui trò chuyện.

Nhưng hôm nay, trên lầu cao, từ cửa sổ ngó xuống phố, bầu trời ủng sũng màu chì, mưa phùn với những hạt mưa nhỏ như bụi, những chiếc lá treo thân trên  cành, chúng  đã bắt đầu ngả sang màu vàng. Màu vàng của bệnh tật. Màu vàng của tuổi già. Màu vàng của chết chóc. Màu vàng đó, là triệu  chứng  báo trước cho chúng biết, sớm muộn gì, những cái lá treo thân trên cành sẽ phải rụng.

Cuối Thu, những cơn gió heo may, những mảng mây màu xanh lơ, những cánh đồng hoa cúc trắng, thời tiết và cảnh vật  đã đổi khác. Những  trận cuồng phong, những cơn mưa giông, chúng bất thần kéo đến để báo hiệu cho mùa Đông. Và mùa Đông năm nay, đổ về miền Bắc, có hai cơn bão.

Suốt nhiều ngày trong tuần, đứng  trên  lầu cao, từ  cửa sổ  nhìn xuống phố, ông thấy những cái lá vàng còn cố bám trên cành, chúng run rẩy, những cái lá đã lìa khỏi cành, chúng nằm im bất động như xác của những con bướm, cánh  dính trên mặt đường nhớp nháp bùn và nước. Nhìn cảnh vật cây cối chung quanh, cũng là lúc, ông  nghĩ  đến ông. Ông nghĩ gì. Ông nghĩ, những cái lá đang rủ nhau lìa cành, những cái lá  nằm dưới  mặt đường của con phố kia, chúng và ông có khác gì nhau đâu.

Rồi ông suy ra, từ lúc là một đứa bé, là một  cái trồi  non, là một người trưởng thành, là một cái lá đang tươi tốt, là một ông già, là một cái lá đã ngả sang màu vàng, là một cái xác vô hồn, là những cái  lá nom như những con  bướm nằm trên mặt đường, tận cùng của hiện hữu là cái chết. Chết.

Ông ngồi, vẫn trên lầu cao, từ cửa sổ nhìn xuống phố, mắt đăm đăm ngó những cái cành khẳng khiu trơ trụi, ngó bầu trời mây bao phủ màu xám chì, ngó những  tầu lá ở ngọn những cây dừa già đang lắc lư chao đảo, ngó những giọt  mưa nặng hạt đang xối xả ném xuống mặt đường của con phố, ngó những cái mái màu xám của những ngôi nhà ở hai bên vỉa hè, chưa  lúc nào  bằng  lúc này, cái chết bắt đầu ám ảnh ông. Sợ. Không. Ông chẳng có gì để phải sợ cả. Cái chết là một điều tất yếu phải  đến, đến lặng lẽ, đến một cách bất ngờ, đến không cần báo trước, đến như  một  người  khách lạ, đến với ông hay đến với bất cứ ai, không ngoại lệ và miễn trừ.

Cái chết, dù muốn hay không, dù sớm hay muộn, dù lâu hay mau, thì cái chết sẽ về như lá mùa Thu. Cái chết như một ngọn nến đã đến lúc tàn, lửa phải lụi. Cái chết ở tuổi một người già sức đã yếu, lực đã kiệt, đi bình yên thanh thản.

Đêm qua, khó ngủ nên ông thức rất khuya. Vẫn trên lầu cao, từ cửa  sổ, thay vì nhìn xuống con phố, ông đã ngồi dưới ngọn đèn có ánh sáng đủ để nhìn thấy những hàng  chữ, sách  cầm  tay, ông lặng  lẽ  đọc. Ông  đọc cái gì. Ông  đọc cuốn  “The  story  of philosophy” của Will  Durant. Có đoạn trong sách, Will Durant nhắc lại về cái chết của Socrate được Platon kể . Khi người giữ ngục đi vào với  chén thuốc cầm ở tay, người đó đưa cho Socrate vừa bảo rằng:
“Uống thuốc xong, ông có thể đi dạo. Chừng  nào thấy hai chân bắt đầu nặng, ông trở lại giường rồi nằm xuống chờ cho chất độc dẫn đến tim”.
Thái độ thản nhiên bình tĩnh, Socrate  đưa tay cầm lấy chén thuốc. Lúc Socrate uống, mọi người đứng chứng kiến thẩy đều xúc động. Có kẻ không cầm được nước mắt đã bật khóc. Thấy thế, Socrate đưa mắt nhìn  các môn  đệ, chỉ  khẽ bảo rằng:
“Hãy cứ vui. Các con chôn chỉ chôn cái thể xác của thầy”.
 Người giữ  ngục quan  sát  chân  tay ông, chốc chốc lại hỏi:
“Ông cảm thấy gì chưa”.
Socrate bảo chưa. Nhưng  khi  hai chân đã cứng, sống lưng đã lạnh, Socrate tự tay kéo bỏ  tấm vải  che mặt, trước  khi trút  hơi  thở  cuối cùng, ông  nói:
“Thầy nợ Aslepius một con gà. Con gắng trả giúp thầy món nợ đó”.
Nói rồi, mắt nhắm, ông lặng lẽ ra đi.   

Không giống như những cái lá cuối Thu là lúc tận số phải lìa cành, cái chết của Socrate là cái chết bị bức tử. Rồi đây, ông cũng  sẽ ra đi vĩnh viễn, có thể là ngày mai, có thể là người mốt, có thể là tháng sau, cũng có thể không chừng là tháng sau nữa. Cái mốc thời gian đã ấn định cho mỗi người không có trường hợp ngoại  lệ và miễn trừ, vậy thì, ông cần gì phải lo lắng và bận tâm nghĩ đến. Dù biết rằng, không lúc nào bằng lúc này, ông biết cái chết  đang  rình  rập ông ở đâu đó, rất  gần, đến  độ ông có thể đưa tay ra chạm được nó, có  thể  nhìn  thấy hai con  mắt của nó như hai mắt của một con chó rừng trong bóng tối của đêm đen. Nó đã xuất hiện và đến đứng đó đợi chờ, rình rập.

Trên lầu cao, nhìn xuống đường qua kính cửa sổ, sáng nay khác với mọi sáng, cái ghế của ông thường ngồi đã không có ông ngồi. Ở cái giường đáng lẽ là cái ghế ông ngồi mỗi sáng để nhìn xuống dẫy phố, nhìn cái cây chỉ còn những cành nhánh khẳng khiu, trơ trụi, thì  nay, ở một  căn  phòng cũng có cửa sổ gắn kính, căn  phòng ở lầu 4 của một bệnh viện, ông đang nằm.

Nằm trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Lúc mê, ông hoàn toàn vô thức. Lúc tỉnh, trí nhớ hồi phục giúp ông còn nhận biết được sự việc đã qua và mọi vật diễn  biến  ở  trong căn phòng. Nằm trên giường, có lúc nhìn qua kính cửa sổ, ông  thấy có  một  con  chim. Con chim lông sắc xám. Nó có hót hay không ông không biết. Với  bức  tường  cách âm, cho dù nó có hót, ông cũng chẳng thể nghe được tiếng hót của nó.

Giờ đây, cái nhớ giúp ông nhớ được phần nào những chuyện đã qua. Nhưng  cái nhớ chỉ là những thước phim chiếu lại trên màn hình thường hay bị gián  đoạn hoặc nhòe  nhoẹt vì, óc não ông đã không còn có đủ khả năng bảo  tồn và gợi lại những sự  việc  trước đó đã xẩy ra. Những sự việc đó là những sự việc gì. À, hồi  tưởng lại những cái rất gần, rất rõ, rất cụ thể, ông nhớ đêm qua, hình như lúc đó đã quá  nửa  đêm, hình  như  trong  khi ông đọc xong cuốn sách  viết về cái  chết  của Socrate, ừ, phải  rồi, cái đoạn Socrate đã lạnh chân cẳng, Socrate đã  lạnh  sống lưng, Socrate đã kéo cái khăn che mặt, Socrate đã trăn trối với Citron là trả lại cho Aslepius  một  con gà, thì cũng là lúc, ông thấy máu dồn lên đầu, ông đột quỵ. Rồi sao nữa nhỉ. Rồi trong một cái xe có hú còi, cái xe phóng hết tốc độ trên  đường phố. Nó chạy nhanh  như thế để làm gì. Nó chạy nhanh như thế để rồi sẽ đi đến đâu. Ông thắc mắc đặt câu hỏi nhưng câu hỏi đó, chẳng có ai quan tâm đến ông để trả lời.

Bây giờ, nằm trên cái giường ở trong bệnh viện, lúc hồi tỉnh và nhớ lại được, ông đã có câu trả lời về cái xe đó vì sao  nó đã  hú  còi, và đã  phóng  với  tốc độ quá nhanh trong đêm  tối. Và  bây  giờ, cũng là  lúc  qua  kính  cửa  sổ,  buổi  sáng  ông  nhìn  thấy  con “hummingbird” đậu trên một cành cây. Bầu trời vẫn  màu  xám chì. Mưa vẫn chỉ là cơn mưa bụi. Và chỗ ông đang ở, chưa lúc nào  bằng  lúc này, ông  nhận  thức  một  cách  rõ ràng và chính xác, chính đây là lằn ranh phân  biệt một bên là cõi sinh và bên kia là cõi tử.

Nửa khuya, như một người chết đuối, chìm ở dưới nước, chân tay quờ quạng, hơi thở bị ngộp, thì chính là lúc, ông không còn chủ động để tự cứu mình được nữa. Khi cây kim ngắn và cây kim dài cùng chặp lại ở con số 12, cái giờ khắc định mệnh đã tới, ông như cái lá cuối mùa Thu, cái ngọn nến đã tới lúc tàn, thì có cỗ xe song mã do một tên xà ích chạy đến, kẻ chùm mặt mặc áo đen cúi gặp người xuống chào ông, rồi lễ phép mời ông lên xe. Rồi xe chạy.

Hồn đã rời khỏi xác. Hồn như một sợi khói  bay lơ lửng trên không. Hồn quẩn quanh cố tìm cách nhập vào cái xác. Nhưng cái xác chỉ là một  căn  nhà  cửa  đã đóng. Người chủ của ngôi nhà không có chìa khóa để vào  nên cứ đi loanh  quang  ở  bên  ngoài. Khi xác người chết đã đưa xuống nhà quàn, ông thấy ông nằm trong một cái quan tài bằng gỗ. Nắp quan tài được mở. Ông thấy  có  vợ  con  ông, có thân bằng quyến thuộc và bạn bè của ông. Vô số những vòng  hoa  tang. Cái  đặt  trên  giá  có  chân  đứng. Cái  treo  trên tường. Cái chỉ là những bó hoa được cắm trong bình thủy tinh đựng chúng. Tất cả những hoa tang đó là những lễ vật mang đến để phúng  điếu nhằm mục  đích phân  ưu đến gia đình ông, để tỏ lòng thành kính tưởng nhớ tới người đã khuất.

Ngày chuyển cữu, ông nhớ  quan tài được bốn người bưng. Từ nhà quàn đi ra, một hàng dài những người gồm tang gia, bạn  bè, và thân  quyến, tất cả đều bước chậm chạp dưới cơn mưa phùn bay như bụi.

Đã đến nhà thiêu xác, cỗ áo được những người phụ  trách ở nghĩa trang chuyển đưa vào lò. Lò là một cái thùng hình vuông, có máy điện cao thế, khi  xác đã được đẩy vào, cửa lò đã được đóng, thì hơi nóng bắt đầu tỏa ra. Những gì dễ cháy thì cháy trước. Những gì khó cháy thì cháy sau. Nhưng chỉ  trong một thời  gian ấn  định nào đó, ở trong lò thiêu, tất cả chẳng còn gì ngoài lớp tro đen.

Hồn ông vẫn vật vờ lơ lửng nhưng cái  xác  như  một ngôi nhà đã không còn nữa. Chính vì thế, giờ này, ông không khác gì một con chim  lẻ  bạn, con  chim  đậu  trên  một cành cây ngước mắt nhìn trời, há mỏ nhả ra một tiếng kêu như tiếng nấc.

Vào lúc bóng tối của buổi hoàng hôn đã kéo về, thì trên  những con  đường, trên  những khu phố có  nhà cửa  dân ở, trên  vườn  tược cây  cối của những tư  gia, trên  những  khu công viên có những cây cổ thụ già, mưa phùn vẫn rắc bụi. Chính lúc đó, hồn ông tìm về ngôi nhà ông đã ở. Ngôi nhà có phòng cho thuê  của khu nhà già. Có một  cái cửa chính để ra và vào chung cư. Cửa thì đóng. Lục túi quần để tìm cái bấm cửa thì trong túi quần không  có. Ông  không  còn  cách  nào khác là  phải  đứng  chờ. Vào đúng lúc  đó, có ba người đàn bà vừa ở phố đi về. Họ nói chuyện vui  vẻ  vừa bước  tới gần  chỗ  ông đứng. Ông cúi đầu chào họ nhưng chẳng  ai  trong  ba người  đó đáp  lễ chào  lại  ông. Với cái “remote”, họ bấm và  cánh  cửa tự  động  mở. Ông biết ơn lại một  lần nữa lịch  sự lên tiếng cám ơn họ. Nhưng  rồi, cũng chẳng có một ai thèm trả  lời  ông, ông cảm thấy vừa buồn vừa bị xúc phạm. Chuyện đó chỉ trong chốc lát, khi đã bước  vào bên trong, đi dọc theo dẫy hành lang để trở về phòng mình, thì ông nhanh  chóng  quên ngay. Đứng, một lần nữa bàn tay ông lại lục tìm chìa khóa, nhưng cả hai túi  áo lẫn túi quần, bàn tay ông không đụng tới cái chìa khóa. Như vậy, ông đã quên không  mang theo cái chìa khóa khi đi ra ngoài. Chỉ còn cách dùng tay gõ lên tấm ván của cánh cửa để gọi vợ ông, nên miệng thì nói, tay thì gõ, nhưng rất lâu, cánh cửa thay vì được mở nó lại vẫn không mở.

Chẳng còn cách nào khác, nhìn thấy ở góc hành lang có 4 cái ghế và một cái bàn gỗ để người trong chung cư ngồi chơi, ông thấy cách tốt nhất trong lúc đợi là đến đó ngồi chờ. Thời gian ngồi chờ như thế, đấy là lúc ông  nhìn  dọc theo đường hành  lang dài. Những ngọn đèn gắn ở trên trần, những ngọn đèn ở cửa mỗi căn phòng, ánh sáng vẫn tỏa sáng. Cho nên, dù bây giờ ở bên ngoài là bóng tối, nhưng trong khu chung  cư của  nơi  ông ở, vẫn sáng như ban ngày. Cái hành lang đó, mỗi sáng thức  dậy, mỗi chiều khi bên  ngoài bóng  tối  của buổi hoàng  hôn  chưa phủ, vào mùa Đông, khi thời tiết quá lạnh, có mưa giông và gió lớn thổi, vào những lúc đó ông không thể ra ngoài được, ông thường đi tản bộ dọc theo dẫy hành  lang, mục  đích chỉ là để thư giãn  xương  cốt, để máu  huyết  lưu thông, để đầu óc suy  nghĩ  về  một đề  tài nào đó  cho một  bức  tranh  ông  muốn  hình thành. Một việc làm đi làm lại như thế lâu ngày trở nên một thói quen. Và khi nó đã trở thành thói quen rồi, nó cứ thế mà lập đi lập lại một cách vô thức.

Mùa Đông thì vậy. Nhưng tới mùa  hè, khi những con  đường chung quanh khu nhà ông ở, sáng chưa có nắng gắt, chiều chưa có bóng  tối về, ông và vợ ông thường  rời căn phòng để đi dạo, cũng  là để hít thở  khí trời, để thư thái đầu óc, để thư giãn gân cốt, và để khai thông máu huyết trong người.

Vào lúc ông ngồi và đang nghĩ vẩn vơ như thế, thì, cánh cửa căn phòng ông ở bật mở. Ông thấy vợ ông bước ra. Ông thấy tay bà cầm  một bịch ny  lông. Đi về phía nơi để bỏ rác, ông biết  bà  đi bỏ rác. Ông bước theo sau bà vừa nói:
“Tôi ngồi đợi bà đã khá lâu ở cái ghế ngoài hành lang. Chắc bà đang ngủ nên tôi gõ cửa và gọi vẫn không thấy bà thức để ra mở cửa cho tôi”.
Ông nói. Nhưng ông  không  thấy vợ ông trả lời. Ông lại lên tiếng bảo:
“Này bà, bữa nay  sao  tôi  thấy  cái  gì cũng lạ. Lạ nhất là mấy bà xưa nay tôi quen biết lại bất lịch sự đến  độ  tôi chào nhưng họ cứ làm như  không có tôi. Tôi có điều gì làm cho họ phật ý đâu. Vậy mà họ đối  sử  với  tôi  như  thế được hay sao”.

Ông ngưng nói và chờ bà vợ lên tiếng, nhưng vợ ông vẫn lẳng lặng đi đến cái phòng bỏ rác. Rồi lại từ căn phòng bỏ rác sau khi đã bỏ rác xong, vợ ông đi trở lại căn phòng của vợ chồng ông thuê ở. Cánh cửa mở, ông theo vợ ông vào. Bây giờ đã ngồi ở cái “sofa”, nơi mà
ông hàng ngày ngồi, ông thấy vợ ông rất  buồn, đầu bà ngả trên tựa ghế, đôi  mắt ướt. Ông không hiểu có chuyện gì đã xẩy ra. Để hỏi cho ra nhẽ, ông buộc lòng phải lên tiếng. Nhưng thay vì trả lời, vợ ông vẫn chỉ ngồi lặng thinh, chẳng nói dù chỉ là một lời.

Nhà đầy tranh. Có những bức ông đã vẽ từ nhiều năm trước. Có những bức ông vẽ những ngày gần đây. Cũng còn một hai bức ông vẽ chưa hoàn thành. Không có điều gì cần để hỏi vợ ông nữa, bây giờ là lúc ông ngồi lặng lẽ nhìn ngắm những họa  phẩm của ông đã vẽ. Bốn  bức tường, những bức tranh sơn dầu được treo. Đó là thành quả của những năm tháng miệt  mài làm việc. Mỗi  bức là một đề tài, một kỷ niệm, khi ông gày dựng nó. Đây là bức chân dung ông vẽ vợ ông lúc còn trẻ. Đây là bức ông vẽ một bà cụ già. Bà cụ mồm móm mém nhai trầu. Mặt bà cụ hằn những đường nhăn. Hai má teo tóp như một trái quả khô. Đây là bức ông vẽ một người đàn ông đầu đội mũ “bê rê”, khăn quàng cổ, miệng ngậm ống “pipe”. Đôi mắt của người đàn ông đó nom hơi xếch. Đây là bức ông vẽ một nhà ga có một đoàn tầu nằm dài trên đường ray. Từ miệng ống khói, khói bay lên với lửa và bụi than đen. Đây là bức ông vẽ một bầy ngựa trắng đang gặm cỏ trên sườn một ngọn đồi. Cỏ màu xanh. Có một gốc thụ già cành nhánh khẳng khiu, đứng lẻ loi in lên nền trời màu xanh biêng biếc. Đây là bức ông vẽ hai đứa bé đùa rỡn trên một cánh đồng cỏ. Cỏ vàng màu lông chó vện. Có một cánh  diều  bay lơ lửng trên không. Và đây là bức ông vẽ những con chim hải âu đang dang rộng đôi cánh đảo vòng trên mặt biển. Nước biển thì xanh.

Khi thấy vợ đã tắt  đèn vào  phòng để ngủ, ông vẫn còn ngồi im lặng trong bóng tối. Bóng tối đã làm mắt ông không còn nhìn thấy những bức tranh treo trên tường. Nhưng thay vào đó, ở cái bàn thờ vẫn có ánh sáng của những cây đèn thắp sáng, ánh sáng đủ để mắt ông thấy những bức chân dung lộng kính của các bậc sinh thành đã quá vãng,và còn cả bức chân dung của ông để ở đó nữa.

Đèn đã tắt, trong căn  phòng bây  giờ chỉ còn là bóng  tối, nếu có ánh sáng, ánh sáng lờ mờ của những cây nến đăït trên bàn thờ không thể nhìn rõ những bức tranh, thì ông biết  đã đến lúc ông nên vào trong phòng với  vợ. Ông đinh ninh nghĩ là vợ ông đã ngủ, nhưng không phải vậy, vợ ông chẳng những vẫn chưa ngủ mà bà nằm đó, khóc thút thít.
“Có chuyện gì làm em buồn. Sao lại cứ khóc vậy “.
Ông  nói và đợi vợ lên tiếng. Vẫn chỉ là cái im lặng trong bóng tối của căn phòng, thay cho câu trả lời của vợ.

Đêm rồi cũng qua. Ngoài vườn cây, trời vừa tang tảng sáng. Đã nghe thấy tiếng hót của những con chim. Đúng vậy. Trời tang tảng sáng và tiếng hót của những con chim báo hiệu buổi mai của một ngày đã đến. Nhìn qua kính cửa sổ, rõ ràng ông thấy những vụn nắng le lói như những ánh lửa leo lét trên lá của cây cối  phía bên kia con đường. Ánh sáng đến chính là lúc ông cảm thấy bồn chồn sợ hãi. Cùng lúc với những tiếng động của xe cộ chạy qua lại trên con lộ ở bên ngoài, đã làm hồn ông chấn động. Tan như băng, loãng như khói, mờ nhạt như sương mù, ông là vậy khi  hồn không còn trụ vững, rồi như một quả bóng lặt lờ bay lên cao, như cây cải  bay về trời, như sợi bông gạo giạt về núi, như âm thanh của tiếng chuông đã tắt, hồn ông quay về cõi hư vô.

Đúng một trăm ngày, ngày đó, ông thấy cái hũ đựng tro của ông được vợ con ông mang lên một cái xe. Xe chạy trên xa lộ rồi xe đến một vùng có núi. Đứng ở núi, ngó xuống thấy biển. Địa danh thành phố là San Francisco. Nơi một vài lần ông đã cùng vợ con ông đến.

Ở San Francisco, ngoài cây cầu Golden Gate hùng tráng và vĩ  đại nối bờ đất ở bên này với bờ đất ở bên kia của con sông lớn  chảy ra  biển, ngoài  những  con  đường  núi  dốc đứng đầy nguy hiểm và lảng vảng có bóng tử  thần, ngoài  những  khu thương  mại xầm uất và đông người nờm nợp đi lại trên hè phố, nơi được coi là đất của những người Tầu, thì phần lớn cũng giống như các đô thị khác, chỗ này là  những  tòa  nhà  chọc  trời, chỗ kia là những khu tư gia của những người dân ở, chỗ khác  có những ngôi nhà biệt lập và đây đó xa gần, những cây cầu đúc treo lơ lửng vắt vẻo trên không.

Nếu không phải là những khu trung tâm của  thành phố, thì ở nhiều nơi nhà cửa thấp thấy có những quán ăn, những tiệm sách báo, những cửa hàng bán rượu, những văn phòng dịch vụ, những cột bán xăng, những bãi có xe đậu để bán.

Bây giờ đã đến lúc ông nhận thấy ông cùng vợ con ông ra tới bờ biển. Vợ ông tay ôm cái hũ khi bước xuống tầu.Tầu rời bến rồi từ từ hướng mũi ra khơi. Ngoài khơi, mặt nước phẳng lì và bóng như một tấm gương. Những cơn gió từ ngoài biển thổi về mang theo cái lạnh đưa vào thành phố. Đảo cánh bay qua bay lại, in lên bầu trời ở phía xa xa, là những con chim hải âu. Tiếng kêu của chúng nghe khô khan như tiếng người gọi nhau ở dưới bờ bãi nước vọng về.

Hồn ông chỉ là sợi nắng, là làn khói, là hơi nước, là ánh sáng trong suốt, vì thế, hồn cứ nương theo gió, gió đưa ông lên cao, gió hạ ông xuống thấp, nhưng bao giờ hồn cũng cố gắng bám sát con tầu ở một khoảng cách nào đó, có khi ở ngay chính boong tầu, nơi có cái hũ đựng tro của ông. Đã đến lúc nắp của  cái hũ được mở. Đã đến lúc tro trong cái hũ được bàn tay vợ ông bốc ra. Xuôi theo chiều gió và thuận với hướng chạy của con tầu, lớp tro vừa được rải xuống đã vội vã bay về phía sau, rồi lớp tro đó biến mất.

Từ những ngày đó, hồn thanh thản mát mẻ, ông hòa nhập với biển khơi. Ngày với tiếng kêu của chim hải âu. Đêm với  tiếng sóng gọi nhau chạy vào bờ. Chẳng còn gì phải vương vấn cõi trần thế, hồn tự tại  bình yên an nghỉ ở một cõi vô thường sau khi giã từ kiếp làm người./.

Wednesday, June 20, 2012

trần thiện hiệp * buồn hơn trăng



từ đỉnh núi
nhìn xuống chân rừng tuyết vỡ
dòng sông êm tỏa nhánh
bình yên
như có cõi địa đàng xanh bích ngọc
nắng lung linh trên hoa lá hồi sinh
ta thèm muốn
hồi sinh như thảo mộc
sau những mùa đông băng giá ngập hồn
những năm dài héo úa hoàng hôn
đêm sám hối
nghiệp-đời-cung-kiến-gãy
máu về tim theo từng nhịp thở
đưa ta về nguồn tìm lại chân thân
cung trầm ca nghẹn lời lạc nhịp
rượu cạn rồi đáy cốc trắng hư không
xuống lung thấp
ngẩng nhìn lên núi tím
mây trôi êm vô nhiễm vô thường
theo tia nắng cõi lòng chuyển hóa
giữa trùng trùng ngờ vực với chân nguyên
ta đã trót tìm trầm ngậm ngải
sao em theo cho mõi gót phiêu bồng
để tuổi mộng cùng bụi hồng biển gió
buồn hơn trăng
soi bóng nước qua cầu

TRẦN THIỆN HIỆP
[Trích trong Thơ Phá Thể]

hải phương * đêm tháng năm gối đầu tay em nghe cỏ mọc


tranh Nguyễn Trung


ta đón đợi cơn mưa rừng
sông cái nước nguồn lai láng
lãng du vào châu thổ em
từ lúc em chưa là mùa màng
hồng thơm rụng trứng sáng trăng thời vụ.

đêm tháng năm gối đầu tay em nằm nghe cỏ mọc
từ lúc em là mùa màng gieo trồng thời vụ
được mùa thân xác
mê cung thời gian mềm mại bào mòn
phẳng phiu phiến đá
châu thổ em bốn mùa xanh biếc lá
nơi bờ sông và cửa biển gặp nhau
cuống cuồng xôn xao dòng chảy.

đêm tháng năm gối đầu tay em nằm nghe cỏ mọc
nách trí nhớ xạ hương ngôn ngữ
mậu dịch âm thiết bừng mở
cảm hứng biến tấu vòm ngực dạ quang
lao xao bầy tinh tú
trăng đã hoang vu nên ta uống cạn môi em
một bình minh rất cũ.

đêm tháng năm gối đầu tay em nằm nghe cỏ mọc
dòng sông thụ thai mùa lũ
đòng đòng cỏ trổ ngọn non tơ lúa xạ
biêng biếc gam màu trũng sâu
em tỏa nhiệt bát độ phức âm lãng mạn
bất chợt giấu nụ
thảo nguyên mở rộng trường canh trườn qua
con suốí nhỏ róc rách âm vực lõm.

em tỏa nhiệt phức âm lãng mạn bất chợt rớt nhẹ
đêm lõm sâu mùa màng thời vụ
ta gối đầu tay em
tháng năm nằm nghe cỏ mọc.

ở san jose
tháng năm 2012
HẢI PHƯƠNG

Nguyễn Hiến Lê dịch * Lão Tử: Ngạo đời tựa như ngu độn và ẩn dật




Nguyên tác: The Importance Of Living Tác giả: Lâm Ngữ Đường (Lin YuTang)

Thực là ngược đời, cái triết học "giảo hoạt" của Lão tử lại sản sinh ra cái lý tưởng cao thượng nhất về hòa bình, khoan dung, giản phác và tri túc. Giáo huấn của ông gồm bốn điểm: trí tuệ nên như ngu độn, đời sống nên ẩn dật, xử thế nên nhu nhược và tánh tình nên giản phác. Ngay đến nghệ thuật Trung Hoa, từ thi ý, ảo tưởng đến những lời tán tụng đời sống bình dị của tiều phu, ngư phủ cũng không thể thoát ly triết học đó mà tồn tại. Nguồn gốc của chủ nghĩa hòa bình của Trung Hoa là do cái quan niệm chịu nhận sự thất bại tạm thời để chờ cơ hội thuận tiện, và do lòng tin rằng vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo cái luật vận hành phản phục; do đó không một kẻ nào vĩnh viễn "u mê" bao giờ.
Người rất khéo thì như vụng
Người nói giỏi thì như lắp bắp
Cử động thì thắng được lạnh
Nhưng yên tĩnh thì thắng được nóng.
Vậy cứ thanh tĩnh thì mọ.i vật sẽ đâu vào đấy.
Biết vậy rồi thì còn cạnh tranh làm gì nữa. Cho nên Lão Tử bảo bực thánh nhân "không tranh với ai nên không ai tranh được với mình", lại bảo: "Kẻ hùng hổ nào mà không bất đắc kỳ tử, thì ta xin nhận n kẻ đó làm thầy". Một nhà văn ngày nay có thể thêm vào câu đó: "Kẻ độc tài nào mà không dùng mật thám để hộ vệ thì tôi xin tôn làm thủ lãnh". Cho nên Lão Tử nói: "Thiên hạ có đạo thì người ta dùng ngựa để kéo và lấy phân; thiên hạ vô đạo thì người ta nuôi ngựa chiến ở ngoài thành".
Người đánh xe giỏi không xông bừa tới trước (1)
Người chiến đấu giỏi không giận dữ,
Khéo thắng địch là không tranh với địch,
Khéo dùng người là hạ mình ở dưới người.
Đó là cái đức của sự không tranh,
Đó là cái khéo của sự dùng người,
Đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo Trời.
Có cái quy luật động lực và phản động lực rồi mới sản sinh ra cục thế bạo lực đối với bạo lực.
Ai lấy Đạo mà phò vua,
Thì không dùnh binh mà bức thiên ha.
Vì việc như vậy thường quay trở về
(nghĩa là dùng binh bức thiên hạ thì lại bị thiên hạ dùng binh bức lại mình). (2)
Chỗ nào đóng quân thì gai góc mọc đầy.
Sau cuộc chinh chiến tất có mất mùa.
Vậy khéo thắng rồi (khéo đạt được mục đích cứu dân) thì thôi đi, mà không lợi dụng thắng lợi để bức người.(3)
Thắng mà không khoe khoang,
Thắng mà không tự khen,
Thắng mà không kiêu căng,
Thắng vì bất đắc dĩ.
Thắng mà không bức người,
Vì vật mạnh thì có lúc suy.
(Nếu không) Như vậy (thì) là trái Đạo.
Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt.
Tôi có cảm tưởng rằng nếu Lão Tử được làm chủ tịch hội nghị Versailles (4) thì ngày nay không có Hitler (5). Hitler tuyên bố rằng ông và sự nghiệp chính trị của ông tất được "Chúa phù hộ" (nên ông mới thành công mau như vậy). Tôi thì tôi cho rằng việc đó giản dị hơn nhiều: chẳng có Chúa nào phù hộ cả, chỉ có Clémenceau phù hộ mà thôi (6). Chủ nghĩa hòa bình của Trung Hoa không phải là chủ nghĩa nhân đạo mà là chủ nghĩa "giảo hoạt", cơ sở không phải là đạo bác ái mà là một thứ minh triết vi diệu, cận nhân tình.
Sắp muốn rút lại tất phải mở ra đã;
Sắp muốn làm yếu đi, tất phải làm mạnh lên đã;
Sắp muốn vứt bỏ đi, tất phải làm dấy lên đã;
Sắp muốn cướp lấy, tất phải cho đã;
Thế gọi là làm mờ ánh sáng đi. (7)
Nhu nhược thắng cương cường.
Cá không nên ra khỏi vực;
Lợi khí của quốc gia, không nên cho dân biết.
Thuyết về sức mạnh của sự nhu nhược, vì lẽ biến hóa thì sẽ thắng, và lẽ ẩn dật bao giờ cũng có lợi, thì tôi chưa thấy ai có giọng mạnh mẽ, sâu sắc bằng Lão Tử trong đoạn đó. Ông cho nước tượng trưng sức mạnh của nhu nhược - nó cứ nhẹ nhẹ rỏ từng giọt xuống mà đục được đá, nó có cái "trí" vĩ đại của đạo Lão là luôn luôn tìm chỗ thấp mà ở:
Sông biển sở dĩ làm vua trăm hang
Vì nó khéo ở chỗ thấp hơn cả;
Nhờ vậy nó làm vua được trăm hang.
(Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả,
dĩ kỳ thiên hạ chi,
cố năng vi bách cốc vương).
Chữ "cốc" (hang) trong học thuyết Lão Tử còn trỏ cái gì rỗng, tượng trưng cái tử cung của mẹ vạn vật, tức tượng trưng khí âm hoặc giống cái:
Thần hang bất tử,
Cho nên gọi là Huyền Tẫn (8)
Là gốc của Trời, Đất.
Dằng dặc như còn hoài,
Dùng hoài mà không hết.
Lấy giống cái đại biểu cho văn hóa phương Đông và giống đực đại biểu cho văn hóa phương Tây có lẽ không phải là khiên cưỡng.
Jules César muốn được làm người thứ nhất trong làng, Lão Tử trái lại, "không dám ở trước thiên hạ" (bất cảm vi thiên hạ tiên). Trang Tử cho rằng nổi danh là một điều nguy hiểm, và diễn ý đó trong đoạn văn phúng thích dưới đây để chê Khổng Tử là hay khoe tri thức cùng hành vi của mình. Trong bộ Trang Tử có nhiều chỗ bịa đặt ra để bài xích Khổng Tử vì lúc đó Khổng Tử đã mất rồi mà ở Trung Quốc thời xưa cũng không có luật pháp trị tội hủy hoại danh dự của người khác.
"Khổng Tử bị vây ở khoảng giữa nước Trần và nước Sái, bảy ngày không có cơm ăn. (9)
Quan đại công tên là Nhiệm lại chia buồn, hỏi:
- Ông đã suýt chết ?
Khổng Tử đáp:
- Phải.
- Ông sợ chết không ?
- Sợ.
Nhiệm bảo:
- Vậy, tôi xin giảng cái đạo bất tử. "Ở Đông Hải có loài chim tên là Ý đãi. Loài đó chậm chạp, từ tốn như vụng về; bay cùng đoàn với nhau, con trước con sau, chen lấn nhau mà đậu. Khi tiến không con nào tranh bay trước, khi lui không con nào dám ở lại sau; khi ăn không con nào dám ăn trước, đợi những đồ thừa. Cho nên loài đó được sống yên ổn ở trong hàng, người ngoài không hại được nó, mà nó tránh được họa.
"Cây thẳng thì bị đốn trước. Giếng nước ngọt thì cạn trước. Ông có ý tô điểm tri thức để làm cho bọn ngu phải sợ, sửa cái thân để làm rõ kẻ xấu xa. Ông rực rỡ như giơ cao mặt trời mặt trăng mà đi, cho nên không tránh được họạ..".
Khổng Tử đáp:
" Lời ông thật hay!". Rồi từ chối sự giao du, bỏ cả đệ tử, trốn trong một cái trằm lớn (chỗ hoang vu), làm lấy áo cừu áo cát mà bận, hái hột cây thử, cây lật mà ăn, nhập bầy với đàn thú, đàn chim mà thú chim không để ý tới".
Tôi đã làm một bài thơ tóm tắt tư tưởng Đạo gia như sau:
Có cái sáng suốt của sự ngu muội.
Có cái thanh nhã của sự hòa hoãn.
Có cái cơ xảo của sự trì độn.
Có cái hữu ích của sự ẩn cư.
Mấy câu đó chắc làm cho những độc giả theo đạo Ki Tô nhớ lại lời "Thuyết giáo trên núi". Và chắc họ cho rằng đều vô hiệu lực như nhau. Lão Tử còn bảo kẻ ngu được phúc vì họ là những kẻ sung sướng nhất đời. Trang Tử theo cái thuyết "Người rất khéo thì như vụng, người nói giỏi thì như lắp bắp" và khuyên ta phải "liệng bỏ cái trí" đi (khí trí). Thế kỷ thứ tám, Liễu Tôn Nguyên đặt tên cho một ngọn núi gần chỗ ông ở là "Núi Ngu" (Ngu Sơn) và dòng suối nơi đó là "Suối Ngu" (Ngu Khê). Thế kỷ mười tám, Trịnh Bản Kiều có một câu danh ngôn: "Thông minh khó, hồ đồ cũng khó, do thông minh mà đạt được hồ đồ lại càng khó". Trong văn học Trung Hoa có nhiều câu tán tụng sự ngu độn như câu đó. Người Mỹ có câu: "Đừng nên tinh ranh quá" (Don't be too smart), cũng là cái nghĩa: người đại trí thường có vẻ ngu.
Vì vậy mà trong văn hóa Trung Hoa người ta thường thấy hiện tượng lạ lùng này là bậc đại trí phát sinh lòng hoài nghi đối với mình và cho rằng vũ khí tốt nhất trong cuộc tranh đấu trên đời là sự tôn sùng ngu độn và sự ẩn dật. Từ cái thuyết "khí trí" của Trang Tử đến sự tôn sùng kẻ ngu chỉ có một bước ngắn; và trong văn chương cùng hội họa của Trung Hoa ta thấy hình ảnh của nhiều người hành khất, nhiều nhà ẩn dật bất hủ, nhiều nhà sư điên, hoặc những đạo sĩ kỳ dị, như trong tập "Minh Liêu tử du"; đó toàn là phản ảnh quan niệm tôn sùng kẻ ngu độn cả. Khi một nhà sư điên lam lũ được ta coi là tượng trưng cho cái trí tuệ rất cao, cái tư cách rất quý, thì trong cái bến mê là cõi đời này, ta bỗng tỉnh ngộ; trong sự tỉnh ngộ đó có cái ý vị lãng mạn hoặc tôn giáo nó đưa ta vào cảnh giới ảo tưởng của tho.
Kẻ ngu được hoan nghênh, đó là một sự thực không chối cãi được. Tôi tin rằng ở phương Đông cũng như phương Tây, người ta ghét những kẻ tinh ranh quá trong sự giao thiệp. Viên Trung Lang đã kể lý do tại sao mấy anh em ông đều thích giữ bốn tên gia bộc cực ngu nhưng trung tín. Chúng ta cứ nhớ lại những tên bạn bè của mình rồi kiểm soát xem có phải những bạn ta mến không phải là những người mà ta trọng vì tài khôn lanh; và những bạn ta trọng vì tài khôn lanh không phải là những người mà ta mến. Chúng ta thích một tên gia bộc ngu độn vì hắn đáng tin hơn, đối với hắn ta không cần phải đề phòng. Nhiều người đàn ông khôn không muốn cưới người vợ tinh lanh quá mà nhiều thiếu nữ khôn cũng vậy, không muốn có người chồng tinh lanh quá. Trong lịch sử Trung Hoa có nhiều người điên, hoặc điên thật hoặc giả điên mà được nổi danh, được người ta kính yêu. Như họa sĩ Mễ Phí, có lần bận lễ phục tới lạy một phiến đá, gọi phiến đá đó là "ông Nhạc", vì vậy mà có danh hiệu là ông Mễ Điên. Ông ta với Nghê Vân Lâm, một họa sĩ danh tiếng đời Nguyên đều mê sự sạch sẽ. Lại như thi sĩ điên nổi danh, hòa thượng Hà Sơn, đầu bù, chân không, đi lại các ngôi chùa, làm mọi việc lặt vặt trong cái nhà khói (nhà bếp của chùa), xin cơm thừa căn cặn mà ăn và làm được những bài thơ bất hủ viết lên tường các nhà khói. Vị hòa thượng điên được người Trung Hoa ái mộ nhất là hòa thượng Tế Điên., cũng gọi là Tế Công (ông Tế); đời ông sau được người ta chép thành một chuyện dài gấp ba bộ Don Quichotte mà vẫn chưa hết. Ông sống một đời ma thuật, làm thuốc, say rượu, và như có thần lực, có thể cùng một lúc xuất hiện ở hai nơi cách nhau cả trăm dặm. Miếu thờ ông hiện nay ở Hổ Bào, trên bờ Tây Tử Hồ ở Hàng Châu. Những thiên tài lãng mạn, vĩ đại, thế kỷ mười sáu và mười bảy, như Từ Văn Trường, Lý Trác Ngô, Kim Thánh Thán(ông này tự đặt tên hiệu là Thánh thán (nghĩa là tiếng thở dài của Thánh) là vì, theo ông, đúng lúc ông sanh ra đời, ở miếu thờ Khổng Tử trong làng bỗng phát ra một tiếng thở dài bí mật). Tuy các vị đó cũng là những người bình thường như chúng ta nhưng bề ngoài có những cử chỉ trái hẳn thói thường, cho nên người đời gọi là cuồng.
Nguyễn Hiến Lê
(1) Theo Lâm Ngữ Đường. Có người hiểu đó là người tướng giỏi không dùng vũ lực.
(2) Theo Lâm Ngữ Đường. Có người hiểu câu đó là: sẽ thấy được kết quả tốt đẹp.
(3) Cũng theo Lâm. Có người hiểu là không dùng sức mạnh.
(4) Năm 1919, sau thế chiến thư nhất.
(5) Sách này viết năm 1936, 1937.
(6) Ý muốn nói: Clémenceau đại diện cho Pháp ở Hội Nghị Versailles, yêu sách quá đáng, bắt Đức phải bồi thường quá nặng, nên dân tộc Đức bất bình mà Hitler dễ lợi dụng sự bất bình đó.
(7) Cũng theo Lâm. Có người hiểu là: Thế gọi là ánh sáng huyền vi hoặc Thế gọi là sâu kín sáng sủa.
(8) Theo bản dịch tiếng Hán thì Lâm dịch là Mysterious Female: tức Giống Cái Mầu Nhiệm, Mẹ của vạn vật. Có người cho Huyền Tẫn là tên riêng của Đạo, trỏ cái thế hư không của Đạo.
(9) Nguyên văn: hỏa thực là đồ nấu nướng .

HỒ THÀNH ĐỨC * MÁU CHẢY VỀ TIM



Cứ ngỡ em về trong giấc mơ
Vàng son buổi trước lỗi câu thề

Ai đem khăn trắng treo đồi tím
Cây nhớ nhung buồn hoa nhớ hương
Trời khoanh một mảnh tình tan vỡ
Đất cũng cúi đầu rỉ vết thương

Ta biết! Rồi đây em sẽ thấu
Mối tình ngang trái đóng vào đinh
Giọt máu nào trên cây Thánh Giá
Nhỏ vào đời thấm nỗi oan khiên
Ta như chim bay hoài thấm mệt
Bỏ giáo đường mòn mỏi đức tin

Em, như giòng sông trôi chảy mãi
Rã cuộc tình gãy cánh uyên ương!
Từ buổi đó có cây nến lạ
Thắp giữa trời mười ngón đau thương

Từ buổi đó ta đi em ở lại!
Núi sông buồn cây cỏ hoang vu
Ta ở đây đất khách quê người
Nghe chim hót đau từng khúc ruột

Nghe kinh khuya thở cuộc đời buồn
Ước gì có cánh tay nghìn dặm
Níu tình em qua Thái Bình Dương
Ta cũng muốn trải dài cơn mộng

Để lỗi lầm về với ăn năn
Để trăng khuya trở lại đêm rằm
Để sáng dậy nghe chim ca hót
Để tình anh gặp lại đời em!
Xin hãy nhổ cây đinh oan trái
Giọt máu nào không chảy về tim.

HỒ THÀNH ĐỨC

Monday, June 18, 2012

du tử lê * trái tim lập mộ (không tro, cốt!!!.)


tranh DinhCuong
    













   xiển dương ký ức: cây thu bóng.
   kỷ niệm ngồi chung một góc sân.
   giọt lệ lăn xa. ngoài trí tưởng.
   biệt. biệt trôi dần: thân lạc tâm.      

   xiển dương bóng tối: nuôi oan, khuất.  
   gió gọi tên người. ai khuyết danh? 
   hiên xưa. mái cũ. dòng sông cũng
   tự nguyện chôn cùng huyệt lãng quên.       

   xiển dương  câm, nín: trăng bôi mặt.
   chim không rớt bóng. thú ghê rừng.
   trái tim lập mộ (không tro, cốt!!!.)
   kết thúc sau cùng: một kín bưng.

   xiển dương đời khác:  thêm hư. dối.    
   tự hỏi thăm mình: hoa. mỗi đêm.
   đi qua một kiếp như nghìn kiếp.
   ta giống côn trùng!  sống thản nhiên. 

   du tử lê

Sunday, June 17, 2012

VÕ THẠNH VĂN * Album Ảnh & Thơ: Nẻo Từ Ly




xem trọn ảnh và thơ trong album, xin bấm vào link:

Trúc Giang * TRÙNG KHÁNH : QUYỀN LỰC, THAM NHŨNG VÀ THANH TRỪNG




1- Mở bài

Tham nhũng, sống sa đoạ, đấu đá nhau để tranh giành quyền lực, là thuộc tính của giai cấp tư bản đỏ, cụ thể nhất là ở hai nước Cộng Sản, Trung Cộng và Việt Cộng ngày nay. Những câu chuyện không mới lạ gì, nó chỉ bị phanh phui khi đối thủ bị ngã ngựa trong những cuộc đấu đá giành quyền lực.

Trái lại, nếu các phe nhóm biết phân chia quyền lực đồng đều nhau, đoàn kết lại bảo vệ đảng và cùng nhau chia lợi lộc, hầu sống xa hoa, sa đọa kín đáo thì mọi việc êm xuôi và đảng Cộng Sản vẫn còn quang vinh muôn năm.

Vụ án Bạc Hy Lai là câu chuyện mang nhiều kịch tính và rất ly kỳ, nội dung xoay quanh các vấn đề quyền lực, tham nhũng, tình tiền tù tội và án mạng, của cán bộ cao cấp trong đảng Cộng Sản, có thể ví như một bộ phim dài nhiều tập, với các tình tiết gay cấn, nghẹt thở giống như phim nói về Mafia của Hollywood vậy.

Về hình thức bên ngoài, thì cái chết của doanh nhân người Anh tên Neil Heywood mở màn cho vụ án chính trị làm chấn động thế giới, trong đó, nhiều âm mưu, thủ đoạn được thực hiện để hạ nhau trên trường chính trị.
Nhân vật chính là Bạc Hy Lai, một người đầy tham vọng chính trị, độc ác, sống sa đọa và tham nhũng. Đó là điển hình của cán bộ lãnh đạo các đảng Cộng Sản.
Câu chuyện ly kỳ đến nổi Hollywood có dự án dựng thành phim do cặp Brad Pitt và Angelina Jolie thủ diễn.
Trùng Khánh là một thành phố trực thuộc trung ương, có diện tích 82,300km2 với 31.4 triệu dân cư.

2- Vương Lập Quân chạy vào lãnh sự quán Hoa Kỳ xin tỵ nạn chính trị

Vào buổi tối ngày 6-2-2012, Vương Lập Quân, phó thị trưởng kiêm  giám đốc công an thành phố Trùng Khánh, đã lái xe vào tòa lãnh sự Hoa Kỳ ở Thành Đô (Tứ Xuyên) để xin tỵ nạn chính trị, vì tánh mạng bị đe dọa. Trong khi đó, công an Trùng Khánh và Thành Đô với 70 xe cảnh sát bao vây tòa lãnh sự và yêu cầu trả người.

Nhân viên lãnh sự quán gọi điện thoại tới tấp về Washington để xin chỉ thị, thậm chí cũng có những cuộc điện đàm với toà Bạch Ốc.

Ông Vương Lập Quân ở qua đêm trong toà lãnh sự và có cuộc nói chuyện với các viên chức ngoại giao Mỹ suốt 10 tiếng đồng hồ.

Ba mươi sáu giờ sau, một thứ trưởng Bộ An Ninh Quốc Gia tên Khâu Tiên, được cử đến để hộ tống ông Vương ra khỏi vòng vây của lực lượng cảnh sát địa phương, dưới quyền của bí thư thành ủy kiêm thị trưởng Trùng Khánh, Bạc Hy Lai.

Các viên chức ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, nhân viên lãnh sự quán không đưa mẫu đơn tự khai xin tỵ nạn chính trị cho ông Vương điền vào, vì có nhiều vấn đề nhạy cảm giữa HK và Trung Cộng. Trước hết, toà lãnh sự Mỹ sẽ gặp khó khăn trong việc đưa ông Vương ra khỏi nước nầy. Tuy nhiên, ông Vương được bảo vệ để không bị cảnh sát địa phương đang vây bắt.

Nhạy cảm vì đó là thời điểm mà ông Tập Cận Bình chuẩn bị viếng thăm Hoa Kỳ, do lời mời của Phó tổng thống Joseph R. Biden.
“Nhân viên lãnh sự Mỹ đã trao đổi với ông Vương, và hai bên thoả thuận để ông Vương dùng điện thoại thông báo vụ việc về Bắc Kinh. Sau đó, ông Vương đã tự ý rời khỏi toà lãnh sự”, phát ngôn viên bộ Ngoại giao HK cho biết như thế.

Ngày 24-4-2012, các quan chức Mỹ, cuối cùng, cũng hé lộ những thông tin về vụ việc đã xảy ra  trong 36 tiếng đồng hồ, khi ông Vương ở trong toà lãnh sự.

Tờ New York Times và Wall Street Journal dẫn nguồn tin từ Washington, xác nhận ông Vương Lập Quân đã tìm đến tòa lãnh sự Mỹ xin tỵ nạn chính trị với các tài liệu tố giác những sai phạm của Bạc Hy Lai và vợ là Cốc Khai Lai., đồng thời xin được nói chuyện với các quan chức cao cấp ở Washington ở cương vị của phó thị trưởng kiêm giám đốc Công An Trùng Khánh, như một viên chức đào thoát xin tỵ nạn chính trị.

Việc tỵ nạn đã tạo ra cuộc tranh luận sôi nổi và cuối cùng, Washington đã từ chối cho tỵ nạn, vì e ngại sẽ gây căng thẳng với Bắc Kinh, trong bối cảnh ông Tập Cận Bình sắp viếng thăm Hoa Kỳ. Có nguồn tin cho biết, phó tổng thống Joe Biden là người tích cực từ chối cấp quyền tỵ nạn chính trị cho Vương Lập Quân.

Để thanh minh, Bộ Ngoại giao HK đã nhiều lần lên tiếng, nhấn mạnh, lãnh sự quán Mỹ không có áp lực buộc ông Vương phải rời khỏi tòa lãnh sự. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao HK, bà Victoria Nuland lên tiếng cho hay: “Ông Vương đã rời khỏi lãnh sự quán Mỹ ở Thành Đô một cách hoàn toàn tự nguyện”.

Ông Orville Schell, giám đốc Trung tâm Quan hệ Mỹ-Trung, thuộc Viện Xã hội châu Á, cho biết: “Sẽ cực kỳ không khôn ngoan, nếu Mỹ công khai tham dự vào công việc nội bộ của Trung Cộng, vì Mỹ và Trung Cộng đang cần củng cố mối quan hệ tốt đẹp hơn. Hoa Kỳ cần Trung Cộng giúp đỡ về các vấn đề Bắc Hàn, Iran, Sudan và Syria ở tại Hội Đồng BA/LHQ.”

3- Vương Lập Quân tiết lộ gì với Hoa Kỳ?
Hồ sơ vụ án doanh nhân người Anh, Neil Heywood và những bí mật nghiệp vụ của công an Trung Cộng có thể đã lọt vào tay của Hoa Kỳ.

Vài giờ trước khi lái xe suốt 3 tiếng đồng hồ, vượt 300km từ Trùng Khánh đến Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên), ông Vương Lập Quân đã gọi điện thoại hẹn khẩn cấp với các viên chức toà lãnh sự Anh ở Trùng Khánh. Đài BBC cho biết, Bộ Ngoại Giao Anh không hiểu lý do gì mà ông Vương hẹn mà không đến, trái lại, chạy đến toà lãnh sự Mỹ.

3.1. Giương đông kích tây

Vương Lập Quân là người điều tra về cái chết bất thường và mờ ám của doanh nhân người Anh là Neil Heywood, một đối tác làm ăn với gia đình Bạc Hy Lai, theo đó, vợ của Bạc Hy Lai là Cốc Khai Lai xác nhận với công an điều tra, bà là thủ phạm. Ông Vương từng là cánh tay mặt của họ Bạc, nhưng Bạc Hy Lai muốn ém nhẹm vụ đầu độc và những việc chuyển tiền ra nước ngoài, để bảo vệ vợ, sự nghiệp chính trị và kinh tế gia đình, nên đã cách chức và đe dọa, ông Vương cảm thấy tánh mạng bị nguy hiểm, nên đã chạy vào lãnh sự quán Mỹ xin tỵ nạn chính trị.

Nhật báo The Telegraph (Anh) nhận định rằng, việc hẹn đến toà lãnh sự Anh để thông báo thủ phạm của vụ đầu độc Neil Heywood, có thể là kế “giương đông kích tây” để đánh lạc hướng những người đang theo dõi ông.

Ông Vương không dám báo cáo lên cấp trên, vì thế lực của họ Bạc rất lớn ở trung ương, là Ủy Viên Thường Vụ Bộ Chính Trị.

Ở toà lãnh sự HK, họ Vương không liên lạc với Bộ Công An, mà yêu cầu Uỷ Ban Kiểm Tra Trung Ương và Kỷ Luật đảng cử người đến đón ông về Bắc Kinh.

3.2. Toà Bạch Ốc lúng túng
Theo tờ New York Times, Vương Lập Quân đến tòa lãnh sự Mỹ “trong trạng thái kích động”. Ông nầy mang theo tài liệu tố giác tội lỗi của vợ chồng họ Bạc, trong đó có vụ hạ độc Neil Heywood hồi tháng 11 năm 2011. Hai bên nói chuyện với nhau suốt 10 giờ, nhưng “ông Vương không trao tài liệu cho người Mỹ”. Họ Vương cũng cho biết nghiệp vụ điều tra của ông ở Trùng Khánh từ tháng 6 năm 2008 đến tháng 2 năm 2012, khi ông bị cách chức. Ông cũng cung cấp tin tức về những mối quan hệ phức tạp và mờ ám liên quan đến quyền lực chính trị và tham nhũng ở Trung Cộng.

Cuối cùng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ bác bỏ lời yêu cầu xin tỵ nạn với 2 lý do.

Lý do 1.
Ông Vương là một nhân vật có nhiều tai tiếng không tốt và đang bị điều tra về tội tham nhũng khi còn làm giám đốc công an thành phố Thiết Lĩnh, tỉnh Liêu Ninh. Ông không phải là một nhân vật bất đồng chính kiến, ông là một phạm nhân, chớ không phải là một nhà tranh đấu nhân quyền.

Lý do 2.

Hoa Kỳ muốn tránh Scandal quốc tế trong bối cảnh ông Tập Cận Bình sắp viếng thăm nước nầy.

Tuy không cho tỵ nạn, nhưng HK vẫn bảo vệ ông, cho phép lưu trú 36 giờ và cho được gọi điện thoại về Bắc Kinh xin cử người đến đón ông, ngày 8-2-2012.

Người đón ông là Thứ trưởng Bộ An Ninh Quốc Gia tên Khâu Tiên, 57 tuổi. Cùng đi với ông Tiên là một lực lượng an ninh có vũ trang. Đã xảy ra một cuộc đấu khẩu trước tòa lãnh sự giữa Khâu Tiên với người chỉ huy của 70 xe cảnh sát Trùng Khánh và Tứ Xuyên, nhưng không có đụng độ xảy ra.

4- Bức thơ ngỏ


Ngày 2-2-2012, Vương Lập Quân, phó thị trưởng thành phố Thượng Hải kiêm giám đốc công an thành phố đã bị cách chức, vì báo cáo vợ ông Bạc Hy Lai là thủ phạm vụ đầu độc ông Neil Heywood.
 
Bạc Hy Lai (Bo Xilai) 


Ngày 3-2-2012, Vương Lập Quân tung bức thơ ngỏ lên trang mạng Weibo của Trung Cộng. Bức thơ bắt đầu bằng câu “Khi mọi người đọc thơ nầy thì tôi đã chết hoặc mất tự do.” Nội dung chủ yếu là tố cáo Bạc Hy Lai là “Ông trùm của những ông trùm. Đã biến đảng, nhân dân và cả thành phố Trùng Khánh thành một vương quốc riêng. Ông ta như người nhai kẹo cao su, nhai vài cái rồi nhổ ra, không cần biết số phận người đó ra sao”.

Trong thơ, người viết nói ông bị đối xử tệ bạc, mặc dù đã vào sanh ra tử vì ông ấy. “Không những đối xử tệ bạc với thuộc hạ, mà còn cả với anh em, với người vợ cũ nữa. Khi tôi từ chối làm những việc tồi bại, ông ta bắt tài xế và 10 người thân tín để đe dọa tôi”..

Cuối thơ, người viết cho biết, sẵn sàng hy sinh tánh mạng, công bố tài liệu ông Bạc là một người tham nhũng gộc, gia đình giàu có bất thường, tham vọng chính trị to lớn.

Bức thơ không biết là hàng thật hay hàng giả, nhưng có 2 điều được coi là chính xác.


Điều thứ 1.

Cách chức Vương Lập Quân và bắt giam 11 thủ hạ để đe dọa.

Ngày 2-2-2012, Bạc Hy Lai họp Ban Thường Vụ thành ủy, bãi miễn chức giám đốc công an  và phó thị trưởng Trùng Khánh của Vương Lập Quân, hạ tầng công tác, phân công phụ trách môi trường, khoa học và giáo dục. Đối với họ Vương, việc lột áo công an là một sĩ nhục lớn.

Ngày 3-2-2012, bức thơ ngỏ xuất hiện.

Ngày 6-2-2012, Vương chạy vào lãnh sự quán Mỹ xin tỵ nạn chính trị.
 

Vương Lập Quân


 Ngoài việc bắt tài xế, Bạc Hy Lai còn cho bắt 10 thuộc hạ thân cận của họ Vương. Việc xảy ra sau khi họ Vương báo cáo những chứng cớ mà Cốc Khai Lai, vợ của Bạc, là thủ phạm vụ đầu độc Neil Heywood.


Theo Reuters, hôm đó là ngày 18-1-2012, ông Bạc bị sốc và nổi cáu, yêu cầu họ Vương ra khỏi phòng lập tức, để ông tịnh tâm. Một giờ sau, cho gọi họ Vương vào và ra lịnh, cho điều tra vụ án với tư cách là một giám đốc công an Thành Đô.


Thế nhưng 3 ngày sau, ông Bạc đổi ý, tiến hành thủ tục chuyển công tác cho họ Vương để bảo vệ vợ. Để dằn mặt Vương Lập Quân, Bạc Hy Lai ra lịnh bắt giam tài xế và 10 thuộc hạ thân tín với hàm ý là “Chớ có tiết lộ bí mật với ai, nếu không thì tất cả đều mất mạng”.


Điều thứ 2.
Bắt cóc con của vợ cũ

Bạc Hy Lai bắt cóc con của vợ cũ để bịt miệng một vụ ngoại tình trước thềm khai mạc Quốc Hội 18. Người thực hiện việc bắt cóc chính là Vương Lập Quân.

Theo trang mạng AsiaOne, ông Bạc cưới bà Lý Vũ Đan năm 1976. Bà Đan là một bác sĩ quân y, con gái của bí thư thành ủy Bắc Kinh, Lý Tuyết Phong, người có thế lực rất lớn lúc đó. Bạc Hy Lai cưới bà để dựa hơi nhà vợ tiến thân, bởi vì Bạc lúc đó chi là một công nhân quèn, bị phạt lao động tập trung vì cha là Bạc Nhất Ba, một trong những người sáng lập ra nước Trung Hoa Cộng Sản ngày nay. Lúc đó, Bạc Nhất Ba bị thất sủng vì có liên quan đến vụ Cách Mạng Văn Hóa.

Sau khi Bạc Nhất Ba được phục hồi uy quyền và trở thành phó thủ tướng, thì Bạc Hy Lai không muốn ở với người vợ nhan sắc tầm thường, tuy đã có một con trai tên Bạc Vương Tri. Bạc Hy Lai ngoại tình với Cốc Khai Lai, một sinh viên rất xinh đẹp của trường luật Bắc Kinh, con của một thiếu tướng. Cuộc tình diễn ra gần như công khai. Họ Bạc đòi ly dị, nhưng bà Lý Vũ Đan từ chối, và đâm đơn kiện khắp nơi, từ Hội Liên Hiệp Phụ Nữ đến toà án tối cao, nhưng thế lực họ Bạc rất mạnh, nên kiện chẳng ăn thua gì.

Cuối cùng, bà bị sức ép của Bạc Nhất Ba, nên buộc phải chấp nhận ly dị. Tức mình, bà đổi họ con trai từ Bạc Vương Tri thành Lý Vương Tri. Học xong Đai học Bắc Kinh, qua Mỹ học tại Đại học Columbia, và năm 2003, Vương Tri về nước hành nghề luật sư.


5- Tình, tiền và án mạng

Báo chí quốc tế cho biết, ông Neil Heywood mất mạng vì tham tiền và cũng có thể đã trót có quan hệ tình cảm với vợ của Bạc Hy Lai, hoặc cả hai.
5.1. Vụ chuyển tiền định mệnh

Theo hãng tin Reuters, vào tháng 11 năm 2011, bà Cốc Khai Lai, vợ của Bạc Hy Lai, đã nhờ  Neil Heywood chuyển số tiền 800 triệu bảng Anh ra nước ngoài. Heywood là người phụ trách rửa tiền cho gia đình họ Bạc. Trong vụ chuyển 800 triệu nầy, bà Cốc giận dữ khi Heywood đòi khoản tiền huê hồng cao hơn giá cả thường lệ, là 10%. Bà Cốc phản ứng gay gắt, cho rằng Heywood quá tham lam. Qua tranh cãi, Heywood đã phạm phải một lỗi lầm chết người, khi tuyên bố rằng ông ta có thể phanh phui tất cả mọi việc phạm pháp để phá hủy gia đình họ Bạc.
Sau đó, bà Cốc ra lịnh giết Heywood bằng chất độc xyanur (Potassium cyanide). Xyanur là chất kịch độc, chỉ một vài giọt cũng đủ lấy mạng một người khoẻ mạnh trong vòng vài phút, và tạo ra cái chết có triệu chứng của cơn đau tim.

Ông Neil Heywood được tìm thấy đã chết khoảng 26 giờ trong phòng của khách sạn Nanshan Lijing Holiday Hotel (Nam Sơn Lệ Kinh khách sạn) ở Trùng Khánh vào ngày 14-11-2011. Tử thi không được khám nghiệm và được hỏa táng ngày hôm sau, 15-11-2011. Đó là bà Cốc cùng 2 cận vệ vũ trang đến gặp vợ của Heywood, yêu cầu ký tên vào bản đồng ý cho hỏa táng mà không cần khám nghiệm tử thi.
Tin báo chí cho biết, Cốc Khai Lai bị ung thư xương, đời sống có thể kéo dài trong vài ba năm nữa thôi.

5.2. Ông Neil Heywood

Neil Heywood sinh ngày 20-10-1970, chết vì ngộ độc. Ông đã sống ở Trung Cộng trên 10 năm, nói tiếng Tàu rất thông thạo. Người vợ Tàu tên Vương Lộ Lộ (Wang Lulu). Có 2 con: con gái tên Olivia 11 tuổi, con trai Peter, 7 tuổi.

Khi Heywood chết, người vợ chạy vào lãnh sự quán Anh xin được bảo vệ.

5.3. Tổ ấm tình yêu của Heywood và Cốc Khai Lai

Bạc Hy Lai là người có nhiều tham vọng chính trị, đa tình và ăn chơi sa đọa. Ông có hàng trăm bồ nhí chân dài trẻ đẹp, nổi bật nhất là hoa hậu truyền hình tên Zhang Weijie.

Giới thân cận cho biết, ông Bạc và bà Cốc không phải là vợ chồng đúng nghĩa trong nhiều năm qua.

Cốc Khai Lai & Heywood

Bà Cốc được mô tả là một phụ nữ có sức quyến rũ với những người đàn ông đối diện.

Bà Cốc và Heywood có tình cảm sâu đậm vượt qua khỏi mức độ bạn bè. Tổ ấm tình yêu của bà  và Heywood là một căn nhà bên bờ biển của thành phố Bournemouth. Tờ Daily Mail cho biết, căn hộ của hai người trị giá 25,000 bảng Anh. Hai người từng bị bắt gặp đang ở trong tình trạng yêu đương tình tứ tại cầu thang của căn hộ.

5.4. Cốc Khai Lai cùng ở trong phòng với Heywood khi xảy ra án mạng

Ngày 25-4-2012, bà Cốc Khai Lai, vợ của Bạc Hy Lai thừa nhận với cảnh sát điều tra rằng, bà ở trong phòng với Heywood khi ông bị đầu độc. Đó là những gì mà Vương Lập Quân nói với các nhà ngoại giao Mỹ khi ở trong lãnh sự quán 36 giờ trong đêm 6-2-2012.

Theo tài liệu mà Vương Lập Quân mang đến toà lãnh sự Mỹ, thì bà Cốc đã thú nhận rằng bà đã thực hiện giết người bằng câu nói “Tôi đã làm điều đó”, bằng cách cho Heywood uống rượu có pha chất độc cyanur. Bà đã xác nhận câu nói đó 3 lần như thế. Bà thuật lại “Khung cảnh lúc đó rất khủng khiếp, Heywood nhổ chất cyanur ra, nên “chúng tôi” phải “ép” ông ta uống thêm.

Trong vài tuần qua, vụ án giết người gây chấn động nầy được lan truyền rộng rãi trên các trang web. Đó là một điều rất bất thường đối với chế độ kiểm duyệt chặt chẽ của chế độ Cộng Sản  nước nầy. Từ đó, nghi vấn lan truyền là đảng Cộng Sản cố ý đưa tin, mục đích đe dọa những người thân cận với phe nhóm Bạc Hy Lai.

Vào thời điểm của vụ hạ độc, Heywood đang cần tiền để mở một trung tâm bán hàng cao cấp của Anh Quốc tại Trung Cộng, với số vốn là 80 triệu bảng Anh. Do cần tiền, Heywood đòi tiền hoa hồng cao hơn thường lệ, từ đó sinh ra cãi vả và bị người yêu dứt điểm cuộc đời.

Heywood thường kể với bạn bè rằng, bà Cốc là một người độc đoán, giống như những bà hoàng hậu độc ác ngày xưa.

5.5. Hợp tác làm ăn

Theo lời kể của bạn bè, thì trước kia, công ty của Heywood gặp nhiều khó khăn, tưởng chừng như phải đóng cửa, nhưng nhờ Bạc Hy Lai bảo kê nên phát triển tốt đẹp.

Đã từng học luật ở Anh, Heywood giúp bà luật sư Cốc Khai Lai rất nhiều trong những vụ án có liên quan đến người nước ngoài. Đồng thời, lo hồ sơ xin cho thiếu gia nhà họ Bạc là Bạc Qua Qua, con một của bà Cốc, được vào học tại một trường danh tiếng nhất nước Anh là Harrow. Thân mật đến nỗi, vợ chồng Bạc Hy Lai nhận làm cha mẹ đỡ đầu cho hai đứa con của Heywood. Bạc đã giúp cho Heywood có cơ hội trúng những mối thầu lớn, theo thoả thuận như sau, Heywood đài thọ và cung cấp cho họ Bạc được lưu trú trong những phòng hạng sang của khách sạn 5 sao. Đi lại bằng xe Mercedes với tài xế riêng, chi phí vé máy bay đi khắp nơi trên thế giới và “một khoản tiền nhỏ” sinh hoạt, cộng với 2% bất cứ khoản đầu tư thành công nào.”


6- Bạc Hy Lai bị cách chức

Ngày 15-3-2012, Tân Hoa Xã loan tin: “Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSTQ quyết định: đồng chí Trương Đức Giang sẽ là Ủy Viên Thường Vụ Bộ Chính Trị, kiêm bí thư thành ủy Trùng Khánh; đồng chí Bạc Hy Lai sẽ không còn giữ chức vụ Ủy Viên Thường Vụ Bộ Chính Trị và bí thư thành ủy Trùng Khánh”.

Ngày 18-4-2012, tờ Telegraph dẫn nguồn tin từ doanh nhân tên Vương Khan, cho biết, Bạc Hy Lai và 39 cá nhân liên hệ đang bị giam giữ tại thành phố Bắc Đới, tỉnh Hà Bắc. Phe nhóm của Bạc Hy Lai còn có Chu Vĩnh Khang, là một trong 9 Ủy viên Thường Vụ Bộ Chính Trị, đang nắm ngành an ninh mật vụ, người đã đề nghị họ Bạc thay thế ông ta, sau khi ông rời quyền lực cùng với Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo. Chu Vĩnh Khang đang bị điều tra về tội tham nhũng.

6.1. Bạc Hy Lai

Bạc Hy Lai sinh năm 1949, là hạt giống đỏ thuộc thế hệ thứ tư. Từng là Thị trưởng thành phố Đại Liên, Bộ trưởng Bộ Thương Mại, bí thư thành ủy Trùng Khánh.
Sự việc diễn ra trong giai đoạn chuyển giao quyền lực, cho nên được cho là một cuộc thanh trừng nội bộ, thường thấy trong lịch sử đảng CS nước nầy.

6.2. Liệt kê 7 tội của Bạc Hy Lai
Ngày 24-4-2012, trong khi chưa có tin chính thức của đảng Cộng Sản,  thì tạp chí Yazhu Zhoukan của HongKong đăng một bài kiệt kê 7 tội của Bạc Hy Lai.

Tội 1.
Tham nhũng và chuyển tiền ra nước ngoài, điều tra sơ khởi cho biết đã chuyển 6 tỷ USD ra ngoại quốc. Nhiều người khác có liên quan đến vụ việc.
Tội 2.
Lạm quyền. Cách chức giám đốc CA Trùng Khánh của Vương Lập Quân ngày 2-2-2012, với mục đích ngăn cản vụ điều tra vụ hạ độc Neil Heywood để bảo vệ vợ. Việc cách chức giám đốc Công an vi phạm luật nghiêm trọng, vì chỉ có Bộ trưởng CA mới có cái quyền đó.
Tội 3.
Có quan hệ chặt chẽ, không thích hợp, với người nước ngoài.
Tội 4.
Xử dụng phương tiện truyền thông riêng chỉ trích các lãnh đạo CS khác. Đã xuất hiện những tin tức cho rằng Bạc Hy Lai đang ôm mộng chạy đua với Tập Cận Bình.
Tội 5.
Ra lịnh cho giám đốc công an Vương Lập Quân cài thiết bị nghe lén điện thoại của một số quan chức, trong đó có Hồ Cẩm Đào.
Tội 6.
Chà đạp quy định pháp luật, bắt người, tra tấn, giam giữ mà không có chứng cớ , trong đó, có những người bị cho là “cái gai” cản trở trên đường sự nghiệp và kiếm tiền.
Tôi thứ 7.
Thành lập phe nhóm để cũng cố quyền lực và gây tổn hại đến trung ương. Còn liên hệ đến 2 vụ giết người khi làm thị trưởng thành phố Đại Liên. Đó là cái chết của con gái của cựu thị trưởng Đại Liên là Yuan Xianqian và người dẫn chương trình đài truyền hình đẹp nổi tiếng là Zhang Weijie, là người tình của Bạc Hy Lai, đã sinh đứa con gái. Trong cơn ghen, Cốc Khai Lai đã ra lịnh thủ tiêu người phụ nữ nầy.

Đó là những tội mà Bạc Hy Lai sẽ phải đối mặt.
Chung quanh vụ Bạc Hy Lai chỉ là một thảm kịch trong ván cờ chính, tức là thanh trừng lẫn nhau trong đảng Cộng Sản.


7- Hạt giống đỏ, thái tử đảng Bạc Qua Qua
Đặc tính chung của thái tử đảng là thế hệ nối tiếp nắm vai trò lãnh đạo đất nước, cụ thể là Kim Jong-un của Bắc Hàn. Và những Nông Quốc Tuấn (Con Nông Đức Mạnh), Nguyễn Thanh Nghị (Con Nguyễn Tấn Dũng), Nguyễn Chí Vịnh (Con Nguyễn Chí Thanh) …ở Việt Nam.


7.1. Cuộc sống xa hoa của thiếu gia nhà họ Bạc


Bạc Qua Qua sinh năm 1987, là con của Bạc Hy Lai và Cốc Khai Lai.


Năm 12 tuổi đã ra học ở nước ngoài.
Tại Anh Quốc, học tiểu học chi phí 40,000 USD/năm. Trung học danh tiếng nhất nước Anh là Harrow, Qua Qua là người Tàu duy nhất trong 850 nam sinh được tuyển chọn, chi phí 50,000 USD/năm.
Theo học các trường đại học danh tiếng nhất nước Anh và Hoa Kỳ. Đại học Oxford và Harvard, học phí từ 70,000 đến 90,000 USD/năm. Ở Mỹ, Qua Qua sống trong căn hộ 2 phòng ngủ ở tầng trệt của toà nhà 7 tầng, gần khuôn viên Đại Học Harvard, tiền thuê nhà 2,950 USD mỗi tháng, tính ra, chỉ riêng tiền thuê nhà là 35,400 USD/năm. Cộng với học phí là 125,400USD một năm. Chưa kể tiêu xài xa hoa phung phí.

7.2. Ăn chơi phung phí

Sở hữu hàng loạt siêu xe, phóng tay tổ chức những cuộc vui chơi “hoành tráng”. Tổ chức màn trình diễn của các võ sư Thiếu Lâm từ Trung Cộng sang, mời diễn viên Thành Long (Jackie Chan) sang Luân Đôn để chỉ nói chuyện phiếm.
Bạc Qua Qua (Bo Guagua)
Tờ Daily Mail (Anh) cho biết, Qua Qua là một tay chơi thật sự và đúng điệu. Chơi nhiều hơn học, các giáo sư nhận xét “Thiếu chuyên cần trong học tập” và bị đình chỉ một năm (ở lại lớp) do học kém. “Tiêu tiền không bao giở nghĩ, và có quan hệ khó khăn với sách vở”.

7.3. Bạc Qua Qua lên tiếng

“Học phí của tôi ở trường Harrow, Oxford và Harvard là nhờ sự trợ cấp hào phóng, mà mẹ tôi đã cần kiệm được trong những năm bà là luật sư và là người viết sách thành đạt”.

7.4. Tin đồn về việc xin tỵ nạn ở Hoa Kỳ

Mới đây, có tin đồn về việc Qua Qua xin tỵ nạn tại Mỹ. “Theo những gì mà chúng tôi biết, thì không có tin tức về việc xin tỵ nạn, anh ấy vẫn ở trường Harvard”, phó phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao, Mark Toner cho báo chí biết như thế.

Báo chí đặt câu hỏi về tình trạng Visa đã quá hạn hay chưa?. Bà Victoria Nuland, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao cho biết: “Rất nhiều báo chí đưa tin rằng tình trạng của anh ấy ở Harvard rất tốt”. Hoa Kỳ từ chối bình luận về việc cấp visa cho Qua Qua. Thông thường, chiếu khán nhập cảnh để học có thời hạn, nếu không gia hạn, thì xem như đương phải rời khỏi Hoa Kỳ.

Bạn học cho biết là sau vụ Bạc Hy Lai bị cách chức, thì họ không thấy Bạc Qua Qua đến lớp nữa. Nếu không có gì thay đổi, thì Qua Qua sẽ tốt nghiệp chương trình thạc sĩ vào tháng 5 tới đây.

7.5. Bạc Qua Qua đang tìm cách che dấu tài sản
Ngày 20-4-2012, tờ Want Daily tiết lộ, Qua Qua đã đến gặp một người quen ở New York để lên kế hoạch chuyển tài sản gia đình đến một địa điểm bí mật, mục đích xoá bằng chứng mà chính quyền trong nước có thể xử dụng để chống lại cha của anh ta, đồng thời, cũng tránh việc HK có thể đóng băng tài sản, để giữ quan hệ tốt với Bắc Kinh.

Qua Qua hiện ở đâu thì không có ai biết rõ. Lãnh sự quán Trung Cộng ở HK đang tìm kiếm Qua Qua, và Trung Cộng cũng yêu cầu anh ta về nước.

Báo chí cho biết, sau một năm thực tập, kể từ khi tốt nghiệp, thì Qua Qua có đủ điều kiện để xin tỵ nạn tại Hoa Kỳ.

7.6. Cảnh sát Mỹ hộ tống Qua Qua ra khỏi nhà

Theo tờ Telegraph, Qua Qua mặc chiếc áo khoát đen, kéo theo chiếc va li nhỏ, rời căn hộ ở gần trường Harvard. Cậu không có vẻ sợ hãi, nhưng lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt khi đi cùng với cảnh sát.

Anh ta lo lắng cũng phải, vì e ngại HK làm vui lòng Bắc Kinh, sẽ trả anh ta về nước sau khi hết hạn visa. Trường hợp HK không cho Vương Lập Quân tỵ nạn, khiến cho hắn ta có thể bị kết án tử hình vì tiết lộ tài liệu bí mật quốc gia cho nước ngoài.



8- Kết

 

Bị tố cáo tham nhũng. Vương Lập Quân, Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang đều bị tố cáo tội tham nhũng. Thật ra, tham nhũng là con đẻ của chế độ độc tài Cộng Sản. Tham nhũng do cơ chế sinh ra. Hầu như các quan lớn ai ai cũng tham nhũng, cứ nhìn vào tài sản của họ thì biết ngay. Thế nhưng, những người bị tố cáo tham nhũng là những người bị ngã ngựa trong cuộc đấu đá tranh giành quyền lực.

Gia đình Bạch Hy Lai
Sống xa hoa phung phí và sa đọa. Sa đọa là con đẻ của tham nhũng. Cán bộ Trung Cộng và Việt Cộng đều giống nhau ở điểm nầy. Một Bạc Hy Lai với hơn 100 nhân tình, bồ nhí xinh đẹp ở Trung Cộng, thì ở Việt Nam có những Nguyễn Việt Tiến (thứ trưởng Giao Thông Vận Tải), Bùi Tiến Dũng (Vụ PMU.18), các quan chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân ở Tân An, Lương Quốc Dũng, chuyên mua dâm trẻ em, hiệu trưởng Sầm Đức Xương mua trinh học sinh vị thành niên…
Về việc con cái du học nước ngoài. Bạc Qua Qua ở Trung Cộng, Kim Jong-un ở Bắc Hàn và con cái cán bộ lãnh đạo CSVN, là những hạt giống đỏ được bồi dưỡng ở những trường nổi tiếng nhất, học phí cao nhất… để nối tiếp cha, ông, cai trị đất nước, một mặt bảo vệ tài sản đã tham nhũng, mặt khác tiếp tục tham ô. Chỉ có con em của nhân dân anh hùng thì tiếp tục đi đánh giày, bàn vé số…”con sải ở chùa, thì đời đời kiếp kiếp vẫn đi quét lá đa ”.
Về thanh trừng. Độc tài là cha đẻ của thanh trừng. Đảng Cộng Sản không chỉ độc tài trong việc cai trị nhân dân, mà trong sinh hoạt đảng cũng không có dân chủ, cho nên mới có đấu đá nhau, tranh giành quyền lực. Phe thắng thế được gọi là anh hùng, vĩ đại, phe ngã ngựa thì bị hài tội tham nhũng, vi phạm luật pháp…

Thật ra, bọn chúng cũng chỉ là cá mè một lứa cả.


Trúc Giang
Minnesota ngày 5-2012