Cái chết là một sai lầm tuyệt đối
Chẳng còn chi sửa chữa được nữa rồi
Ba đã ngần này tuổi đời, con cũng không còn cơ hội
Ba vịn bàn thờ con mà khóc, Phước An ơi!
Ước chi đây chỉ là cơn ác mộng
Khi ba tỉnh dậy thấy con cười
Nói chuyện kinh doanh làm ăn rất nóng
Ba lau mồ hôi mừng rỡ đất trời vui.
Nhưng tiếng máy niệm “Nam mô A-di-đà Phật”
Bảo rằng con đã thực sự bỏ đi xa
Mắt con trong hình rất buồn như vừa mới khóc
Chắc con nhìn tóc trắng mái đầu ba
Từ lúc trưởng thành con không còn được ba ôm thân ái
Khi được ba ôm thì con đã không còn
Hơi nóng người ba không đủ cho xác thân con ấm lại
Ba ôm chặt con trong lòng mà ba đã mất con!
Con là nắng mai ba là chiều tà bóng xế
Ba hoang mang tê liệt thấm cơn đau
Con vắng mặt khắp nơi trong ngôi nhà ngày càng quạnh quẽ
Gió xô nghiêng cây chuối nhỏ trên lầu
Nửa đêm ba đến bàn thờ con thắp cây nhang và khóc
Nước mắt già nua không nuốt được vào lòng
Cứ chốc chốc ba giật mình hoảng hốt:
Ba lỡ hỏa táng con rồi, còn cứu vãn được gì không?
Con chân thật với mọi người và hết lòng cùng bè bạn
Chơi với ai cũng không thủ phần mình
Nụ cười hiền và tâm hồn hào sảng
Đâu có điều gì để ba ngờ cuộc sống sẽ mong manh!
Ba mốt tuổi chưa có điều chi thỏa chí
Con chưa kịp để lại gì ghi dấu một đời trai
Ba thường nhắc nhở con gắng lên cho bằng anh bằng chị
Mà bây giờ con chỉ còn lưu lại nắm tro thôi!
Ba nghe nói chết không phải là chấm hết
Chẳng qua con rủ bỏ xác thân giả tạm cõi vô thường
Nhưng ba mất con là ngàn thu vĩnh biệt
Nên lòng ba tan nát bi thương
Ba không trách con những lần con thất bại
Nhưng ba thường la con vì những chuyện vô tâm
Ba có biết đâu đến một ngày con không còn ở lại
Ôi con sống được bao lăm mà ba trách những sai lầm!
Kinh sách nói sinh tử là chuyện thường tình hiểu được
Như ngày và đêm, sáng và tối thay nhau
Rằng tan hợp là do nhân duyên từ nhiều kiếp trước
Nhưng cái biết sách vở này có an ủi được gì đâu.
Con là một trong bốn Phương của ba mẹ
Mà nay ba lạc mất một Phương rồi!
Anh Đông Phương, chị Nam Phương, chị Yến Phương có nỗi đau nào hơn thế
Ba mẹ già rồi, tội lắm Vĩnh Phương ơi!
24 ngày mất con.
Thiếu Khanh
* Con trai út, Phước An Nguyễn Hoàng Vĩnh Phương
Pháp danh Nguyên Tâm
Sinh năm 1982
Từ trần ngày 12/9/2012 tại Sài Gòn.
|
Tuesday, October 9, 2012
Thiếu Khanh * THỦ THỈ CÙNG CON *
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM * THƯỢNG HỒNG, MỘT THẾ GIỚI HƯ THỰC HỒN HOANG
Tiểu sử văn học: THƯỢNG HỒNG -
Tên thật: Huỳnh Thượng Đẳng
Năm và nơi sinh: 1938 tại Thoại Sơn, An Giang
Các bút hiệu khác: Hoàng Phương Hùng – Thượng Hồng – Hoàng Huynh – Thượng Vũ.
Thường trú: Sống và làm việc tại Saigon từ 1954 đến nay.
Cuối năm 1954, từ quê hương lên thẳng Saigon, năm 1961 rời trường học và bắt đầu nghề làm báo, viết văn. Qua nhiều năm với nghề phóng viên các hảng tin, nhật báo. viết feuilleton (tiểu thuyết dài kỳ trên báo) trên các báo. Năm 1966 cho ra đời tác phẩm đầu tiên thể loại truyện ma tựa đề Oan Hồn Cô Út Liễu và hàng trăm truyện tiếp theo.
Từ l975 ngưng viết, cho đến đầu năm 1989 mới bắt đầu viết lại cho các tạp chí Mỹ Thuật Thời Nay, Thế Giới Mới…
Từ 2003 hợp tác với Nhà sách Thiên Vương cho tái xuất hiện dòng truyện ma với bút hiệu Người Khăn Trắng như trước.
Từ đó cho đến nay, liên tục cho ra đời hàng trăm tác phẩm “chuyện không kể lúc nửa đêm” và chỉ duy nhất một thể loại này, một bút danh Người Khăn Trắng, chỉ một nơi phát hành là Công ty Văn hoá Thiên Vương, không có nơi thứ hai.
Cho đến nay đã có vài trăm tác phẩm thuộc thể loại truyên ma có mặt trên thị trường và được đông đảo bạn đọc ủng hộ. Tuy thể loại gọi là truyện ma thuộc dòng văn học dân gian, bình dân, dễ đọc, nhưng nội dung không chạy theo thị hiếu cẩu thả. Người viết luôn trung thành với quan điểm để cao tính nhân văn, cổ suý phong cách sống hướng thiện, sống bằng lương tâm trong sáng, đạo đức, nhân bản, “làm ác gặp ác, ở hiền gặp lành”.
Những tác phẩm cũng gọi là “truyện ma” nhưng viết cẩu thả, dâm ô, rùng rợn quá lố là không phải của Người Khăn Trắng.
THƯỢNG HỒNG, MỘT THẾ GIỚI
HƯ THỰC HỒN HOANG
HƯ THỰC HỒN HOANG
Ngô Nguyên nghiỄm
phiêu bạt trong một thế giới hoang tưởng, đậm nét huyền hoặc thực hư khác biệt đời thường, tức là đi vào một cõi du hành tràn đầy ảo mộng. Cảnh vật thoạt biến thoạt hiện, phù ảo như sương như khói, vượt thoát ra ngoài ảnh hưởng vật lý của khoa học thực nghiệm, đã bám chặt đời người suốt lộ trình hóa sinh hữu hạn. Cảnh giới (cõi Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Cu Lô Châu và Nam Thiệm Bộ Châu) phân chia của cổ sử tôn giáo, thì Nam Thiệm Bộ Châu là cõi Trời và Đất của hiện tại. Vạn vật và người đang oằn lưng gánh bao nỗi truân chuyên của kiếp hóa sinh. Trên lộ trình sinh diệt của thế giới con người, có nhiều đẳng cấp của cuộc sống tâm linh và trí tuệ, đưa đẩy sự hoàn thiện của những trùng kiếp, nhân quả luân hồi, tạo lập thiện căn hay ác nghiệp. Chính vậy, rèn luyện bản ngã bước qua vòng sinh tử lục đạo, thì vạn vật phải hòa mình trong mọi tư thế chánh giác của lẽ đạo, lẽ đời và lẽ người. Bao nhiêu tôn giáo từ cổ đại đến hiện tại, là những bước đường tu tĩnh mà vật thể phải bước qua. Mỗi lúc một hoàn chỉnh sai phạm, như điều chỉnh ốc vít cho một công trình cỗ máy khoa học. Ở thế giới loài người, văn thể mỹ là bản chất giúp tinh thần tinh tấn, để sắp xếp cho bước đi vạn vật đồng nhất thể. Thế gian nhiều ngõ ngách, biến thể của vạn vật cũng nhiều hình dáng phù hợp với môi trường sinh hóa, dù là tâm linh hay vật chất thường hằng…Văn chương là một loại hình riêng biệt trong hằng ngàn loại hình, để chỉnh chan cho hướng đi tạo vật hợp thể với bản ngã…đậm đà tính Folklore trong quá trình hoàn thiện sự sống. Hàng ngàn năm qua, những triết thuyết, khoa học, văn chương, xã hội…đều hướng dẫn trực tiếp (hay gián tiếp) siêu hình, đầy quyền năng lập hạnh phúc hay khổ đau. Thuyết thần đạo, bén sâu vào gốc rễ tâm hồn người dân Việt Nam. Tin tưởng, nghe theo, làm theo, liều mình tử sinh, bảo vệ đức tin, là chuyện không thể bàn luận chối cãi.
Sự thật, họ đã được ấm cúng với lòng tin mà thần thánh ban phát. Tục lệ thờ cúng đình làng, thần hoàng bổn cảnh, miếu hoang ven đường, là một nền văn hóa đặc trưng của bản Việt, không có một quốc gia nào trên thế gian này đa sắc đa diện như đất nước và lòng người nước ta. Văn hóa 5000 - 8000 năm, như Trung Quốc, Hy Lạp, Ấn Độ, Ba Tư… có được bao nhiêu chuyện thần thoại làm giàu chất văn học đầy nhân bản?
Thật ra, mỗi tình tiết của những thế giới siêu hình, có thể đầy những cõi riêng biệt (thế giới thần tiên, thế giới ma trơi, thế giới phù thủy, thế giới súc sinh ngạ quỷ, thế giới côn trùng thảo hoa…). Tất cả dù hiển hoa hay lõa tử cũng phải nhập thân vào bản thể vi diệu của thế giới nghiệp kiếp của mình, không thể vượt thoát, không thể hóa hiện, nếu không hoàn chỉnh cơ duyên. Các nhà văn viễn tưởng thường dựng cốt truyện cho thông thấu cho các cõi đi - về như khai sinh một đường kỳ ngộ giữa các thế giới thực hư, chỉ chờ dịp bước ngang qua là lọt vào địa phận tồn sinh khác biệt…
Khi tôi đọc Người Khăn Trắng cách đây hơn 40 năm, tâm trí của người đọc trẻ còn mang nặng cuộc sống khoa học đầy kỳ vọng, tôi vẫn có cái nhìn say mê với công trình của nhà văn Thượng Hồng. Trong giai đoạn Người Khăn Trắng xuất bản thật sung mãn, góp mặt đa dạng thể loại liêu trai. Sự đón chào nồng hậu của độc giả, trong thời buổi xem như tiếp nối các Bách Si Ma, Con Tàu Máu, Đau Đớn Phận Nghèo, Hiệp Liệt… còn ấm áp một phương cách văn chương bình dân, với rạch ròi luân hồi, thiện ác… Tác phẩm của Người Khăn Trắng là một cứu cánh mang đầy tính nhân văn.
Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh là một thể hiện văn phong cho một thế giới người và khác người, hầu như chiếm lĩnh tâm hồn chân chính và đầy lẽ phải của người phương Đông. Ở văn học Việt Nam thời trước cũng có nhiều loại sách trích quái như vậy, đánh dấu một sự công nhận tương đồng, ngoài thế giới loài người, vạn vật hữu tình hay vô tình, vẫn có một bản thể riêng biệt, và đồng hóa với sự tự do, lẽ phải, và sự sống được tôn trọng. Đó cũng là một câu trả lời cho đạo, cho đời và cho bá quyền phong kiến. Văn học ta, ngoài Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ ở thế kỷ thứ XVI, có thể kể thêm Nam Hải Dị Nhân, Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái. Riêng Cổ Học Tinh Hoa , là bài học nặng chất nho giáo với Liệt Tử, Mặc Tử, Lưu Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Trương Đông Sơ, Án Tử, gồm Tả Truyện, Dục Hải Từ Hàng, Ngụy Thư Từ Tuân Minh Truyện, Thế Thuyết, Cao Sĩ Truyện, Lã Thị Xuân Thu… thì 4 tác phẩm kể trên mang nặng tính chất Folklore. Nam Hải Dị Nhân ngoài các chương về các bậc Anh Kiệt, Danh Thần, Danh Hiền, Văn Tài, Mãnh Tướng, bậc Danh Tiếng, thì có chương về các vị Thần Linh, và Tiên Tánh… Truyền Kỳ Mạn Lục và Việt Điện U Linh nghiêng hẳn về thế giới siêu hình, mà Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ trong 20 truyện (trừ truyện 12 và 14) thì cốt truyện xoay quanh quỷ thần, ma quái, vạch trần những xấu xa của xã hội phong kiến, công kích tính dị đoan, bài bác quỷ thần trong một xã hội suy hoại, kỷ cương đổ nát. Ví dụ, truyền Đền Hạng Vương, mượn giáo lý của Phật và Đạo lý giải quan niệm luân hồi, báo ứng và nghiệp chướng.
Thông thường, cái gì khác hẳn môi trường đang sống, thì đó có cái nhìn tò mò và được quy nạp một cách hiếu kỳ. Trong thập kỷ gần đây, Harry Potter, với thế giới phù thủy đã chứng minh sự dung nạp một nền văn học sáng hóa thông thái đầy tình người, làm giàu thêm tri thức và lập trình cho cách tân thế giới.
Xuyên suốt hơn vài trăm bộ sách Tân Liêu Trai Chí Dị của nhà văn nhà văn hóa Thượng Hồng, chuyện người và ma vẫn không bao giờ cũ, mọi tình tiết nhân quả gắn chặt trên văn phong nhà văn. Sức sáng tạo kinh hồn, của một cây viết đầy nghị lực và sáng hóa cho dòng văn học riêng mình, độc nhất vô nhị tại Việt Nam, đã giúp ông xuất bản hàng trăm bộ tiểu thuyết liêu trai, mang đầy nét nhân văn, cực kỳ tài hoa. Mang nặng một lý triết đạo đức dù ở thế giới nào, cũng nằm trong cảnh biến luân hồi, nhân quả. Cái tinh túy của tác phẩm liêu trai của nhà văn Thượng Hồng, đi hẳn vào niềm cảm thông với khổ đau muôn loài. Sự băng hoại của cuộc sống, đạo đức và con người là gieo nhiều hệ quả nghiệp chướng, làm hóa đá những hồn ma vất vưởng ở một cõi không âm không dương, phiêu linh, đày ải suốt lộ trình không sống không chết, vì những oan án hoặc bạo lực thủ đoạn xảo trá bất nhân làm nghẹn dòng sinh tử. Hồn oan không bước được trên nẻo đi - về, vất vưởng cùng cực ở cõi vô sinh vô tử, trôi nổi thảm khốc trong nỗi đau nghiệp số.
Hầu như, mỗi truyện của Thượng Hồng Người Khăn Trắng, đều trình bày khúc chiết một hoàn cảnh không trùng lắp nhau, và tư tưởng có hậu của nhà văn nhà văn hóa phương Đông này là một kết cục, làm sáng rực được một chân lý công bằng như ông quan niệm: “Quan điểm nhất quán của tôi từ khởi đầu đến giờ vẫn như một: Dùng chuyện Ma, qua thế giới cõi âm để nói chuyện trần thế. Tôi luôn đứng về phía những người nghèo thấp cổ bé miệng, những con người bị ức hiếp bởi cường hào ác bá, giai cấp bóc lột khi còn sống mà không có điều kiện để phản kháng, khi chết thành Ma để báo oán, đòi công bằng. Điều này, tôi cho là đặc trưng của dòng văn học dân gian Việt Nam”.
Suốt một đời người, ông để hết tâm trí vào con đường được chọn sẵn cho khuynh hướng sáng tác của mình. Bước đi của một người trí không có một giây phút ngập ngừng, và bằng tài hoa sâu sắc càng lúc tác phẩm ra đời đều được nhen nhúm bằng lửa trái tim. Con người mà tâm thức đầy thiện căn, hướng về một xã hội bình yên, công bằng và hạnh phúc dù đó là loài thấp sinh hay quỷ thần, cũng phải quy tông trong hóa hiện chung của vũ trụ.
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, mà ông thường soi rọi trong từng tác phẩm liêu trai của ông, đều mang nặng một tính chất phù trợ cho tư tưởng quả báo nhãn tiền, mà từng lớp người thấp cổ bé miệng thường bị áp bức, đến cái chết cũng không được thăng hoa. Tôi không nghĩ như sự khiêm tốn của nhà văn nhà văn hóa Thượng Hồng là ghi lại những câu chuyện huyền bí để bạn đọc thưởng lãm. Mà đây là một dòng văn học đã được thừa nhận, qua bao nhiêu danh tác Ma của thế giới như Dracula ghê rợn của châu Âu, huyễn hoặc ảo diệu của Liêu Trai Chí Dị Trung Quốc, Trùm Hắc Ám Voldermort của Harry Potter… nhưng những oan hồn trong tác phẩm của Thượng Hồng đều có vẻ đẹp của bản chất người, ân oán phân minh. Dàn trải hơn mấy trăm tác phẩm, là mấy trăm cốt truyện đầy nhân bản, có tính sáng tạo và không trùng lắp một cốt truyện nào với cốt truyện nào. Tình tiết khơi dựng một cách linh hoạt, lôgic, đầy vẻ khoa học tính, đấu tranh giữa thiện và ác là chủ đề lập dựng, thôi thúc không ngừng nghỉ trong hiện thực và sương khói mơ hồ của cõi đối diện. Ý nghĩa nhân văn dàn trải trong một tư chất văn phong mạch lạc, khiến ông có một thành tựu vĩ đại hơn với công trình đồ sộ này. Dù rằng, khi trò chuyện, Thượng Hồng vẫn khiêm tốn chỉ là người góp nhặt, ghi chép lại các câu chuyện liêu trai khắp vùng đất nước. Ông không xem mình là một nhà văn, mà chỉ gắn liền những sự thu nhận ở khắp miền, vì vậy, văn phong đa dạng gắn chặt vào tiếng nói của từng địa phương vừa mới bước qua.
Thật ra, ngoài hàng trăm bộ truyện Ma, tác giả Thượng Hồng cũng góp mặt khá nhiều tác phẩm khác cho nền văn hóa văn học Việt Nam. Nên khi Inner Sanctum, của VietNam News đặt câu hỏi: “Một tác phẩm văn học được coi là đứa con tinh thần của người viết bởi vì nó phản ảnh một phần tác giả. Làm thế nào cho câu chuyện của ông phản ánh tính cách và cuộc sống của ông? Nhà văn Thượng Hồng bày tỏ: “Truyện ma của tôi phản chiếu những cái nhìn của tôi về cuộc sống và tình yêu.
Tôi vừa mới phát hành bộ sách, Một Phút Làm Thay Đổi Đời Người. Tôi chia sẻ với độc giả những câu chuyện thật mà tôi có kinh nghiệm bản thân mình.
Cuốn sách bao gồm những câu chuyện có ý nghĩa và chuyển động cuộc sống có thể thay đổi chỉ trong một phút, và nếu bạn bỏ lỡ những phút đó bạn có thể phải hối tiếc. Cuốn sách đề cập đến mối quan hệ xã hội và mang đến cho người đọc những bài học đạo đức, nhưng rất khó khăn cho hạt giống tâm hồn (*). Tôi kể chuyện của người Việt nam”.
Chủ nghĩa nhân đạo được đề cập trong những sách hoàn toàn thuộc về văn hóa Việt Nam.
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
Viết tại Thư trang Quang Hạnh
Tháng 05/2011
Monday, October 8, 2012
thơ bùi ngọc tuấn
giấc mộng đêm trăng mùa thu
mang theo mối sầu điên của gió
trăng về trút lửa rực đông phương
mùa thu là những cơn cuồng nộ
của trời quằn quại, đất đau thương
đêm rú đêm gào đêm bốc cháy
lửa! lửa từ trăng cháy ngợp trời
khắp cả trần gian trùm máu lệ
muôn đời muôn kiếp mãi chưa thôi
ta một mình ta tắm lửa trăng
mùa thu là vũ trụ nổi cuồng
ma quái từ muôn vàn cõi ảo
trở về nhảy múa giữa không trung
khắp cả trần gian cháy loạn cuồng
thời gian bốc lửa cháy bùng lên
nghìn năm lịch sử đầm đìa máu
thu đến khi trời đất nổi điên
ta một mình ta đứng giữa đồi
nhìn quanh nhân loại cháy không nguôi
bốn phương lửa cuốn thiêu rụi hết
còn lại vầng trăng cháy giữa trời
bùi ngọc tuấn
trăng
(tặng nguyễn trọng cảnh)
tôi đứng giữa đồi hú gọi trăng
gió vật vã rú lên điên cuồng
hàng cây hoảng hốt tung mù lá
rồi cả trời đêm chợt rách toang
tôi gọi trăng mà trăng không nghe
trăng bỏ trần gian đi không về
tôi bỏ thiên đường đi biền biệt
đêm ở nơi nào cũng tái tê
hiểu sao ý nghĩa của lời thơ
của ánh trăng và của giấc mơ
tôi giấu hồn sâu vào ảo mộng
những giấc kinh hoàng tự cổ sơ
tôi hú gọi trăng - trăng không nghe
cành lá bay tung mù bốn bề
khắp cả trần gian sôi trong lửa
đất trời thiêu cháy giữa ảo mê
tôi hú gọi trăng đến lịm người
nghe từng hơi thở thoát lên khơi
và nghe từ cõi nào xa thẳm
một vọng âm chùng như lệ rơi
giữa trời tôi gào trăng rất lâu
trời ơi! trăng chết ở phương nào
đêm nay gió rú như cuồng nộ
ai xé ngang trời một ánh sao
bùi ngọc tuấn
Nguyễn Đức Nhơn * Núi rừng quê tôi
Chiều ngồi trên Đỉnh Đèo Bay
Ngó về Phan Thiết lòng ray rứt buồn
NĐN
1. Đỉnh Đèo Bay
Từ đỉnh đèo nhìn về hướng đông, thành phố Phan Thiết hiện lên rõ ràng, phân biệt được cả những khu phố, vùng ngoại ô và bãi biển. Không biết cái tên “Đỉnh Đèo Bay” có từ bao giờ, nhưng tôi biết chắc nó không thể có trước năm 1975, vì lúc đó cây gỗ còn nhiều, ít ai lên đến nơi này. Đây là đỉnh cao nhất trên cụm núi phụ nằm về phía đông dãy Trường Sơn. Dân làm rừng chỉ có những người bạo gan mới dám lên nơi này. Tôi không gan dạ gì, nhưng có chút liều lĩnh nên cũng từng mò lên tới đây. Ngày đầu tiên đặt chân lên Đỉnh Đèo Bay, đứng trên một mô đá nhô cao, đưa mắt nhìn về biển đông, tự nhiên tôi cảm thấy thương quê hương mình quá đỗi.
“Trông lên núi ngả đầu chào
Trông ra ngoài biển, biển nào cũng sâu!”
(Khuyết danh)
Hai câu thơ này không biết của ai và cũng không biết đọc nó ở đâu, nhưng khi đứng trên Đỉnh Đèo Bay, tự nhiên tôi chợt nhớ ra và nhớ mãi đến bây giờ. Đứng trên Đỉnh Đèo Bay nhìn về hướng Tây là núi rừng trùng điệp, nhìn về hướng Đông là biển cả bao la. Ngày xưa ông Thái Thượng Lão Quân vẽ ra bản Thạnh Thế Hồng Đồ để phân chia Trời Đất, chắc có lẽ ông ta có một chút cảm hứng nào đó để “phết” lên quê tôi những nét đẹp lạ lùng.
Trải tấm nylon trên phiến đá bằng phẳng. Một xị rượu, vài con cá khô. Quá đủ. Thật tình quá đủ, tôi cảm thấy như vậy. Và, chính nhờ cái đạm bạc này mà tôi mới thấy hết được cái đẹp đơn sơ, giản dị của núi rừng quê tôi; Cái đẹp vừa uy nghi, kỳ bí vừa phảng phất một chút đa tình, nên thơ, lãng mạn.
Ngồi trên Đỉnh Đèo Bay, hớp một ngụm rượu, khà lên một tiếng thật kêu rồi đưa mắt nhìn ra tám hướng, thả hồn đi khắp bốn phương mới thấy hết cái thú vị của đời người. Hình như cái thú vị của đời người không hẳn hoàn toàn do cảm nhận từ những niềm vui mà đôi khi còn cảm nhận được từ những nỗi buồn.
Chiều ở đây thật buồn
Mây đùn quanh tám hướng
Thung lũng dày sương mù
Tôi ngồi nghe gió hú
Lão tiều phu đốn rừng
Nghe đau từng nhát búa
Có con chim lạc đàn
Xoải cánh chiều qua núi
Rừng ngàn năm vẫn buồn
Chôn sâu niềm u uẩn
Người ngàn năm vẫn còn
Đi trong vòng lẩn quẩn
Rừng ngàn năm còn đó
Tôi trăm năm còn đây
Rừng lắc lay theo gió
Tôi nhìn mưa thu bay
Mưa thì thầm trên lá
Tôi thì thầm với ai!?
(Thơ NĐN)
Từ làng tôi, dân làm rừng đi lên núi Ông (1) bằng nhiều ngã khác nhau. Tất cả những ngã đường này đều phải băng qua con đường sắt xuyên Việt, đoạn từ ga Mường Mán đến ga Ma Lâm. Mỗi giao điểm của lối mòn xe bò và con đường sắt đều được giới khai thác lâm sản đặt cho mỗi nơi một cái tên nghe rất là “địa phương”: Đồi mồi bàu lon, đồi mồi bàu đá, đầu mồi giếng cỏ v.v… Đầu mồi (2) là nơi xe bò bắt buộc phải đi qua. Thời chiến tranh Việt – Pháp, lính Tây thường phục kích ở các nơi này và gây chết chóc rất nhiều người. Đoạn đường sắt này, hai đầu nối liền với Mường Mán và Ma Lâm, lập thành một khu vực địa dư mà thời chiến tranh được mệnh danh là “chiến trường tam giác”. Sau khi ra tù, tôi trở về sinh sống ở một ngôi làng nhỏ nằm trong khu vực này. Ngoài việc làm cho hợp tác xã nông nghiệp, tôi thường lên rừng đốt củi, hầm than để kiếm sống. Tôi chọn lộ trình “đồi mồi giếng cỏ” để qua con đường sắt. Khi ấy tôi dành dụm được một ít tiền, sắm đươc một chiếc xe bò bánh sắt (3) và, cứ mỗi tuần tôi cùng thằng con trai tý tẹo của tôi lên núi một lần.
Thong dong một chiếc xe bò
Nhạc khua lóc cóc giữa bờ truông sâu
Ngoảnh nhìn phận số ta đâu
Bóng hình xưa đã nhạt vào xa xăm
Ở đâu còn một chỗ nằm
Cho người thua cuộc về thăm núi này!…
(Thơ Trần Yên Thảo)
2. Đèo Vòng Xoay
Trên lộ trình đến Đèo Vòng Xoay, đường núi cheo leo, xe bò bắt buộc phải qua một vài địa thế vô cùng hiểm trở, thường xẩy ra những tai nạn chết người.
“Không đi thì đói thì nghèo
Mà đi thì sợ cái Đèo Vòng Xoay”
Hai câu lục bát dân gian này không biết có từ lúc nào, nhưng cái Đèo Vòng Xoay thì đã có từ lâu đời. Nếu cái tên “Đỉnh Đèo Bay” gợi lên một cảm giác chơi vơi trên một đỉnh núi cao chót vót, thì cái tên “Đèo Vòng Xoay” lại cho ta một cảm giác quay mòng mòng như con vụ. Thực ra thì cũng không đến nỗi như vậy. Đèo Vòng Xoay chỉ là một khúc quanh rất ngặt, nhưng khổ nỗi là khúc quanh này lại nằm giữa hai bờ con sông hẹp nhưng rất sâu. Khi chiếc xe lao xuống dốc, người đánh xe không thể nào điều khiển được hai con bò. Mà trời sanh cũng ngộ, hai con vật tự nó cũng biết phải làm thế nào để bảo đảm an toàn cho chiếc xe (!). Khi gần tới đáy sông thì có một “gôn” đá lớn nằm chắn ngang. Chao ơi! nếu đâm đầu vào đó thì… “tía tôi cũng lìa!”. Nhưng không sao, người đánh xe sau mấy phút đi “six flag” cũng vừa tỉnh hồn, kịp điều khiển hai con bò quay một vòng rất ư là đẹp mắt. Khi qua được bờ bên kia, người đánh xe cảm thấy mình vừa thoát qua một tai nạn! Hú hồn…
3. Đèo Thằng Cuội
Qua khỏi Đèo Vòng Xoay một đỗi thì tới “Đèo Thằng Cuội”. Cái đèo này mới thật “ê ám”. Chiếc xe qua khúc đèo này, gần như chỉ lăn có một bánh, còn cái bánh kia thì nhảy “cà tưng, cà tưng” trên những phiến đá lồi lõm như người ta nhảy đầm. Chiếc xe nghiêng hẳn về một bên. Người ngồi trên xe lại thêm một dịp “thả hồn theo mây gió”. Tại sao lại có cái tên “Đèo Thằng Cuội” nhỉ? Ông Sáu Lầu, người cao tuổi nhất trong làng kể lại.
– Chú Tám à! Cạn hết cái chén đó đi rồi tôi sẽ kể cho chú nghe.
– Dạ được.
– Thực ra, chuyện này tôi cũng nghe tía tôi kể lại, còn sự thật thế nào thì tôi cũng không rõ.
Ông Sáu ngừng lại vài giây, nhấm thêm một ngụm rượu, khà ra một tiếng rồi kể tiếp.
– Nghe nói hồi mới khai thông khúc đèo này, chiếc xe đầu tiên qua đèo bị lật đè chết một người. Người ta không rõ danh tánh người xấu số. Chỉ biết người này dùng sức phụ đỡ chiếc xe cho khỏi lật nên bị chiếc xe đè chết. Những người dùng sức chống đỡ những vật nặng phụ giúp cho một việc gì đó, người làng mình gọi là “cuội”. Nên vì vậy mà mới có cái tên “Đèo Thằng Cuội” đó chú Tám.
– Thưa bác, còn tại sao mỗi chiếc xe qua đây đều phải ném vào cái mô đất một nhánh cây hay một hòn đá vậy bác?
– Ừ, chuyện này kể ra cũng lạ. Nghe nói sau cái tai nạn đó, đêm đêm thằng Cuội hiện về bảo là ai đi ngang qua đèo phải ném vào mộ nó một vật gì đó, coi như vun bồi cho ngôi mộ, nếu không thì lần sau ngang qua đây sẽ bị lật xe. Chuyện đó hư thực thế nào thì không ai rõ, nhưng mọi người đều có một ý nghĩ giống nhau “thà tin có còn hơn không!” và, vì vậy mà cái mô đất mỗi ngày một cao thêm.
4. Râm Tiếng
Qua khỏi đường sắt một đoạn thì phải chui vào một khu rừng dày đặc, dài chừng vài ba cây số. Ban đêm đi vào khu rừng này, người đánh xe không thể nào quan sát được mọi vật chung quanh, nên chỉ nhịp roi “chừng chừng” vào lưng bò, để tự nó theo lối mòn mà đi. Đây cũng là một kinh nghiệm của những người đánh xe. Vì quá rậm rạp, nên nhiều loại thú dữ thường trú ẩn trong khu rừng này, nhất là cọp. Ban đêm chúng thường ra đường chận xe. Chúng dọa trâu bò nhảy tán loạn, người trên xe không may bị té xuống đất là chúng vồ đi ngay. Cũng tại khu rừng này có một con cọp hung tợn vô cùng. Người hay súc vật không may gặp phải nó là vô phương sống sót. Người ta đặt cho nó một cái tên nghe cũng anh hùng hảo hán lắm: “cọp ba dấu”. Nghe nói, một đêm nọ, con cọp này phóng đại vào chiếc xe, chân trước thọc vào bánh xe để kéo lại, không may bị bánh xe nghiền nát, nên từ đó nó chỉ còn ba chân. Người làm rừng thường hay quan sát dấu chân cọp để biết chừng mà tránh, nên mới phát hiện ra con cọp ba dấu này. Nghe nói từ ngày mất một chân, con cọp lại càng hung dữ hơn. Nó “hoành hành bá đạo” ở khu rừng này, nên vì vậy mà khu rừng đâm ra nổi tiếng, rồi dần dà người ta lượt bỏ đi một vài chữ trong cụm từ “khu rừng nổi tiếng” để đặt luôn cho nó cái tên là “Râm Tiếng”.
Một điểm đặc biệt nữa là khu rừng này có một loài chim mà trong tác phẩm “Đất Rừng Phương Nam”, Đoàn Giỏi gọi là “chim lệnh” (4). Loài chim này có một giọng kêu nghe the thé giống như tiếng trẻ con khóc. Ban đêm mà nghe tiếng kêu của nó, ắt có người “són” ra quần. Đặc biệt hơn nữa là loài chim này thường “ở chung với cọp” bởi vì cọp là loài ăn thịt sống, nên thịt thối ở kẻ răng làm cho nó đau nhức. Chim lệnh biết “khai thác” nhược điểm này, nó cà rà theo cọp để mổ thịt thối ăn. Đang khi răng bị ngứa nhức khó chịu vô cùng mà có kẻ chịu khó “xỉa răng” giùm thì làm sao mà không biết ơn cho được! Vì vậy mà vô hình trung cọp và chim lệnh trở thành đôi bạn thân, sát cánh bên nhau, nương tựa nhau mà sống (!). Thiên nhiên quả thật có nhiều điều kỳ diệu. Có lẽ người làm rừng mộc mạc không hiểu gì về khoa học tự nhiên, cho chim lệnh là một loài chim linh, muốn giúp người, nên bám sát theo cọp để lên tiếng báo động kịp thời cho người lẩn tránh. Vì vậy người làm rừng mới truyền kinh nghiệm cho nhau bằng một câu nói mà mới nghe qua giống như một câu châm ngôn nhật tụng: “Nơi nào chim lệnh kêu, nơi đó có cọp!”
5. Giếng Tiên
Đến Giếng Tiên thì phải đi bằng một ngã khác, thực ra tôi rất ít đến nơi này, vì không thuận đường.
Câu chuyện dưới đây, tôi cũng chỉ nghe người ta kể lại, không biết đúng sai và cũng không biết còn có câu chuyện nào nữa nói về cái huyền thoại “Giếng Tiên” hay không? Hai chữ “Giếng Tiên” gợi lên cho người đọc một hình ảnh nên thơ thoát tục. Thực ra nó cũng chỉ là một khu rừng bình thường, chỉ khác một điểm là ở đây có một giếng nước rất trong, nhúng tay vào người ta có cảm giác như đang ngâm bàn tay trong nước đá.
Người ta thường lên núi đốn củi, hầm than vào mùa nắng, nên nước uống là một vấn đề vô cùng phiền toái cho người làm rừng. Thường thì người ta phải mang nước theo để xử dụng, nếu rủi ro bị đổ thì chỉ còn cách quay trở về. Cái nắng nóng hừng hực của núi rừng giữa trưa mà xối lên người một ca nước “Giếng Tiên” lạnh ngắt thì cho dù người phàm cũng biến thành tiên. Tôi có nghe lõm bõm một câu chuyện thần bí về khu rừng này:
Ngày xưa, có một lão tiều phu đầu tóc bạc phơ, mùa nắng thường hay lảng vảng ở khu rừng Giếng Tiên. Người ta không biết ông ở đâu và cũng không biết ông làm gì. Không ai tới gần ông được. Ông thường ẩn hiện, thấp thoáng trong rừng như một bóng ma. Một hôm có một cô gái làm rừng bị ngất xỉu vì cơ thể thiếu nước, ông già xuất hiện mang cô gái vào một hốc núi rồi hú vang một tiếng. Cô gái giật mình tỉnh lại, nhìn chung quanh không thấy ai, nhưng phát hiện ngay bên chỗ mình nằm là một cái giếng nước trong. Cô gái vì quá khát, nên múc nước lên uống mà không e dè chút nào. Không ngờ vừa uống xong, cô gái thấy toàn thân lạnh như băng và rùng mình một cái, biến thành một nàng tiên xinh đẹp bay bỗng lên trời.
Nghe tiếng hú kỳ lạ, có một người tiều phu tò mò lần theo vách núi đến nơi thì phát hiện ra nơi này có một bộ quần áo của phái nữ. Người tiều phu tò mò mở ra xem thì thấy trong túi có một bức tượng hình thù quái dị, lớn bằng nắm tay. Người làng biết được chuyện, bèn rủ nhau lên xây một bức tượng cao chừng ba thước, hình dáng giống như bức tượng trong túi áo. Bức tượng đó lâu ngày biến thành một hòn đá thiên nhiên, trông từa tựa như một cố gái đang đứng dựa vào vách núi. Hòn đá đó ngày nay vẫn còn. Truyền thuyết còn cho rằng ông lão kỳ bí ở rừng Giếng Tiên chính là vị thần năm xưa được Thượng Đế sai gánh hai hòn núi từ Bắc vào Nam. Khi bay ngang qua Phan Thiết, không may bị đứt dây, nên hai hòn núi rớt xuống nằm ngay bên cạnh quốc lộ 1 ở hai đầu Nam – Bắc thị xã Phan Thiết (5). Có người còn nói hai hòn núi này là hai ông “tà”, cho nên người xưa mới đặt tên là “Tà Dôn” và “Tà Cú”. Hai ông tà này rất ác ôn, “đì” dân Phan Thiết ngóc đầu không nổi, nên chẳng có ai được làm Vua hoăc làm Tổng Thống (!). Còn ông thần gánh hai hòn núi thì bị Thương đế giáng xuống làm “Giám đốc sở kiểm lâm” canh gác hai ông “Tà”. Ông thần này thích “chạy nhảy lung tung” hết rừng này tới núi nọ và cứ mỗi năm đến mùa nắng nóng thì mò lên Giếng Tiên để tắm. Nghe sao kể vậy, còn đúng sai thế nào thì thật tình tôi đây cũng “bù”.
6. Đồng Cá Sấu
Qua khỏi Râm Tiếng chừng một đỗi, có một ngã rẽ về bên phải. Đi thêm vài cây số nữa thì đến một cánh đồng hoang nằm gọn lỏn giữa một khu rừng già mênh mông. Giữa cánh đồng có một đầm nước sâu. Người làm rừng gọi cánh đồng này là “Đồng Cá Sấu”. Địa danh thường thường được người ta dựa vào một biểu tượng nào đó để đặt ra. Đồng cá sấu cũng vậy, vì ngay trên mé rừng dọc theo cánh đồng có một hòn đá nổi, hình thù giống hệt một con cá sấu đang nằm. Chiều dài khoảng chừng ba thước, bề ngang khoảng năm tấc. Trên lưng có một vết sẹo dài vắt chéo từ chân trái ở trước đến chân phải phía sau. Ngoài ra bên hông còn có ba dấu chân lõm sâu vào khoảng một lóng tay. Trong một buổi trà dư tửu hậu, tôi nghe người ta kể rằng, khi xưa có một gã nông phu đang cày ruộng, bất chợt có một con cá sấu thật lớn bò đến. Người nông phu này dùng roi cày và đôi chân giết chết con sấu. Con sấu nằm đó lâu năm, biến thành hòn đá với vết tích còn hằn rõ trên lưng. Chuyện thật đấy. Nếu độc giả nào không tin, chịu khó “bao” tôi về Việt Nam một chuyến, tôi bảo đảm sẽ đưa đến tận nơi để xem cho biết (!).
Núi rừng quê tôi còn nhiều chuyện để kể lắm. Nhưng già rồi trí nhớ không còn như xưa, nên nhớ đâu kể đó vài chuyện cho vui, và cũng xin nói rõ đây không phải là một tài liệu biên khảo.
Nguyễn Đức Nhơn
———
(1) Núi Ông nằm phía tây thành phố Phan Thiết,
trong hệ thống dãy Trường Sơn.
(2) Đầu mồi là giao điểm của lối mòn xe bò và con
đường sắt.
(3) Bánh gỗ bọc niền sắt.
(4) Có người nói ngoài Bắc gọi là “chim linh”, còn
ở quê tôi thì gọi là “chim chuông”.
(5) Núi Tà Dôn nằm phía bắc, cách Phan Thiết
chừng vài chục cây số. Núi Tà Cú nằm phía
nam, cách Phan Thiết chừng 30 chục cây số.
Phan Đổng-Lý * Tạ Từ
Subscribe to:
Posts (Atom)