văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Wednesday, October 24, 2012

Du Tử Lê * Pho tượng

nguyenthanhthu


Cô bé hỏi người lính :
- Tết năm nay nữa, ông bao nhiêu tuổi?
Hình như người đàn ông không chờ đợi câu hỏi bất ngờ đó nơi cô gái. Ông gỡ điếu thuốc khỏi môi. Điếu thuốc bị ngậm chết ở một vị trí khá lâu/có lẽ thế/cho nên khi được gỡ ra, một lớp giấy mỏng còn dính lại nơi môi. Người đàn ông gỡ bỏ lớp giấy mỏng trước khi trả lời cô gái :
- Tôi già rồi.
- Bao nhiêu và thế nào mà ông cho là già?
Người đàn ông nâng tách cà phê lên nhưng không uống ngay, trong lúc cô gái nghịch cái thìa trong tay và mắt chờ đợi:
Nghĩ một lát, mỉm cười, đặt tách cà phê xuống, ông nói :
- Như cô và tôi, chúng ta đã ở hai đầu dây ngăn cách. Chúng ta như hai cực của một ngày. Tôi đã xế chiều và cô mới bình minh. Khi cô thực sự bình minh, thì đó là lúc tôi vào sâu bóng tối.
Người lính nhìn qua khung kính lớn, dãy thung lũng trải dài với thảm cỏ mướt xanh uốn lượn như con sóng lớn. Một vài cây phong đổi mầu lá ối đỏ, trang điểm nó. Dáng chiều từ chân đồi hắt ngược lên càng khiến những chiếc lá phong bầm đỏ và tối hơn. Người lính chỉ tay vào thung lũng :
- Cô thấy gì ngoài khung kính này?
- Buổi chiều vàng, một buổi chiều vàng trong nhạc của Nguyễn văn Khánh. Ông biết bài đó? Người con gái đáp như trúng tủ trong một cuộc thi vấn đáp?
- Phải... “trên đồi thông chiều đã xuống dần mặt trời lấp ló sau đồi, chiều vàng...”
- Ông có biết là tôi yêu bản nhạc đó, như yêu một cảnh đời mình đã... khuất.
- Cô nói như một bà già năm mươi!
- Vâng! Khi tôi chửa được một nửa của tuổi đó.
Người con gái không che giấu tự tin và chút gì giống như hãnh diện trong câu trả lời của mình.
Người lính lắng tâm hồn và cảm xúc ông vào đôi mắt mở lớn, trong veo, không một gợn đục. Từ đôi mắt thơ ngây ấy, những lời nhạc như tiếp tục vẳng lên: “Chiều nay viếng thăm hồn cố nhân, ta nên đau thương gắng bước hoài, đời chỉ có riêng em mà thôi”.
Những hình ảnh xưa cũ, như một trận bão bất ngờ trút xuống trong thần trí ông.
- Tôi bốn mươi rồi. Tết này nữa, tôi đúng bốn mươi.
Người con gái như không hề ngạc nhiên về tuổi tác của người lính. Làm như cô đã biết trước tuổi ông. Cô nói :
- Vì thế, ông cho rằng ông đã già, quá già rồi.
Người lính gật đầu. Ông di di mẩu thuốc lá trong chiếc gạt tàn;
- Đúng thế. Nếu cô biết rằng các cụ mình có câu: “Tam thập nhi lập, từ thập nhi bất hoặc...” Tôi đã mười năm bước qua tuổi ba mươi mà chưa “lập”, thì nói gì... Người lính ngập ngừng trước khi tiếp:
- Tôi không còn tuổi trẻ nữa.
- Ông nói thế nghĩa là sao?
Người lính nén tiếng thở dài :
- Nghĩa là tôi không còn cơ hội. Tôi không còn những yếu tố căn bản là tuổi trẻ, lòng hăng say, để bắt đầu hay để làm lại.
Cô gái múc một thìa kem. Nàng hé môi hàm răng trắng đều và cặp môi đỏ tự nhiên. Cô ngậm như cắn thìa kem. Cô khép đôi mắt, như để tận hưởng cảm giác mát lạnh và hương vị ngọt ngào của thìa kem chảy tan trong cơ thể?
Bất ngờ, cô hỏi:
- Ông biết tôi bao nhiêu không?
- Tôi không hề để ý tới tuổi cô. Chỉ biết cô còn bé lắm.
Người con gái hin hin mũi, tinh nghịch :
- Bé cỡ nào, ông?
Người lính lúng túng :
- À... À... Bé lắm. Bé như là bé... tý hon.
Cô gái đưa tay che miệng cười. Tiếng cười cô ròn rã, vang ấm một góc quán.
- Tôi mười tám. Tết này, tính theo tuổi ta, tôi mười chín. Cô đăm đăm nhìn những giọt nước đang tạo hình trên ly kem khi nói. Như một tiếng thở dài lúc cô thêm:
- Mười chín mà tôi thấy mình như đã ngoài ba mươi!
- Tại sao?
- Không phải tại tôi cảm thấy tôi già trước tuổi. Rất thường, tôi tự thấy, tôi còn nhỏ lắm. Còn trẻ con lắm trong cả ý nghĩ, tư tưởng của mình. Nhưng đôi khi, đôi khi thôi, ông biết không, tôi tự hỏi, rồi tôi sẽ ra sao? như thế nào? làm được những gì ở năm hăm chín, bốn mươi? Tôi luôn thấy tôi lạc lõng trong tất cả mọi “pạc ty” của bạn bè. Tôi cũng không một chút ham muốn trước phấn son, không một chút rạo rực trước quần áo hôm nay, quần áo mà người ta gọi là quần áo “disco” đó ông. Không phải tôi làm bộ. Không phải tôi giả cách. Ba mẹ tôi tuy không khuyến khích nhưng cũng chẳng cấm cản tôi. Tôi biết rõ điều đó. Vấn đề là tự thâm tâm, tự một chỗ nào đó trong tâm hồn tôi, tôi không thấy thích, tôi không thấy ham muốn những thứ đó. Bạn tôi có đứa bảo tôi bị bệnh. Bệnh lãng cảm. Tôi không hiểu rõ lắm bệnh này và, thực sự cũng chẳng mấy quan tâm...
Có thể người lính không chờ đợi những lời đối thoại như vậy. Ông lúng túng:
- Cô không sợ bạn chê là nhà quê sao?
Cô gái lắc đầu: tự tin :
- Không. Cho đến hôm nay, tôi không hề có một mặc cảm nào khi đứng trước mặt bạn bè. Tôi có lố bịch không ông /?/ Nếu tôi nói với ông rằng tôi biết những gì tôi hơn bạn bè tôi.
- Cô làm tôi nhớ em gái tôi. Nó cũng bướng, cũng “lý sự” như vậy!
Cô gái mỉm cười. Nụ cười nhiều phần miễn cưỡng:
- Tôi có nói nhiều quá không ông?
Người lính lắc đầu :
- Có bao giờ cả một ngày cô không được nghe một tiếng nói nào chưa? Tiếng mẹ đẻ! Tôi đã nhiều lần trải qua cảm giác đó. Cảm giác thèm khát muốn phát điên vì thiếu tiếng nói. Nhưng lúc ấy, thì ngay cả tiếng lảm nhảm, vô nghĩa với tôi cũng cần thiết. Chưa kể, càng nói cô càng cho tôi cảm tưởng khoảng cách giữa cô và tôi được ngắn lại phần nào.
Người con gái không giấu hân hoan.
- Ông nói thật? Thật phải không ông?
- Tôi có thể nói dối với tất cả mọi người, trừ... cô.
Người con gái dướn gương mặt hạnh phúc, rực rỡ về phía người đàn ông. Tuy nhiên, như chưa tin hẳn, cô gái hỏi thêm :
- Tại sao lại trừ tôi?
- Tại cô là cô bé. Bé tý hon.
Cô gái như không còn kìm giữ được lòng sung sướng, rất nhanh và rất tự nhiên, cô đặt tay cô lên bàn tay người lính.
Ông xoay ngược bàn tay, nắm lấy bàn tay nhỏ, mềm như được làm bằng bột của cô gái. Từ từ, những ngón tay xạm nắng bóp xiết những ngón tay chỉ còn là một màu trắng sữa. Cô bé thốt kêu :
- Ông... ông Lãm.
Người lính như đang bơi trong cơn mơ sảng :
- Học...
Ông buông tay cô. Bàn tay người con gái trơ vơ trên mặt bàn nhung màu huyết dụ, rung động như phần cánh bị thương của một con chim sâu.
Vài giây sau, người con gái mới rút tay về...
Bóng tối như từ đáy thung lũng dâng lên mỗi lúc một cao, cùng lúc với sương mù bám vào cửa kính, làm thành một lớp vải voan mỏng.
Tự lòng quán nhìn ra, người ta chỉ còn thấy được những cây phong gần nhất. Lúc này, chúng giống những ông già mặc áo bành to, đang rộng đôi tay, ngửa mặt, lặng im khấn nguyện một điều gì đó với trời đất.
Người kính châm điếu thuốc mới. Cô bé đã trả hai bàn tay xuống gầm bàn như lúc ban đầu. Cô day mặt về phía cửa kính.
Người đàn ông cố gắng (sự cố gắng thấy rõ trong giọng nói ngượng ngùng của anh) :
- Tôi thật đáng trách... Tôi không định thế...
Cô bé quay lại. Đôi mắt đỏ, nhưng miệng nàng cười :
- Đâu có. Ông.
Giọng nói của người con gái lúc đầu còn đượm nhiều xúc động, trước khi bớt dần:
- Học... ồ tôi không hiểu... ừ mà tôi cũng không hiểu tại sao nữa? Là người lớn, ông...
Người lính lắc đầu!
- Học tưởng người lớn biết tất cả mọi thứ.
Người lính cười, thở ra như vừa trút đi khỏi lồng ngực một sức nén ép khủng khiếp:
- Không phải người lớn thì cái gì cũng biết. Có khi còn ngược lại, như tôi.
- Ngược lại? Ông Lãm? Học không hiểu!
- Tôi muốn nói có nhiều điều trẻ con biết mà, người lớn thì không...
Cô buột miệng:
- Xì! Ông Lãm “xạo”. Học không tin.
Người lính nghiêm mặt :
- Thật đó.
Cô bé cong môi :
- Chẳng hạn?
- Chẳng hạn trẻ con biết làm cho người già trẻ lại. Trong khi người già bất lực. Họ không không biết cách nào để làm cho trẻ con trở nên trẻ con hơn nữa.
- Nhưng người già biết cách làm cho trẻ con già thêm phải không?
Người lính mỉm cười :
- Chính thế. Sự nguy hại của trẻ con chơi với người lớn ở chỗ đó.
- Học không còn là bé nữa. Học đã bước vào tuổi mười tám. Học lớn rồi. Phải không ông Lãm?
Người lính dùng một câu hỏi thay cho câu trả lời:
- Cô định làm gì ở những ngày tháng đầu tiên của tuổi mười tám?
Cô gái ngẫm nghĩ :
- Học không biết nữa. Ơ mà Học thấy có nhiều điều trước đây, Học không thể làm được, nhưng bây giờ thì đã...
- Thí dụ một vài điều?
Cô gái mím môi để khỏi cười. Đôi má nàng au đỏ. Nàng lắc đầu :
- Không. Học chẳng thể nói ra với ông.
- Sao vậy?
- Học mắc cở. Với lại...
- Với lại?
- Kỳ lắm. Mà thôi, Học không nói đâu. Học sẽ không bao giờ nói ra đâu. Ông Lãm đừng bao giờ hỏi nữa...
Càng nói, người con gái càng rơi sâu trong sự mắc cỡ của chính nàng. Hình như người lính cảm biết được một điều gì đấy. Ông dọa:
- Lỡ...
Người con gái cướp lời :
- Không. Không nha. Ông Lãm.
Cô bé ngước mắt nhìn người lính vẻ khẩn khoản. Người lính cười. Nụ cười khoan hòa, như nụ cười của một người cha chiều lòng một đứa con gái nũng nịu.
- Ừ! Tôi sẽ chẳng bao giờ tôi hỏi Học điều đó.
Làm như hai người cùng ngầm hiểu điều họ có thể... không hiểu hay hiểu sai!
Tuy nhiên, phần cô gái vẫn là nụ cười. Nụ cười mang theo hương thơm ngọt ngào của thìa kem chảy tan một lần nữa trong cô..
Người lính trả tiền và đưa cô gái ra khỏi ngôi quán. Đêm thẳm sâu và lạnh. Cô giấu đôi bàn tay vào túi áo vest, trong khi người lính thọc hai tay vào túi quần sau khi cài nốt những khuy áo còn lại của chiếc bành tô.
Họ sóng bước. Trong lúc người lính trở nên trầm ngâm thì cô gái ngược lại, liến thoắng hơn. Cô nói :
- Ở đây không có chợ Tết!
- Ừ không có chợ Tết.
- Cũng không có cả ciné giống như ở quê nhà nữa.
- Cũng không cả ciné...
- Ông Lãm...
- Gì Học?
- Tết ông Lãm làm gì?
- Ngủ. Tôi ngủ cho qua Tết.
- Tết ai lại ngủ?
- Nhưng tôi ngủ. Và uống rượu...
- Thế ông không định đi thăm Học sao?
- Ừ nhỉ! Phải đi thăm Học.
Cô gái không thể biết người lính nói sẽ đi thăm Học hay đó là câu hỏi? Cô dám ngước mặt lên nhìn mặt người đàn ông. Cô sợ ông phật ý. Nàng chợt nhận thấy từ lúc bước ra khỏi quán, người đàn ông như rơi vào một thế giới khác! Nhưng cô không quan tâm.
Niềm vui, hay hạnh phúc nếu có thể nói được như vậy, khiến cô chỉ muốn nói bất cứ điều gì chợt đến. Đây là lần đầu tiên, cô được đi chơi khuya với người lính. Cũng lần đầu tiên, cô cho rằng người đàn ông không còn nhìn cô như một đứa con nít.
Ta đã lớn. Ta đã mười tám. Ta đã... Ta đã... Cô muốn thét to, muốn la lớn cho vỡ trong lồng ngực, cho tất cả thành phố đều phải biết rằng cô đã mười tám. Cô đã bắt đầu một tình yêu!
Họ chậm bước rồi dừng lại ở một ngã tư có đèn. Người lính đưa tay ấn nút. Họ chờ băng ngang đường.
Người con gái nói :
- Ông Lãm.
- Gì Học?
- Sắp Giao Thừa chưa?
Người lính vén tay áo, nhìn đồng hồ.
- Còn hai tiếng nữa.
Dấu hiệu cho phép băng ngang đường chuyển từ màu đỏ sang xanh.
Người con gái không có vẻ gì muốn bước đi :
- Ông Lãm.
- Sao Học?
Người con gái im lặng giây lát, rồi nói giọng thật nhỏ :
- Học chưa muốn về.
Những nếp nhăn xếp hàng trên trán người lính. Ông đặt tay lên vai cô :
- Phải về chứ. Muộn rồi.
Cô gái cúi mặt như che giấu thất vọng và xấu hổ của mình.
Người đàn ông lại đưa tay bấm nút đèn. Người con gái lại nói :
- Ông Lãm.
- Gì Học?
- Sao ông không nói gì với Học?
Lần này cô bạo dạn ngước nhìn người lính. Ông hỏi :
- Học muốn điều gì?
- Gì cũng được.
Dấu hiệu băng ngang đường lại chuyển từ đỏ sang xanh. Ánh sáng xanh của ngọn đèn đường, không làm mất đi màu đỏ gấc trên gương mặt cô gái. Đôi cánh mũi của cô phập phồng như nhịp theo hơi thở gấp rút trong cô.
Người lính nắm chặt bàn tay. Bất giác, như không kìm giữ được nữa, ông vòng tay qua vai cô:
- Học
- Dạ.
Người lính im lặng. Ông không biết nên hay phải nói điều gì trong? Sự im lặng kéo dài cho đến lúc người con gái lên phải cất tiếng :
- Ông Lãm.
- Gì Học?
- Sáng mai mồng một, Học đến nhà ông Lãm.
Vừa nói dứt câu, người con gái không để người lính kịp trả lời, đã vùng thoát khỏi vòng tay người lính. Cô chạy băng qua bên kia đường, giữa lúc đèn xanh đã trở lại màu đỏ.
Người lính trở về nhà đúng giao thừa. Ông đặt tay lên đùi. Nhắm mắt. Mơ hồ thấy mình trong dáng ngồi của pho tượng “tiếc thương”, ở nghĩa trang quân đội ở Biên Hòa. Nhưng cùng lúc, ông cũng nhớ lại rằng, pho tượng ấy không còn nữa. Nó đã bị giật đổ.

Nguyễn Lệ Uyên * Buổi Sáng Trong Làng

daohaitrieu
Gà vừa cất tiếng gáy sang canh, Dự vội vã bật dậy nhóm bếp nấu ấm nước pha trà, loại trà nát như cám được phân phối theo tem phiếu trên cửa hàng mậu dịch của hợp tác xã. Uống loại nước chan chát không mùi vị khiến anh có cảm giác như lúc ở trại Thập hái lá cây rừng sao vàng thay trà. Dẫu sao trà cám vẫn hơn nước đun sôi và nước đun sôi vẫn hơn loại lá rừng đắng chát. Với lại, thời buổi này không thể tìm đâu ra thứ trà ướp ngâu, ướp sen… mà có thì cũng không có tiền mua. Cái gì cũng có thể trở thành thói quen, anh thầm nghĩ và uống cạn bình trà trước khi đứng dậy ra tháo cổng chuồng.

Lúc lùa đôi bò ra ngõ, vợ Dự vừa kịp lóp ngóp ngồi dậy, hỏi nhóng theo:
-Sáng nay anh ăn ghé khoai lang hay mì?
Dự nhổ phẹt bãi nước bọt xuống nền đất, xoay cây cày sang vai phải, từ bìa sân gạch nói với:
-Gì cũng xong. Đầy bụng là quý rồi.

Đôi bò theo thói quen, ra khỏi ngõ rẽ qua truông trái, chậm rãi bước thẳng ra đồng. Cây cày trên vai bị trở vai liên tục, vì hồi nào tới giờ anh có biết cày cuốc là gì. Học chưa hết năm đệ Tam tới tuổi phải vào lính, đánh nhau suốt từ năm này sang tháng khác cho đến lúc bị gán cho tội cầm súng đế quốc chống lại nhân dân. Cái tội tày đình đó phải học tập cải tạo như bao nhiêu người khác cùng cảnh ngộ đến gần hai năm. Hai năm theo đúng nghĩa của người tù khổ sai để cuối cùng cầm mảnh giấy rơm vàng ố quay về trình diện địa phương. Như vậy kể cũng may mắn: Đạn bom chưa giết chết Dự. Bệnh tật, đói khát, sơn lam chướng khí… trên rừng núi không vật ngã được anh. Dự vẫn sống nhăn răng để trở về và chịu đựng tiếp những khổ nạn của thân phận thằng ngụy quân cầm súng bắn phá cách mạng, chống lại nhân dân…

Cây cày đè nghiến trên vai. Màn đêm lờ mờ. Cây cày bị xoay trở liên tục. Lúc ngang qua xóm Gòn, lũ chó chạy ra thọc mõm qua bờ rào sủa như muốn xé rách màn đêm. Cả một đàn chó trong xóm cùng gào lên như thể Dự là quân trộm cắp, là bóng ma đang lởn vởn trong làng. Ra tới chòi canh đầu xóm, người du kích quấn chiếc mền thu lu quanh cổ, đang bập bập điếu thuốc chỉ thấy đốm lửa đỏ như que nhang, quẹt đèn pin thành vệt dài một lượt, hỏi:
-Cày sớm anh Hai?
-Cày sớm về nghỉ cho khỏe.
-Ngồi hút điếu thuốc đã.
-Thôi, để tranh thủ. Tôi chịu nắng dở lắm - nói và Dự thúc đôi bò bước nhanh.
Bóng đêm vẫn còn đậm đặc, tiệp với màu cây cối hai bên đường. Tiếng chó sủa thôi rát nhưng tiếng gà gáy thì bắt đầu rộ lên. Cũng tiếng gà ấy, nhưng ngày trước nghe giục giã, còn giờ thì nghe mỏi mòn, eo óc, giống tiếng kẻng lệnh treo giữa xóm, trên cây duối, điều khiển mọi hoạt động của đám người trong làng.

Đôi bò lầm lũi bước. Dự lầm lũi bám theo chúng, trở thành vị cứu tinh của cả nhà. Dự áng chừng cũng gần bốn giờ sáng. Bốn giờ bắt đầu mắc bò vào quải, bắt đầu đánh rõng, cày đến khi mặt trời gát qua khỏi đọt tre cũng gần mười giờ. Mười giờ mở bò, mở trước lúc tiếng kẻng lệnh vang lên chói tai. Thời gian lúc này đối với Dự (và cả dân làng) không còn có thể nhìn vào chiếc kim nhỏ chạy vòng tròn trên mặt số nữa rồi. Tiếng gà gáy và mặt trời đã thay thế vị trí của nó, bởi những chiếc đồng hồ đã được đem bán đi để mua thêm vài mươi cân lúa dự phòng. Có đồng hồ trong nhà mà cái bụng tóp teo phỏng ích gì, ai cũng nghĩ vậy.

Mắc được đôi bò vào quải, Dự đã nghe rõ mồm một tiếng lội bì bõm trong đám ruộng bên. Té ra cha con hương Bổn còn ra đồng sớm hơn. Dự tằng hắng:
-Bữa nay nữa xong chưa đó?
Tiếng hương Bổn từ xa:
-Chưa. Còn gần hai sào nữa.
-Tôi ráng bữa nay là gác cày.
 -Mửng này đói vẫn hoàn đói, chưa chết là may - tiếng hương Bổn lầu bầu không ăn nhập gì tới sự quan tâm cày nhanh chậm.

Dự nghe mà không trả lời, cầm chui cày, nhịp roi lên mông đôi bò. Cả ba dựa vào nhau bước tới. Bước tới để hít mùi bùn đất dậy lên gây gây trong buổi sáng tinh mơ. Tiếng chân bò thả bì bõm trong nước. Đôi chân anh cũng thả bì bõm trong màn nước ngậm bóng đêm lạnh ngắt. Thỉnh thoảng những bước chân bước hụt xuống lỗ đất hẹp thấp làm nước ruộng bắt vọt lên mặt, lạnh ngắt. Nhưng cái lạnh ấy khiến anh cảm thấy có chút yên ổn rằng mình đang còn cử động, hơi thở vẫn còn phụt ra hai lỗ mũi, tim vẫn còn đập, dẫu biết rằng đó là giả tạm. Lưỡi cày găm vào đất, xới lên thành vồng tỏa ra thứ mùi thơm nồng đặc biệt. Đó là mùi bùn đất lưu cửu tổ tiên để lại cho con cháu bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu và xương. Cái mùi ấy đã thấm sâu vào da thịt dân làng này. Họ biết vậy. Biết và hàm ơn nên ông bà lớp trước mới xây một ngôi đình khang trang để thờ người mở đất…

Đó là ngôi đình thờ thành hoàng. Ngôi đình rộng mênh mông từ bao đời, bỗng nhiên, chỉ trong một buổi sáng, nó biến thành nơi hội họp của hợp tác xã theo lệnh của ai đó ở trên. Họ nói thờ cúng là mê tín dị đoan. Với lại đất đai là của nhà nước, của nhân dân chớ không của riêng một kẻ nào, không có ông thành hoàng nào mở đất cả!

Lệnh rớt xuống như lưỡi dao bén chém ngang thân chuối. Cái lệnh ấy khiến đám thanh niên lóc chóc hò la xông vào, gỡ những tấm nghi khậu, liễng đôi ném xuống đất như thể chúng đang đánh nhau với kẻ thù. Đám khác chia nhau ôm cờ phướn, đèn thờ, trống, phèn la… vất vào gian lẫm phía sau chái. Vật tế tự, từ khí nằm vương vãi, lăn lóc như xác địch quân sau trận chiến ác liệt. Máu không chảy thành vũng, nhưng những mạng nhện lòng thòng có vẻ như những mảnh tim gan phèo phổi của tổ tiên rớt ra từ những vật tế lễ kia. Phút chốc ngôi đình trống hoác. Bức hoành phi với mấy chữ đại tự sơn son thếp vàng, mới đây còn uy nghiêm trên thanh xà gian giữa, giờ nằm chổng chơ trên nền đất lạnh.

Dự đi ngang qua, tình cờ cong người nhìn vào và chợt thấy, rùng mình như hồi nhỏ từng chứng kiến cảnh tiêu thổ kháng chiến. Ông gạt những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán và những giọt nước mắt chực chảy ra, quay lui ra phía kiệt tre và đụng mặt ngay cô Lại đang bước tới, người bạn chận bò thuở thiếu thời. Lại cười khẩy, rít lên:
-Anh tiếc mấy thứ giẻ rách kia hả, cứ vào lấy mang về nhà. Tôi cho đấy!
Dự liếc mắt nhìn cô, nghĩ thầm: Không ngờ con Lại của mười mấy năm về trước nay thay đổi thiệt nhanh chóng. Cô lạnh lùng, tàn nhẫn… vụt bay ra từ cái nhìn nhọn sắc và hàm răng khít rin, thù hận. Dự suy nghĩ mãi, không hiểu tại sao cô lại làm như vậy? Một đứa con gái như bao cô gái khác trong làng, cần mẫn với ruộng vườn, bếp núc; cũng cười đùa hể hả với đám bạn mỗi khi có dịp đùm túm với nhau. Vậy nhưng sau cái đêm cô biến mất khỏi làng, “sau một thời gian dài không tung tích, nó đột ngột quay về trong đêm, tập hợp dân làng hô hào nổi lên diệt ác ôn đánh Mỹ cứu nước - Cha Dự chậm rãi cất giọng lào khòa kể lại - Nó răn đe mọi người sẽ bị xử trị đích đáng nếu tiếp tay cho địch. Nói xong nó bắn một phát súng thị uy rồi biến mất trong đêm tối một cách đột ngột như lúc đến”. Giờ thì Lại quay về, lãnh đạo cả xã, cả làng phá sạch những thứ mà Lại gọi là tàn dư, là rác rưởi của đế quốc và tay sai để lại. Mấy ngôi miễu thờ cô hồn là nạn nhân đầu tiên; ngôi chùa nhỏ cuối làng cũng không thoát khỏi số phận hẩm hiu… Rồi nay tiếp đến ngôi đình này. Không biết cô còn nghĩ ra những gì khác nữa để tiếp tục đập phá cho hả lòng căm thù?

Những khi cô ra lệnh như vậy, Dự tự hỏi, có giây phút bất chợt nào đó, Lại nhớ về cái đêm trăng non sang tiết lập thu? Đêm mà cô háo hức xô ngã Dự lọt qua bờ rào chiêm chiêm, phóng theo đè lên người Dự. Mảng da thịt âm ấm của cô gái mười bảy phủ chụp lên khắp người thằng nhóc con là Dự đang bước vào tuổi dậy thì, khiến nó run rẩy với những khoái cảm sững sờ. Lại sờ soạng, bấu riết, hôn lên mặt mũi, lột truồng nó ra, giống như lúc bị xô ngã qua hàng rào chiêm chiêm rồi biến nó thành đàn ông khi mới mười ba! Đêm trăng non trong tiết lập thu vĩnh viễn để lại trên người Dự vết sẹo của nỗi hoang mang, sợ hãi cuộn tròn lại như những đợt sóng lớn nhỏ đập mãi vào bờ đá. Những ngày đi lính, gặp phụ nữ Dự sợ còn hơn đang lúc đánh trận. Đêm đầu tiên gần vợ, Dự cong người lại y như lúc ngã qua bờ rào. Nỗi sợ hãi chập chờn trôi nổi bềnh bồng như túm rác trôi trên con kênh đen quánh… Lại, dưới con mắt Dự là hiện thân của những tội lỗi rực rỡ chồng chất thành những vệt lân tinh trong khu rừng ẩm ướt mỗi lúc hành quân, trên chiếc giường tre có cô vợ bé nhỏ nằm bên cạnh và ngay cả khi thả chân xuống mặt ruộng trắng nước. Tiếng bước chân của chính Dự vang lên bì bọp, òn ọt khiến Dự luôn có những cái rùng mình bất ngờ…
Dự vãi mồ hôi giữa buổi tinh mơ lạnh ngắt.

Đôi bò thong thả kéo chiếc lưỡi sắt nhọn lật tung những dề đất phía dưới, còn Dự thì miên man suy nghĩ xa gần trên chuôi cày. Ba sinh linh bé nhỏ giữa đất trời cao rộng này bơi vòng vòng quanh đám ruộng hợp tác xã, giống con vịt bơi trong ao tù.

Cày đâu hơn hai rõng đất thì trời sáng rõ. Lát sau cu Lớn lơn tơn xách giỏ cơm đặt trên bờ ruộng gọi lớn: “Cha ăn cơm con về đi học!”. Dự ngoái lại nhìn thằng con ốm nhách, cao như cây sậy, trong lòng gợn lên nỗi cồn cào không hình dạng. Hồi nhỏ, anh có đâu như vầy. “Ừa, để đó”. Dự la lớn và hình như tiếng la đó rớt cái tõm xuống ruộng nước. Cu Lớn đã lên tới bờ mòn, cắm cúi bước thật nhanh về phía làng.

Dự cày giáp vòng, đến gần phía bờ đặt rổ cơm, anh dừng lại, rút náp cho lưỡi cày găm sâu xuống đất (giống như người ta thắng xe) hô “dọ, dọ…” để đôi bò dừng lại rồi gát roi lên bắp cày, thủng thỉnh bước lên bờ.
-Anh Năm ơi - Dự kêu lớn - nghỉ vào ăn cơm cái đã.
-Ăn đi. Tôi ăn cơm nguội ở nhà rồi.
-Thì nghỉ uống nước cái đã. Xong sớm tôi qua cày giúp anh mấy đường - Dự nói cho có nói chứ trong bụng biết tỏng hương Bổn chưa có hột cơm nào trong bụng. Mấy tháng nay vợ bệnh, con đau số lúa dự trử cứ vơi dần, lấy đâu cơm sáng cho ông đi cày? Đến viên thuốc cũng không có, thay vào là những viên xuyên tâm liên từ hiệu thuốc nhân dân đắng ngắt trị bá bệnh thì bệnh nào qua khỏi!

Hương Bổn dừng bò, kẹp chiếc roi cày vào nách bước về chỗ Dự đang ngồi.
-Cái đời tôi - hương Bổn khọt khọt trong cổ họng để đẩy cục đờm vướng víu đâu đó, khạc ra, nhổ phẹt xuống mặt nước ruộng - lúc nào cũng đen đủi, bắt thăm trúng đôi bò cày của con mẹ Chánh ốm nhách, gioongs như đồ như lao, thúc mấy cũng không mập lên. Người ta cày cả sào thì nó lê lết chưa được phân nửa. Mẹ đời, tôi muốn trả lại cho hợp tác quá trời, ngặt nỗi trả lại thì lấy gì mà sống đây. Đã bị phân vào tổ cày bừa rồi. Còn phần ruộng chú thấy đó, nó là cái ao thì đúng hơn, phải bơi để cấy…

Dự nghe giọng nói hùn hụt gần như đứt hơi, cảm thấy chạnh lòng:
-Anh Năm, kệ mẹ đời, anh ăn chút cơm rồi hẵng cày. Chòm xóm với nhau anh khách khí làm gì.
-Tôi đã nói, ăn rồi. Chú biết tánh tôi mà?
Nói dứt câu, hương Bổn thở phì phì như chính ông kéo cây cày nặng trình trịch thay đôi bò và tiếp tục bơi trong đám ruộng ao của mình.
-Thôi anh, để hôm nào họp tổ, anh em xúm nhau đưa đơn xin đổi đôi khác cho anh.
-Đổi ai? Đâu có đôi nào “rề dẹt” mà đổi. Thiệt ngán. Tôi muốn giao lại, nhưng nhìn đàn con lít nhít thấy không nỡ. Mẹ đời. Cách với chả mạng. Trước tôi đâu đến nỗi khổ vầy. Bao nhiêu ruộng vườn ép vào hết hợp tác, thành của người khác, của nhân dân, mình trắng tay. Mẹ cứt, nhân dân là cặc chó gì không biết nữa!
-Thôi đi anh Năm ơi. Đại nạn là chung cho cả bầy người lúc nhúc, đâu riêng gì anh em mình? Hè, làm chén cơm cho nóng rồi xuống cày tiếp.
Hương Bổn xua tay:
-Ăn rồi. Cơm nguội từ hôm qua cứng như sạn cũng cố mà nuốt. Chú mày ăn đi, tao uống miếng nước, không thấy đói.  Nói và ông giở ấm chén rót ra uống đánh ực một hơi rồi lần vô túi áo rút gói thuốc rê ra vấn. Điếu thuốc to bằng ngón tay cái quấn bằng giấy vở học trò tách đôi ra như người ta lóc phần da và thịt con cá lóc. Hương Bổn kẹp điếu thuốc lấm lem mực viết. Điếu thuốc cứ rung rung giữa hai ngón tay như chính nó đang lên cơn sốt.

Dự chần chừ một lúc mới giở tấm lá chuối đậy trên rổ cơm vừa ái ngại nhìn người hàng xóm, cảm thấy như mình là kẻ có tội với cha con hương Bổn. Dự biết là ông chưa có hột nào trong bụng, nhưng nài ép chút nữa có nghĩa là làm nhục ông ta, bèn dùng tay nhón lấy chút cơm lẫn trong những miếng sắn mì, vón thành cục nhỏ chấm muối é cho vào miệng, nhai nhỏn nhẻm. Dự cũng không hơn gì hương Bổn, có điều đỡ gánh nặng gia đình, chỉ phải nuôi đứa con duy nhất. Vợ Dự còn khỏe, vào tổ đan đát, mỗi ngày kiếm cũng vài trăm gam lúa. Cả hai chắt mót, tùng tiệm cũng đủ xoay xở. Chỉ tội hương Bổn. Con đông quá, cả hai vợ chồng vật lộn với ruộng đồng cũng không đủ miếng ăn.

Dự đậy tấm lá chuối lại, hỏi xin điếu thuốc. Hương Bổn ngó sững Dự:
-Sao không ăn. Chú tội nghiệp tôi hả?
-Dạ không, anh Năm. Tự dưng hết muốn nuốt. Làm ăn kiểu này đến lụn bại mất. Anh nhớ mùa rồi, tụi thằng Cạnh thằng Sang giấu lúa hột kéo về nhà? Chúng nó là đội trưởng, đội phó đấy. Lại nghe nói tay chủ nhiệm và tay thủ kho tuồn mấy tấn ra chợ đen. Bị bể ổ, nhưng chúng tự biết dán miệng nhau thành ra êm xuôi, chẳng có thằng xã viên nào dám hó hé.
-Đấy, mình xỏ miệng vô thì trước sau cũng bị gán phản động.
-Tôi vẫn ức vụ ngôi đình.
-Ức thì chú làm được gì?
-Đúng là không làm được gì. Nhưng cái mặt con Lại đấy, từ đất nẻ chui lên chắc?
-Tôi biết nó thù chú mà? Mấy lần chú giải thích nhưng nó đâu có nghe, phải không?
-Giải thích gì anh ơi. Tôi chỉ nói là nếu cần hung thì dọn dẹp đồ thờ tự sang một góc để làm tạm hội trường, chớ có đập phá, tội. Kẻ hậu sinh cũng phải nhớ công lao người đi trước. Tôi nói chỉ có  vậy mà cổ kêu tôi là kẻ phá hoại. Anh coi có oan tôi không?

Hương Bổn kéo một hơi thuốc thật dài, phà khói bay thành mảng trên mặt nước:
-Chuyện dâu biển, nay dời mai đổi, biết đâu mà lường, chú ơi.
Hai người chuyện vãn một lát rồi đứng lên, trở lại cầm chuôi cày.

Những dề đất lật qua một bên láng tưng như thoa một lớp mỡ. Những con sáo nâu, cò xám sà tới tranh nhau những con trùn nước, cắn mổ la chí chóe. Chúng đậu thật gần, chỉ cần hươ củ roi là đụng ngay, nhưng Dự không làm vậy. Nó cũng đang tìm miếng ăn như bọn anh mà. Anh không để ý đến lũ cò sáo, cắm cúi cầm chắc chuôi cày, cốt cho thật nhanh để ngày mai theo bọn thằng Xanh lên núi hái ít gánh củi về dự trử cho mùa mưa bão sắp tới. Cày bừa xong giao đất cho tổ gieo sạ coi như yên một bề, tìm thêm chuyện mà làm, đâu có thể nằm chờ mấy công điểm mọn?

Nắng lên cao, thu ngắn bóng người cày và đôi bò về một phía. Còn một rõng nhỏ nữa là xong, có thể qua bên hương Bổn cày giúp ông ta vài đường, nhưng tiếng ví thá bên kia ruộng sao nghe cứ nhỏ dần, bước chân và đường cày như một dòng nước yếu bị cản lại không thành tiếng lõm bõm như lúc trước. Dự ngó qua. Đôi bò chệnh choạng dựa vào bắp cày bước thật chậm. Hình như cả hương Bổn cũng bước chậm. Dự La lên:
-Anh Năm mệt lên bờ ngồi nghỉ. Tôi cũng sắp xong. Để đó tôi qua cày giúp cho.
Tiếng Dự bay đâu đó trên không, không thấu tai hương Bổn. Hình như ông ta đuối hung rồi. Dự “dọ” bò dừng lại, bước vài bước về phía ruộng hương Bổn đang cày, nhưng chưa tới bờ đã thấy hương Bổn khụy xuống, tay vẫn nắm chặt chuôi cày làm cho nó nghiêng hẳn về một bên.
Dự hớt hải la lên:
-Anh Năm, anh Năm… làm sao vậy? Có bị sao không?

Lúc Dự tới nơi thì hương Bổn ngồi khụy xuống ruộng nước, mặt tái xanh. Dự luồn hai tay qua nách đỡ ông đứng lên:
-Anh có sao không?
Hương Bổn không mở được miệng chỉ lắc lắc đầu, nhưng cái lắc rất yếu. Dự hiểu tất cả. Ông bị lũi đói. Từng ấy miếng cơm độn ít ỏi từ chiều qua thì còn sức đâu để cày với bừa? Dự khom người thấp xuống quàng tay hương Bổn lên vai rồi du dần vào bờ, đặt nằm trên lớp cỏ lởm chởm. Dự lấy chiếc nón ngựa kê đầu, rót nước ra chén và vạch miệng đổ từng hớp nhỏ:
-Ít thôi nghe anh Năm, từ từ. Mà anh cũng thiệt lạ. Chòm xóm với nhau, ăn chút cơm ghé có gì là ghê gớm Tôi biết bụng anh trống nhưng không dám nài ép sợ anh giận. Thôi, cứ nằm nghỉ cho khỏe rồi mở bò. Tôi cũng mở. Mai tôi ra quanh mấy đường xong ngay. Chớ lo, anh Năm.

Nhưng Dự nói cho chính tai mình nghe vì đôi mắt hương Bổn đã nhắm nghiền, bên khóe ứa ra chút nước sền sệt. Ông không còn nghe và thấy gì nữa. Dự hoảng hốt thọc tay vào ngực người bạn cày hàng xóm, lạnh ngắt. Dự bàng hoàng, khóc ồ lên như nỗi uất ức lúc bị đẩy qua bờ rào chiêm chiêm, đè nén lại thành cục u nhỏ đầy gai nhọn, bấy lâu nay có dịp vỡ bung ra.

Hai đôi bò vẫn đứng yên tại chỗ. Bóng nắng thu tròn, nhỏ lại quanh hai người./.

Tuesday, October 23, 2012

LAN ĐÀM * NĂM CHỮ


 
TRĂNG, EM

luong truong tho


Từ đêm em là trăng
Ta nghìn khuya vọng nguyệt
Xa cách mãi cung Hằng
Sao lời nguyền tha thiết

*
Từ đêm em là trăng
Ta mở đời đã khép
Ở dạ khúc mênh mang
Có trăm cơn mê đẹp

*
Từ đêm em là trăng
Ta thèm đôi môi ngọt
Trong vòng tay thênh thang
Ấm tình yêu chất ngất

*
Từ đêm em là trăng
Ta quên ngày phiêu bạt

LAN ĐÀM

*

MẬT NGỌT, EM



Em mật ngọt giữa đời
Ta rong chơi vừa mỏi
Ly rượu đầy chưa vơi
Tiệc giao bôi đã vội

Em xõa tóc mây trời
Ta lạc đường chín cõi
Ở cuối nẻo luân hồi
Con tim lên tiếng gọi

Em môi hồng trùng khơi
Ta thuyền quên bến đợi
Gọi gió cho mộng trôi
Môi hôn còn mê mải

Em mở vòng tay mời
Ta ngập ngừng muốn hỏi

LAN ĐÀM

*

EM , CHIỀU VÀ SÓNG


 
thanh tri


Ta chiều nghe sóng vỗ
Vòng tay ấm vừa lơi
Tóc thiên thần lộng gió
Hải âu cánh rã rời

Ta chiều nghe sóng vỗ
Bờ môi mọng gọi mời
Gối chăn đầy hương cũ
Thuyền nhớ khói trùng khơi

Ta chiều nghe sóng vỗ
Bãi xưa buồn chưa nguôi
Mưa cuối mùa bỡ ngỡ
Núi tím lạnh mấy trời

Ta chiều nghe sóng vỗ
Biển rồi xa, tình ơi

LAN ĐÀM

Nguyễn Đức Nhơn * Nhớ Quê















Tàn thu buồn nhớ quê hương
Nhớ con dốc nhỏ em thường thường qua
Nhớ vầng ráng nắng chiều pha
Nhớ đàn cò trắng bay, và nhớ em.

Tàn thu con phố im lìm
Bỗng dưng nhớ tiếng chim bìm bịp kêu
Bỗng dưng nhớ buổi cơm chiều
Dưới giàn hoa lý gió dìu dịu đưa

Tàn thu ngồi ngó vu vơ
Ngó con dốc nhỏ nằm chờ xe qua
Bỗng rưng rức nhớ quê nhà
Nhớ bầy đom đóm lập lòe đêm đông

Tàn thu ngồi nhớ hương đồng
Nhớ bờ tre tiếng chim còng cọc kêu
Nhớ đêm nghe tiếng sáo diều
Nhớ hàng so đũa lá đìu hiu rơi…

Nguyễn Đức Nhơn

Sunday, October 21, 2012

Văn Quang * Đấu tranh cho dân bị lãnh “đòn thù”

 
 
Theo chủ trương của TP Hà Nội, 115 gia đình khu nhà gỗ nguy hiểm phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm đã chuyển về các tòa nhà tái định cư tại thị trấn Cầu Diễn, huyện Từ Liêm. Nhưng suốt 6 năm qua, hàng trăm người dân vẫn không được hưởng nguồn nước sạch.
Văn Quang

Câu chuyện tôi sắp kể với bạn đọc sau đây chỉ là thứ “chuyện nhỏ tí tẹo ở thôn xóm”, nhưng thật ra nó phản ảnh tình trạng của cả nước. Bởi ở đâu người dân ở bất kỳ nơi nào cũng có thể “lãnh cái búa tạ” này của mấy ông ở cái Ủy Ban Nhân Dân (UBND) địa phương. Chuyện xảy ra ngay tại Hà Nội, vậy ở những nơi xa xôi thì còn biết bao chuyện đáng nói hơn nữa. Suy từ chuyện nhỏ tí tẹo này, có thể thấy những nguyện vọng chính đáng của người dân được các cấp chính quyền nhân dân “xử lý” ra sao.

Hàng trăm gia đình dân phải dùng nước nhiễm độc Asen
Theo chủ trương của TP Hà Nội, 115 gia đình khu nhà gỗ nguy hiểm phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm đã chuyển về các tòa nhà tái định cư tại thị trấn Cầu Diễn, huyện Từ Liêm. Nhưng suốt 6 năm qua, hàng trăm người dân vẫn không được hưởng nguồn nước sạch.
Theo lời của các gia đình dân khu tái định cư B3, B4, B5 thuộc tổ 22 thị trấn Cầu Diễn gửi đến báo chí, cho biết: Hiện 115 gia đình dân, với khoảng 500 người, già trẻ lớn bé, đang phải sống trong những điều kiện thiếu thốn, đặc biệt là nguồn nước hàng ngày bị nhiễm bẩn gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Trong suốt 6 năm qua, đại diện khu dân cư đã nhiều lần gửi đơn thư lên chủ đầu tư, cùng các cơ quan chức năng TP. Hà Nội nhưng đều không được giải quyết những yêu cầu chính đáng.
Cho đến lúc này, nguồn nước sinh hoạt cung cấp cho các gia đình khu nhà B3, B4, B5 vẫn là nước giếng khoan không được xử lý theo đúng quy chuẩn. Theo kết quả xét nghiệm được anh Lê Trung Kiên cung cấp, ngày 15-5-2012, Phòng Công Nghệ Điện Hóa Môi Trường kết luận hàm lượng chất Asen tại khu tái định cư vượtnhiều lần tiêu chuẩn cho phép, vi khuẩn E. coli vượt xa mức giới hạn cho phép. Hàm lượng chất nitrat là 191,6 trong khi mức cho phép chỉ là 50. Khi tìm hiểu thực tế, trạm nước cung cấp nước sinh hoạt đến các gia đình dân khu tái định cư Cầu Diễn chính là trạm nước do Công ty Cổ phần tư vấn đầu tư xây dựng và phát triển đô thị đầu tư phục vụ cho dự án xây dựng.

Kêu thì cứ kêu, sức khỏe con người vẫn bị đầu độc

Sau khi phát hiện nguồn nước nhiễm độc, đại diện khu dân cư đã nhiều lần gửi đơn kêu cứu đến chủ đầu tư và các cơ quan chức năng đề nghị cung cấp nguồn nước sinh hoạt bảo đảm cho sức khỏe người dân. Ban quản lý khu tái định cư và UBND thị trấn Cầu Diễn đã nhiều lần họp để ghi nhận ý kiến người dân, Công ty nước sạch thành phố cũng cam kết cung cấp nước sạch cho 115 gia đình dân tái định cư Cầu Diễn vào cuối năm 2011. Tuy nhiên, cho đến nay những lời hứa này vẫn chưa thành hiện thực, còn sức khỏe của người dân đang bị “đầu độc” hàng ngày.
Không chỉ ô nhiễm về nguồn nước sinh hoạt, hệ thống thu gom rác thiết kế cho khu nhà B3, B4, B5 cũng là điều khiến cho hàng trăm cư dân lo lắng. Theo ghi nhận thực tế, nhà tái định cư B3 không được thiết kế hệ thống thu gom rác khiến người dân phải tự mang xuống đổ như hình ảnh thường thấy ở các khu tập thể cũ có tuổi thọ 20 - 30 năm. Những tòa nhà được lắp đặt hệ thống lại không có người thu gom thường xuyên khiến không khí luôn trong tình trạng ô nhiễm, thậm chí bốc mùi nồng nặc vào các ngày nắng nóng.

Người kêu cứu bị trả thù
Ông Hoàng Tiến An, thành viên Tổ bảo vệ dân phố, chính là người đại diện cho dân, đứng tên đơn kêu cứu gửi đến các cơ quan chức năng và báo chí phản ảnh nguồn nước bị nhiễm độc cùng những nguy hại vệ sinh môi trường xuất phát từ công tác quản lý kém của chính quyền và chủ đầu tư. Đặc biệt, ông còn là người tích cực cung cấp thông tin cho báo chí trong loạt bài viết về sự việc này đồng thời chỉ rõ sự tắc trách, chối bỏ trách nhiệm của Công ty Cổ Phần tư vấn đầu tư xây dựng và Phát triển đô thị Hà Nội.
Ông An được hầu hết ngưởi dân đánh giá là người tốt bụng, thẳng thắnđược bà con lối xóm tôn trọng, ông tham gia tổ bảo vệ dân phố nhiều năm nay. Ông còn là người luôn đi đầu trong công tác xã hội của khu dân cư.

Bỗng dưng bị “đá” ra khỏi tổ bảo vệ
Khi vấn đề nước sạch đang được cơ quan chức năng giải quyết, ngày 24-9-2012 vừa qua, Chủ tịch UBND thị trấn Cầu Diễn Trần Mạnh Hùng bất ngờ ký quyết định miễn nhiệm số 427/QĐ - UBND đối với vị trí nhân viên Tổ bảo vệ với ông Hoàng Tiến An mà không đưa ra lý do chính đáng.
Đánh giá về quyết định miễn nhiệm của thị trấn Cầu Diễn đưa ra với ông Hoàng Tiến An, ông Nguyễn Thanh Tự, Trưởng nhà B5 cho rằng đó là việc làm thiếu thuyết phục: “Ai làm cũng có sai sót, nhưng chúng tôi thấy ông An là người có trách nhiệm nhất trong số các thành viên tổ bảo vệ nên việc miễn nhiệm là không thuyết phục. Trong khi đó những vấn đề an sinh cấp thiết như nguồn nước, vệ sinh, thang máy tại các tòa nhà thì không được chính quyền giải quyết.
Tuy khi sau đó, trao đổi với báo chí, ôngNguyễn Văn Hách – Phó Chủ tịch UBND thị trấn Cầu Diễn (huyện Từ Liêm, Hà Nội) có nêu lý do ông An nhiều lần vi phạm quy định trong khu dân cư như… đá bóng dưới lòng đường!?
Một nguyên nhân khác rất đáng để dư luận bất bình, nghi ngờ về “động cơ” của Quyết định 427. Đó là thời gian qua, ông An đã đại diện cho hàng trămgia đình dân tòa nhà B3, B4, B5 và dân cư các khu vực xung quanh thuộc tổ 22 thị trấn Cầu Diễn, huyện Từ Liêm gửi đơn kêu cứu khẩn cấp đến các cơ quan chức năng trình bày về việc Công ty CP Tư vấn đầu tư xây dựng và Phát triển đô thị Hà Nội cung cấp nước nhiễm bẩn cho 115 gia đình.

Phải chăng đó là “đòn thù”, bịt miệng nhân dân
Những câu hỏi của người dân và báo chí nêu lên với UBND Cầu Diễn:
- Vì sao một người tốt bụng, được nhân dân tôn trọng, tin cậy và đã tham gia công tác này từ nhiều năm nay lại “bỗng dưng” bị miễn nhiệm đúng vào thời điểm được coi là “nhạy cảm”, khi ông tích cực phản ảnh về tình trạng nước ô nhiễm?
- Có hay không việc UBND Cầu Diễn khó chịu trước những phản ảnh chính đáng của nhân dân nên ra “đòn thù” và thậm chí, đã bị doanh nghiệp biến thành “công cụ” để “trả thù”, “bịt miệng” công dân?
- Đặc biệt là cần làm rõ nguyên nhân ông An bị “đòn thù” có phải do cung cấp thông tin cho báo chí. Bởi nếu như vì thông tin cho báo chí mà ông An bị trả thù thì sự việc không hề đơn giản, nó là tiền đề đặt sự “đối đầu” giữa một bên là chính quyền với một bên là người dân và báo chí.
Hàng trăm ý kiến của người dân bày tỏ sự phẫn nộ về việc này. Xin nêu vài ý kiến tiêu biểu:
- Bạn Lê Tiến Sỹ bày tỏ: “họ sợ dân nói thẳng nói thật, ông An lại là người như vậy nên họ muốn loại bỏ ông An để họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn...”
- Bạn Huy Hoàng, viện dẫn pháp lý hiện hành, phải khởi tố công ty vi phạm: “Thực tế, ông Hoàng Tiến An là thành viên tổ bảo vệ dân phố lại bị miễn nhiệm (tức là cho nghỉ việc) vì đứng ra bảo vệ cho dân phố. Vậy, xin hỏi chính quyền UBND thị trấn Cầu Diễn là bổ nhiệm thành viên tổ bảo vệ dân phố để làm gì, hay là chỉ để bảo vệ chính quyền... doanh nghiệp. Trong trường hợp này, thực tế, chính quyền UBND thị trấn Cầu Diễn không còn là chính quyền của nhân dân nữa, mà chính quyền của doanh nghiệp, thay vì UBND là UB doanh nghiệp thì đúng hơn”.
Vì, miễn nhiệm ông An là đồng nghĩa với việc đứng về cái sai của Doanh nghiệp cấp nước, bảo vệ cho Công ty CP Đầu tư xây dựng phát triển đô thị Hà Nội (HACID, số 69 Quán Thánh). Dư luận thật sự bất bình với Công ty CP Đầu tư và phát triển đô thị Hà Nội, bởi vì Công ty này biết nhưng vẫn cung cấp nước nhiễm độc tố (Asen, Nitrat, Ecoli, Colifom...) cho người dân. Đúng lý, họ phải bị khởi tố vì tội theo điểm c, khoản 1, điều 186 Bộ luật hình sự với hành vi “Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người”. Cấp nước biết rõ là chứa nguồn bệnh, nguy hiểm, độc hại, nhưng gần 7 năm qua vẫn cấp cho dân ăn uống, gây ra bệnh ung thư, viêm đại tràng, đường ruột... Chúng tôi khẩn thiết đề nghị cơ quan chức năng vào cuộc để làm rõ trách nhiệm của Công ty CP Đầu tư và phát triển đô thị Hà Nội (HACID) và cá nhân liên quan.
- Bạn Bạch Dương tiên đoán… như thần: “Quá rõ ràng còn gì. Không những ông An bị miễn nhiệm, mà sau này ông và gia đình sẽ còn rắc rối lôi thôi khi có việc gì cần giải quyết ở cửa quan. Rõ là đấu tranh thì... tránh đâu”.
- Bạn Vũ Anhnêu một thực tế khác: “Một lần xin xác nhận độc thân để lấy vợ mà còn phải phong bì với trưởng thôn (xóm) của 1 thôn (xóm)! Việc cỏn con thế còn tiền, huống chi là những việc lớn!”.
Vâng, chán thật!
Sự “đối đầu” này một cách công khai hay ngấm ngầm đang là một thảm họa của người dân thấp cổ bé miệng ở khắp nơi, chứ chẳng riêng gì ở xã Cầu Diễn. Cho nên, nêu lên chuyện này không hề nhỏ. Đôi khi sự “trả thù dân” còn thâm độc, tàn ác hơn nhiều dẫn đến đổ máu, khiếu kiện, thù hằn dai dẳng, mà phần thiệt tất nhiên về phía người không có quyền, không có tiền, nhất là không có thân thế với nhà quan. Xin hãy nghe nhận định ngắn gọn của bạn Thanh Long, kết luận về tình trạng này ở các địa phương:
“Chuyện thường ngày ở huyện đó mà, các bác chính quyền chỉ muốn người dân thấp cổ bé họng đừng có xen vào công việc riêng của chúng tôi. Còn thuế thì cứ phải đóng đầy đủ để chúng tôi tiêu sài vào những việc mà người thấp họng bé cổ không cần biết... thật chán!”
Vâng, chán thật!
Cần phải có sự thanh tra sâu rộng, phải đi sát với nguyện vọng chính đáng của người dân. Các quan trên đừng đi xe “ô tô con” về địa phương để được đón tiếp linh đình, nghe các cấp dưới kể lể thành tích, quan trên ban vài câu chỉ thị cũ rích lòng thòng, sau đó dự liên hoan rồi “dông tuốt”, chẳng hiểu gì về dân tình khốn khó ra sao. Như thế thì nguyện vọng chính đáng của người dân chẳng bao giờ được đáp ứng đến nơi đến chốn, mong gì có đời sống khá hơn.

Hãy nhìn cách “phục vụ nhân dân” của một công sở

Hiện tượng sau đây cũng không phải là “cá biệt”. Nó thường xảy ra ở khá nhiều nơi, chỉ người dân biết, cấp trên không biết hay có biết cũng “đánh chữ đại xá”, nói cho đúng “phe lờ” luôn.
Chưa hết giờ làm việc nhưng cả Sở Công Thương tỉnh Vĩnh Long vắng hoe. Phần lớn “cán bộ” ở đây đều đang tham dự một buổi nhậu “hoành tráng” với khoảng 20 bàn.
Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 14-9, một số người dân đến làm việc hoặc chứng giấy tờ ở Sở Công Thương tỉnh Vĩnh Long bất ngờ khi thấy các phòng ban nơi đây khóa cửa im ỉm, cả bảo vệ cũng không có dù chưa hết giờ làm việc (theo quy định giờ làm việc buổi chiều là từ 13-17 giờ).

Toàn thể “cán bộ” bận đi nhậu
Thấy sở không bóng người, một người dân tên Châu đến xin giấy tờ đã gọi điện thoại cho cán bộ ở Sở Công thương và được người này hẹn giải quyết công việc vào thứ hai tuần sau. Rất may, ông Châu được hận hạnh gặp được một cán bộ ở sở đi về trong tình trạng ngà ngà saycho biết: “Hôm nay, cả cơ quan đi ăn nhậu tại Hội quán Ngân Vinh trên đường Phạm Thái Bường (phường 4, TP Vĩnh Long). Tiệc bắt đầu lúc 15 giờ 30, giờ bọn họ còn trong đó”.
Khi đến quán nhậu Ngân Vinh, thì được biết đây là tiệc nhậu ăn mừng cuộc chuyểngiao chức vụ giữa Giám đốc sở Công thương cũ là ông Hồ Văn Huân và tân Giám đốc Nguyễn Minh Tho. Tiệc tổ chức rất linh đình với khoảng 20 bàn, các khách mời được chiêu đãi toàn bia lon Heineken. Dân đứng ngoài nhìn, thèm nhỏ dãi.

Chức sắc phường ăn nhậu, đánh bạc và đánh lộn ngay tại trụ sở
Chưa hết, ngày 4-10 vừa qua tại một trụ sở “hoành tráng” của một địa phương khác, các “quan xã” còn chơi bạo hơn. Ông Lê Văn Thanh (48 tuổi), Phó chỉ huy quân sự phường Hàm Rồng (TP Thanh Hóa) cho biết, 12 giờ 40 ngày 4-10, các cán bộ phường rủ nhau ra quán thịt chó uống rượu. Sau chầu nhậu, ông và một số lãnh đạo phường rủ nhau lên phòng làm việc ở tầng 3 trụ sở ủy ban để đánh bài ăn tiền.
Buổi “liên hoan” có sự tham gia của ông Dương Tất Thành, Bí thư Đảng ủy; Lương Trí Thanh, Phó Bí thư Đảng ủy phường; Trịnh Xuân Tính, Phó chủ tịch HĐND phường; Lê Văn Quyết, Trưởng quân sự phường; Dương Đình Long, Phó chủ tịch Hội Nông dân; Lê Duy Đạo, Bí thư chi đoàn. Coi như gồm toàn “lãnh đạo chóp bu” của phường đều hào hứng góp mặt.
Theo tố cáo, trong khi chơi, do nghi ngờ ông Thanh "đóng nước" (tức lá góp tiền ăn uống) thiếu, ông Lê Văn Quyết chửi bới và xông vào đánh ông Thanh. Ông Thanh kể. “Tưởng mọi người sẽ can ngăn, ai ngờ ông Thành cùng một số người khác xông vào đánh đấm tôi túi bụi. Bị đánh hội đồng và bất ngờ, tôi không thể chống cự".
Trận đòn hội đồng khiến ông Thanh phải nhập viện với nhiều vết thương trên người. Bà Trần Thị Thanh Hà (vợ ông Thanh) đã gửi đơn tố cáo những người có liên quan, nhờ cơ quan chức năng can thiệp.

Giải quyết ra sao?
Ông Dương Đình Huệ, Chủ tịch UBND phường Hàm Rồng cho biết, việc ông Thanh bị đánh tại trụ sở cơ quan là có thật. Phường đã làm báo cáo gửi UBND thành phố và đang giao công an xác minh.
Ông Huệ nói: “Tôi đã chỉ đạo công an phường xác minh, điều tra. Nếu đúng là có chuyện đánh bạc tại trụ sở thì thật tồi tệ, đặc biệt cán bộ của Ủy ban lại tham gia nữa thì cần phải xử lý nghiêm”.
Lại bài ca “sẽ xử lý nghiêm”. Không biết những trụ sở hoành tráng ở địa phương khác, tiền của dân bỏ ra xây dựng cho thật oai, thật đẹp, còn có những trò giải trí liên hoan nào hấp dẫn hơn thế nữa không?
Làm quan ở địa phương sướng thật.
 
VQ