văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Thursday, January 26, 2012

PHẠM TÍN AN NINH * Trời Đất Bao La




Định cư ở Na Uy hơn ba năm, sau khi ổn định công việc làm ăn và việc học hành cho mấy đứa con, tôi tổ chức một chuyến Âu du bằng xe hơi. Chiếc xe Ford của tôi vừa cũ kỹ vừa nhỏ, không thể nào vượt qua một chặng đường trên dưới mười ngàn cây số khứ hồi, và dĩ nhiên cũng không đủ chỗ cho một gia đình lớn nhỏ tám người. Lại nghe mấy người bạn tới trước hù, bảo là trên xa lộ Âu châu vào mùa hè, chạy một cái xe cũ có thể bị giữ lại giữa đường và nộp tiền phạt vì cái tội làm trở ngại giao thông. Tôi mướn một cái xe mới toanh mười hai chỗ ngồi, có máy lạnh và kính mát đàng hoàng. Tôi không muốn bất cứ điều gì làm mất cái hứng thú cho cuộc hành trình đầu tiên của chúng tôi trên những đất nước mà trước đây tôi đã từng một thời mơ ước nhưng chẳng bao giờ nghĩ là có một ngày được đi qua. Tôi và đứa con trai lớn vừa mới đủ tuổi lấy bằng lái xe, thay nhau làm tài xế. Bà xã và cô con gái lớn chịu trách nhiệm xem bản đồ và theo dõi lộ trình.

Tuần lễ đầu tiên, chúng tôi rất thích thú khi đi qua những vùng đất xa lạ, mà ngày trước tôi chỉ biết mơ hồ qua sách vở. Sau một ngày, băng qua hai đất nước hiền hòa Thụy Điển, rồi Đan Mạch, chúng tôi sang Hamburg, thành phố lớn cực bắc của Tây Đức. Thời gian này nước Đức còn chia đôi, nên vừa mới đến ranh giới là không khí đã căng thẳng. Cảnh sát với súng ống dầy người, trông mặt người nào cũng đằng đằng sát khí làm tôi nhớ tới hình ảnh của Hitler trong bộ phim dài chiếu mỗi tuần trên truyền hình Nauy. Vừa mới thoát ra cảnh chiến tranh tù đày ở quê nhà, lại được định cư tại một quốc gia ban phát giải Nobel Hòa bình, tôi không muốn phải ngộp thở trên quê hương của ông Hitler, nên sau khi qua khỏi Frankfurt, tôi rẽ sang Hòa Lan. Một đất nước mà tôi nghe như huyền thoại: nằm dưới mặt nước biển trung bình, có một con đập dài nhất thế giới, cũng là một xa lộ băng qua biển. Chạy xe trên con đập này, tôi cứ ngỡ mình đang lái tàu chạy giữa biển khơi. Xứ sở của hoa Tulip, với vườn hoa lớn và đẹp nhất thế giới, những chiếc quạt gió cùng những con kênh đào thơ mộng.

Ở thủ đô Amsterdam, có một nơi dành cho những người nghiện đến nhận thuốc phiện miễn phí của chính phủ; nguyên cả một khu phố lớn dọc theo bờ sông thơ mộng lại là một khu dành cho mấy cô gái điếm đủ sắc dân. Đây là một cơ sở kinh doanh, có đóng thuế cho nhà nước, nên dược cảnh sát bảo vệ. Trước mỗi nhà là một cái tủ kiếng, bày hàng thật cho khách bốn phương chiêm ngưỡng. Hàng thật là một hay hai cô gái thoát y 90%, dĩ nhiên phải là đẹp, đứng như những pho tượng nữ thần Hy lạp. Chúng tôi ghé thăm gia đình mấy ngưòi bạn cùng quê, sống rải rác khắp nơi. May mà đất nước Hòa Lan này không rộng lắm, lái xe từ bắc xuống nam chỉ mất khoảng bốn tiếng đồng hồ. Dừng lại nhà một người bạn ở Bergen op Zoom, thành phố biển phía nam chúng tôi tha hồ ăn sò huyết và những con "hàu". Mấy loại này ở đây chỉ cần lội xuống biển mười phút là mang lên cả thùng nướng ngay tại chỗ. Hôm sau, chúng tôi sang Bỉ, Lục Xâm Bảo, và cuối cùng chúng tôi đến Pháp.

Điểm đến cuối cùng cũng là nơi quan trọng nhất mà chúng tôi muốn đến. Tôi dành một nửa thời gian, hai tuần lễ còn lại, cho cái xứ sở mà lúc còn nhỏ, khi học lịch sử thì tôi thù ghét, nhưng khi học văn chương thì tôi lại mê thích nó. Nào là tháp Eiffel bên dòng sông Seine tình tự, nào là nhà thờ Notre Dame cổ kính mà tôi mơ hồ thấy trong phim Thằng Gù ở nhà thờ Đức Bà, nào là vườn Luxembourg, nơi hẹn hò của bao cặp tình nhân. Tôi bắt gặp đâu đó những đứa trẻ trong Sans Famille của Hector Malo, những người đàn bà trong Les Misérables , và cả những bến tàu có cảnh tiễn đưa trong Oceano Nox của Victor Hugo. Chúng tôi ở trong khách sạn của một người Hà Nội, sang Pháp lập nghiệp từ hơn 50 năm trước. Khách sạn nằm trên con phố chính trong quận 13, nơi có đông ngưòi Việt Nam sinh sống. Hơn một tuần ở Paris, chúng tôi xuôi về miền Nam nước Pháp. Thành phố Nice nằm bên bờ Đại Tây Dương, gần thành phố Cannes nơi qui tụ những tài tử điện ảnh hằng năm, và không xa đất nước Monaco với những sòng bài và những chuyện tình nóng bỏng của mấy nàng công chúa. Mười ngày nằm trên thành phố biển này, tôi tạm quên những bất hạnh trong quá khứ và những gì đang xảy ra trên quả đất có quá nhiều phiền muộn này.

Rời Nice, chúng tôi trở lại Paris trước khi về Nauy. Trời mùa hè đang nóng, bà xã và mấy cô con gái của tôi đề nghị chạy ban đêm, vừa cho mát vừa được ngắm những thành phố rực rỡ trong ánh đèn. Nhìn trên bản đồ, tôi thấy trên đường đến thành phố Lyon, mình có thể dừng lại Grenoble rồi rẽ sang Genève của Thụy Sĩ,, xem thử nơi đã cho ra đời cái hiệp định làm khốn khổ quê hương mình ra sao. Như được trở lại thời trận mạc xa xưa, tôi gọi cả bầu đoàn thê tử lại để ban bố " lệnh hành quân". Chúng tôi không đi theo xa lộ 85 mà chọn con tỉnh lộ nhỏ trực chỉ Grenoble. Tôi đích thân xem bản đồ hướng dẫn cho cậu con trai làm tài xế. Rời Nice lúc 7 giờ tối. Sau hơn ba giờ từ "tuyến xuất phát", tôi mới biết là mình đã sai lầm khi xử dụng con đuờng tắt này. Vì chúng tôi bắt đầu chạy qua một khoảng rừng và những đồng lúa mì mênh mông, không thấy một bóng người.

Đang mơ màng thì nhìn thấy phía đầu xe bốc khói. Tôi ra dấu cho đứa con trai dừng lại, bảo cả nhà xuống xe gấp. Khói trước xe vẫn còn bốc lên mờ mịt. Tôi tái mặt , vì bao nhiêu năm nay, từ lúc còn ở Việt nam cũng như sang đây, ngoài việc cầm vô- lăng và đổ xăng ra tôi có biết gì về xe cộ nữa đâu. Chờ cho khói tan hết và rờ vào nắp xe thấy không còn nóng, tôi mở nắp xe lên bảo cậu con trai rọi đèn pin vào máy nhìn thử. Đến đường cùng thì làm như phản xạ tự nhiên vậy thôi, chứ tôi có biết cái gì trong máy đâu mà xem. Nhìn quanh một chập, tôi cảm giác có điều gì lạ lạ. Cuối cùng tôi mớí phát hiện là sợi dây cu-roa không còn nữa. Nước trong bình đã bốc hơi không còn một giọt. Thấy tôi xách đèn pin trở lại, bà vợ và đám con gái đang nằm trên bờ cỏ ruộng lúa mì, ngồi bật dậy. Nghe tôi ra lệnh " đóng quân tại vị trí " vì xe hư không biết khi nào mới chạy được, bà vợ xỉ vả cho tôi một trận, bảo hèn chi ngày xưa ông đánh giặc thua là phải, đừng có đổ thừa tại tụi Mỹ nó phản bội bỏ miền Nam.

Tôi bảo đám đàn bà con gái lên xe nằm và khóa cửa lại cẩn thận, vì biết đâu khu này có thú dữ. Đàn bà coi dữ vậy chứ nhát gan, ríu rít tuân lệnh. Tôi và thằng con trai đi vòng vòng xem có nhà cửa gì không. Nhưng tất cả đều tối om, tĩnh mịch. Đến gần một giờ sáng, khi tôi đang nằm mơ màng trên ruộng lúa, thì nghe có tiếng động. Dường như là tiếng của một loại động cơ nào đó, càng lúc càng gần hơn. Một lúc sau, tôi thấy có ánh đèn từ khu ruộng lúa chay ra. Một chiếc máy cày. Ai đi cày ruộng vào giờ này ? Chưa kịp tìm câu trả lời cho thắc mắc của mình, chiếc máy cày đã dừng lại trước mặt tôi. Qua ánh đèn xe, tôi thấy một người đàn ông trẻ, có lẽ là người Pháp, bước xuống tiến lại phía chúng tôi. Cử chỉ anh ta không phải là một người gian. Tôi yên tâm. Anh hỏi chúng tôi bằng tiếng Pháp, anh nói từng chữ vì sợ chúng tôi không hiểu:

- Chắc là xe các anh bị hư ? Có cần tôi giúp điều gì không?

Lúc còn đi học, Pháp văn là sinh ngữ chính của tôi. Vậy mà lâu quá không xử dụng, tôi hiểu tiếng được tiếng mất, vừa trả lời vừa ra dấu :
- Xe tôi bị đứt dây cu-roa, khô hết nước, không chạy được nữa.
- Các anh ở tỉnh nào tới ?
- Chúng tôi từ Nauy sang, chứ không phải ở Pháp. Trên đường từ Nice về, thì xe bị hỏng.


Anh bảo bây giờ đã khuya rồi, nhà anh cũng ở gần đây, anh sẽ giúp chúng tôi kéo xe về nghỉ tạm, rồi ngày mai sẽ tính..Tôi mừng rỡ gật đầu. Anh ra dấu cho tất cả chúng tôi lên xe. Chiếc máy cày kéo xe và chúng tôi chạy lòng vòng chỉ khoảng 10 phút thì về đến nhà. Trời tối, tôi không thấy gì ngoài mấy cái nhà khá lớn nằm dưới những tàng cây. Anh đưa chúng tôi vào một gian phòng rộng, mang thêm vài tấm nệm và mấy cái mền mỏng. Một chập sau anh lại mang vào bánh mì, phô- mát, và một ấm cà phê nóng, rồi chúc mọi người ngủ ngon. Lạ nhà, nhưng có lẽ vì mệt quá, nên khi chúng tôi thức dậy thì trời đã sáng tự lúc nào. Kim của chiếc đồng hồ lớn treo trên tường chỉ 8 giờ 10 phút. Mở cửa sổ nhìn ra ngoài, tôi mới biết đây là một nông trại khá lớn. Chưa kịp gọi bà vợ và mấy đứa con dậy xem, thì có tiếng gõ cửa. Anh bạn trẻ tốt bụng tối hôm qua đến dắt tôi chỉ khu nhà tắm, nhà vệ sinh, rồi dặn tôi khoảng 45 phút nữa, anh sẽ trở lại đón chúng tôi ăn sáng. Ngồi vào bàn ăn, anh giới thiệu vợ và hai đứa con nhỏ. Cô vợ khá xinh, vui vẻ, lúc nào miệng cũng cười, vừa nói vừa làm dấu với mấy đứa con gái của tôi.

- Các anh là người Việt Nam ? Anh ta vừa bưng tách cà phê vừa hỏi.
- Nhưng làm sao anh biết được vì ở bắc Âu cũng có nhiều người Tàu, người Đại Hàn , người Thái Lan và cả người Nhật nữa? Tôi không trả lời mà hỏi ngược lại anh.

- Tôi không nói được nhưng hiểu một ít tiếng Việt. Bà ngoại tôi là người Việt Nam mà. Mẹ tôi cũng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Lúc còn sống bà nhớ Việt Nam lắm và thường kể cho chúng tôi nghe những thắng cảnh bên ấy. Đặc biệt, bà thường nhắc đến một thành phố có tên là Đà Lạt. Bà bảo nơi đó thật thơ mộng và có những nơi hò hẹn thật dễ thương cho những cặp tình nhân. Tội nghiệp, bà mới mất hơn hai năm nay, trong một tai nạn xe hơi cùng cô em gái duy nhất của tôi.

Ăn điểm tâm xong, anh đưa chúng tôi vào thăm phòng đọc sách. Một tấm bản đồ Việt nam thật to treo trên vách. Anh chỉ cho chúng tôi thành phố Đà Lạt mà mẹ anh thường kể cho anh và cô em gái nghe mỗi lần bà nhớ về quê mẹ.

Càng lúc chúng tôi càng thấy gần gũi và thân thiết với gia đình anh bạn trẻ có một chút gốc gác Việt Nam này. Anh bảo vợ anh đưa chúng tôi đi thăm khu nuôi bò sữa và vắt đem về vài lít sữa tươi để chúng tôi dùng thử, trong khi anh lấy xe chạy ra phố tìm mua sợi giây cu-roa để thay cho xe chúng tôi. Mấy cô con gái của tôi rất thích thú khi được cô chủ nhà chỉ cho cách vắt sữa bò. Sau đó chúng tôi vào thăm một vườn nho.

Khi trở về, thì anh ta đã sửa xong cái xe và đang cho máy nổ thử. Thấy chúng tôi, anh cười đưa ngón tay cái lên báo hiệu là xe đã tốt. Anh tắt máy xe và giao chìa khóa lại cho tôi. Tôi chưa kịp trả tiền sợi giây cu-roa và nói lời cám ơn thì anh đã vỗ vai mời chúng tôi ở lại chơi với gia đình anh vài hôm. Anh bảo là lâu lắm anh mới gặp được những người đến từ quê ngoại. Thấy ông bà chủ hiếu khách, phong cảnh ở đây hữu tình, lại có sẵn sữa tươi và rượu nho, bà xã và mấy cô con gái cười nheo mắt nhìn tôi. Tôi hiểu ý và nói với anh là chúng tôi chỉ có thể ở lại một đêm. Trưa ngày mai chúng tôi phải lên đường.

Ăn cơm chiều xong, trời dịu mát, anh đề nghị chúng tôi đi thăm khu vườn cam nằm trên ngọn đồi. Vào vườn cam chúng tôi có cảm tưởng như lạc vào một chốn thiên thai nào đó. Những hàng cam thẳng tắp, trĩu vàng những quả, mùi hoa cam tỏa ra thơm cả một góc trời. Giữa vườn cam là một công viên nhỏ, trồng đủ các loại hoa. Bên kia công viên, ngay giữa đỉnh đồi là khu nghĩa trang nhỏ của gia đình. Vợ chồng anh mời chúng tôi đến thăm mộ của ba má anh và cô em gái. Ba ngôi mộ xây đơn giản, nhưng lại có nét đẹp cổ kính. Trên mỗi mộ bia đều có một tấm ảnh lồng trong khung kiến. Đến trước từng ngôi mộ, tôi cung kính cúi đầu, chấp hai tay trước ngực và đọc thầm từng tên khắc đậm trên bia..

Khi đọc đến tên người mẹ :

JACQUELINE CUVÉRO GAULTIER

- tôi bỗng giựt mình. Cái tên này tôi thấy quen lắm. Bà mất lúc tròn 50 tuổi. Nhìn tấm ảnh thật lâu, tôi nghĩ đến một người.

Khi về nhà, tôi ngỏ ý muốn xem những tấm ảnh lúc cha mẹ anh còn trẻ. Anh bạn chủ nhà mang đến cho chúng tôi mấy quyển album. Bà xã và mấy cô con gái thì tranh nhau xem quyển album lúc ông bà làm đám cưới và nức nở khen mấy cái áo của cô dâu. Riêng tôi dành lấy tập album cũ với những tấm ảnh đen trắng mà nhiều cái đã ngã màu vàng. Bỗng tôi lạnh người khi xem những tấm ảnh của mẹ anh thời con gái, đặc biệt là tấm ảnh có mái tóc cắt ngắn giống ca sĩ Sylvie Vartan thời cô ta đang nổi tiếng. Chẳng lẽ lại là nàng ? - Không thể nào ! Tôi lắc đầu nói thầm trong miệng.

Năm học lớp đệ nhất trường Võ Tánh, Nha Trang, dù học không giỏi nhưng tôi cũng cố gắng để được trở thành một thằng sinh viên, dù chỉ là loại sinh viên hạng bét, và cũng để khỏi phụ lòng thương yêu, lo lắng của cha tôi, suốt một đời làm gà trống nuôi con. Vậy mà tôi bị một lúc hai cái tai ương. Tự dưng có một nàng con gái, mà lại là con gái đẹp, yêu tôi. Đang ngụp lặn trong tình yêu thì ông Trời phạt tôi: phận nhà nghèo mà lại đèo bồng yêu người đẹp, nên giáng cho tôi một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Vì vậy khi bạn bè vác lều chỏng đi thi, thì tôi đang nằm bất động ở nhà thương tư của bác sĩ Thạch ở đường Trần Quí Cáp. Ba tháng sau, khi vừa xuất viện về tiếp tục điều trị tại nhà, tôi nhận được bức thư tạ từ. Người đẹp đi lấy chồng. Tôi bỏ thành phố Nha Trang, bây giờ với tôi là thành phố buồn, vào Sài gòn lang thang kiếm việc làm thuê để có tiền đi học tiếp. Nhưng rồi cũng chẳng có ai chịu thuê một thằng thư sinh nhà quê như tôi. Vừa buồn vừa không có tiền trả tiền cơm cho bà Cả Đọi, tôi đăng vào lính.

Khi chân ướt chân ráo vào Sài gòn, tôi chẳng có ai quen, ngoài một bà cô họ xa, trước lấy chồng Tây. Chồng chết, bà ở với mấy đứa con mang hai dòng máu ở sau khu tiệm phở Tàu Bay, Tàu Thủy, trên đường Lý Thái Tổ. Tôi không ngờ trong khu này đa số là những gia đình có con lai Pháp, trắng có đen có, được tòa đại sứ Pháp cưu mang lo lắng từ việc sinh sống tới việc học hành. Hầu hết đều mang quốc tịch Pháp và được theo học ở các trường Tây Sài gòn, Đà lạt. Những ngày cuối tuần tôi thường ghé lại đây chơi. Đang cô đơn ngơ ngác thì được mấy người con của bà cô họ giới thiệu cho tôi nhập bầy với đám Tây lai này. Họ cũng dễ thương và dĩ nhiên là có phong cách Tây lắm. Chiều cuối tuần họ thường tụ tập để ăn uống và nhảy đầm. Anh con cả của bà cô họ tôi là trưởng nhóm, chỉ định một cô bé tóc vàng, có mái tóc ngắn và đôi mắt thật dễ thương dạy tôi nhảy đầm và cũng làm partner cho tôi khi có tiệc tùng. Nghe mọi người trong nhóm gọi cô là Sylvie Vartan, tôi cũng gọi theo, nhưng biết vì khuôn mặt và mái tóc của cô giống người ca sĩ Pháp đang được ái mộ này nên bè bạn gọi đùa, chứ đó không phải là tên thật của cô.

Chỉ đi chơi với nhóm một vài lần gì đó, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Hôm lễ gắn Alpha, thấy anh em mời thân nhân bạn bè nhiều quá, tôi cũng tủi thân. Gia đình tôi và một số bạn bè thân ở tận Nha Trang, còn ở Sài Gòn này thì tôi tứ cố vô thân. Cuối cùng tôi nghĩ đến ba người con lai Tây của bà cô họ và mời họ đến dự lễ gắn Alpha, rồi sau đó cùng đi dự tiệc với tôi. Hôm ấy cả ba người đều đến và còn dẫn theo nàng con gái Sylvie Vartan. Họ rất thích thú với khung cảnh quân trường và sinh hoạt của lính. Ai cũng chụp chung với tôi một tấm ảnh có mang cầu đai Alpha.

Sau đó, trong những lần về phép ngắn ngủi, tôi cũng có ghé thăm họ một đôi lần. Đêm ra trường, họ cũng đến dự. Sau đó đưa tôi về Sài gòn, họ làm một buổi tiệc chia tay tôi. và lần này tổ chức tại nhà cô gái có tên Sylvie Vartan. Gia đình cô không ở trong khu Lý Thái Tổ mà có một biệt thự riêng, khá xinh, nằm trên một con hẻm lớn trên Tân Định.

Tôi không gặp ai trong gia đình của cô hôm ấy, chỉ xem tấm ảnh người cha ruột của cô chụp với mẹ cô khi còn rất trẻ, và cả tấm ảnh chụp gia đình cô bây giờ, với ông cha Việt Nam, một người em gái cũng lai Tây như cô và hai người em nhỏ cùng mẹ khác cha. Mẹ cô có nhan sắc, nên ông chồng mới sau này thuộc loại nhà giàu. Tôi nghĩ như thế.

Tới hơn hai giờ sáng, tiệc mới tàn. Khi nói lời chia tay, không hiểu vì xa họ không biết khi nào gặp lại hay vì nghĩ đến đời lính chiến nay mai trên rừng núi cao nguyên mà tôi chạnh lòng, muốn khóc. Nàng cũng nhìn tôi nghẹn ngào. Khi mọi người đi tìm áo khoác và mang giày, nàng kéo tôi ra phía sau, tặng tôi một tấm ảnh, rồi bất ngờ hôn tôi trên má.

Ngồi trên máy bay ra trình diện đơn vị, tôi bất chợt nhớ đến nàng, mở xách tay ra tìm lại tấm ảnh. Nàng có mái tóc thật dễ thương, nhìn kỹ đúng là giống cô ca sĩ Sylvie Vartan. Sau tấm ảnh nàng viết một câu ngắn ngủi: À toi, avec tout mon coeur. Phía dưới cô chỉ ghi là người có mái tóc Sylvie Vartan.

Nhớ tới nụ hôn bất ngờ tối hôm qua, tôi đưa tay lên sờ má, thấy vẫn còn thoang thoảng một mùi hương. Tôi mỉm cười và nói thầm một mình: Đúng là lãng mạn như Tây. Tôi ra đơn vị đúng vào lúc chiến trưòng cao nguyên bắt đầu sôi động, cùng lúc nhóm người Thượng Fulro nổi loạn, giết một số sĩ quan, viên chức hành chánh người Kinh, chiếm một vài nơi, đặc biệt là tỉnh Quảng Đức và một vài quận lỵ. Đơn vị tôi đang tiếp viện cho chiến trường Quảng Nhiêu còn mịt mờ lửa đạn ở bắc Ban Mê Thuột thì được lệnh di chuyển về phi trường Phụng Dực, xử dụng máy bay dân sự của hàng không Việt Nam để đáp xuống Nhơn Cơ, một phi trường bỏ hoang nằm cách tỉnh lỵ Quảng Đức khoảng 30 cây số, do một đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt mũ xanh của ta kiểm soát. Thằng trung đội trưởng mới ra trường như tôi làm sao có khả năng để ứng phó với một chiến trường nửa ta nửa địch, mà trong sách vở quân trường không hề nói tới. Lòng tôi thật băn khoăn. Nhưng cuối cùng thì mục tiêu cuộc hành quân Dân Thắng này cũng đạt được. Đơn vị tôi không hề tốn một viên đạn. Mấy lãnh tụ người Thượng thấy quân chủ lực bao vây bốn hướng, cộng với lời thuyết phục tài ba của vị chỉ huy nào đó, đã ra lệnh cho những lực lượng người Thượng buôn súng.

Nằm trong cái tỉnh khỉ ho cò gáy mà dân chúng sống rải rác trong các buôn làng hầu hết là người thượng, mấy thằng lính trẻ như tôi chỉ có buồn muốn khóc. Ai cũng mong sớm chuyển đi tỉnh khác Vậy mà riêng tiểu đoàn của tôi được lệnh nằm lại đây để giữ an ninh cho dinh điền Đạo Nghĩa nằm trong một thung lũng gần biên giới Cam Bốt. Một trong những dinh điền do Thổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh sáng lập để thu hút di dân sau 1954.

Ra trường đã hơn hai năm. Đời lính cao nguyên thật là vất vã và buồn. Nhiều lúc nằm giữa rừng già, nghe tiếng chim kêu vượn hú, tôi thường chạnh lòng nhớ tới thời còn đi học , và khuôn mặt những người quen. Đôi khi tôi cũng chợt nhớ tới cô con gái lai Tây và lấy tấm ảnh ra xem. Đến bây giờ tôi cũng không biết tên thật của nàng. Mà biết để làm gì? Vì giữa nàng với tôi là cả một thế giới cách biệt. Tôi, một thằng lính trận, gốc gác nhà nghèo, không biết sống chết ra sao. Còn nàng lại là một cô con gái lai Tây, xinh đẹp và quí phái. Nàng quen với tôi , thích tôi một chút, cũng là cái thích lãng mạn của một tiểu thư sống trong thành phố lâu ngày được bất ngờ ra thăm một vùng dân giả, thế thôi.

Ở Quảng Đức gần hai năm, đánh nhau một vài trận, tôi được mấy cái huy chương rồi lên làm đại đội trưởng. Trong mấy thằng đại đội trưởng, tôi là thằng trẻ nhất, và cũng nghèo kinh nghiệm chiến trường nhất. Ra trường gần hai năm rồi mà trông mày vẫn cứ như thư sinh. Ông tiểu đoàn trưởng bảo tôi như thế trước khi cho tôi dẫn đại đội solo xuống núi biệt phái cho tiểu khu Lâm Đồng

Đoàn xe chở đại đội tôi vừa vào ranh giới Lâm Đồng, tôi nhận lệnh ông tiểu khu trưởng, trực chỉ đến khu cầu Đại Ngà để giữ an ninh cho công binh làm lại mấy cây cầu trên QL 14, từ Saigòn chạy lên Đàlạt, vừa bị đặc công giựt sập trong hai đêm trước. Đến vị trí, tôi phối hợp với một đại đội địa phương quân đã có mặt tại chỗ và một đơn vị công binh mới từ Đà Lạt xuống, bố trí quân theo nhu cầu. Riêng ban chỉ huy đại đội cùng trung đội vũ khí nặng, nằm trên một đồn điền trà có cao độ tốt cho việc phòng thủ và yễm trợ hỏa lực. Phía duới khu đồn điền này là cây cầu Đại Ngà, cây cầu dài nhất vừa bị phá hoại. Sau khi công binh làm xong mấy cái cầu tạm, lưu thông họat động trở lại. Do ứ động mấy hôm trước, nên ngày đầu tiên có khá nhiều xe đò từ Sài Gòn chạy lên Đà Lạt. Hơn nữa bây giờ đang là mùa hè, người Sài Gòn rủ nhau lên Đà Lạt nghỉ mát. Để bảo đảm an ninh, trước khi xe chạy vào khu quân sự, đều phải dừng lại, tất cả hành khách xuống xe để được kiểm soát giấy tờ. Trạm kiểm soát là một căn nhà bằng ván do công binh vừa mới dựng lên, toán quân báo của đại đội tôi phối hợp cùng với ba nhân viên cảnh sát đảm trách. Mỗi ngày tôi lái xe đi kiểm tra các cây cầu và thường ghé lại ngồi nghỉ trong trạm kiểm soát này.

Buổi chiều, trời vừa tắt nắng, tôi định trở về vị trí đóng quân, thì một đoàn xe đò chạy tới. Có lẽ đây là mấy cái xe cuối cùng từ Sài Gòn lên. Anh cảnh sát bảo với tôi như thế. Trong số những hành khách xuống xe bước qua cái cổng chắn làm bằng kẻm gai dã chiến, tôi để ý tới một cô gái tóc vàng, mặc một cái jupe màu vàng sậm. Khi cô móc ví lấy giấy tờ, ngước mặt lên nhìn anh cảnh sát, tôi thấy thật quen và vội chạy ra. À, cô Sylvie Vartan, cô lên đây làm gì ? Tôi hỏi bất ngờ, rồi quay sang bảo anh cảnh sát ; cô này là người nhà của tôi. Anh cảnh sát trao lại cho tôi tấm thẻ căn cước bằng tiếng Tây mà anh chưa kịp hiểu.

Cô nhìn tôi cười rạng rỡ :
- Anh là anh Ninh, phải không ? Mấy năm rồi tụi mình không gặp. Em lên Đà Lạt đón cô em về Sài Gòn nghỉ hè. Nó học trên Lycée Domaine de Marie.
- Tôi đóng quân trong đồn điền trà nằm trên đồi cao kia.
Tôi vừa nói vừa chỉ tay về hướng đồn điền
- Đẹp lắm, và ông chủ hình như cũng là người Pháp. Mời cô ghé lại chổ tôi chơi. Tôi sẽ đón chuyến xe sau gởi cô về Đà Lạt.

Cô ngần ngừ một chút rồi gật đầu. Tôi đưa cô lại xe lấy túi hành lý và nói với anh tài xế :
- Cô này là người nhà của tôi, cô ở lại đây chơi với tôi rồi lên Đà Lạt sau.
Anh tài xế trẻ, nhìn tôi nhoẻn miệng cười.

Tối hôm ấy nàng ở lại với tôi. Có lẽ nàng cũng biết là chuyến xe của nàng là chuyến cuối cùng. Chẳng còn có chuyến sau nào để tôi gởi nàng lên Đà Lạt , như lúc tôi hăm hở nói với nàng, mà không biết là mình đang nói dối. Giữa cảnh núi rừng, nàng đẹp rực rỡ như một bông hoa. Không biết nàng đã nói gì vơí ông chủ người tây, ông dành riêng cho cô một phòng ngủ và mời chúng tôi dùng bửa cơm chiều với ông. Bửa cơm đầy đủ hương vị tây , mà chai rượu chát ông khoe đã gởi mua từ bên Pháp. Sau bửa cơm, tôi đưa nàng đi dạo trong đồn điền trà. Bây giờ đang là mùa hè, bầu trời trong vắt, ánh trăng tỏa ánh vàng xuống cả một đồi trà. Đêm cao nguyên trời bắt đầu lành lạnh, thơ mộng như một muà thu. Chúng tôi nắm tay nhau bước tung tăng dưới ánh trăng , nghe từng nhịp đâp của trái tim giữa một vùng đất trời tĩnh mịch. Nàng kể cho tôi nghe về một ước mơ của nàng : muốn có lần trở về quê cha, thăm ngôi mộ của người và bà nội già còn đang sống ở đó với mấy người cô. Quê nội nàng đẹp lắm lại là một đất nước với nhiều thi ca lãng mạn. Chúng tôi đã xuống cuối chân đồi, nghe tiếng nước chảy từ một con suối nhỏ. Nàng bảo tôi dừng lại và dìu tôi đến ngồi xuống một bải cỏ. Bên kia con suối là một cánh đồng cỏ rộng mênh mông - Anh có thấy gì lạ không ?

Tôi đang ngơ ngác, thì nàng chỉ cho tôi mấy hàng cây bên kia bờ suối
- Bây giờ là mùa hè, mà sao có nhiều lá vàng đang rơi. Anh không thấy sao?

Nàng âu yếm dựa sát vào tôi và hỏi tôi có biết bài thơ Les feuilles mortes của Jacques Prevert không ?

- Lúc học Littérature Francais , anh có học, nhưng lâu quá, anh chỉ còn nhớ một đôi câu. Bài thơ thật hay và cảm động. Tôi đã đổi cách xưng hô tự lúc nào không biết. Nàng cất tiếng khe khẻ hát bài thơ Les feuilles mortes được phổ nhạc. Hát xong bài hát nàng chậm rãi đọc lại mấy câu:

Et la vie sépare ceux qui s'aiment
Tout doucement, sans faire de bruit
Et "le vent" effface sur la "plaine"
Les pas des amants désunis.

Tôi hỏi sao nàng dám đổi lời một bài thơ hay của tác giả. Nàng không trả lời mà ôm tôi hôn thật lâu. Trong say mê tôi cảm thấy có cái gì lành lạnh trên gò má. Tôi sờ tay lên mân mê: nước mắt. Nàng ôm tôi ngồi khóc, nàng bảo là nàng có nhiều bạn bè, nhưng nàng có cảm tình thật nhiều với tôi từ khi nhìn tôi mặc áo lính. Nàng thấy ở tôi có cái gì khác lạ so với mọi chàng trai lai Pháp mà nàng quen. Và cũng ở nơi tôi nàng được thấy lại hình ảnh của cha nàng. Cũng làm lính cả một thời trai trẻ, rời quê hương, rồi chết sớm ở xứ người bỏ lại mẹ và hai chị em nàng. Những người con gái mang hai dòng máu. Buồn lắm phải không anh ? mấy lần nàng hỏi tôi như thế. Đêm hôm ấy nàng không ngủ trong căn phòng sang trọng mà ông chủ đồn điền đã dành sẵn cho nàng. Nàng ra ngồi trong căn lều phủ poncho của tôi cùng uống trà tươi mà tâm sự thâu đêm. Nàng rủ tôi ngày mai cùng nàng lên Đà Lạt vài ngày để nàng làm thủ tục đón cô em gái về và đưa nàng đi thăm các thắng cảnh thơ mộng ở đây. Sáng hôm sau, tôi lên máy gọi về trung tâm hành quân TK Lâm Đồng xin gặp ông Tiểu Khu Trưởng, xin ông cho ba ngày phép và được xử dụng chiếc xe jeep của TK biệt phái, đón người vợ sắp cưới vừa mới lên Đà Lạt. Tôi tả oán thêm là cả một năm nay, phải tham dự nhiều cuộc hành quân, nên hai đứa chưa được gặp nhau. Ông Tiểu Khu trưởng tốt bụng, vui vẻ chấp thuận, và dặn dò tôi phải bàn giao công việc thật kỹ càng cho anh đại đội phó. Ba ngày ở Đà Lạt là ba ngày thần tiên nhất trong đời lính của tôi. Sau khi đưa nàng đến trường thăm cô em gái và làm một số thủ tục cần thiết, chúng tôi lấy phòng ở khách sạn La Palace nằm trên một ngọn đồi cao gần hồ Xuân Hương và cách khu phố Hòa Bình không xa lắm. Ban ngày chúng tôi đi tắm ở thác Cam Ly, thăm hồ Than Thở, cỡi ngựa ở sân Cù, bơi thuyền trên hồ Xuân Hương. Buổi tối đi ăn bê thui, uống rượu vang, rồi ra nhà Thủy Tạ ngồi tâm tình đến khuya. Ngày hôm sau, chúng tôi rời thành phố. Sau khi thưởng thức cà phê Tùng, chúng tôi chạy về hướng thác Prenn. Nàng chỉ đường cho tôi tìm đến một hotel nằm trên núi, ông chủ cũng là một người Tây. Lấy phòng và gởi hành lý xong, chúng tôi đi bộ xuống thác Prenn, nằm không xa phía dưới. Nàng kéo tôi xuống tắm dưới dòng thác. Hai đứa ôm nhau trong cái lạnh của nước từ trên núi cao đổ xuống. Nàng dắt tôi chạy vào khu rừng phía sau để đùa với mấy con khỉ, con gấu và cả một con cọp nữa trong vườn bách thú. Rồi nàng đi trốn, giả vờ làm nàng Jane mắc nạn để bắt tôi làm Tarzan đi cứu. Nàng hò la và ôm tôi cười vang cả một khu rừng. Trong ba ngày, nàng đã cho tôi tất cả những gì hạnh phúc nhất mà không đòi hỏi ở tôi bất cứ một điều gì. Hôm cuối cùng, tôi đưa nàng trở lại trường Domaine de Marie để gặp lại em nàng. Ngồi trên xe, nàng trầm ngâm không nói một lời. Đến cổng trường, nàng bảo tôi dừng lại. Nàng hôn tôi thật lâu. Tôi nghe tiếng nàng khóc. Tôi định nói một lời gì đó, nhưng nàng lấy một ngón tay để trên miệng tôi, không cho tôi nói, rồi bảo tôi ngồi yên trên xe chờ nàng. Hơn hai mươi phút sau nàng chạy ra, cầm tay tôi và trao cho tôi một tờ giấy nhỏ, rồi vụt chạy vào phía sau trường. Trên mảnh giấy nàng viết vội vàng bằng tiếng Việt: Xin cám ơn và tạm biệt anh ở đây. Em và đứa em của em sẽ về Sàigòn vào sáng sớm ngày mai. Anh hãy trở lại đơn vị, đừng chờ và cũng đừng tìm em nữa. Hôn anh. Tôi vội vàng bước xuống xe, chưa biết gọi nàng bằng tên gì, thì nàng đã mất hút phía sau trường. Tôi ngồi trên xe nhìn thẩn thờ vào khu trường. Tất cả đều vắng lặng, chỉ nghe một vài tiếng lá rơi từ những hàng cây đứng chơ vơ im lìm trước cổng. Tôi trở lại nhà Thủy Tạ, tìm lại bóng dáng và mùi hương của nàng. Buổi trưa, bốn bề yên lặng. Một con chim lạ, có dáng của một con hải âu, đậu xuống con thuyền bơi phía trước, kêu vài tiếng, vụt cánh bay sà xuống mặt hồ, rồi biến mất trong rừng thông. Cả một khung trời Đà Lạt nhạt nhòa trong nước mắt. Tôi không biết mình đã khóc tự bao giờ.

Tôi lái xe trở về đơn vị mang theo một nỗi buồn kỳ lạ, dường như trong lòng chỉ còn là một khoảng trống bao la. Suốt đêm hôm ấy, tôi lang thang trong đồi trà, ngồi một mình bên bờ con suối nhỏ, nhìn mấy chiếc lá vàng rơi xuống và trôi theo dòng nước, bàng bạc dưới ánh trăng. Nửa đêm tôi trở về căn lều cũ, đun đầy một ấm trà tươi mà không uống. Tôi ngủ vùi từ lúc nào không biết. Thức giấc, mặt trời đã lên cao. Tôi vội vã xách xe chạy xuống trạm kiểm soát. Ngồi suốt cả ngày hôm ấy, tôi vẫn không tìm thấy bóng dáng của nàng. Hai ngày sau, khi thay bộ đồ trận ra giặt, thò tay vào túi áo lấy mọi thứ ra, bất ngờ tôi thấy tấm thẻ căn cước của nàng, viết bằng tiếng Pháp do tòa đại sứ cấp. Tôi nhớ anh cảnh sát đã giao tấm thẻ này cho tôi hôm ở trạm kiểm soát và tôi đã quên trả lại cho nàng. Đến bây giờ tôi mới biết được tên thật của nàng: Jacqueline Cuvéro.

May mắn trong tấm căn cước có cả địa chỉ. Tôi gởi trả lại nàng tấm thẻ căn cước, viết kèm theo bốn câu thơ trong bài thơ Les feuilles mortes mà nàng yêu thích. Les feuilles mortes se ramassent à la pelle

Les souvenirs et les regrets aussi
Mais mon amour silensieux et fidèle
Sourit toujours et remercie la vie

Tôi phập phồng chờ thư hồi âm, nhưng không thấy. Tôi viết thêm vài cái thư nữa cho nàng nhưng tất cả đều biệt vô âm tín. Ba tháng sau tôi xin bảy ngày phép thường niên về Sàigon. Trước khi tìm đến nhà nàng, tôi trở lại khu đường Lý Thái Tổ thăm gia đình bà cô và rủ người anh họ cùng đi. Anh bảo là nàng cùng cô em gái đã về định cư bên Pháp hơn hai tháng nay. Không biết khi nào mới trở lại Việt Nam.

Tôi lang thang ở Sài Gòn hai ngày thì lấy xe đò về Nha Trang để thăm cha tôi. Nhưng ngày nào tôi cũng đi lang thang trên bờ biển, nhìn sóng đổ vào bờ cuốn theo tất cả mọi dấu chân mình trên cát, và nhớ đến nàng.

Tôi trở lại đơn vị, đúng vào lúc đại đôi tôi nhận lệnh rời khỏi Lâm Đồng để di chuyển về Phan Thiết, tăng phái cho Tiểu khu Bình Thuận, hành quân phối hợp với một đơn vị thiết kỵ của Hoa Kỳ vừa mới đến Việt Nam, giải tỏa mật khu Lê Hồng Phong.

Kể từ ngày ấy, trên bảng tên may trên nắp áo lính, ngay phía dưới tên tôi, có thêu một chữ nhỏ: Jacqueline, màu vàng. Mấy thằng lính bảo sao tôi lại có tên con gái. Tôi giã vờ: tại vì tao ái mộ bà vợ của Tổng Thống Kennedy.

Sáng ngày mai gia đình chúng tôi phải rời nông trại GAULTIER thơ mộng này để trở về Nauy. Vợ chồng anh chủ nhà cùng mấy cô con gái của tôi đang rượt bắt mấy con gà Tây. Anh muốn đãi chúng tôi một bũa ăn Tây truyền thống. Tôi đi lang thang khắp nơi trong khu nông trại, như để cố tìm ra những dấu tích của nàng.

Buổi chiều, khi bà xã và mấy đứa con đang ngồi ở phòng khách, say mê theo dõi một cuốn phim trên truyền hình, tôi một mình lặng lẽ ra vườn cam, rồi vào khu nghĩa địa.

Tôi ngồi trước mộ nàng rất lâu, hình dung lại hình ảnh của nàng trong những ngày cùng tôi trên đồn điền trà ở bên cây cầu Đại Ngà và tung tăng khắp nơi ở bờ hồ, thác Prenn và trong rừng thông Đà Lạt.

Một cơn gió xào xạc, mấy chiếc lá vàng trên tàng cây chầm chậm rơi xuống mộ nàng.

Tôi đưa tay sờ tấm ảnh nàng trên mộ bia, nói thì thầm trong gió :

Et la chanson que tu me chantais
Toujours, toujours je l'entendrai. !
(Và bài hát mà em đã hát cho anh nghe. Mãi mãi, mãi mãi, anh vẫn còn đang nghe đây)

Friday, January 20, 2012

HOÀNG LONG HẢI * Mùa xuân nói chuyện... mê gái


Tuổi Xuân, tuổi người


Người ta thường ví một đời người như bốn mùa xuân hạ thu đông. Vì vậy, mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, mùa của yêu đương. Từ yêu đương mà đâm ra mê thì đâu có bao xa!

Đầu đề tôi viết là mê gái, mê vợ, nhưng có lẽ nào lại không có chuyện mê trai, mê chồng. Có điều lạ, trong lịch sử cũng như trong văn học, trong đời thường, đàn ông, con trai mê gái nhiều hơn đàn bà con gái mê chồng, mê trai.

Vậy thì bây giờ, nói cái gì trước, về phái nam hay phái nữ?

Nếu nói về đàn bà, trước hết xin nhắc đến câu ca dao:


“Tay mang khăn gói sang sông,

Mẹ kêu mặc mẹ thep chồng cứ theo.”


Sự kiện nầy, không hẵn chỉ có một mình cô gái trong câu ca dao nói trên, mà hầu như gần hết cô nào, bà nào cũng vậy. Nghe theo tiếng gọi của chồng là bỏ nhà, bỏ mẹ, có khi đi không quay mặt ngó lui nữa. Thế có phải là ... mê trai???

Người con gái VN khá lãng mạn. Này nhé: “Thương nhau cởi áo cho nhau, Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.” Ở cái xã hội xưa, nặng lễ giáo mà dám cởi áo cho.. trai, huống chi đời bây giờ thì sao?

Trong lịch sử nước ta (VN), người đầu tiên mê trai là ai?

Là Công chúa Tiên Dung đấy.

Cô là con vua Hùng Vương thứ 3, đi chơi tới môt khúc sông, thấy cảnh đẹp và buồn tình lên bãi cát bên sông tắm chơi. Các con hầu vây màn, che kín cho công chúa tắm. Nước sông trong mát, thế là công chúa dội ào ào vào mình. Nước làm cát trôi đi, làm lộ ra anh chàng đánh cá Chữ Đồng Tử đang phủ cát trên mình, trốn ở dưới. Tuy hoảng hồn, như công chúa Tiên Dung cũng đủ bình tĩnh hỏi ra cớ sự. Hồi xưa trai gái gặp nhau đã khó, huống chi gặp nhau trong cảnh ai nấy cũng A-Dong và Ê-Và. Thế rồi Tiên Dung bảo đây là duyên trời định, bèn chọn Chữ Đồng Tử làm chồng, và dựng nhà ngay ở bờ sông ấy mà sống với người mới.

Nhà vua gọi, Tiên Dung không chịu về. Vua cho quân lính đến bắt, chuyện xảy ra lung tung cả lên, để rồi cuối cùng, hai người cùng bay lên cõi tiên (xem phụ lục).

Câu chuyện nầy có vài điều vượt khỏi luân lý ngày trước. Công chúa Tiên Dung tự ý chọn chồng mà không hỏi ý kiến cha mẹ, nói chi tới việc xin xỏ phép tắc. Lấy nhau mà chẳng cưới hỏi gì cả, “ba miếng trầu” cũng không là điều trái phong tục, lễ nghĩa. Cha mẹ gọi không về! Không về, nếu không phải là mê trai thì là còn cái gì nữa đây???

Người ta thường tranh cải việc người đàn bà đã mê chồng nhưng ít thấy họ thiếu thủy chung. Chuyện Dương Quí Phi chẳng hạn. Có thể Dương Quí Phi yêu vua Đường Minh Hoàng nhiều lắm chứ, yêu thêm Lý Bạch, lại yêu luôn cả An Lộc Sơn, nên mới có cái loạn An Lộc Sơn?

Bao Tự có khác chi?

Châu U Vương mê Bao Tự đến nỗi cho phóng hỏa trên núi Cam Tuyền. Thế nhưng Bao Tự có thủy chung với Châu U Vương đâu? Tây Thi của Ngô Phù Sai, lại bỏ theo Phạm Lãi sau khi ngai vàng Ngô Phù Sai sụp đổ. Còn như “con Điêu Thuyền” (tiếng gọi của mấy bà ưa đọc truyện xưa) thì quá lắm. Trong khi làm vợ Đổng Trác, lại liếc mắt đưa tình với Lữ Bố. Có người bênh vực, cho rằng Điêu Thuyền “hoàn thành xuất sắc” cái nhiệm vụ được giao đấy!


Quốc sắc Thiên hương”

(Sắc đẹp đàn bà con gái)


Văn chương không thiếu những câu tán tụng sắc đẹp đàn bà con gái.

Quốc sắc triêu hàm tửu

Thiên hương dạ nhiễm y


Có nghĩa là “Sắc nước sáng say rượu. Hương trời tối ướt áo.

Điển tích về người đẹp thì như trong Cung Oán Ngâm Khúc viết:


Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình


Câu thứ nhứt thứ nhì là “Chim sa, cá lặn”, câu thứ ba là “nguyệt thẹn, hoa nhường”. Câu cuối có nghĩa là đẹp hơn cả Tây Thi, Hằng Nga.


Nụ cười của Bao Tự hay của giai nhân làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực:

Thơ Vương Tăng Nhu vịnh người hầu yêu: “Nhất tiếu thiên kim mãi” có nghĩa là “một nụ cười nghìn lạng vàng cũng mua”.

“Nhất tiếu khuynh quốc, tái tiếu khuynh thành”. Cười một cái thì làm “nghiêng nước”. Cười lần nữa thì “nghiêng thành”, người ta thường gọi tắt là “Nghiêng nước, nghiêng thành”.


Sắc đẹp làm cho “nghiêng nước nghiêng thành” mà người đời ca ngợi, có hay ho gì đâu? Đó là thói đa tình, cái đa tình chỉ làm hư thiên hạ. Người xua họ cũng biết đấy chứ: Khuynh quốc khuynh thành vị đa tình” (Nghiêng nước nghiêng thành bởi thói đa tình)

Biết thì biết vậy mà bỏ thì không bỏ được. Thành ra, Tự cổ mỹ nữ danh họa thủy (Từ xưa người con gái đẹp đều là mối tai họa).

Cái đẹp của người đàn bà, và cái giỏi của người đàn ông gần nhau mà kết quả ngược nhau: Kinh thi có câu:


Triết phu thành thành, Triết phụ khuynh thành.

Nghĩa là: Người đàn ông giỏi dựng nên một thành trì, người đàn bà đẹp làm nghiêng đổ thành trì.


Tây Thi, Chiêu Quân, Điêu Thuyền, Dương Quí Phi


Hồi còn nhỏ, nhỏ lắm, nhà tôi ở cạnh bệnh viện Quảng Trị, tôi từng thấy một anh thanh niên bị bệnh điên. Người ta bảo anh ấy bị sa tình. Sa tình là cái gì? Là sa vào đường tình ái, rồi thất tình nên phát bệnh điên. Tôi không tin điều ấy. Nhưng khi lớn lên, đọc lịch sử, lịch sử văn học, tôi thấy nhiều người, phần nhiều là đàn ông, mê gái còn hơn bị bệnh điên nữa, yêu hay mê đến nỗi xiêu đổ thành quách, đến nỗi mất nước mất nhà thì không là điên hay sao, hay còn tệ hại hơn cả điên, hơn cả “đem tiền cho gái có đòi được không?” Mất tiền là còn nhẹ quá. Trong lịch sử, người ta còn “nặng” hơn nhiều.



Số đàn ông mê gái thì đông hơn mà cũng khủng khiếp hơn. Người ta có thể điểm mặt từng người trong sách sử:

Vua Châu U Vương mê Bao Tự chẳng hạn.


1)- Châu U Vương

nước mất nhà tan” vì Bao Tự:

U Vương nhà Tây Chu vì mê Bao Tự đến nỗi mất mạng, mất nước. Dĩ nhiên, Bao Tự là một giai nhân, tuy không được liệt vào “tứ đại mỹ nhân” của Tầu.

Trong văn học Tầu có câu “Nhất tiếu thiên kim”, có nghĩa là nụ cười đáng giá ngàn vàng cũng chưa nói hết cái tai hại của nụ cười Bao Tự. Còn như câu “Nhất tiếu khuynh quốc, tái tiếu khuynh thành” (cười làm nghiêng nước, nghiêng thành) thì cũng xứng với nụ cười Bao Tự.

Bao Tự ít khi cười, mà khi đã cười thì làm mê mẩn tâm thần ông vua nhà Chu. Vì vậy, ông Châu U vương bèn tìm cách làm cho Bao Tự vui, Bao Tự cười.


Trong Tỳ Bà Hành có câu Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước, Ngựa sắt rong, sàn sạt tiếng đao, Cung đàn lựa khúc tiêu tao, Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây là nói tới nụ cười Bao Tự. Đó là việc thứ nhất Châu U vương cho xé lụa từng cây làm cho Bao Tự cười. Tiếng lụa bị xé vang lên nghe như tiếng đàn.

Thứ hai là khói báo tin có giặc. Trong Chinh Phụ Ngâm có câu: “Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây” (Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây) là việc Châu U Vương đốt lửa trên “Phong hỏa đài”.

Phong hỏa đài là một phương tiện thông tin ngày xưa, để báo cho chư hầu biết kinh đô có giặc. Một hôm U Vương cho đốt khói lên, chư hầu tưởng có loạn kéo quân về cứu giá. Té ra đó chỉ là việc vua nhà Châu gạt chư hầu cho Bao Tự cười vui. Cái trò chơi dại dột ấy làm cho chư hầu tức giận. Về sau, khi giặc có thật, vua đốt khói trên Phong hỏa đài, chư hầu cứ nghĩ rằng vua lại gạt, nên không đem quân về, để cho U Vương nhà Chu bị giạc giết chết ở núi Ly. Bao Tự thuộc về tay rợ Khuyển Nhung, cuối cùng thắt cổ tự tận, xong một đời khuynh quốc khuynh thành.


2)- Hán Nguyên Đế giữ được giang sơn nhà Hán,

nước Tầu được yên nhờ có Chiêu Quân

Chiêu Quân còn gọi là Vương Tường, Vương Chiêu Quân, một trong “tứ đại mỹ nhân”. Cái đẹp của Chiêu Quân thuộc hàng “chim sa” trong thành ngữ “chim sa cá lặn”, Tầu gọi là “trầm ngư lạc nhạn”. Trong “Cung Oán Ngâm Khúc” có câu “Lững da trời nhạn ngẩn ngơ sa” là mượn điển tích nầy.

Sách cũ viết rằng khi Chiêu quân sang đất Hồ, ngang qua một sa mạc lớn, lòng buồn vì thân phận, vì xa quê, đang ngồi trên lưng ngựa, Chiêu quân bèn gãy bản đàn tên “Xuất tái khúc”. Tiếng đàn hay đến nỗi con ngỗng trời đang bay ngang qua, nghe tiếng đàn mà ruột gan đứt đoạn, sa xuống đất chết. Đó là điển tích “lạc nhạn”

Hồ Hán Tà là vua xứ Hung Nô dọa đem quân đánh phá nước Tầu, nếu vua Tầu không gả cho y một công chúa. Thay vì gả công chúa, vua Nguyên Đế nhà Hán gả cho y 5 cung nữ, dĩ nhiên, cung nữ thì không ai xấu bao giờ. Thấy vua Hán lấy 5 mà đổi 1, y bằng lòng. Một trong năm cung nữ, có Vương Tường.

Tuy nhiên, trường hợp Chiêu Quân có nhiều oan trái hơn.

Chiêu Quân vốn có sắc đẹp tuyệt hạng, lại có tài đàn hay hát giỏi. Vì vậy, khi được tuyển vào cung, Chiêu Quân không chịu đút tiền hối lộ cho tên thợ vẽ Mao Diên Thọ. Mao Diên Thọ trả thù bằng cách khi vẽ hình Chiêu Quân xong, y thêm một chấm đen dưới con mắt của cô. Sách tướng nói chấm đen đó là nốt ruồi “thương phu trích lệ” (Giọt nước mắt khóc chồng), tức là tướng sát phu (giết chồng).

Khi gọi Chiêu Quân lên để đưa sang xứ Hung Nô, nhà vua thấy Vương Tường đẹp quá, muốn giữ lại, nhưng ngại triều thần, đành phải cho đi mà lòng tiếc rẻ.

Về cái chết của Chiêu Quân có nhiều giả thuyết khác nhau:

a)- Đến Nhạn Môn Quan, Chiêu Quân gieo mình xuống sông tự vẫn. Khi đi qua cửa ải cuối cùng nầy, Chiêu Quân cảm tác nhiều bài thơ hay, hòa cùng tiếng đàn của Chiêu Quân, trở thành điển tích Hồ Cầm.

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương

là hai câu thơ nói về tài đàn của Thúy Kiều (truyện Thúy Kiều)

b)- Chiêu Quân đến đất Hồ, nàng yêu cầu vua Hồ giết chết gian thần Mao Diên Thọ, rồi sau đó nàng tìm cách tự tử, nhảy xuống sông để xác nàng theo dòng trôi trở về đất Trung Nguyên.

c)- Một thuyết khác cho rằng Chiêu Quân đã sống một thời gian dài bên Hung Nô.

Chiêu quân đã góp phần mang lại hòa bình trong 60 năm giữa nhà HánHung Nô.

Phải nhờ đến sự hy sinh của một người đàn bà để vua quan dân chúng Tầu được yên thân, có thể đó là điều không vinh dự gì cho người Tầu và cho cả lịch sử Tầu.

Người Việt Nam khéo léo phê phán bằng một bài thơ:

Vương Tường oán triều đình (1)

Vật chi muông cỏ dám lăng loàn?
Âu hẵn trong triều ít kẻ ngoan?
(2)
Mặt thấy thư Hồ, văn vỡ mật,
(3)
Tai nghe nhạc bắc, võ run gan.
Mỡ thơm luống để nuôi thù khấu?
(4)
Bùn sũng nào hay đắp ải quan?
Vực nước ví dầu tài Vệ, Hoắc, (
5)
Tanh hôi chi để lụy hồng nhan ?

ghi chú:

1)- Vương Chiêu Quân là cung nữ của vua Hán Nguyên Đế, gả Chiêu Quân cho chúa Hung Nô để đổi lấy quan hệ hòa hiếu. Nàng chịu sang Hung Nô nhưng cuối cùng vì buồn thương và uất hận nàng đã tự vẫn.

2)- Câu thơ 3 và 4: Sự hèn nhát của các quan trong triều.

3)- Chỉ Diên Thọ, tên thợ vẽ gian tham

5)- Thù khấu: Kẻ thù

5)- Vệ, Hoắc: Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, hai người đánh tan được quân Hung Nô (đời Hán)

Năm 1309, Huyền Trân Công chúa về Chiêm quốc với Chế Mân. Triều thần có người không thuận. Trong dân chúng có bài thơ nói về việc Chiêu quân cống Hồ để ám chỉ việc gả công chúa Huyền Trân.



Vua Hán dụ Vương Tường

gả cho chúa Thuyền Vu


Hán Hồ dẫu muốn vẹn trăm đường

Há trẫm riêng tây có phụ nường

Bắc quốc tuy rằng ngoài dị vực

Biên đình song cũng một biên cương

Ở đây hạnh thắm nên mai nhạt

Về đấy sen tàn lổi cỏ hương

Hơn thiệt tôi đừng ai oán nữa

Chờ ngày áo gấm lại hoàn hương.


Việc ví von như thế nầy là khiên cưỡng. Hành động của Huyền Trân Công Chúa cao quí hơn hành động của Vuơng Tường nhiều!


Quang Dũng có bài thơ chê vua Hán như sau:


Tuyết lạnh che mờ trời Hán Quốc

Tì bà lanh lảnh buốt cung Thương

Tang tình năm ngón sầu dâng lệ

Chiêu Quân sang Hồ xừ hồ xang


Đây Nhạn Môn Quan đường ải vắng

Trường Thành xa lắm Hán Vương ơi!

Chiêu Quân che khép mền chiên bạch

Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi


Ngó lại xanh xanh triều Hán Đế

Từng hàng châu lệ thấm chiên nhung

Quân vương chắc cũng say và khóc

Ái khanh! Ái khanh! Lời nghẹn ngùng


Hồ xang hồ xang xự hồ xang

Chiêu Quân nàng ơi lệ dâng hàng

Lã chã trời Phiên mưa tuyết xuống

Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang.


Tản Đà có bài văn tế



Cô ơi, cô đẹp nhất đời

Mà cô mệnh bạc, thợ trời cũng thua

Một đi, từ biệt cung vua

Có về đâu nữa, đất Hồ nghìn năm!



3)- Trường Hận Ca:

thiên tình hận giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi


Khi xưa ta là Đường Minh Hoàng

Ta mơ nàng làm Dương Quí Phi

(Diễm Trang - Vũ Hân)


Dương Quí Phi (719- 756, sau CN) cung phi của vua Đường Minh Hoàng, một trong “tứ đại mỹ nhân”, sắc đẹp khiến hoa héo vì hổ thẹn (tu hoa).


Dương Quý Phi tên thật là Dương Nguyệt Nhi, sau gọi là Dương Ngọc Hoàn, quê ở Tứ Xuyên. Năm 17 tuổi, Ngọc Hoàn được tuyển vào cung làm vợ Thọ Vương Lý Mão, con vua Đường Minh Hoàng. Khi ấy Lý Mão còn nhỏ lắm.

Khi ấy, Vũ Huệ phi, rất được Đường Minh Hoàng sủng ái, mới qua đời. Vua Đường thương nhớ vô cùng.

Cao Lực Sĩ bèn lập mưu, đưa Ngọc Hoán vào chùa chăm sóc nhang khói cho Vũ Huệ Phi. Sau đó, đưa Ngọc Hoán vào chầu Đường Minh Hoàng. Nhà vua được Ngọc Hoán, bèn say mê, phong làm Quí Phi, gọi là Dương Quí Phi. Như vậy, có nghĩa là Dương Quí Phi lấy cha chồng.

Dương Quí Phi thường đi tắm suối ở Tây An. Nay ở đây người ta dựng tượng Dương Quí Phi tắm suối để kỷ niệm (xem hình)



Câu chuyện tình Lý Bạch và Dương Quí Phi

Lý Bạch là người nổi tiếng hay thơ. Ai cũng ca ngợi. Riêng Cao Lực Sĩ và Dương Chấp Trung, anh của Quí Phi, chê rằng tài Lý Bạch chỉ đáng mài mực và cởi giày cho thiên hạ.

Bấy giờ vua Hung Nô gởi thư cho vua Đường Minh Hoàng bằng tiếng Hung Nô. Triều thần không ai đọc được, vua phải triệu Lý Bạch vào. Lý Bạch đọc thư và giải thích cho vua nghe. Vua rất tán thưởng, lệnh cho Lý Bạch viết thư trả lời. Bạch vâng mệnh nhưng để trả mối hận bị chê bai, xin vua ra lệnh Cao Lự Sĩ cởi giày và Dương Chấp Trung mài mực cho ông ta viết thư.

Dương Quí Phi và Lý Bạch là người cùng thời. Lý Bạch cũng được Đường Minh Hoàng trọng vì tài, thường vời vào cung cùng vua và Dương Quí Phi ngắm hoa, ngắm cảnh và làm thơ. Bạch Cư Dị làm thơ tả sắc đẹp Dương Quí Phi, có hai câu đời sau còn nhắc nhở:


Phù dung như diện, liễu như mi

nghĩa là mặt như hoa phù dung, mày như lá liễu.


Về sau, Đường Minh Hoàng không còn trọng đãi Lý Bạch nữa, ông xin cáo quan, chỉ xin một điều, vua ban cho một lệnh bài, đi đến đâu, uống rượu khỏi trả tiền. Chủ quán nhận tiền ở quan lại địa phương.

Một đêm, Lý Bạch quá say, chơi thuyền trên sông. Thấy trăng ở đáy nước, bèn nhảy xuống sông, ôm trăng mà chết.

Tôi không tin câu chuyện nầy. Quan hệ giữa Lý Bạch và Dương quí Phi có thể quá gần gũi, không khiến cho Đường Minh Hoàng ghen hay sao! Vì vậy, khi Đường Minh Hoàng không ái mộ Lý Bạch nữa nên Bạch buồn tình xin cáo quan. Biết đâu, cái đêm trăng Lý Bạch chết, không phải ông ta nhảy xuống sông mà có thể một tên nào đó, giả dạng theo hầu Lý Bạch, đã đạp cho ông ta một đạp rớt xuống sông, để Đường Minh Hoàng thỏa mãn cái tính ghen.

Chuyện đã gần hai ngàn năm. Thuở ấy, sợ vua, ai dám điều tra. Ngày nay dù “ăn ốc nói mò”, biết đâu lại là chuyện thiệt!!!

Sắc đẹp Dương Quí Phi

Như đã nói, sắc đẹp của Dương Quí Phi được Bạch Cư Dị mô tả là “Phù dung như diện, liễu như mi”. Xin nói thêm, hoa phù dung là tên chữ. Tiếng Việt gọi là bông cẩn, người Bắc gọi là hoa dâm bụt.


Lý Bạch trong Thanh Bình Điệu ca tụng sắc đẹp của Ngọc Hoàn.


Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,

Xuân phong phật hạm, lộ hoa nùng.

Nhược chi quần ngọc sơn đầu kiến,

Hội hướng Đao đài nguyệt hạ phùng.


Ngô Tất Tố dịch:

                    Thoáng bóng mây hoa, nhớ bóng hồng.

Gió xuân dìu dặt giọt sương trong

Ví chăng non ngọc không nhìn thấy,

Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông.


Trong “Trường Hận Ca”, bài thơ nói về mối hận tình giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi (vua ra lệnh giết cô ta), Bạch Cư Dị tả sắc đẹp của Dương Quí Phi như sau:


Qui lai trì uyển giai y cựu

Thái Dịch phù dung Vị Ương liễu;
Phù dung như diện liễu như mi

Đối thử như hà bất lệ thùy?

Cũng trong bài thơ, tả tình vua Đường Minh Hoàng nhớ Dương Quí-Phi có câu:

Phù-dung như diện liễu như my” nghĩa là hoa phù-dung như mặt, lá dương-liễu như mày.


Tản Đà dịch:

Phù dung đó! Mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như!
Càng trông hoa liễu năm xưa,
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm.


Nhà thơ Đinh Hùng tán tụng:

...Thoáng nét sương, nụ cười in khuôn ngọc,
Em bâng khuâng hé nửa cặp môi hồng,
Mắt nhắm nghiền, và sóng ngực rung rung,
Hơi thở ấm não nùng hương phấn dại ...
(
Giáp Mặt Phù Dung)


Phù dung, trong tiếng Việt, cũng có nghĩa là “hút thuốc phiện”, có khi gọi là “Ả Phù Dung”. Đinh Hùng là một đệ tử của “Ả”.

Khi ở cung, Dương quí Phi thường nhớ nhà. Môt hôm ra vườn ngự uyển, nhằm lúc hoa đang nở rộ. Thấy hoa, Dương Quí Phi than thở phận mình, nước mắt tuôn rơi. Khi Phi đưa tay sờ vào hoa, hoa khép cánh lại. Do câu chuyện nầy, sử Tầu gọi Dương Quí Phi là “người đẹp tu hoa”, nói theo thành ngữ là “hoa nhường nguyệt thẹn”.

Có người không tin câu chuyện hoa nầy, cho rằng thiên hạ vẽ vời, biết đâu Dương Quí Phi sờ nhằm vào cây mắc cở, văn vẻ thì gọi là cây trinh nữ.


Dương Quý Phi đã đẹp lại có tài gẩy tì bà, giỏi về âm nhạc.

Nàng lại đặt được nhiều khúc hát và điệu múa làm cho Huyền Tông càng thích thú say sưa hơn.


Loạn An Lộc Sơn

An Lộc Sơn (ALS), gốc là người “Rợ Đột Quyết” là tướng được Đường Minh Hoàng yêu vì. Khốn nỗi, Dương Quí Phi lại tư thông với ông tướng đẹp trai nầy. An Lộc Sơn thù ghét Dương Quốc Trung, anh của Dương Quí Phi. Ông nầy dựa vào thế em gái, lộng quyền ở cung. An Lộc Sơn đem quân về Trường An, quyết dẹp bỏ gian thần.

Quân của An Lộc Sơn đánh bại quân của triều đình.

Vua Đường Minh Hoàng phải nhường ngôi cho con để lên làm thái thượng hoàng. Tuy vậy, quân của triều bình vẫn liên tiếp bị đại bại. Thượng hoàng cùng Dương Quí Phi chạy vào đất Thục.

Đến Mã Ngôi (năm 756), binh lính không chịu chống giặc nữa. Chúng buộc nhà vua phải giết Dương Quí Phi mới chịu tuân lệnh vua vì cho rằng chính sự giam dâm giữa Dương Quí Phi với ALS mới gây nên mối loạn nầy.

Vì sức ép của binh lính, Đường Minh Hoàng ra lệnh thắt cổ Dương Quí Phi, lúc ấy bà mới 38 tuổi, chôn xác ở ven đường.

Sau đó vua quan nhà đường dẹp được loạn AnLộc Sơn, giành lại đất đai cũ.


Dương Quí Phi là giai nhân. Câu chuyện tình giữa bà và An Lộc Sơn không phải là sự dâm dục mà ra? Vua thì đã già, lại từng hoang dâm vô độ, làm sao “gánh” Dương Quí Phi đang tuổi hồi xuân.

Sự dâm dục đã tạo nên một thiên tình hận, mà Bạch Cư Dị gọi là “Trường Hận Ca”. Không ít người tiếc cho cái sắc đẹp của bà, nên cũng không ít người làm thơ.

Người xưa đâu thì tận mắt tôi không thấy, nhưng thi sĩ Vũ Hân khi dạy trường Bồ Đề Huế thì tôi gặp không ít lần, gặp ngoài đường phố, hay ở tòa soạn báo Mùa Lúa Mới hay ở nhà thi sĩ Đỗ Tấn. Nhìn ông thấy mà tội nghiệp. Ông bị tật bẩm sinh, đi đứng không bình thường. So sánh ông với Đường Minh Hoàng thì cũng là khiên cưỡng. Và ông cũng có một Dương Quí Phi. Điều đáng buồn là sau khi Dziệt Cộng “giải phóng miền Nam”, ông bị đuổi khỏi trường Bồ Đề, và Dương Quí Phi của ông cũng “ôm cầm thuyền ai”, theo một An Lộc Sơn “nón cối dép râu”. Ông chết trong cảnh nghèo đói, cô đơn (xem phụ lục)


Ông cũng từng mơ Dương Quí Phi hay sao nên ông ước:


Khi xưa ta là Đường Minh Hoàng

Ta mơ em là Dương Quí Phi.”

4)- Ngô Phù Sai

mất nước vì Tây Thi?

Sự ưu ái của Ngô Phù Sai đối với Tây Thi, trong sử sách cũng ít thấy ai sánh bằng. Để làm vui lòng giai nhân, vua sai:

  • Dựng Cô Tô đài
  • cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi.
  • Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đấy rất nhiều chum, bên trên lát ván, để Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp.
  • Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt.
  • Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi.
  • Lại có động gọi là động Tây Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay người ta gọi là vết chân Tây Thi.
  • Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường cùng với Tây Thi gẩy đàn ở đấy.
  • Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dãi nước ở phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa.
  • Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen.
  • Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình.
  • Phía nam đô thành có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn.
  • Lại có Ngư Thành để nuôi cá,
  • Áp Thành để nuôi vịt,
  • Kê Bi để nuôi gà,
  • Tửu Thành để nấu rượu.
  • Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là chỗ Tiên.

Tây Thi người nước Việt, sống vào thời Xuân Thu, 506 trước CN, không rõ mất lúc nào, năm nào, ở đâu, là môt trong “tứ đại mỹ nhân” của Tầu.


Khi cô gái giặt áo bên bờ sông, bóng soi trên mặt nước sông trong suốt làm thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong vùng xưng tụng nàng là Tây Thi Trầm Ngư.


Ngô Việt đánh nhau, Việt Câu Tiễn đại bại, bị bắt. Văn Chủng, quân sư của Việt Câu Tiễn, hiến kế mỹ nhân để lung lạc, làm suy yếu nước Ngô.

Câu Tiễn tuyển hai ngàn mỹ nữ dâng cho Phù Sai, trong đó, đẹp nhất là Trịnh Đán và Tây Thi.

Tây Thi gop công lớn trong việc làm cho Ngô Phù Sai ham mê tửu sắc, bỏ bê triều chính, nên Việt Câu Tiễn phục hận, giành lại đất nước.


Sau khi đại thắng, vợ Việt Câu Tiễn muốn mưu hại Tây Thi vì sợ Câu Tiễn sẽ mê say cô ta mà di vào con đường như Phù Sai.

Tây Thi và Phạm Lãi có tư tình với nhau từ trước nên cả hai trốn vào Ngũ Hồ, về sau không ai biết hai người đi đâu. Có người bảo rằng Tây Thi đã tự vẫn.

Tô Đông Pha

bài thơ về Tây Thi:

Thủy quang liễm diễm tình phương hảo

Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ

Dục bá Tây Hồ tỉ Tây Tử

Đạm tran nồng mật tổn tươngt nghi



(Nước dập dờn bừng khi nắng dọi,

Nước nhạt nhoà xanh lúc mưa về

Tây Hồ ví tựa Tây Thi

Điểm tranh đậm nhạt vẽ gì cũng xinh


Người ta thường cho rằng Ngô Phù Sai mất nước là vì Tây Thi. Vì vậy, La Ôn minh oan cho Tây Thi bằng mấy câu thơ:

“Nước mất nhà tan bởi cơ trời

Sao cứ Tây Thi đổ tội hoài

Tây Tử nếu làm Ngô mất nước

Thì xưa Việt mất bởi tay ai?


5)- Khúc Ca Tần Hoài


(Ai luyến, ai tiếc Khúc Ca Tần Hoài -

Dương Thiệu Tước - Đêm Tàn Bến Ngự)

Trần Hậu Chủ tên thật là Trần Thúc Bảo (553-604), nhà Hậu Trần thời Nam - Bắc triều bên Tầu.

Ông nổi tiếng là người tài tử phong lưu, ưa đàn hát vui chơi, trong cung lúc nào cũng có hàng ngàn mỹ nữ giai nhân, nổi tiếng nhất là Khổng Quí Tần và Trương Lệ Hoa, hai người rất được nhà vua sủng ái.

Vua cho xây điện Quang Chiếu, toàn bằng gỗ trầm hương để cùng các tài tử giai nhân xướng họa thơ phú, vui ca đàn hát.

Những bài thơ khúc hát soạn ra được chép thành 3 tập là: Nghinh Xuân nhạc, Ngọc Thu và Hậu Đình Hoa (Hoa ở sân sau). Riêng tập Hậu Đình Hoa toàn sưu tập những bài bay bướm, bóng bẩy, dâm đãng. Những cuộc vui nầy làm cho nhà Trần suy vi.

Trần Hậu Chủ cũng soạn một khúc hát Hậu Đình Hoa:

Nguyên tác là:

Lệ vũ phương lâm đối cao các

Trân trang điểm chất bản khuynh thành,

Ánh hộ ngưng kiều sa bất tiến,

Xuất duy hàm thái tiếu tương nghinh.

Yêu cơ kiểm tự hoa hàm lệ,

Ngọc thu lưu quang chiếu Hậu Đình.


Nghĩa:

Bóng rợp hương thơm chốn lâu các,

Nghiêng thành vẻ đẹp với mầu tươi.

Ngoài cửa dịu dàng khoan dạo bước

Trước màn chào đón mỉm môi cười,

Má hồng tựa đóa hoa đầy móc

Cây ngọc sân sau chiếu sáng ngời


Vua Văn Đế nhà Tùy thừa dịp nhà Hậu Trần nầy, sai đem quân sang vây Đại Thành. Giữa lúc ấy, Trần Hậu chủ còn đương say rượu, chưa tỉnh.

Nhà Hậu Trần bị diệt vong, người ta cho rằng sở dĩ nước mất nhà tan cũng do khúc hát Hậu Đình Hoa ấy,


Đỗ Mục, nhân một đêm ghé thuyền trên bến Tần Hoài, gần một quán rượu. Đêm đã khuya mà bấy giờ trong quán, khách còn say sưa ăn uống, bên cạnh những ả buôn son bán phấn hát xướng để mua vui cho khách.

Lắng nghe giọng hát réo rắt bên kia sông, Đỗ Mục làm bài thơ, thường gọi là Tần Hoài Dạ Bạc


Nguyên văn:

Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa,

Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia.

Thương nữ bất tri vong quốc hận,

Cách giang do xướng "Hậu Đình Hoa"

Khói bay, nước lạnh, khói trăng pha,

Thuyền đậu sông Tần cạnh Tửu gia.

Hận nước gái buôn không biết rõ,

Cách sông còn hát Hậu Đình Hoa.



Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều ở nước ta, cũng có câu:

Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ,

Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.

Thừa ân một giấc canh tà,

Tờ mờ nét ngọc, lặp lòe vẻ son.

Trong bài hát Đêm Tàn Bến Ngự có câu...


Thuyền mơ trong khúc Nam Ai,
Đàn khuya trên sông ngân dài.
Ai luyến ai tiếc khúc ca Tần Hoài!

Khúc ca Tần Hoài chính là khúc Tần Hoài Dạ Bạc nói ở trên.

Sông Hoài, còn gọi là Hoài Hà, Hoài Thủy, lớn thứ ba sau Dương Tử và Hoàng Hà, không chảy ra biển mà đổ nước vào sông Dương Tử. Sông chảy qua Tần Hoài là một quận của Nam Kinh.


6)- Điêu Thuyền

Bọn ta đều chết cả về tay người đàn bà này

(Lý Nho, mưu sĩ Đổng Trác)


Đổng Trác lộng quyền. Vương Doãn muốn trừ bèn lập mưu với Điêu Thuyền là con gái nuôi, hát hay, đàn giỏi, sắc đẹp khiến trăng phải xấu hổ mà dấu mình đi (“bế nguyệt”), Cung Oán Ngâm Khúc gọi là “Hương trời đắm nguyệt say hoa). Điêu Thuyền là một trong “tứ đại mỹ nhân”.

Vương Doãn gả Điêu Thuyền cho Đổng Trác, nhưng xúi Điêu Thuyền ngoại tình với Lã Bố, con nuôi Đổng Trác. Thế rồi hai cha con Đổng Trác - Lữ Bố giết nhau.

Đổng Trác bị giết rồi, dân chúng thoát khỏi ách cai trị tàn ác.

Đổng Trác mê say tiếng đàn, giọng hát, ánh mắt của Điêu Thuyền được mô tả như sau:

Nhất điểm anh đào khải giáng thần.

Lưỡng hàng toái ngọc phún dương xuân.

Đinh hương thiệt thổ hành cương kiếm.

Yêu trảm tà gian loạn quốc thần!


dịch:

Một đóa anh đào chúm chím môi,

Đôi hàng răng ngọc rạng xuân tươi.

Hương đưa đầu lưỡi tàng hơi kiếm:

Chém chết gian thần có lúc thôi!


Bài hát ca ngợi vẻ đẹp Điêu Thuyền:

Phải người cung cũ Chiêu Dương?

Xiêm y mây cuốn vương vương cánh hồng

Nhẹ nhàng mình liễu như bông,

Gót hài uyển chuyển trên lòng bàn taỵ

Động đình lạc lối hoa bay,

Lương châu thoăn thoắt sen cài bước chân

Nhà vàng gió cợt cành xuân,

Trăm hoa nhường vẻ thanh tân một người!


Mao Tôn Cương trong Thánh Thán Ngoại Thư” bàn về Điêu Thuyền như sau:

18 lộ quân chư hầu không giết nổi Đổng Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Điêu Thuyền lại giết nỗi Trác.

Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không thắng nỗi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Điêu Thuyền thắng nỗi.

Ôi, lấy chăn chiếu làm chiến trường,

lấy son phấn làm khôi giáp,

lấy mày ngài làm cung nỏ,

lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn,

lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến lược mưu cơ.


Xem thế thì cái bản lãnh của nữ tướng quân quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!"

Chuyện vặt:

- Tề Tuyên Vương:

Vua Tuyên-vương nước Tề trong khi nói chuyện trị nước (chính-trị) với thầy Mạnh-tử, có nói câu “Quả-nhân hữu-tật, quả nhân hiếu sắc (kẻ quả-nhân (tụ xưng) này có tật, kẻ quả-nhân này hiếu sắc). Đó chỉ là một câu nói ví-dụ ở trong việc chính-trị, mà đây dùng lối “đoạn chương thủ nghĩa” (cắt câu lấy nghĩa) cho thêm lý thú khôi hài. Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên, tức bệnh ưa sắc đẹp của một đấng quân-vương.


Tài-sắc đã vang-lừng trong nước,

Bướm-ong càng xao-xác ngoài hiên,

Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,

Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.


- Thành Thái

Vua Đồng Khánh mất, ông Bửu Lân lên nối ngôi, hiệu là Thành Thái. Vua thành Thái là người tiến bộ, chọn Tây học, và cũng âm mưu chống Pháp, giành độc lập.

Để chuẩn bị công việc nầy, nhà vua thành lập một đội nữ binh (lập nam binh sợ Tây lưu ý). Ông thường đi vi thiềng tìm người, giả bộ nói là đi tìm người ông yêu. Do đó, trong dân chúng Huế có câu ca dao, có người nói là do nhà vua đặt ra:


Kim Luông có gái mỹ miều

Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.

Kim Luông, là nói trại tên làng Kim Long, phía tây ngoại thành Huế, làng trù phú, có nhiều nhà quan, cũng là nơi có họ đạo của ông giám mục Gaspar là “tên thực dân mặc áo chùng đen” như cách thường gọi của người Huế.

Dù vậy, việc làm của vua Thành Thái cuối cùng cũng bị bại lộ.

Người ta nói chính là Trương Như Cương, quan to trong triều, biết việc nầy, liền báo cho Tây biết, để lật đổ vua Thành Thái mà đưa con rể của ông là Bửu Đáo, lên làm vua, tức là Khải Định.

Cũng có người nói con gái Nguyễn Thân, cung phi, cũng ở trong đội nữ binh, bị thương khi tập đánh gươm. Nguyễn Thân vào thăm con, biết việc bèn báo cho Tây để lập công. (Theo sử, Nguyễn Thân là đại Việt gian. Theo ông Nguyễn Đức Cung, Nguyễn Thân là nhà ái quốc!)

Tây không đủ lý do truất phế ông về việc chống Tây bèn ngụy tạo lý do bảo rằng ông bị bệnh điên, hoang dâm, không làm vua được.


Tây nói đúng hay dư luận dân chúng Huế đúng?


- Ngô Tam Quế

Ngô Tam Quế làm tướng nhà Minh, được giao nhiệm vụ trấn giữ Sơn Hải Quan là biên giới giữa lãnh thổ nhà Minh và Mãn Thanh. Bấy giờ thế lực nhà Thanh ở Mãn Châu mạnh lắm, muốn cướp Trung Nguyên nhưng không vượt được Sơn Hải Quan.

Bấy giờ ở kinh thành có loạn, Lý Tự Thành đã diệt được nhà Minh, dự tính sẽ lên làm vua, cho người liên minh với Ngô Tam Quế. Tam Quế có một người thiếp yêu ở kinh đô, bị một tướng của Lý Tự Thành cướp mất. Vì vậy, Ngô Tam Quế tức giận, bỏ Sơn Hải Quan, liên hợp cùng quân Thanh kéo về kinh đô để trừng trị kẻ đã cướp người thiếp của y. Nhờ đó, nhà Thanh lên ngôi ở Bắc kinh, cai trị Trung nguyên 300 năm. Người Tầu không ngo ngoe gì được, phải chờ đến cuộc cách mạng Tân Hợi để “nồi da xáo thịt” cho tới khi Tưởng thua chạy ra Đài Loan. (xem phụ lục trích từ “Sử Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê)


Dĩ nhiên, người được mê phải là người đẹp, còn như nói yêu người xấ, không hẵn là không có, nhưng có thể coi như đó là ngoại lệ, ít khi.

Dã sử còn nhắc chuyện vua nhà Lý gặp Ỷ Lan phu nhân. Bà xấu đẹp không biết nhưng mặt lại rổ. Khi bị bắt tới “trình diện” vua Lý, thấy mặt nàng, vua bảo sẽ ra một câu đối, nếu đối được thì vua tha tội “khi quân” không chịu quì xuống, đứng dựa (ỷ) vào cây “lan” khi kiệu vua đi qua. Câu vua ra là:


Rổ chàng, rổ chịt, rổ chín mười mươi

Cô gái đối là:


Yên nước, yên dân, yên luôn bốn bể.


Mê? Người đàn ông mê gái, mê vợ bé, ít ai mê vợ cả. Vì vậy mới có câu ca dao:

“Gió đưa bụi chuối, sau hè,

Anh theo vợ bé bỏ bè con thơ”

Câu thơ đầu thuộc thể hứng. Người vợ đêm nằm nghe tiếng lá chuối xào xạc sau hè, khó ngủ nên nhớ tới người chồng bạc bẻo.


Thôi! xin bà ngủ đi bà vợ cả. Sở dĩ bà bị chồng phụ là vì bà lớn tuổi rồi, bà già rồi, bà là “gái xề” năm, ba mặt con rồi, bà chỉ còn là:

Chàng ơi phụ thiếp làn chi

Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng.


&

Tứ đại mỹ nhân và hầu như gần hết người đẹp nước Tầu, nước ta, nước Nhựt... có mấy ai được “trường thọ”. Người thương cũng nhiều mà người ghét cũng không ít. Thậm chí, nhiều khi cây cỏ cũng ghen.

Trong “Tần Cung Nữ Oán Bái Công Văn” có câu:


“Cặp mày xanh chiếc lá cũng ghen,

Câu khiển hứng đánh chìm giòng nước chảy”


Chiếc lá ghen với đôi mày đẹp, nên khi cung nữ viết vào lá vài câu thơ, thả xuống giòng suối trong cung, nhờ lá trôi ra ngoài cung cấm, để lời tâm sự của cung nữ được ai đó ở ngoài kia nhặt lá lên xem mà biết tới. Nhưng lá vì ghen sắc đẹp với cung nữ, không trôi đi mà chìm xuống đáy nước.

Trong truyện Kiều, Nguyễn Du nói rõ hơn: “Hoa ghen sắc thám, liễu hờn kém xanh”.

Cô Kiều không chết sớm, nhưng cô phải chịu 15 năm lưu lạc.

Xưa thì cho người tài giỏi và người đẹp đều mệnh yểu như nhau:

“Giai nhân tự cổ như danh tướng

Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”.

(Danh tướng cũng như giai nhân, không hứa ở với đời đến khi đầu bạc)

Ngay thế kỷ 20, nhà thơ Jan Leiba cũng đồng ý như như vậy:

“Người đẹp thường hay chết yểu

Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai!”

Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Quách Thoại qua đời khi chưa quá tuổi ba mươi!


Xưa gọi là “tài mệnh tương đố”. Ngày nay, tôi không tin như vậy. Tin vào số mệnh, chỉ là điều an ủi...

hoànglonghải

Trích một đoạn trong sách Sử Trung Quốc của học giả Nguyễn Hiến Lê:

Ngô Tam Quế được lịnh về cứu kinh đô từ mười ngày trước, vẫn chùng chình, tiến binh rất chậm, có lẽ vì còn tính xem có nên nhận đề nghị chia chác sau đó của Lý Tự Thành không. Khi Tư Tôn (tức Sùng Trinh Hoàng đế) tuẫn quốc, thì Quế mới tiến được có nửa đường tới Bắc Kinh. Hay tin, hắn quay trở về liền để chờ xem tình thế ra sao.

Lý Tự Thành đã thành công một cách dễ dàng...Duy có Ngô Tam Quế là có thể gây rối cho ông. Ông nhờ cha của Quế (lúc đó đã theo ông) làm trung gian để điều đình với Quế. Nhưng Quế vẫn không quyết định gì cả, có lẽ muốn đợi Lý Tự Thành trả cho mình một ái thiếp bị một tướng của Tự Thành bắt. Đồng thời Quế cũng thương thuyết với quân Thanh, nhờ quân Thanh giúp khi cần. Tự Thành hay tin đó tặng Quế 40.000 lạng (bạc?), Quế vẫn làm thinh.

Bực mình, Tự Thành phái hai tướng đem 20.000 quân tấn công Quế. Nhưng đáng lẽ phải cấp tốc đánh Tam Quế trước khi quân Thanh can thiệp, thì họ lại kéo dài ra. Tự Thành phải đích thân đem 200.000 quân đánh Quế ở gần Sơn Hải Quan, khi vây Quế ba mặt rồi, quân Quế sắp bị tiêu diệt thì quân Thanh tới cứu Quế. Tự Thành thua, rút lui, đề nghị chia giang sơn với Quế; Quế không chịu, Tự Thành giết cha Quế rồi vội vàng về Bắc Kinh (vì quân địch theo bén gót) vơ vét vàng bạc, châu báu chất lên xe, đưa về phía Tây, đốt cung điện rồi cùng với quân đội rút lui...

Quế hy vọng đuổi được Tự Thành rồi, nhường cho nhà Thanh một số quyền lợi nào đó thì họ sẽ lui về Mãn Châu. Không dè viên phụ chính (Đa Nhĩ Cổn), chú vua Thanh bảo chưa lập được trật tự nên không về, lại sai Quế đem quân Thanh đuổi theo Lý Tự Thành tới Thiểm Tây. Trong khi đó, vua Thanh mới 7 tuổi được chú (tức viên phụ chính) đưa vào Bắc Kinh, đặt lên ngai vàng.

Quế hay tin như người mất hồn, suốt ngày đóng cửa không tiếp ai, rất rầu rĩ. Hắn tiếc vì mất ái thiếp, lại mất ngôi vua hay chức Tể tướng. Hắn ân hận vì để cho cha bị giết và mang tội phản quốc..


Khóc Vũ Hân

(Vũ Hân, quê Quảng Nam, bị tật bẩm sinh, là một nhà thơ, - tác giả thi phẩm “Diễm Trang”, nhà giáo nổi tiếng ở trường Bồ Đề Huế. Sau 1975, ông bị buộc phải thôi dạy học, sống lây lất ở Saigon, vợ bỏ. Ông chết trong cảnh nghèo khó. Bài thơ nầy Hoàng Vũ khóc Vũ Hân khi nghe tin Vũ Hân qua đời).


Ức Vũ quân hề lệ mãn khâm

Trường Sơn Quảng địa nhất tinh trầm

Yên hoa phong bút, hồn như tại

Hà huống tao nhân ảo tỵ trần


bản nôm:

Thấm bâu lệ nhớ bao lần

Quê hương bỗng xót một vì sao rơi

Bút hoa gởi lại với đời

Đành sao anh vội về nơi chia đường.


Nhất phiến tài tình vạn cổ thương

Nhàn văn độc khứ thệ hà phương

Ô hô! Thế sự mai trường mộng

Hốt kiến trần khôi sở đoạn trường


bản nôm:

Tài hoa một kiếp thân thương

Cánh mây biền biệt cuối đường phiêu du

Mộng trường chôn chặt nghìn thu

Màu tro xám lạnh bùi ngùi tâm can

Hoàng Vũ


Truyền Thuyết:

Tương truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại Chử Xá huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.

Tiên Dung

Thời ấy vua Hùng Vương thứ ba có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.

Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung - Chử Đồng Tử làm chúa. Một hôm có người bày cho cách ra ngi buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Tiên. Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.

Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dân hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.

Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung - Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.

Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là chợ Hà Thị.