Tuổi
Xuân, tuổi người
Người
ta thường ví một đời người như bốn mùa xuân hạ thu
đông. Vì vậy, mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, mùa của
yêu đương. Từ yêu đương mà đâm ra mê thì đâu có bao
xa!
Đầu
đề tôi viết là mê gái, mê vợ, nhưng có lẽ nào lại
không có chuyện mê trai, mê chồng. Có điều lạ, trong
lịch sử cũng như trong văn học, trong đời thường, đàn
ông, con trai mê gái nhiều hơn đàn bà con gái mê chồng,
mê trai.
Vậy
thì bây giờ, nói cái gì trước, về phái nam hay phái nữ?
Nếu
nói về đàn bà, trước hết xin nhắc đến câu ca dao:
“Tay
mang khăn gói sang sông,
Mẹ
kêu mặc mẹ thep chồng cứ theo.”
Sự
kiện nầy, không hẵn chỉ có một mình cô gái trong câu
ca dao nói trên, mà hầu như gần hết cô nào, bà nào cũng
vậy. Nghe theo tiếng gọi của chồng là bỏ nhà, bỏ mẹ,
có khi đi không quay mặt ngó lui nữa. Thế có phải là
... mê trai???
Người
con gái VN khá lãng mạn. Này nhé: “Thương nhau cởi áo
cho nhau, Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.” Ở cái xã
hội xưa, nặng lễ giáo mà dám cởi áo cho.. trai, huống
chi đời bây giờ thì sao?
Trong
lịch sử nước ta (VN), người đầu tiên mê trai là ai?
Là
Công chúa Tiên Dung đấy.
Cô là
con vua Hùng Vương thứ 3, đi chơi tới môt khúc sông, thấy
cảnh đẹp và buồn tình lên bãi cát bên sông tắm chơi.
Các con hầu vây màn, che kín cho công chúa tắm. Nước
sông trong mát, thế là công chúa dội ào ào vào mình.
Nước làm cát trôi đi, làm lộ ra anh chàng đánh cá Chữ
Đồng Tử đang phủ cát trên mình, trốn ở dưới. Tuy
hoảng hồn, như công chúa Tiên Dung cũng đủ bình tĩnh
hỏi ra cớ sự. Hồi xưa trai gái gặp nhau đã khó, huống
chi gặp nhau trong cảnh ai nấy cũng A-Dong và Ê-Và. Thế
rồi Tiên Dung bảo đây là duyên trời định, bèn chọn
Chữ Đồng Tử làm chồng, và dựng nhà ngay ở bờ sông
ấy mà sống với người mới.
Nhà
vua gọi, Tiên Dung không chịu về. Vua cho quân lính đến
bắt, chuyện xảy ra lung tung cả lên, để rồi cuối
cùng, hai người cùng bay lên cõi tiên (xem phụ lục).
Câu
chuyện nầy có vài điều vượt khỏi luân lý ngày trước.
Công chúa Tiên Dung tự ý chọn chồng mà không hỏi ý
kiến cha mẹ, nói chi tới việc xin xỏ phép tắc. Lấy
nhau mà chẳng cưới hỏi gì cả, “ba miếng trầu” cũng
không là điều trái phong tục, lễ nghĩa. Cha mẹ gọi
không về! Không về, nếu không phải là mê trai thì là
còn cái gì nữa đây???
Người
ta thường tranh cải việc người đàn bà đã mê chồng
nhưng ít thấy họ thiếu thủy chung. Chuyện Dương Quí
Phi chẳng hạn. Có thể Dương Quí Phi yêu vua Đường Minh
Hoàng nhiều lắm chứ, yêu thêm Lý Bạch, lại yêu luôn
cả An Lộc Sơn, nên mới có cái loạn An Lộc Sơn?
Bao Tự
có khác chi?
Châu
U Vương mê Bao Tự đến nỗi cho phóng hỏa trên núi Cam
Tuyền. Thế nhưng Bao Tự có thủy chung với Châu U Vương
đâu? Tây Thi của Ngô Phù Sai, lại bỏ theo Phạm Lãi sau
khi ngai vàng Ngô Phù Sai sụp đổ. Còn như “con Điêu
Thuyền” (tiếng gọi của mấy bà ưa đọc truyện xưa)
thì quá lắm. Trong khi làm vợ Đổng Trác, lại liếc mắt
đưa tình với Lữ Bố. Có người bênh vực, cho rằng
Điêu Thuyền “hoàn thành xuất sắc” cái nhiệm vụ
được giao đấy!
“Quốc
sắc Thiên hương”
(Sắc đẹp đàn bà
con gái)
Văn chương không
thiếu những câu tán tụng sắc đẹp đàn bà con gái.
Quốc sắc triêu hàm tửu
Thiên hương dạ
nhiễm y
Có nghĩa là “Sắc
nước sáng say rượu. Hương trời tối ướt áo.
Điển tích về người
đẹp thì như trong Cung Oán Ngâm Khúc viết:
Chìm
đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình
Câu
thứ nhứt thứ nhì là “Chim sa, cá lặn”, câu thứ ba
là “nguyệt thẹn, hoa nhường”. Câu cuối có nghĩa là
đẹp hơn cả Tây Thi, Hằng Nga.
Nụ cười của Bao Tự
hay của giai nhân làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực:
Thơ Vương Tăng Nhu
vịnh người hầu yêu: “Nhất tiếu thiên kim mãi” có
nghĩa là “một nụ cười nghìn lạng vàng cũng mua”.
“Nhất tiếu khuynh
quốc, tái tiếu khuynh thành”. Cười một cái thì làm
“nghiêng nước”. Cười lần nữa thì “nghiêng thành”,
người ta thường gọi tắt là “Nghiêng nước, nghiêng
thành”.
Sắc đẹp làm cho
“nghiêng nước nghiêng thành” mà người đời ca ngợi,
có hay ho gì đâu? Đó là thói đa tình, cái đa tình chỉ
làm hư thiên hạ. Người xua họ cũng biết đấy chứ:
“Khuynh quốc
khuynh thành vị đa tình” (Nghiêng
nước nghiêng thành bởi thói đa tình)
Biết
thì biết vậy mà bỏ thì không bỏ được. Thành ra, Tự
cổ mỹ nữ danh họa thủy (Từ xưa
người con gái đẹp đều là mối tai họa).
Cái
đẹp của người đàn bà, và cái giỏi của người đàn
ông gần nhau mà kết quả ngược nhau: Kinh thi có câu:
Triết
phu thành thành, Triết phụ khuynh thành.
Tây Thi, Chiêu Quân, Điêu Thuyền, Dương Quí Phi |
Hồi
còn nhỏ, nhỏ lắm, nhà tôi ở cạnh bệnh viện Quảng
Trị, tôi từng thấy một anh thanh niên bị bệnh điên.
Người ta bảo anh ấy bị sa tình. Sa tình là cái gì? Là
sa vào đường tình ái, rồi thất tình nên phát bệnh
điên. Tôi không tin điều ấy. Nhưng khi lớn lên, đọc
lịch sử, lịch sử văn học, tôi thấy nhiều người,
phần nhiều là đàn ông, mê gái còn hơn bị bệnh điên
nữa, yêu hay mê đến nỗi xiêu đổ thành quách, đến
nỗi mất nước mất nhà thì không là điên hay sao, hay
còn tệ hại hơn cả điên, hơn cả “đem tiền cho gái
có đòi được không?” Mất tiền là còn nhẹ quá. Trong
lịch sử, người ta còn “nặng” hơn nhiều.
Số
đàn ông mê gái thì đông hơn mà cũng khủng khiếp hơn.
Người ta có thể điểm mặt từng người trong sách sử:
Vua
Châu U Vương mê Bao Tự chẳng hạn.
1)- Châu U Vương
“nước mất
nhà tan” vì Bao
Tự:
U
Vương nhà Tây Chu vì mê Bao Tự đến nỗi mất mạng, mất
nước. Dĩ nhiên, Bao Tự là một giai nhân, tuy không được
liệt vào “tứ đại mỹ nhân” của Tầu.
Trong văn học Tầu có
câu “Nhất tiếu thiên kim”, có nghĩa là nụ cười đáng
giá ngàn vàng cũng chưa nói hết cái tai hại của nụ
cười Bao Tự. Còn như câu “Nhất tiếu khuynh quốc, tái
tiếu khuynh thành” (cười làm nghiêng nước, nghiêng
thành) thì cũng xứng với nụ cười Bao Tự.
Bao Tự ít khi cười,
mà khi đã cười thì làm mê mẩn tâm thần ông vua nhà
Chu. Vì vậy, ông Châu U vương bèn tìm cách làm cho Bao Tự
vui, Bao Tự cười.
Trong Tỳ Bà Hành có
câu “Bình
bạc vỡ tuôn đầy mạch nước, Ngựa sắt rong, sàn sạt
tiếng đao, Cung đàn lựa
khúc tiêu tao, Tiếng
buông xé lụa, lựa vào bốn dây”
là nói tới nụ cười Bao Tự. Đó là việc
thứ nhất Châu U vương cho xé lụa từng cây làm cho Bao
Tự cười. Tiếng lụa bị xé vang lên nghe như tiếng đàn.
Thứ hai là khói báo
tin có giặc. Trong Chinh Phụ Ngâm có câu: “Khói
Cam Tuyền mờ mịt thức mây”
(Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam Tuyền
mờ mịt thức mây) là việc Châu U Vương đốt lửa trên
“Phong hỏa đài”.
Phong
hỏa đài là một phương tiện thông tin ngày xưa, để
báo cho chư hầu biết kinh đô có giặc. Một hôm U Vương
cho đốt khói lên, chư hầu tưởng có loạn kéo quân về
cứu giá. Té ra đó chỉ là việc vua nhà Châu gạt chư
hầu cho Bao Tự cười vui. Cái trò chơi dại dột ấy làm
cho chư hầu tức giận. Về sau, khi giặc có thật, vua đốt
khói trên Phong hỏa đài, chư hầu cứ nghĩ rằng vua lại
gạt, nên không đem quân về, để cho U Vương nhà Chu bị
giạc giết chết ở núi Ly. Bao Tự thuộc về tay rợ
Khuyển Nhung, cuối cùng thắt cổ tự tận, xong một đời
khuynh quốc khuynh thành.
2)- Hán Nguyên
Đế giữ được giang sơn nhà Hán,
nước Tầu
được yên nhờ có
Chiêu
Quân
Chiêu
Quân còn gọi là Vương Tường, Vương Chiêu Quân, một
trong “tứ đại mỹ nhân”. Cái
đẹp của Chiêu Quân thuộc hàng “chim sa” trong thành
ngữ “chim sa cá lặn”, Tầu gọi là “trầm ngư lạc
nhạn”. Trong “Cung Oán Ngâm Khúc” có câu “Lững da
trời nhạn ngẩn ngơ sa” là mượn điển tích nầy.
Sách
cũ viết rằng khi Chiêu quân sang đất Hồ, ngang qua một
sa mạc lớn, lòng buồn vì thân phận, vì xa quê, đang
ngồi trên lưng ngựa, Chiêu quân bèn gãy bản đàn tên
“Xuất tái khúc”. Tiếng đàn hay đến nỗi con ngỗng
trời đang bay ngang qua, nghe tiếng đàn mà ruột gan đứt
đoạn, sa xuống đất chết. Đó là điển tích “lạc
nhạn”
Hồ
Hán Tà là vua xứ Hung Nô dọa đem quân đánh phá nước
Tầu, nếu vua Tầu không gả cho y một công chúa. Thay vì
gả công chúa, vua Nguyên Đế nhà Hán gả cho y 5 cung nữ,
dĩ nhiên, cung nữ thì không ai xấu bao giờ. Thấy vua Hán
lấy 5 mà đổi 1, y bằng lòng. Một trong năm cung nữ, có
Vương Tường.
Tuy
nhiên, trường hợp Chiêu Quân có nhiều oan trái hơn.
Chiêu
Quân vốn có sắc đẹp tuyệt hạng, lại có tài đàn hay
hát giỏi. Vì vậy, khi được tuyển vào cung, Chiêu Quân
không chịu đút tiền hối lộ cho tên thợ vẽ Mao Diên
Thọ. Mao Diên Thọ trả thù bằng cách khi vẽ hình Chiêu
Quân xong, y thêm một chấm đen dưới con mắt của cô.
Sách tướng nói chấm đen đó là nốt ruồi “thương phu
trích lệ” (Giọt nước mắt khóc chồng), tức là tướng
sát phu (giết chồng).
Khi
gọi Chiêu Quân lên để đưa sang xứ Hung Nô, nhà vua thấy
Vương Tường đẹp quá, muốn giữ lại, nhưng ngại triều
thần, đành phải cho đi mà lòng tiếc rẻ.
Về
cái chết của Chiêu Quân có
nhiều giả thuyết khác nhau:
a)-
Đến “Nhạn
Môn Quan”,
Chiêu Quân gieo mình xuống sông tự vẫn.
Khi đi
qua cửa ải cuối cùng
nầy, Chiêu Quân cảm tác
nhiều bài thơ hay, hòa cùng tiếng
đàn của Chiêu Quân,
trở thành điển tích Hồ
Cầm.
Cung
thương làu bậc ngũ âm
Nghề
riêng ăn đứt hồ
cầm
một chương
là hai câu thơ nói về
tài đàn của Thúy Kiều (truyện Thúy Kiều)
b)-
Chiêu Quân đến đất Hồ,
nàng yêu cầu vua Hồ giết chết gian thần Mao Diên Thọ,
rồi sau đó nàng tìm cách tự tử, nhảy xuống sông để
xác nàng theo dòng trôi trở về đất Trung Nguyên.
c)-
Một thuyết khác cho rằng
Chiêu Quân đã sống một thời gian dài bên Hung Nô.
Phải
nhờ đến sự hy sinh của một người đàn bà để vua
quan dân chúng Tầu được yên thân, có thể đó là điều
không vinh dự gì cho người Tầu và cho cả lịch sử Tầu.
Người
Việt Nam khéo léo phê phán bằng một bài thơ:
Vương
Tường oán triều đình (1)
Vật
chi muông cỏ
dám lăng loàn?
Âu hẵn trong triều ít kẻ ngoan? (2)
Mặt thấy thư Hồ, văn vỡ mật,(3)
Tai nghe nhạc bắc, võ run gan.
Mỡ thơm luống để nuôi thù khấu? (4)
Bùn sũng nào hay đắp ải quan?
Vực nước ví dầu tài Vệ, Hoắc, (5)
Tanh hôi chi để lụy hồng nhan ?
Âu hẵn trong triều ít kẻ ngoan? (2)
Mặt thấy thư Hồ, văn vỡ mật,(3)
Tai nghe nhạc bắc, võ run gan.
Mỡ thơm luống để nuôi thù khấu? (4)
Bùn sũng nào hay đắp ải quan?
Vực nước ví dầu tài Vệ, Hoắc, (5)
Tanh hôi chi để lụy hồng nhan ?
ghi chú:
1)-
Vương Chiêu Quân là cung
nữ của vua Hán Nguyên Đế, gả Chiêu
Quân cho chúa Hung Nô để
đổi lấy quan hệ hòa hiếu. Nàng chịu sang Hung Nô nhưng
cuối cùng vì buồn thương và uất hận nàng đã tự vẫn.
2)-
Câu thơ 3 và 4: Sự hèn nhát của các quan trong triều.
3)-
Chỉ Diên Thọ, tên thợ
vẽ gian tham
5)-
Thù khấu:
Kẻ thù
5)-
Vệ,
Hoắc:
Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, hai người đánh tan được
quân Hung Nô (đời Hán)
Năm
1309, Huyền Trân Công chúa về Chiêm quốc với Chế Mân.
Triều thần có người không thuận. Trong dân chúng có bài
thơ nói về việc Chiêu quân cống Hồ để ám chỉ việc
gả công chúa Huyền Trân.
Vua Hán dụ Vương
Tường
gả cho chúa
Thuyền Vu
Hán
Hồ dẫu muốn vẹn trăm đường
Há
trẫm riêng tây có phụ nường
Bắc
quốc tuy rằng ngoài dị vực
Biên
đình song cũng một biên cương
Ở
đây hạnh thắm nên mai nhạt
Về
đấy sen tàn lổi cỏ hương
Hơn
thiệt tôi đừng ai oán nữa
Chờ
ngày áo gấm lại hoàn hương.
Việc
ví von như thế nầy là khiên cưỡng. Hành động của
Huyền Trân Công Chúa cao quí hơn hành động của Vuơng
Tường nhiều!
Quang
Dũng có bài thơ chê vua Hán như
sau:
Tuyết lạnh che mờ trời Hán Quốc
Tì bà lanh lảnh buốt cung Thương
Tang tình năm ngón sầu dâng lệ
Chiêu Quân sang Hồ xừ hồ xang
Đây Nhạn Môn Quan đường ải vắng
Trường Thành xa lắm Hán Vương ơi!
Chiêu Quân che khép mền chiên bạch
Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi
Ngó lại xanh xanh triều Hán Đế
Từng hàng châu lệ thấm chiên nhung
Quân vương chắc cũng say và khóc
Ái khanh! Ái khanh! Lời nghẹn ngùng
Hồ xang hồ xang xự hồ xang
Chiêu Quân nàng ơi lệ dâng hàng
Lã chã trời Phiên mưa tuyết xuống
Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang.
Tản Đà có bài văn tế
Cô ơi, cô đẹp nhất đời
Mà cô mệnh
bạc, thợ trời cũng thua
Một đi, từ biệt cung vua
Có về đâu nữa, đất Hồ
nghìn năm!
3)-
Trường Hận Ca:
thiên
tình hận giữa Đường Minh Hoàng và Dương
Quí Phi
Khi xưa ta là Đường Minh Hoàng
Ta mơ nàng làm Dương Quí Phi
(Diễm Trang - Vũ Hân)
Dương Quí Phi (719-
756, sau CN) là
cung
phi của
vua Đường Minh Hoàng, một
trong “tứ đại mỹ nhân”,
sắc đẹp khiến hoa héo vì hổ
thẹn (tu hoa).
Dương
Quý Phi tên thật là Dương
Nguyệt Nhi, sau
gọi
là Dương Ngọc Hoàn, quê ở Tứ
Xuyên. Năm 17 tuổi, Ngọc Hoàn được tuyển vào cung làm
vợ Thọ Vương Lý Mão, con vua Đường Minh Hoàng. Khi ấy
Lý Mão còn nhỏ lắm.
Khi
ấy, Vũ Huệ phi, rất được Đường Minh Hoàng sủng ái,
mới qua đời. Vua Đường thương nhớ vô cùng.
Cao
Lực Sĩ bèn lập mưu, đưa Ngọc Hoán vào chùa chăm sóc
nhang khói cho Vũ Huệ Phi. Sau đó, đưa Ngọc Hoán vào chầu
Đường Minh Hoàng. Nhà vua được Ngọc Hoán, bèn say mê,
phong làm Quí Phi, gọi là Dương Quí Phi. Như vậy, có
nghĩa là Dương Quí Phi lấy cha chồng.
Dương
Quí Phi thường đi tắm suối ở Tây An. Nay ở đây người
ta dựng tượng Dương Quí Phi tắm suối để kỷ niệm
(xem hình)
Câu
chuyện tình Lý Bạch và Dương Quí Phi
Lý Bạch là người
nổi tiếng hay thơ. Ai cũng ca ngợi. Riêng Cao Lực Sĩ và
Dương Chấp Trung, anh của Quí Phi, chê rằng tài Lý Bạch
chỉ đáng mài mực và cởi giày cho thiên hạ.
Bấy giờ vua Hung Nô
gởi thư cho vua Đường Minh Hoàng bằng tiếng Hung Nô.
Triều thần không ai đọc được, vua phải triệu Lý Bạch
vào. Lý Bạch đọc thư và giải thích cho vua nghe. Vua rất
tán thưởng, lệnh cho Lý Bạch viết thư trả lời. Bạch
vâng mệnh nhưng để trả mối hận bị chê bai, xin vua ra
lệnh Cao Lự Sĩ cởi giày và Dương Chấp Trung mài mực
cho ông ta viết thư.
Dương
Quí Phi và Lý Bạch là người cùng thời. Lý Bạch cũng
được Đường Minh Hoàng trọng vì tài, thường vời vào
cung cùng vua và Dương Quí Phi ngắm hoa, ngắm cảnh và làm
thơ. Bạch Cư Dị làm thơ tả sắc đẹp Dương Quí Phi,
có hai câu đời sau còn nhắc nhở:
Phù
dung như diện, liễu như mi
nghĩa là mặt như hoa
phù dung, mày như lá liễu.
Về sau, Đường Minh
Hoàng không còn trọng đãi Lý Bạch nữa, ông xin cáo
quan, chỉ xin một điều, vua ban cho một lệnh bài, đi đến
đâu, uống rượu khỏi trả tiền. Chủ quán nhận tiền
ở quan lại địa phương.
Một đêm, Lý Bạch
quá say, chơi thuyền trên sông. Thấy trăng ở đáy nước,
bèn nhảy xuống sông, ôm trăng mà chết.
Tôi không tin câu
chuyện nầy. Quan hệ giữa Lý Bạch và Dương quí Phi có
thể quá gần gũi, không khiến cho Đường Minh Hoàng ghen
hay sao! Vì vậy, khi Đường Minh Hoàng không ái mộ Lý
Bạch nữa nên Bạch buồn tình xin cáo quan. Biết đâu,
cái đêm trăng Lý Bạch chết, không phải ông ta nhảy
xuống sông mà có thể một tên nào đó, giả dạng theo
hầu Lý Bạch, đã đạp cho ông ta một đạp rớt xuống
sông, để Đường Minh Hoàng thỏa mãn cái tính ghen.
Chuyện đã gần hai
ngàn năm. Thuở ấy, sợ vua, ai dám điều tra. Ngày nay dù
“ăn ốc nói mò”, biết đâu lại là chuyện thiệt!!!
Sắc
đẹp Dương Quí Phi
Như đã nói, sắc đẹp
của Dương Quí Phi được Bạch Cư Dị mô tả là “Phù
dung như diện, liễu như mi”. Xin nói
thêm, hoa phù dung là tên chữ. Tiếng Việt gọi là bông
cẩn, người Bắc gọi là hoa dâm bụt.
Lý
Bạch trong Thanh Bình
Điệu ca tụng
sắc đẹp của Ngọc Hoàn.
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,
Xuân phong phật hạm, lộ hoa nùng.
Nhược chi quần ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng Đao đài nguyệt hạ phùng.
Ngô Tất
Tố dịch:
Thoáng
bóng mây hoa, nhớ bóng hồng.
Gió xuân dìu dặt giọt sương trong
Ví chăng non ngọc không nhìn thấy,
Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông.
Trong
“Trường Hận Ca”, bài thơ nói về mối hận tình giữa
Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi (vua ra lệnh giết cô
ta), Bạch Cư Dị tả sắc đẹp của Dương Quí Phi như
sau:
Qui
lai trì uyển giai y cựu
Thái
Dịch phù dung Vị Ương liễu;
Phù dung như diện liễu như mi
Phù dung như diện liễu như mi
Đối
thử như hà bất lệ thùy?
Cũng
trong bài thơ, tả tình vua Đường Minh Hoàng nhớ Dương
Quí-Phi có câu:
“Phù-dung
như diện liễu như my” nghĩa là hoa
phù-dung như mặt, lá dương-liễu như mày.
Tản
Đà dịch:
Phù
dung đó! Mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như!
Càng trông hoa liễu năm xưa,
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm.
Mày liễu đâu? Cho lá còn như!
Càng trông hoa liễu năm xưa,
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm.
Nhà thơ Đinh Hùng tán tụng:
...Thoáng
nét sương, nụ cười in khuôn ngọc,
Em bâng khuâng hé nửa cặp môi hồng,
Mắt nhắm nghiền, và sóng ngực rung rung,
Hơi thở ấm não nùng hương phấn dại ...
(Giáp Mặt Phù Dung)
Em bâng khuâng hé nửa cặp môi hồng,
Mắt nhắm nghiền, và sóng ngực rung rung,
Hơi thở ấm não nùng hương phấn dại ...
(Giáp Mặt Phù Dung)
Phù dung, trong tiếng
Việt, cũng có nghĩa là “hút thuốc phiện”, có khi gọi
là “Ả Phù Dung”. Đinh Hùng là một đệ tử của
“Ả”.
Khi ở cung, Dương quí
Phi thường nhớ nhà. Môt hôm ra vườn ngự uyển, nhằm
lúc hoa đang nở rộ. Thấy hoa, Dương Quí Phi than thở
phận mình, nước mắt tuôn rơi. Khi Phi đưa tay sờ vào
hoa, hoa khép cánh lại. Do câu chuyện nầy, sử Tầu gọi
Dương Quí Phi là “người đẹp tu hoa”, nói theo thành
ngữ là “hoa nhường nguyệt thẹn”.
Có người không tin
câu chuyện hoa nầy, cho rằng thiên hạ vẽ vời, biết
đâu Dương Quí Phi sờ nhằm vào cây mắc cở, văn vẻ
thì gọi là cây trinh nữ.
Nàng lại
đặt được nhiều khúc hát và điệu múa làm cho Huyền
Tông càng thích thú say sưa hơn.
Loạn
An Lộc Sơn
An Lộc Sơn (ALS), gốc
là người “Rợ Đột Quyết” là tướng được Đường
Minh Hoàng yêu vì. Khốn nỗi, Dương Quí Phi lại tư thông
với ông tướng đẹp trai nầy. An Lộc Sơn thù ghét Dương
Quốc Trung, anh của Dương Quí Phi. Ông nầy dựa vào thế
em gái, lộng quyền ở cung. An Lộc Sơn đem quân về
Trường An, quyết dẹp bỏ gian thần.
Quân của An Lộc Sơn
đánh bại quân của triều đình.
Vua Đường Minh Hoàng
phải nhường ngôi cho con để lên làm thái thượng hoàng.
Tuy vậy, quân của triều bình vẫn liên tiếp bị đại
bại. Thượng hoàng cùng Dương Quí Phi chạy vào đất
Thục.
Đến Mã Ngôi (năm
756), binh lính không chịu chống giặc nữa. Chúng buộc
nhà vua phải giết Dương Quí Phi mới chịu tuân lệnh vua
vì cho rằng chính sự giam dâm giữa Dương Quí Phi với
ALS mới gây nên mối loạn nầy.
Vì sức ép của binh
lính, Đường Minh Hoàng ra lệnh thắt cổ Dương Quí Phi,
lúc ấy bà mới 38 tuổi, chôn xác ở ven đường.
Sau đó vua quan nhà
đường dẹp được loạn AnLộc Sơn, giành lại đất đai
cũ.
Dương Quí Phi là giai
nhân. Câu chuyện tình giữa bà và An Lộc Sơn không phải
là sự dâm dục mà ra? Vua thì đã già, lại từng hoang
dâm vô độ, làm sao “gánh” Dương Quí Phi đang tuổi
hồi xuân.
Sự dâm dục đã tạo
nên một thiên tình hận, mà Bạch Cư Dị gọi là “Trường
Hận Ca”. Không ít người tiếc cho cái sắc đẹp của
bà, nên cũng không ít người làm thơ.
Người xưa đâu thì
tận mắt tôi không thấy, nhưng thi sĩ Vũ Hân khi dạy
trường Bồ Đề Huế thì tôi gặp không ít lần, gặp
ngoài đường phố, hay ở tòa soạn báo Mùa Lúa Mới hay
ở nhà thi sĩ Đỗ Tấn. Nhìn ông thấy mà tội nghiệp.
Ông bị tật bẩm sinh, đi đứng không bình thường. So
sánh ông với Đường Minh Hoàng thì cũng là khiên cưỡng.
Và ông cũng có một Dương Quí Phi. Điều đáng buồn là
sau khi Dziệt Cộng “giải phóng miền Nam”, ông bị đuổi
khỏi trường Bồ Đề, và Dương Quí Phi của ông cũng
“ôm cầm thuyền ai”, theo một An Lộc Sơn “nón cối
dép râu”. Ông chết trong cảnh nghèo đói, cô đơn (xem
phụ lục)
Ông cũng từng mơ
Dương Quí Phi hay sao nên ông ước:
“Khi xưa ta là Đường Minh Hoàng
Ta mơ em là Dương Quí Phi.”
4)-
Ngô Phù Sai
mất
nước vì Tây
Thi?
Sự ưu ái của Ngô
Phù Sai đối với Tây Thi, trong sử sách cũng ít thấy ai
sánh bằng. Để làm vui lòng giai nhân, vua sai:
- Dựng Cô Tô đài
- cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi.
- Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đấy rất nhiều chum, bên trên lát ván, để Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp.
- Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt.
- Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi.
- Lại có động gọi là động Tây Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay người ta gọi là vết chân Tây Thi.
- Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường cùng với Tây Thi gẩy đàn ở đấy.
- Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dãi nước ở phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa.
- Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen.
- Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình.
- Phía nam đô thành có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn.
- Lại có Ngư Thành để nuôi cá,
- Áp Thành để nuôi vịt,
- Kê Bi để nuôi gà,
- Tửu Thành để nấu rượu.
- Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là chỗ Tiên.
Tây
Thi người nước Việt, sống vào thời Xuân Thu, 506 trước
CN, không rõ mất lúc nào, năm nào, ở đâu, là môt trong
“tứ đại mỹ nhân” của Tầu.
Khi
cô gái
giặt áo bên bờ sông, bóng soi trên mặt nước sông trong
suốt làm thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến
quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó,
người trong vùng xưng tụng nàng là “Tây
Thi Trầm Ngư”.
Ngô Việt đánh nhau,
Việt Câu Tiễn đại bại, bị bắt. Văn Chủng, quân sư
của Việt Câu Tiễn, hiến kế mỹ nhân để lung lạc,
làm suy yếu nước Ngô.
Câu Tiễn tuyển hai
ngàn mỹ nữ dâng cho Phù Sai, trong đó, đẹp nhất là
Trịnh Đán và Tây Thi.
Tây Thi gop công lớn
trong việc làm cho Ngô Phù Sai ham mê tửu sắc, bỏ bê
triều chính, nên Việt Câu Tiễn phục hận, giành lại
đất nước.
Sau khi đại thắng,
vợ Việt Câu Tiễn muốn mưu hại Tây Thi vì sợ Câu Tiễn
sẽ mê say cô ta mà di vào con đường như Phù Sai.
Tây Thi và Phạm Lãi
có tư tình với nhau từ trước nên cả hai trốn vào Ngũ
Hồ, về sau không ai biết hai người đi đâu. Có người
bảo rằng Tây Thi đã tự vẫn.
Tô
Đông Pha
có
bài thơ về Tây Thi:
Thủy quang liễm diễm tình phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ
Dục bá Tây Hồ tỉ Tây Tử
Đạm tran nồng mật tổn tươngt nghi
(Nước dập dờn bừng khi nắng dọi,
Nước nhạt nhoà xanh lúc mưa về
Tây Hồ ví tựa Tây Thi
Điểm tranh đậm nhạt vẽ gì cũng xinh
Người ta thường cho
rằng Ngô Phù Sai mất nước là vì Tây Thi. Vì vậy, La Ôn
minh oan cho Tây Thi bằng mấy câu thơ:
“Nước
mất nhà tan bởi cơ trời
Sao cứ Tây Thi đổ
tội hoài
Tây Tử nếu làm
Ngô mất nước
Thì xưa Việt mất
bởi tay ai?
5)-
Khúc Ca Tần Hoài
(Ai
luyến, ai tiếc Khúc Ca Tần Hoài -
Dương Thiệu
Tước - Đêm Tàn Bến Ngự)
Trần
Hậu Chủ
tên thật là Trần Thúc Bảo (553-604), nhà Hậu Trần thời
Nam - Bắc triều bên Tầu.
Ông
nổi tiếng là người tài tử phong lưu, ưa đàn hát vui
chơi, trong cung lúc nào cũng có hàng ngàn mỹ nữ giai
nhân, nổi tiếng nhất là Khổng Quí Tần và Trương Lệ
Hoa, hai người rất được nhà vua sủng ái.
Vua
cho xây điện Quang Chiếu, toàn bằng gỗ trầm hương để
cùng các tài tử giai nhân xướng họa thơ phú, vui ca đàn
hát.
Những
bài thơ khúc hát soạn ra
được chép thành 3 tập là: Nghinh Xuân nhạc, Ngọc Thu và
Hậu Đình Hoa (Hoa ở sân sau).
Riêng tập Hậu Đình Hoa toàn sưu tập những bài bay bướm,
bóng bẩy, dâm đãng. Những cuộc
vui nầy làm cho nhà Trần suy vi.
Trần
Hậu Chủ
cũng soạn
một khúc hát Hậu Đình Hoa:
Nguyên
tác là:
Lệ vũ phương lâm đối cao các
Trân trang điểm chất bản khuynh thành,
Ánh hộ ngưng kiều sa bất tiến,
Xuất duy hàm thái tiếu tương nghinh.
Yêu cơ kiểm tự hoa hàm lệ,
Ngọc thu lưu quang chiếu Hậu Đình.
Nghĩa:
Bóng rợp hương thơm chốn lâu các,
Nghiêng thành vẻ đẹp với mầu tươi.
Ngoài cửa dịu dàng khoan dạo bước
Trước màn chào đón mỉm môi cười,
Má hồng tựa đóa hoa đầy móc
Cây ngọc sân sau chiếu
sáng ngời
Vua
Văn Đế nhà
Tùy thừa dịp nhà Hậu Trần nầy,
sai đem quân sang vây Đại Thành. Giữa lúc ấy, Trần Hậu
chủ còn đương say rượu, chưa
tỉnh.
Nhà
Hậu Trần bị diệt vong, người ta cho rằng sở dĩ nước
mất nhà tan cũng do khúc hát “Hậu
Đình Hoa”
ấy,
Đỗ
Mục, nhân một
đêm ghé thuyền trên bến Tần Hoài, gần một quán rượu.
Đêm đã khuya mà bấy
giờ trong quán, khách còn say
sưa ăn uống, bên cạnh những ả buôn son bán phấn hát
xướng để mua vui cho khách.
Lắng
nghe giọng hát réo
rắt bên kia sông, Đỗ Mục làm bài
thơ, thường gọi là Tần Hoài Dạ Bạc
Nguyên văn:
Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng "Hậu Đình Hoa"
Khói bay, nước lạnh, khói trăng pha,
Thuyền đậu sông Tần cạnh Tửu gia.
Hận nước gái buôn không biết rõ,
Cách sông còn hát “Hậu
Đình Hoa”.
Trong
“Cung
Oán
Ngâm
Khúc”
của Nguyễn Gia Thiều ở nước ta, cũng có câu:
Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.
Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lặp lòe vẻ son.
Trong bài hát Đêm Tàn
Bến Ngự có câu...
Thuyền
mơ trong khúc Nam Ai,
Đàn khuya trên sông ngân dài.
Ai luyến ai tiếc khúc ca Tần Hoài!
Đàn khuya trên sông ngân dài.
Ai luyến ai tiếc khúc ca Tần Hoài!
Khúc
ca Tần Hoài
chính là khúc Tần Hoài Dạ Bạc nói ở trên.
Sông
Hoài, còn gọi là Hoài Hà, Hoài Thủy, lớn thứ ba sau
Dương Tử và Hoàng Hà, không chảy ra biển mà đổ nước
vào sông Dương Tử. Sông chảy qua Tần Hoài
là một quận của Nam Kinh.
6)-
Điêu
Thuyền
“Bọn
ta đều chết cả về tay người đàn bà này”
(Lý Nho, mưu
sĩ Đổng Trác)
Đổng Trác lộng
quyền. Vương Doãn muốn trừ bèn lập mưu với Điêu
Thuyền là con gái nuôi, hát hay, đàn giỏi, sắc đẹp
khiến trăng phải xấu hổ mà dấu mình đi (“bế
nguyệt”), Cung Oán Ngâm Khúc gọi là “Hương trời đắm
nguyệt say hoa). Điêu Thuyền là một trong “tứ đại mỹ
nhân”.
Vương
Doãn gả Điêu Thuyền cho Đổng Trác, nhưng xúi Điêu
Thuyền ngoại tình với Lã Bố, con nuôi Đổng Trác. Thế
rồi hai cha con Đổng Trác - Lữ Bố giết nhau.
Đổng
Trác bị giết rồi, dân chúng thoát khỏi ách cai trị tàn
ác.
Đổng
Trác mê say tiếng đàn, giọng hát,
ánh mắt của Điêu Thuyền được
mô tả như sau:
Nhất điểm anh đào khải giáng thần.
Lưỡng hàng toái ngọc phún dương xuân.
Đinh hương thiệt thổ hành cương kiếm.
Yêu trảm tà gian loạn quốc thần!
dịch:
Một đóa anh đào chúm chím môi,
Đôi hàng răng ngọc rạng xuân tươi.
Hương đưa đầu lưỡi
tàng hơi kiếm:
Chém
chết gian thần
có lúc thôi!
Bài
hát ca ngợi vẻ đẹp Điêu Thuyền:
Động
đình
lạc lối hoa bay,
Trăm hoa nhường vẻ thanh tân một người!
Mao Tôn Cương trong
“Thánh
Thán Ngoại Thư” bàn về
Điêu Thuyền như sau:
“18
lộ quân chư hầu không giết nổi Đổng Trác, mà một
thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Điêu Thuyền lại giết
nỗi Trác.
Ba
anh em Lưu, Quan,
Trương hùng liệt không thắng nỗi Lữ Bố, mà chỉ một
nàng Điêu Thuyền thắng nỗi.
Ôi,
lấy chăn
chiếu làm chiến trường,
lấy
son phấn làm
khôi giáp,
lấy
mày ngài làm
cung nỏ,
lấy
nước mắt
nũng nịu làm tên đạn,
lấy
lời tình tứ
ngọt ngào làm chiến lược mưu cơ.
Xem
thế thì cái bản lãnh của “nữ
tướng quân”
quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!"
Chuyện
vặt:
- Tề Tuyên Vương:
Vua
Tuyên-vương nước Tề trong khi nói chuyện trị nước
(chính-trị) với thầy Mạnh-tử, có nói câu “Quả-nhân
hữu-tật, quả nhân hiếu sắc (kẻ quả-nhân (tụ xưng)
này có tật, kẻ quả-nhân này hiếu sắc). Đó chỉ là
một câu nói ví-dụ ở trong việc chính-trị, mà đây
dùng lối “đoạn chương thủ nghĩa” (cắt câu lấy
nghĩa) cho thêm lý thú khôi hài. Bệnh Tề Tuyên đã nổi
lên, tức bệnh ưa sắc đẹp của một đấng quân-vương.
Tài-sắc
đã vang-lừng trong nước,
Bướm-ong càng xao-xác ngoài hiên,
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh
Tề Tuyên đã nổi lên
đùng đùng.
- Thành Thái
Vua
Đồng Khánh mất, ông Bửu Lân lên nối ngôi, hiệu là
Thành Thái. Vua thành Thái là người tiến bộ, chọn Tây
học, và cũng âm mưu chống Pháp, giành độc lập.
Để
chuẩn bị công việc nầy, nhà vua thành lập một đội
nữ binh (lập nam binh sợ Tây lưu ý). Ông thường đi vi
thiềng tìm người, giả bộ nói là đi tìm người ông
yêu. Do đó, trong dân chúng Huế có câu ca dao, có người
nói là do nhà vua đặt ra:
Kim
Luông có gái mỹ miều
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.
Kim
Luông, là nói trại tên làng Kim Long, phía tây ngoại thành
Huế, làng trù phú, có nhiều nhà quan, cũng là nơi có họ
đạo của ông giám mục Gaspar là “tên thực dân mặc áo
chùng đen” như cách thường gọi của người Huế.
Dù
vậy, việc làm của vua Thành Thái cuối cùng cũng bị bại
lộ.
Người
ta nói chính là Trương Như Cương, quan to trong triều, biết
việc nầy, liền báo cho Tây biết, để lật đổ vua
Thành Thái mà đưa con rể của ông là Bửu Đáo, lên làm
vua, tức là Khải Định.
Cũng
có người nói con gái Nguyễn Thân, cung phi, cũng ở trong
đội nữ binh, bị thương khi tập đánh gươm. Nguyễn
Thân vào thăm con, biết việc bèn báo cho Tây để lập
công. (Theo sử, Nguyễn Thân là đại Việt gian. Theo ông
Nguyễn Đức Cung, Nguyễn Thân là nhà ái quốc!)
Tây
không đủ lý do truất phế ông về việc chống Tây bèn
ngụy tạo lý do bảo rằng ông bị bệnh điên, hoang dâm,
không làm vua được.
Tây
nói đúng hay dư luận dân chúng Huế đúng?
- Ngô Tam Quế
Ngô
Tam Quế làm tướng nhà Minh, được giao nhiệm vụ trấn
giữ Sơn Hải Quan là biên giới giữa lãnh thổ nhà Minh
và Mãn Thanh. Bấy giờ thế lực nhà Thanh ở Mãn Châu
mạnh lắm, muốn cướp Trung Nguyên nhưng không vượt được
Sơn Hải Quan.
Bấy
giờ ở kinh thành có loạn, Lý Tự Thành đã diệt được
nhà Minh, dự tính sẽ lên làm vua, cho người liên minh với
Ngô Tam Quế. Tam Quế có một người thiếp yêu ở kinh
đô, bị một tướng của Lý Tự Thành cướp mất. Vì
vậy, Ngô Tam Quế tức giận, bỏ Sơn Hải Quan, liên hợp
cùng quân Thanh kéo về kinh đô để trừng trị kẻ đã
cướp người thiếp của y. Nhờ đó, nhà Thanh lên ngôi ở
Bắc kinh, cai trị Trung nguyên 300 năm. Người Tầu không
ngo ngoe gì được, phải chờ đến cuộc cách mạng Tân
Hợi để “nồi da xáo thịt” cho tới khi Tưởng thua
chạy ra Đài Loan. (xem phụ lục trích từ “Sử Trung
Quốc” của Nguyễn Hiến Lê)
Dĩ nhiên, người được
mê phải là người đẹp, còn như nói yêu người xấ,
không hẵn là không có, nhưng có thể coi như đó là ngoại
lệ, ít khi.
Dã sử còn nhắc
chuyện vua nhà Lý gặp Ỷ Lan phu nhân. Bà xấu đẹp không
biết nhưng mặt lại rổ. Khi bị bắt tới “trình diện”
vua Lý, thấy mặt nàng, vua bảo sẽ ra một câu đối, nếu
đối được thì vua tha tội “khi quân” không chịu quì
xuống, đứng dựa (ỷ) vào cây “lan” khi kiệu vua đi
qua. Câu vua ra là:
Rổ
chàng, rổ chịt, rổ chín mười mươi
Cô
gái đối là:
Yên
nước, yên dân, yên luôn bốn bể.
Mê?
Người đàn ông mê gái, mê vợ bé, ít ai mê vợ cả. Vì
vậy mới có câu ca dao:
“Gió
đưa bụi chuối, sau hè,
Anh theo vợ
bé bỏ bè con thơ”
Câu thơ đầu thuộc
thể hứng. Người vợ đêm nằm nghe tiếng lá chuối xào
xạc sau hè, khó ngủ nên nhớ tới người chồng bạc
bẻo.
Thôi! xin bà ngủ đi
bà vợ cả. Sở dĩ bà bị chồng phụ là vì bà lớn tuổi
rồi, bà già rồi, bà là “gái xề” năm, ba mặt con
rồi, bà chỉ còn là:
Chàng
ơi phụ thiếp làn chi
Thiếp là cơm
nguội để khi đói lòng.
&
Tứ
đại mỹ nhân và hầu như gần hết người đẹp nước
Tầu, nước ta, nước Nhựt... có mấy ai được “trường
thọ”. Người thương cũng nhiều mà người ghét cũng
không ít. Thậm chí, nhiều khi cây cỏ cũng ghen.
Trong “Tần Cung Nữ
Oán Bái Công Văn” có câu:
“Cặp
mày xanh chiếc lá cũng ghen,
Câu khiển
hứng đánh chìm giòng nước chảy”
Chiếc lá ghen với
đôi mày đẹp, nên khi cung nữ viết vào lá vài câu thơ,
thả xuống giòng suối trong cung, nhờ lá trôi ra ngoài
cung cấm, để lời tâm sự của cung nữ được ai đó ở
ngoài kia nhặt lá lên xem mà biết tới. Nhưng lá vì ghen
sắc đẹp với cung nữ, không trôi đi mà chìm xuống đáy
nước.
Trong truyện Kiều,
Nguyễn Du nói rõ hơn: “Hoa ghen sắc thám, liễu hờn kém
xanh”.
Cô Kiều không chết
sớm, nhưng cô phải chịu 15 năm lưu lạc.
Xưa thì cho người
tài giỏi và người đẹp đều mệnh yểu như nhau:
“Giai
nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân
gian kiến bạch đầu”.
(Danh tướng cũng như
giai nhân, không hứa ở với đời đến khi đầu bạc)
Ngay thế kỷ 20, nhà
thơ Jan Leiba cũng đồng ý như như vậy:
“Người đẹp
thường hay chết yểu
Thi nhân đầu
bạc sớm hơn ai!”
Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Quách Thoại qua đời khi chưa quá tuổi ba mươi!
Xưa gọi là “tài
mệnh tương đố”. Ngày nay, tôi không tin như vậy. Tin
vào số mệnh, chỉ là điều an ủi...
hoànglonghải
Ngô
Tam Quế được lịnh về cứu kinh đô từ mười ngày
trước, vẫn chùng chình, tiến binh rất chậm, có lẽ vì
còn tính xem có nên nhận đề nghị chia chác sau đó của
Lý Tự Thành không. Khi Tư Tôn (tức Sùng Trinh Hoàng đế)
tuẫn quốc, thì Quế mới tiến được có nửa đường
tới Bắc Kinh. Hay tin, hắn quay trở về liền để chờ
xem tình thế ra sao.
Lý
Tự Thành đã thành công một cách dễ dàng...Duy có Ngô
Tam Quế là có thể gây rối cho ông. Ông nhờ cha của Quế
(lúc đó đã theo ông) làm trung gian để điều đình với
Quế. Nhưng Quế vẫn không quyết định gì cả, có lẽ
muốn đợi Lý Tự Thành trả cho mình một ái thiếp bị
một tướng của Tự Thành bắt. Đồng thời Quế cũng
thương thuyết với quân Thanh, nhờ quân Thanh giúp khi cần.
Tự Thành hay tin đó tặng Quế 40.000 lạng (bạc?), Quế
vẫn làm thinh.
Bực
mình, Tự Thành phái hai tướng đem 20.000 quân tấn công
Quế. Nhưng đáng lẽ phải cấp tốc đánh Tam Quế trước
khi quân Thanh can thiệp, thì họ lại kéo dài ra. Tự Thành
phải đích thân đem 200.000 quân đánh Quế ở gần Sơn
Hải Quan, khi vây Quế ba mặt rồi, quân Quế sắp bị
tiêu diệt thì quân Thanh tới cứu Quế. Tự Thành thua,
rút lui, đề nghị chia giang sơn với Quế; Quế không
chịu, Tự Thành giết cha Quế rồi vội vàng về Bắc
Kinh (vì quân địch theo bén gót) vơ vét vàng bạc, châu
báu chất lên xe, đưa về phía Tây, đốt cung điện rồi
cùng với quân đội rút lui...
Quế
hy vọng đuổi được Tự Thành rồi, nhường cho nhà
Thanh một số quyền lợi nào đó thì họ sẽ lui về Mãn
Châu. Không dè viên phụ chính (Đa Nhĩ Cổn), chú vua Thanh
bảo chưa lập được trật tự nên không về, lại sai
Quế đem quân Thanh đuổi theo Lý Tự Thành tới Thiểm
Tây. Trong khi đó, vua Thanh mới 7 tuổi được chú (tức
viên phụ chính) đưa vào Bắc Kinh, đặt lên ngai vàng.
Quế
hay tin như người mất hồn, suốt ngày đóng cửa không
tiếp ai, rất rầu rĩ. Hắn tiếc vì mất ái thiếp, lại
mất ngôi vua hay chức Tể
tướng.
Hắn ân hận vì để cho cha bị giết và mang tội phản
quốc..
Khóc Vũ Hân
(Vũ Hân, quê Quảng
Nam, bị tật bẩm sinh, là một nhà thơ, - tác giả thi
phẩm “Diễm Trang”, nhà giáo nổi tiếng ở trường Bồ
Đề Huế. Sau 1975, ông bị buộc phải thôi dạy học,
sống lây lất ở Saigon, vợ bỏ. Ông chết trong cảnh
nghèo khó. Bài thơ nầy Hoàng Vũ khóc Vũ Hân khi nghe tin
Vũ Hân qua đời).
Ức Vũ quân hề lệ
mãn khâm
Trường Sơn Quảng
địa nhất tinh trầm
Yên hoa phong bút, hồn
như tại
Hà huống tao nhân ảo
tỵ trần
bản nôm:
Thấm bâu lệ nhớ
bao lần
Quê hương bỗng xót
một vì sao rơi
Bút hoa gởi lại với
đời
Đành sao anh vội về nơi chia đường.
Nhất phiến tài tình vạn cổ thương
Nhàn văn độc khứ thệ hà phương
Ô hô! Thế sự mai trường mộng
Hốt kiến trần khôi sở đoạn trường
bản nôm:
Tài hoa một kiếp
thân thương
Cánh mây biền biệt
cuối đường phiêu du
Mộng trường chôn
chặt nghìn thu
Màu tro xám lạnh bùi
ngùi tâm can
Hoàng Vũ
Truyền
Thuyết:
Tương
truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại
Chử Xá huyện Văn
Giang,
tỉnh Hưng
Yên.
Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ
còn lại một chiếc khố
phải thay nhau mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con
lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân.
Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm
khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở,
kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa
người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin
ăn.
Tiên Dung |
Thời
ấy vua Hùng
Vương
thứ ba có cô con gái tên là Tiên
Dung đến
tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không
chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa
đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại
thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử
hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé
vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở
bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng
Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử
dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ
ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Vua
Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung
về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà
Thám,
đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh,
ai cũng kính thờ Tiên Dung -
Chử Đồng Tử làm chúa.
Một hôm có người bày cho cách ra ngoài
buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử
Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một
hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh
Tiên.
Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ
tên Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách
buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật.
Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử
một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là
vật thần thông.
Về
nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên
Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du
tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà
không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại
cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ
đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc,
người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng
quanh vùng kinh ngạc bèn dân hương hoa quả ngọt đến xin
làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như
một nước riêng.
Nghe
tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi
đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự
nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự
cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi
Tự Nhiên
cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to
gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi
của Tiên Dung -
Chử Đồng Tử phút chốc
bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành
một cái đầm rất lớn.
Nhân
dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn
mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất
Dạ (Đầm Một
Đêm), bãi cát đó là Bãi
Tự Nhiên hoặc Bãi
Màn Trù và chợ
đó là chợ Hà Thị.
|
|