|
- November.2012
|
Có nói quá hay không khi có một số người gọi Tam Đảo là thiên đường thứ hai?
Xét về mặt cấu tạo địa hình thì, Tam Đảo là một dãy núi được hình thành cách đây hơn hai trăm năm, do hoạt động phun trào dung nham của núi lửa qua nhiều đợt, xếp chồng lên nhau, chạy theo hướng Tây-Bắc Đông-Nam, thuộc địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nhờ có độ cao cùng dốc đứng, Tam Đảo tạo nên rất nhiều suối, thác nước, rừng nguyên sinh cùng với hệ động thực vật đa dạng và phong phú.
Để rõ thực hư ra sao, tôi quyết định đến Tam Đảo một lần, tìm hiểu cho trọn vẹn lời đồn đại kia. Chợt nhớ Nhã có lần đã rũ tôi đi chơi Tam Đảo, nhưng do bận công việc tôi phải bay ngay vào trong Nam, từ đó quên luôn lời rủ rê. Không biết bây giờ Nhã có rảnh rang hay lại bận thay gia đình trông coi cái khách sạn bề thế trên Lạng Sơn? Thôi, cứ thử email hỏi cô xem có muốn tháp tùng cùng tôi đi lên Tam Đảo, khám phá “thiên đường thứ hai” như nhiều người vẫn ví von hay không? Sau một lúc do dự, Nhã từ đầu dây phía bên kia trả lời - Ok. Vậy là chúng tôi hẹn gặp nhau vào trưa hôm sau tại bến xe Vĩnh Yên, với điều kiện giờ giấc phải chính xác.
Tưởng điều kiện gì khó khăn, chứ việc hẹn hò với một cô gái xinh đẹp như Nhã thì làm sao tôi có thể bê trể. Hơn nữa, do tôi biết cô có thời gian dài đi du học nhiều năm ở nước ngoài nên, việc tiếp cận tác phong công nghiệp từ các nước tiên tiến, giúp cô thay đổi phần nào quan niệm lạc hậu về giờ giấc song, tục ngữ có câu “nhập gia tuỳ tục”. Nghĩa là sống ở đâu phải theo phong tục tập quán nơi đó. Vì vậy, tôi không thấy phiền hà khi Nhã ra điều kiện như thế, nhưng nếu ở trong nước mà áp dụng thời gian một cách cứng nhắc quá, có khi gặp phải cảnh dở khóc dở cười như chơi. Tôi kể cho Nhã nghe chuyện đi ăn cưới vào thời @ ở Sàigòn. Thí dụ, vào một ngày đẹp trời nào đó bạn nhận từ bạn bè tấm thiệp mời tham dự tiệc cưới. Trên thiệp có ghi rõ “trân trọng kình mời . . . vui lòng đến dự buổi tiệc rượu, chung vui cùng gia đình chúng tôi tai . . . vào lúc 17 giờ 00 ngày . . . Sự hiện diện của . . . là niềm vinh hạnh cho gia đình chúng tôi. KÍnh mời”. Nhưng xin bạn chớ có dại dột hiện diện vào đúng giờ giấc ấy. Tại sao? Vì người dân ở đây có thói quen “xài” giờ cao su chứ còn gì nữa. Nếu chẳng may, bạn là người khách lịch sự đến đúng giờ hẹn như đã ghi trong thiệp mời, lúc đó bạn chỉ còn biết nghệch mặt ra chờ đợi giờ khai mạc, trong cảnh bụng sôi ùn ục vì đói meo. May lắm, tới 19 giờ hoặc hơn nữa, sau một hồi lễ lộc diễn ra tưng bừng, bạn mới được đụng tới đủa, gắp vào chén miếng ăn đầu tiên. Nghe kể thế, từ đầu bên kia Nhã kêu chí chóe trong điện thoại “Eo ơi! Thời gian là vàng bạc, giờ giấc cao su đến thế thật là phản khoa học, là ăn bữa giỗ lỗ bữa cày” đấy? Biết vậy, nhưng có lỗ đến hàng chục bữa cày chăng nữa, sự lạc hậu vẫn cứ được xã hội đồng tình chấp nhận, riết rồi trở thành thói quen tuốt tuột.
Mùa hè, thời tiết ở Hà Nội rất nóng, ngồi trước chiếc quạt máy vặn hết cở, hơi nóng cứ sầm sập phả lên người làm cho cái nóng lại càng thấy nóng hơn. Nhiều gia đình có điều kiện, vào mùa này thường chọn cho mình nơi nào có khí hậu tương đối mát mẻ để đi nghỉ dưỡng. Có lẽ, nhờ cách Hà Nội chỉ hơn tám mươi cây số đường láng bong, ngoại trừ mười mấy cây số đường đèo, Tam Đảo được coi là thiên đường tránh nóng. Vì vậy, mỗi cuối tuần chỉ cần bắt xe khách ở bến Mỹ Đình, chậm lắm cũng chỉ mất hơn hai giờ đồng hồ chạy dọc theo quốc lộ 2, vượt qua những cánh đồng bao la sẽ dễ dàng nhận ra ba đỉnh núi Thạch Bàn, Thiên Thị, Máng Chỉ nhô lên như ba hòn đảo nhỏ giữa mây trời nên, được nhiều người gọi luôn nó là Tam Đảo?
Đến bến xe Vĩnh Yên, tôi gặp Nhã đúng giờ như đã hẹn. Chưa kịp hàn huyên, chuyến xe buýt số 7 đi Tam Đảo cũng vừa trờ tới. Lên xe, chạy đến cây số thứ 11, gọi bác tài dừng lại cho xuống. Từ đây, bắt xe ôm leo tiếp con đường độc đạo 2 B để lên Tam Đảo. Con đường đèo không dài, nhưng nghe thiên hạ “kháu” nhau về độ cao cùng sự nguy hiểm nơi nó, chẳng thua gì đi trên đèo Ba Vì. Con đường đi lên vừa ngoằn ngoèo, dựng đứng, gấp khúc, vừa ngập sâu trong màn mây trắng xóa. Nhìn sang hai bên, thấy một bên là vách núi, một bên là vực sâu mọc lên tua tủa những ngọn thông xanh rì, đua nhau vượt tầm cao. Có lẽ, do chưa lần nào nếm trải thú đi xe máy qua các đoạn đường đèo, một số người ngồi sau các tay lái đã phải nhắm mắt, luôn miệng cầu kinh địa tạng hoặc sợ muốn té “nước” ra quần. Càng chạy lên cao, nhiệt độ càng thấp xuống, gây ra chứng ù tai. Bù lại, vẻ đẹp nguyên sơ của núi rừng miền trung du đẹp hút hồn người. Ngồi sau tay xe ôm quen đường, tôi yên tâm giao số phận mình cho anh ta, tha hồ thưởng thức cảnh vật đẹp tuyệt vời ở hai bên đường. Thấp thoáng bên sườn núi, những mái ngói đỏ au của những ngôi biệt thự xinh xắn, ẩn hiện trong lớp mây trắng tạo ra trong tôi thứ ảo giác như đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh nào đó. Chưa kịp nhìn no mắt phong cảnh tuyệt vời quanh đây, đến lúc ngẩng đầu lên đã kịp trông thấy thị trấn Tam Đảo mờ ảo hiện ra trong mây, đẹp như vườn Babilon treo cao trên chín tầng mây. Thì ra, Tam Đảo không chỉ đẹp mà còn thơ mộng chẳng thua gì một Đà Lạt phương Nam hay một Sapa bên Lào Cai do có nhiều núi non, ghềnh thác, sông suối, cho đến những khu vườn trồng cây su su bạt ngàn với màu xanh của lá. Tuy Tam Đảo chỉ là một thị trấn nằm gọn trong lòng thung lũng nhỏ, nhưng lại sở hữu vườn quốc gia thuộc vào loại lớn nhất-nhì miền Bắc. Không chỉ có vậy, Tam Đảo còn thừa hưởng không biết bao nhiêu mây là mây nên còn được ví như “thành phố trong mây”. Thật vậy, đi đến đâu cũng chỉ bắt gặp toàn mây với mây. Mây trên đầu, mây dưới chân, mây trắng xoá bên sườn núi, mây bò ngang đoạn đường đèo, mây sà xuống bên khóm hoa, mây giăng trên vai, mây chạm trên tóc, mây đậu trên giàn su su, mây đuôi theo từng bước chân đôi tình nhân, mây vương vải đôi chút mùi vị ngai ngái trong không gian làm xao xuyến hồn người. Tôi tự hỏi “phải chăng nhờ những ưu điểm có được này mà Tam Đảo trở thành thiên đường thứ hai trong mắt nhiều người”?
Leo lên hết con đèo, xe chạy đến trung tâm thị trấn Tam Đảo, dừng lại bỏ chúng tôi xuống. Trong lúc chờ lấy tiền, tay lái chở Nhã không quên trao vào tay cô cái name card có ghi số điện thoại đi động, tiếp thị dịch vụ xe ôm. Tôi cười, trêu chọc: “Người đẹp có khác, vừa chân ướt chân ráo đặt chân đến đây đã có người ngưỡng mộ xin chữ ký rồi”. Nhã cũng chẳng vừa, đối đáp lại ngay “Bộ anh ghen hay sao - Được ghen đã phúc. - Chùa hả! Ai cho anh quyền được ghen mà chưa gì đã kêu phúc với tội ”?
Vừa đùa tôi vừa đeo ba-lô sau lưng, đi bộ cùng Nhã loanh quanh nơi thị trấn, khám phá thung lũng Tam Đảo ở độ cao hơn một ngàn mét so với mực nước biển. Đối với tôi hình ảnh quen thuộc bắt gặp ở bất kỳ phố núi nào cũng đều giống nhau. Từ con đường dốc cao quanh co với nhiều tầng nấc, xuất hiện cùng với lớp sương mù lãng đãng, nghe thấy cái lạnh quanh năm mùa đông về thắm trên da thịt các cô gái cho má thêm đỏ, cho môi thêm hồng. Chẳng vì vậy, anh chàng nhà thơ lãng tử đất Quảng trong một lần bay từ Đà Nẳng lên Pleiku chơi với bạn, đã phải kêu lên “anh khách lạ đi lên đi xuống /may mà có em đời còn dễ thương”.(*) Tất nhiên, phố núi nào cũng đầy mây, đầy sương mù, đầy gió lạnh rét mướt, nhưng lại hài hòa trong sắc màu bên hàng chục loài hoa phong lan rừng nở ra thơm ngát, xen lẫn đây đó màu vàng rộm của dã quỳ tạo nên một quang cảnh vừa thơ mộng vừa kỳ vĩ xiết bao. Nhã cố đi sát vào tôi, tìm chút hơi ấm bên thứ khí hậu lạnh lẽo đang phả lên từ dưới đáy vực mà chỉ trong chốc lát đây, chúng sẽ ngưng tụ thành những đám mây huyền ảo treo lơ lững trên các sườn núi cao sừng sững trước mặt. “Thế nào,đã bớt lạnh hơn chưa hả cô bé - Vẫn. Phải chi anh cho mượn đở vòng tay chắc sẽ ấm hơn - Thì em cứ ôm đại cho anh nhờ, mắc chi phải mượn – Phải hỏi trước, ngộ nhỡ có ai trông thấy gọi vào trong Nam mách với chị, e sẽ gây phiền hà cho anh - Xin lỗi! Anh còn độc thân em à - Nói vậy mà không phải vậy phải không người Sàigòn”? Trước mắt tôi và Nhã là cây cầu cổ tuyệt đẹp, bắc qua con suối Bạc chảy róc rách dưới chân, in đậm dấu vết thời gian được nhìn thấy qua hai hàng lục bình xi măng còn sót lại bên thành cầu; tạo ra nơi tôi cái cảm giác như đang trở về với quá khứ, nhưng đi liền ngay sau đó là sự thất vọng tràn trề, bởi sự đan xen giữa quá khứ-hiện tại bỗng bị phá hỏng một cách đáng tiếc bởi bàn tay ai đó đã quét lên công trình nghệ thuật một thứ vôi vữa trắng toát, đánh mất đi giá trị thẩm mỹ vốn có từ một chiếc cầu với tuổi đời lên đến hàng trăm năm. Biết làm thế nào được, buồn, tôi đành cúi đầu giữ lấy bàn tay Nhã dẩn tới đứng cạnh thành cầu, nhìn xuống dòng nước trong vắt, nhẹ nhàng chảy lướt bên bờ đá, trước khi len lỏi trong đám lau sậy để đến với đám hoang tàn gạch đá rêu phong đổ nát, thấy mọc lên những ngôi biêt thự tráng lệ in bóng trên thềm mây, bên sườn núi hay giữa một màu xanh bạt ngàn đặc trưng của những mảnh vườn su su mà bất kỳ ai một lần ghé lên Tam Đảo đều cố mua về một ít làm quà. Đúng lúc đó, có người đàn ông lớn tuổi đi ngang, biết chúng tôi từ xa lên đây nên vui vẻ chỉ cho con đường đi đến ngôi nhà thờ cổ, xây dựng bằng đá từ thời Pháp thuộc vẫn còn tồn tại một cách nguyên vẹn. Hay quá, tôi lôi Nhã đi theo hướng có cái tháp truyền hình nằm trên đỉnh Thiên Thị làm chuẩn đi tới. Sau một hồi vật lộn trên đoạn đường trãi bê tông, cuối cùng ngôi nhà thờ cổ bị bỏ hoang gồm hai tầng cũng hiện ra. Tôi leo lên cầu thang bên trái, ít bị rêu phong cây cỏ rậm rạp che phủ; trái lại, Nhã lí lắc chạy sang cầu thang bên phải, nhanh chân đợi tôi ở điểm dừng, trước khi cùng nhau tiếp tục leo lên khoảng sân khá rộng nơi tầng hai. Từ đây, nhìn ra phía trước thấy có nhiều ô cửa vòm xây theo phong cách Châu Âu, toát lên vẻ đẹp đầy thơ mộng và lãng mạn. Được biết, đây là dấu tích còn sót lại nguyên vẹn, nhờ là nơi thờ phượng tôn giáo nên được coi trọng mà không bị phá huỷ. Đi rảo quanh một vòng , tôi chỉ cho Nhã thấy tấm bảng ghi chú “có thể sắp xếp chỗ ngủ miễn phí cho người nghèo”. Nhã nheo mắt nói “anh muốn đêm nay được ngủ trong sự trông nom của Chúa thì đến đó đăng ký, còn em về khách sạn vì sợ lạnh lắm”. Tưởng chúng tôi là cặp đôi đi hưởng tuần trăng mật, mấy tay nhiếp ảnh vồ vập chào mời chụp ảnh kỷ niệm. Nhã nghe mà chẳng thấy thể hiện sự bối rối, trái lại còn tỉnh bơ trêu chọc “Anh yêu! Ngôi nhà thờ đá đẹp như trong phim, sao anh không lấy máy ảnh ra chụp lấy một tấm để sau này còn hù con nít”? Đoán, bám đuôi riết chắc khó lấy được tiền cô gái lém lỉnh này, mấy tay phó nhòm chào thua, quay đi tìm mối khác cho được việc. Chỉ chờ cơ hội đó, tôi đưa Nhã leo tiếp 1400 bậc đá lên đỉnh Thiên Thị, nơi có tháp truyền hình cao gẩn trăm mét với bốn bề lộng gió. Tiếc cho Nhã đã phải bỏ công nài nĩ khô cả cổ nhưng mấy chàng làm việc ở đây vẫn kiên quyết không cho người lạ vào xem qua phòng máy. Không còn cách nào khác, chúng tôi leo tiếp 200 bậc thang nữa để lên đền Bà Chúa Thượng Ngàn. Ngôi đền thuộc loại cổ, nằm ven sườn núi trên một địa thế hữu tình. Đứng từ đây có thể nhìn thấy toàn bộ thị trấn bên dưới lờ mờ qua màn mây trắng. Tương truyền, bà chúa Thượng Ngàn cũng như nhiều vị thần khác được xem là hồn thiêng sông núi, có mặt khắp nơi để cứu nhân độ thế, khi ở rừng núi khi ở đồng bằng dẫn dắt con cháu từng bước tiến lên. Vì vậy, bà rất được người dân kính trọng lập bàn thờ thờ phụng ở nhiều nơi; nhất là ở miền núi hay các cửa rừng. Đặt biệt, với những dân chuyên đi rừng, muốn săn bắt, khai thác đạt kết quả mong muốn hoăc cầu xin tai qua nạn khỏi, thường đến thắp hương cầu sự che chở phù trợ nơi bà. Gần đây, nhiều người mê tín còn đến đây vái lạy bà, xin cho con cháu đi thi đỗ đạt cao, thăng quan tiến chức mau, kể cả việc cầu xin sinh con trai hay con gái. Chờ cho Nhã thắp nhang quay ra, tôi hỏi cô vừa cầu xin bà chúa những gì? Cô cười trả lời: “Bí mật – Nghe kể, bà ở đây linh hiển lắm, cầu tình được tình cầu tài được tài. Trông sắc mặt tươi rói của em, anh đoan chắc em vừa cầu tình phải không - Ơ! Cái anh này, người ta bảo bí mật sao cứ hỏi lắm thế - Biết để anh còn giúp đở cho”? Bất ngờ, lúc quay sang nhìn cô, tôi vô tình bắt gặp nét thẹn thùa cùng với đôi má ửng hồng như vừa được thoa lên lớp phấn đỏ. Xấu hổ quá, Nhã dấu mặt sau cánh tay tôi, cùng rẽ vào con đường mòn dốc sâu dẫn xuống thung lũng. Tới cái quán nước thấy treo bảng cho thuê dép Lào, hỏi thăm mới biết đi men theo vách núi xuống 253 bậc đá tới thác Bạc. Tôi chọn thuê hai đôi dép, một cho tôi một cho Nhã, cùng mọi người đi xuống dưới thác. Không ngờ, bên dưới có mặt rất nhiều bạn trẻ đang vui đùa, bơi lội bì bõm dưới màn nước trắng xoá. Rời đỉnh Thiên Thị về đến trung tâm thị trấn, tôi cùng Nhã đi lang thang qua những cây cầu có lối kiến trúc khá đẹp, do biết kết hợp khéo léo giữa sắt thép và đá núi. Nghe kể, ngày xưa từ cây cầu này sẽ đưa tới khu biệt thự hoành tráng gồm bể bơi, vườn chơi trẻ con, bãi đậu xe hơi, nhà hàng khách sạn Thác Bạc hay còn có tên Hotel - Restaurant de la d’ Argent. Về sau, trong thời kỳ “tiêu thổ kháng chiến” chống thực dân Pháp, hàng trăm công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật lớn nhỏ tại đây hầu như đã bị phá hủy toàn bộ. Có chăng, chỉ còn hiện hữu trong tâm thức một số người lớn tuổi mỗi khi có dịp đi ngang qua những phế tích còn sót lại, được nhìn thấy với từng đống gạch vụn, mảng tường, khu nhà bếp của khách sạn lớn nhất thời đó, đang lẩn khuất trong đám cây cỏ mọc hoang dại để mà hoài niệm . Tối đến, khí hậu Tam Đảo trở lạnh do hơi núi ngưng tụ từ bốn phía đổ về khiến khí hậu nơi đây luôn độc đáo nhờ, một ngày trải qua đến bốn mùa. Buổi sáng thức dậy, ngồi nhâm nhi chút cà phê nóng hổi trong chiếc quán dựng cheo leo bên sườn núi, ngắm mấy khóm đỗ quyên nở rộ nghe mùa xuân đang về. Buổi trưa, may mắn lắm mới bắt gặp chút nắng hiếm hoi lách mình qua những kẽ mây nghe mùa hè thoáng hiện trong phút chốc, sau đó nhường chỗ cho buổi chiều se lạnh làm lam tím trên hai hàng bằng lăng trổ hoa ven đường gợi nhớ mùa thu, để cuối cùng khi màn đêm tràn về mang theo cái lạnh lẽo giá rét của mùa đông. Nhã đi sát bên tôi, miệng luôn kêu lạnh dù đã được cảnh báo mặc thêm áo len dày cao kín cổ, nhưng thôi, đi bên người đẹp dù có bị làm nũng một chút cũng thấy đáng yêu chứ có sao đâu. Hơn nữa, do trót từ chối lời mời tham dự buổi sinh hoạt đốt lửa trại do nhóm bạn mới quen tổ chức ở sân sau khách sạn để đi bắt con muồm muỗn với dân địa phương. Một loại côn trừng giống như cào cào, có đầu vuông rất cứng, chuyên ăn lá cây rừng, chúng tôi đành phải từ chối khéo trong sự nuối tiếc. Chập tối, chúng tôi chùm nón đội đầu, mang găng tay len, nai nịch gọn gàng rồi ra đi. Đến nơi, mỗi người được phát cho một chiếc thùng nhỏ, đi theo đám đông dọc hai bên đường, tìm dưới chân các cột đèn, đến các nơi công cộng. Được biết, những nơi này muồm muỗm thường xuất hiện rất nhiều, có đêm bắt được tới vài kí. Vì là lần đầu tiên đi bắt muồm muỗm nên chộp được một con cũng là kỳ công, bởi chúng nhảy nhót lung tung. May mắn, chỉ vài tiếng đồng hồ sau cả nhóm đã bắt được rất nhiều muồm muỗm nhốt vào thùng. Thấy chiến lợi phẩm đã tạm đủ cho một lần thực tập, tất cả dừng tay để còn về nhà trổ tài nấu nướng. Muồm muỗm sau khi bắt về, cắt cánh, bẻ càng, rửa sạch, cho vô chảo dầu sôi, cho hành khô, gừng, nước mắm, chiên tới khi giòn, cho thêm lá chanh vào rồi bắt ra dùng. Thưởng thức món muồm muỗm tươi ngon ở Tam Đảo, tôi chợt nhớ chuyến đi khám phá đất nước chùa tháp - Campuchia, trên đường đến phà Neak Luông, thị trấn Skun, cạnh chơ Oxay, Russia, Ocada đâu đâu cũng thấy người ta mời chào, mua bán côn trùng chiên sẳn, ăn như món fast foot dế, bò cạp, nhện đen, bọ cánh cứng, kể cả loại rắn lục được tẩm ướp màu đỏ lòm . . . vừa ăn vừa thấy run, không biết mấy món này đã chiên từ bao ngày trước? May sao, lần đó về tới nhà bình an, nhưng mấy thứ côn trùng lỡ mua không dám mang đi tặng ai. Nghĩ lại, càng thấy sợ vì vấn đề vệ sinh ở đây xem ra không mấy an toàn; ngược lại, muồm muỗm ở Tam Đảo chiên nóng hổi, giòn tan trong miệng ăn đến đâu thấy béo ngậy đến đó. Để góp vui, tôi kể lại kinh nghiệm bắt côn trùng (dế) do chính mắt trông thấy, tai nghe ở Campuchia cho mọi người có mặt cùng nghe. Trước hết, người ta đóng hai thanh tre cao hai mét, ngang bốn mét, trên đó căng một tấm ni-long trắng, bên trên thắp đèn néon có ánh sáng màu tím bằng điện hay acqui. Phía dưới tấm ni-long được cuộn lại thành chiếc máng, bên trong chứ nước. Côn trùng nhìn thấy ánh sáng bay đến, đụng tấm vải nhựa rớt xuống mánh nước, sáng ra người ta chỉ việc thu hoạch côn trùng một cách rất nhẹ nhàng. Không biết, khi chia sẻ kinh nghiệm bắt côn trùng ở Cam đến nay đã có ai thử áp dụng mô hình trên hay chưa? Nhưng sáng hôm sau, tôi phải gọi Nhã năm lần bảy lượt cô mới bò dậy nổi để đi ăn sáng vì đêm qua thức khuya quá. Trên đường đi, tôi đưa Nhã ghé thăm chợ quê họp ngay trung tâm thị trấn. Gọi là chợ nhưng thấy chỉ lèo tèo vài chục người dân địa phương mang sản vật tự cung tự cấp ra bày trên mấy tấm vải nhựa đặt dưới lòng đường. Nhiều nhất vẫn là món rau su su nổi tiếng ở Tam Đảo, chuối rừng, đậu rùa, cá Thính, gà đồi; riêng mấy chai lọ bằng sành không hiểu đựng thứ gì bên trong, tôi nghi chắc là rượu. Người đàn ông bán hàng vui tính, bắt mạch đúng tim đen của tôi, giới thiệu món rượu Chít ngon, bổ, khỏe, chữa được bệnh “trên bảo dưới không nghe”. Cảm giác chưa đủ độ tin trước khách hàng, ông kể trong rừng Tam Đảo cây Chít mọc rất nhiều. Cây cho lá dành để gói bánh, hoa làm chổi, thân có con sâu màu trắng dài khoảng hai đốt tay. Chính con sâu này từ xưa đến giờ vẫn được xem như biệt dược, bắt mang về cho vào chai ngâm chung với rượu khoảng một tháng thì uống được. Công dụng bổ thận tráng dương, có thể so sánh ngang hàng với đông trùng hạ thảo trên cao nguyên Tây Tạng. Cẩn thận hơn cầu kỳ hơn, người ta rửa sâu Chít với nước muối pha loãng, sau đó vớt ra để ráo rồi, bắt lên bếp rang chung với nếp cho tới khi cả hai vàng như nhau, kế đến đổ ra ngâm rượu cho tới khi có màu vàng, mang ra uống có mùi rất thơm. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi hỏi xem rượu Chít ăn với món đặc sản nào hợp? Để chứng tỏ mình là người hiếu khách, người đàn ông cho biết, ở các nhà nhà hàng trên Tam Đảo; ngoài đặc sản về su su ra còn có món thịt bò tái kiến đốt, ngon rẻ hơn mấy món thịt rừng kiểu “hồn Trương Ba da hàng thịt” vì thịt rừng ở đây đã bị cấm từ lâu. Kiến đốt là sao? Có nghĩa là thịt bò sau giết mỗ còn nóng, cắt thành tảng từ 1-2 kí, chọn ổ kiến to trên cây mang treo gần đấy. Chọc cho lũ kiến hung dữ bung ra, bám vào tảng thịt, đốt cho thỏa thích. Sau đó, lấy thịt xuống mang đi rửa lại bằng nước muối loãng, để ráo, nướng trên bếp than hồng và thái mỏng, ăn kèm chuối chát, rau ngổ, chấm tương Bắc hay tương làm từ ngô, đậu tại địa phương có pha thêm chút đường chút gừng băm nhỏ, ăn nhớ đời. Ăn sáng xong, xe ôm cũng vừa đổ xịch ngay cửa đón chúng tôi đi Tây Thiên như đã hẹn. Theo “Kiến Văn tiểu lục” (**) mô tả Tây Thiên “ . . .bên dưới sắc nước như chàm, sâu thăm thẳm không thấy đáy; sườn núi có Tây Thiên cổ tự, có tre xanh, thông tốt, cảnh sắc thanh nhã, rộng rãi. Trên đỉnh có chùa Đồng Cổ, khe Trường Sinh, suối giải oan, suối Vàng, suối Bạc, hồ sen với nước luôn xanh biếc, trong hồ có thứ đá lạ và sen đỏ nở hoa bốn mùa“. Quả thực, khi đặt chân đến xã Đại Đình mới thấy đường lên Tây Thiên đi đứng không dễ dàng chi, nhưng đã lên đây thì không thể không đi hết các hệ thống đền chùa, thảo am, các thắng cảnh nổi tiếng được phân bổ hầu hết trên dãy Thạch Bàn nơ đây, cho dù phải băng rừng lội suối, vượt qua nhiều dốc cao dựng đứng đi nữa. Bởi cảnh quang thiên nhiên Tây Thiên không chỉ hùng vĩ, thơ mộng, hữu tình mà còn có giá trị về mặt tín ngưởng, tâm linh do con người biết lợi dụng thế núi cùng bàn tay lao động sáng tạo gầy dựng qua nhiều thế kỷ. Điểm đầu tiên tôi và Nhã đặt chân tới là đền Thống hay còn gọi đền Trình. Trước đền là khoảng sân rộng, từ xa có thể nhìn thấy cây đa chín cội, vươn vai thẳng ngọn lên bầu trời, trông như một gã khổng lồ đứng thỏng đôi tay một cách oai phong, trấn giữ ngôi đền. Đi vòng ra sau, gặp suối Giải Oan chảy ngược dòng nước lên trên, gặp một con thác rồi hợp lưu tại một hồ sen, trước khi đổ vào khe có cùng tên. Tiếp tục trèo thêm mấy bậc núi, vượt qua con đường cao hơn, bắt gặp một rừng trúc bạt ngàn cùng với núi Rùng Rình. Tới đây Nhã đủ thấm mệt, cô ngồi lại bên mô đá, lấy nước ra uống để có thêm sức đi ngược lên ba cây số tới chùa Đồng Cổ, thích thú đến ngạc nhiên khi nghe giới thiệu mọi thứ đồ vật lưu giữ tại đây đều được đúc bằng đồng. Tạm biệt chùa Đồng Cổ, rẽ phải đi thêm hai cây số chúng tôi đứng đối diện với ngôi đền Thượng Tây Thiên. Đây chính là nơi thờ Quốc Mẫu Tây Thiên - Tăng thị Tiêu. Tương truyền, bà là người xinh đẹp, giỏi giang, có tài thao lượt; từng giúp vua Hùng thứ 6, Hùng Chiêu Vương, không chỉ đánh giặc bảo vệ nước Văn Lang mà còn giúp vua mở mang bờ cõi. Xong việc lớn, bà không màng danh lợi, quay về nơi mình sinh ra, dạy dân trồng lúa, an hưởng cuộc sống thanh nhàn rồi “hóa thánh” tại đây. Để ghi nhớ công lao của bà, từ ngàn xưa người dân đã xây dựng đền thờ Quốc Mẫu ở rất nhiều nơi, chứ không riêng gì trên sườn núi Thạch Bàn-Tam Đảo này. Xuống núi, đã có xe ôm chờ sẳn mời gọi chúng tôi đến viếng thăm Trúc Lâm Thiền Viện. Nhã cảm thấy quên hết mệt nhọc, nhảy tót lên xe ôm, ngồi phía sau cho tay lái chở đi. Tôi vội vàng lên chiếc xe ôm khác đuổi theo cô chạy đến thiền viện. Từ dưới đường nhìn lên, thiền viện Tây Thiên hiện ra thật bề thế giữa núi rừng bạt ngàn nơi đây. Theo bút tích ghi dấu, thiền viện xây dựng lại vào năm 2004 trên nền ngôi chùa cổ Thiên Ân, do các nhà sư trụ trì tại đây cùng với các hoà thượng Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt, đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng đúng vào ngày chánh hội Tây Thiên. Được biết, đây là một trong ba thiền viện lớn nhất nước gồm: thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên Tam Đảo. Muốn đặt chân lên cổng tam quan bề thế có treo bảng “Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên”, phải leo hàng chục bậc thang lộng gió lên cao. Từ cổng tam quan leo tiếp thêm nhiều bậc thang, mới chạm mặt với khu tiền sảnh rộng nguy nga của thiền viện. Đến đây, tha hồ chiêm ngưỡng những tuyệt tác do bàn tay tài hoa của các nghệ nhân bậc thầy, thể hiện một cách khéo léo qua hình ảnh những mái đình lợp ngói đỏ au, uốn lượn cong vút, bay bổng bên rừng thông bạt ngàn có đến hàng trăm tuổi. Đây là lối kiến trúc tuyệt đẹp mang đậm bản sắc văn hoá Á Đông, hoàn toàn phù hợp với tinh thần dân tộc nước ta. Hiện nay, thiền viện Trúc Lâm Tam Đảo ngoài việc là trung tâm tu học lớn ở miền Bắc mà, còn là nơi được nhiều gia đình dưới Hà Nội gửi gắm con em lên đây nhờ các nhà sư dạy dỗ, tu học vào các dịp hè; thay vì tập trung ở các khoá huấn luyện quân đội.
Theo dự tính, tôi và Nhã sẽ làm một chuyến trekking từ Tây Thiên về Tam Đảo bằng con đường đi xuyên rừng nguyên sinh, nghe nói đẹp đến mê hồn, bởi nơi đây còn lại những cánh rừng chưa bị bàn tay con người can thiệp nên hiện diện nhiều loại chim, gà rừng, bươm bướm, nhất là bắt gặp những con ve to hơn ba ngón tay chập lại. Tuy nhiên, người dân địa pương lại khuyên, không nên mạo hiểm với quảng đường dài hơn mười cây số vì có rất ít người qua lại; ngoại trừ giới đi rừng chuyên nghiệp. Thế là, chúng tôi đành phải đi xe ôm về lại thị trấn, mất dịp trổ tài bấm máy ghi lại các bức ảnh đẹp và nghe những tiếng ve kêu đến điếc tai.
Về đến trung tâm thị trấn Tam Đảo, nhìn đồng hồ tay thấy còn sớm, tôi rũ Nhã đi thưởng thức món su su nổi tiếng, trước khi chào tạm biệt nơi này vào lúc xế trưa. Nhã đồng tình ngay vì lên Tam Đảo mà chưa đi ăn các món su su luộc chấm vừng, su su xào tỏi, su su xào tôm, su su xào trứng, su su nấu canh tôm khô; nhất là ăn món đọt su su tẩm bột chiên giòn . . . coi như chưa đặt chân đến Tam Đảo?
Điều này đúng hay sai để tôi còn hỏi lại Nhã khi tiễn chân cô ở bến xe Vĩnh Yên. Tuy nhiên, việc ai đó coi Tam Đảo là “thiên đường thứ hai” theo tôi nghĩ nên gọi Tam Đảo là “thành phố trong mây” có lẽ thích hợp hơn. Bởi, bầu trời quanh đây lúc nào cũng đầy ắp những tầng mây, tạo ra cho tôi cái cảm giác dễ dàng bị nuốt chửng trong nó bất kể thời gian nào trong ngày.
(**) Sách Lê Quí Đôn
|
Tôi về quê và ngồi tại bến sông vào một buổi mai của ngày đầu xuân . Dấu vết nhói lòng của mùa lũ chồng lên lũ năm qua còn lưu dấu nước phi lý đến hãi hùng là những khoanh rác nếu còn vắt tận đầu ngọn cây gáo đứng lâu đời tại bến sông . Nước lũ lên tới đó ư ? Vậy thì còn chỗ nào không ngập ! Quê tôi vốn là rốn lũ nhưng sức chịu đựng của con người đâu phải là ô hạn ?
Tôi đưa mắt nhìn hàng cây bói giữ đất dọc mé sông và cả rặng tre lâu đời vẫn chưa đủ thời gian tăng lực đứng thẳng lại như trước .
Bến sông lúc này đã được dòng nước trả lại gộp đá nhẵn thín để bà con tiếp tục chải xà-phòng , giặt quần áo . Màu nước đã trở lại trong xanh và dòng nước hiền hòa trôi chảy khiến tôi nhớ tới hai câu thơ nói về trận lũ lịch sử khủng khiếp đau thương tại quê nhà năm Giáp Thìn 1964 cách nay hơn 4 thập kỷ :
Trót lầm lỡ sông Thu Bồn bẽn lẽn
Lui xa bờ êm ả lượn quanh quanh .
Làng quê đất Quảng Nam ở dọc các con sông lớn đều có những bến sông . Bến chính là làng và cả một xóm vạn “thượng gia hạ thuyền” , ghe đò đông đúc và đây cũng là bến chợ , bến đò ngang đò dọc …Thêm vào đó còn có những bến của các xóm dân cư ít khi có bóng ghe thuyền . Những bến này chỉ để cho ngời tắm giặt hoặc chuyên chở vậy dụng đột xuất bằng thuyền đi hay đến .
Cái bến nơi tôi trở về và đang ngồi là loại bến thứ hai , bến nhỏ , nhưng với tôi thực sự là bến quê nhà .
Cảnh vật hữu tình . Niềm quê man mác . Tôi muốn ví von một chút rằng Nàng Xuân đã hiện về với màu áo xanh dịu hiền , tỏa rộng , thật rộng .Trời xanh . Nước xanh . Núi xanh . Làng mạc xanh . Màu xanh của mùa xuân cực kỳ giáu có . Ở từng hiện tượng xanh ấy như có tiếng nói riêng , điệu ca riêng họp thành khuc xuân ca trữ tình với vô vàn giai điệu .
Quê ngoại của tôi ở bên kia sông , nơi được mệnh danh là “ Làng quả Nam Bộ tại Quảng Nam” . Làng là cả một quần thể vườn cây rộng lớn , xanh mướt nhìn từ xa chẳng thấy có ranh giới giữa các vườn của tư nhân .Dọc theo mé bãi cát bìa làng là cây bói đời đời truyền lưu sức sống chống xói mòn , sạt lở cho làng . Ở độ thấp hơn , đầu bãi cát của làng là một đám cây rì , một loại thủy thảo nhưng lớn như cây , có sức dẻo dai đến lạ kỳ khiến mọi cơn bão to , lụt lớn , đều bất khả khuất phục . Lụt ngâm cả tháng trời , rì vẫn không chết như mọi thảo mộc khác . Lũ lớn có thể xé toạc những mảnh thôn xóm bên sông , nhưng lũ mạnh đến mấy cũng không thể bứt lìa chỗ đứng của mỗi cây rì . Rì thường mọc thành đám tại đầu bãi cát để giữ cho bãi cát thành “cái chân” của thần trấn địa duỗi ra giữ cho làng trụ vững thiên thu . Thật đau lòng khi nghe đâu đó có những bãi cát ven làng như thế này bị cho xúc bán . Chân thần trấn địa bị hoại tử . Đất làng mất chân . Hành vi này chẳng khác gì kẻ bóc gạch nền từ đường đem bán ve chai !
Tôi nhìn xuống dòng nước trong vắt ngay dười chân tôi . Từng bầy cá hanh , cá mương , có cả cá chày nữa ,cứ từ phía dưới tuôn lên rồi thả trôi trở xuống . Cứ thế , rất nhiều lẩn . Dường như chúng chỉ bơi lên , thả xuống chỉ để …chơi vậy thôi chứ không phải tìm mồi . Chúng đang còn no sau cữ ăn sáng hoặc chưa đến giờ chúng làm việc ấy chăng ?
Mấy chục năm rồi , tôi mới được nhìn lại cảnh tượng ngoạn mục ấy .
Bến sông này có rất nhiều kỷ niệm với tôi thuở thiếu thời . Tôi nhớ từng người bạn “ chủ nhật đi câu , tắm sông , leo núi” của xóm xưa cùng bơi lội , đùa nghịch tại đây .Những Tùng , Phương , Đức , Bằng …đã không còn nữa . Những cô Nho , chị Lan ngày vu quy xa xưa đã xuống bến , lên thuyền về nhà chống , kẻ ngược nguồn , người xuôi biển rồi không một lần về lại …
Sinh thời , mẹ thường kể cho anh em tôi nghe hai chuyến thuyền hoa rước dâu về bến này . Thuyền lần trước là của họ nhà trai sang cuối làng ngoại tôi để rước mẹ tôi . Thuyền lần sau là của cha mẹ tôi xuôi tận làng phía dưới để đón chị dâu tôi . Quê nhà hồi ấy rất hiếm hoa tươi . Mui thuyền hoa được phủ tấm vải hoa giả gấm màu vàng . Một dây hoa kết toàn tường vi đỏ và cúc vàng đại đóa kéo quanh mạn thuyền . Hai phía cửa hông thuyền có màn đỏ kết tua che phủ . Chỉ có vậy thôi . Khi thuyền hoa ngược dòng , cứ đến một quãng sông lại đốt một dây pháo . Thuyền cập bến , lại một dây pháo dài hơn được nổ vang rơm rả .
Mẹ trồng hai loài hoa ký ức ấy trước hiên nhà , mùa nào cũng được mẹ giữ tươi tốt . Rồi hai mươi bốn năm sau đó, mẹ trồng hai loại hoa ấy quanh mộ phụ thân tôi . Tôi vẫn chưa làm được điều này tại mộ phần mẹ trên đất Đồng Nai , dù mẹ qua đời gần trọn 3 năm : “ Ba năm mãn khó , giỗ đầu”…
Tôi giật mình khi nghe tiếng “bộp” khá lớn vang lên rồi loang trên mặt sông bình lặng . Bên kia sông , một thiếu phụ đang giặt chiếu đã được gấp lại rồi giơ cao đập xuống nước mấy lần . Ngày xưa , mẹ tôi cũng thường giặt chiếu như vậy tại bến sông này .
Cũng đã mấy chục năm rồi tôi mới thấy và “nghe” lại cách giặt chiếu dễ thường chỉ có ở quê tôi . Chẳng thế mà vài năm trước đây , một cô giáo ở Bảo Lộc ki đọc hai câu thơ nói về Trung Phước quê tôi “Trời đưa thoi cánh yến vàng / Bến sông ai đập chiếu vang đôi bờ” đã thắc mắc rằng làng Trung Phước đâu có nghề dệt chiếu mà lại đem chiếu ra sông để ..đập ?
Nắng ấm dần . Mặt trời đã lên nhưng chưa chườn khỏi ngọn cây sợp cổ thụ đứng tại đầu đường xuống bến . Trời hấu như đã hết lạnh . Tôi để nguyên dép dầm cả hai bàn chân xuống nước . Mấy chú cá nhỏ xíu như tăm hương cứ lao lại mổ chân tôi . Nhột nhột mà vui vui . Tôi cố nhớ tên loài cá này . A , cá kim ! Lại một cảnh quen thuộc thời thơ ấu tại bến quê nhà được tái hiện với riêng tôi .
Có lẽ ai ngồi bên sông cũng nhớ và nghĩ về câu : “Đời người không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Sao nghe buồn đến thế nhỉ ? Nếu là nghĩa bóng , ta có thể hiểu đây là cách nói về những phận người luân lạc giang hổ như bèo giạt , mây trôi . Còn với nghĩa đen ? Tại sao ta không tìm về tắm lại dòng sông xưa ngay nơi bến sông quê ? Thì đây , chỉ giây lát nữa thôi , chờ nắng lên chút nữa , tôi sẽ nhảy ùm xuống nước , bơi ngược , bơi xuôi , lặn ngụp thỏa thích . Chỉ có điều là anh không thể tắm thêm lẩn nữa , gặp lại lần nữa những luồng nước đã chảy qua thân thể , chảy qua đời ta từ những năm tháng mù xa . Sông xưa và quê nhà vẫn trông chờ ta đấy chứ ?
Tôi kính chào và nhận đủ thứ hạnh phúc của bến sông quê vào một ngày đầu xuân đẹp nắng .
TƯỜNG LINH
|
|
doquangem |
Huế mùa Hè bắt đầu vào những ngày cuối tháng Tư. Bây giờ đã quá trung tuần tháng Năm, nắng càng gay gắt hơn, cái gay gắt của một thứ nắng lửa làm bỏng da. Ngay từ sáng sớm, vừa thức dậy đã phải hứng ngay những cơn gió Lào hừng hực bên kia Trường Sơn thổi về. Suốt đêm qua trên khu đồi trọc, nơi Đại đội tôi đang đóng - làm lực lượng phòng thủ quận Phú Lộc - mấy anh lính không ngớt chạy đi tìm một chỗ nào đó ngoài trời để có thể hưởng chút mát mẻ của những hạt sương tan loãng trong một bầu không khí nặng nề oi bức. Họ bỏ hầm trú ra ngủ ngoài, nằm phơi bụng, phơi ngực, dù biết những vụ pháo kích thường xảy ra và mảnh đạn trái phá có thể xé tan thân thể họ. Trong phiên tuần đêm, tôi nói với binh Thí: “Bộ anh muốn bỏ mạng sao ra nằm đưa thây đó?”. Binh Thí cười hề hề: “Nóng quá, chịu không thấu Chuẩn úy à. Hầm chật cứng, ngủ ba bốn đứa thở sao nổi. Chết biết liền chớ chi. Khi tới số thì chui xuống đất đen đạn cũng tìm theo”.
Trở vào, tôi cũng không sao ngủ được, cứ nằm lăn qua trở lại và cuối cùng mê thiếp đi trong một cơn mê nặng nề, quái gở. Tôi mơ thấy tôi đang nằm trên một ổ rơm. Bỗng nhiên tất cả những cọng rơm biến thành một bầy rắn lúc nhúc, một bầy rắn lửa đỏ rực, chúng không làm gì hại tôi cả, nhưng chúng bò lên che lấp cả người tôi rồi, hình như tôi đã biến thành rắn cùng loại, nhưng là một con rắn chúa tể, có uy quyền trên bầy rắn kia. Lúc tôi còn đang chơi vơi trong cảm giác run rẩy như một ngọn lửa sắp tắt, tôi nghe có tiếng người kể chuyện về lửa, về sự thiêu đốt. Tôi nghe mơ hồ, rồi tôi biến thành một ngọn lửa lớn, tan biến trong một màn đêm dày.
Sáng hôm sau tôi thức dậy sớm hơn lệ thường – như có một việc gì thôi thúc – làm vội vã những việc lặt vặt. Thay quần áo xong, tôi khom người chui ra khỏi hầm, đi thẳng đến văn phòng đại đội. Tôi còn đứng chần chờ ngoài hàng hiên, ngại phải bước vào khu nhà tôn hầm hơi như lò hấp đó. Trong phòng, ngồi ở bàn viết, Trung sĩ Lâm đang cắm cúi làm việc, một lúc lâu ông không rời mắt khỏi trang giấy để trước mặt. Trung sĩ Lâm lớn tuổi nhất trong đại đội – chúng tôi gọi đùa là Trung sĩ Bố – có hơn ba mươi tuổi lính, ông đi lính từ thời Khố xanh, Khố đỏ, ông thường hãnh diện kể lại những trận chiến đã tham dự từ Bắc chí Nam, trận Điện Biên Phủ, và cả thời kỳ sang Pháp đánh giặc cho “mẫu quốc” nữa. Mấy chú lính sữa nghe hoài những chi tiết như “đạn trúng ngay ngực nhưng không hề hấn gì, rơi ngay xuống trước mặt”… được ông thích thú nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Ông quả quyết người ông có chất kỵ đạn và không thể nào chết vì đạn được. “Đạn bay tới gặp tui là phải tránh về hướng khác liền, ông nói, sức mấy mà trúng tui nổi”.
Tôi nhìn mái tóc hoa râm của Trung sĩ Lâm đang rung rung theo cử động của những ngón tay thô gầy. Tôi định hỏi xem ông đã làm phiếu, gởi đơn xin phục vụ theo khả năng chuyên môn của tôi chưa. Nhưng thực ra đó không phải là lý do tôi dậy sớm và hối hả đến đây để gặp ông sáng nay. Vì một chuyện khác, mà tôi không dám nghĩ hẳn tới và để cho nó hiện ra rõ rệt trong trí tôi. Tôi sẽ phát run lên khi thốt ra câu hỏi về nó. Tôi phải bịt kín tai lại để khỏi nghe câu trả lời, mặc dù tôi vô cùng nôn nóng muốn được nghe ông Lâm – hay bất cứ người nào – kể lại rành rọt với đầy đủ chi tiết câu chuyện đó nữa.
Tôi bước vào văn phòng. Tiếng động làm ông Lâm hơi giật mình. Ông đứng dậy chào và than phiền ngay với tôi về bản báo cáo vũ khí của “cái thằng hạ sĩ nghĩa quân ngu ngốc” nào đó. Ông đưa cho tôi xem tờ giấy và chỉ vào con số ghi số vũ khí cấp phát là 23, vậy mà tổng cộng các thứ lại là 40, làm ông tức tối không chịu nổi. Sau một hồi thử lại mấy con tính cộng ông để tôi ngồi lại một mình, bước ra cửa, nói đi tìm cho ra “cái thằng hạ sĩ ngu” để mắng cho một trận.
Tôi ngồi trên mé góc bàn viết, chân thấp chân cao. Gian phòng dùng làm Văn phòng Đại đội nầy được dành một chỗ ngăn ra bằng một tấm vách tôn gợn sóng. Trên tấm tôn có treo một miếng giấy bồi mầu vàng nhạt, viết mấy chữ “VÔ PHẬN SỰ CẤM VÀO” bằng bút nguyên tử đỏ, kiểu nửa thì chữ in, nửa chữ thường. Đó là kho vũ khí của Đại đội, nơi tàng trữ những cây súng của các chú lính-không-thích-đời-lính đã gởi lại – về nghỉ phép rồi biệt tích luôn – sét rỉ chưa kịp đem trả, và những thùng lựu đạn chưa ném giặc mà mỗi lúc một vơi đi dần trong những vụ “ném cá ăn chơi”.
Nắng đã bắt đầu mất dần mầu hồng vàng của bình minh, đang chiếu ánh sáng trắng xuống khoảng sân đất đỏ. Bên kia sân, con đường dốc chạy từ cổng vào giữa khu đồi. Kế cận con đường, ở mép đồi là những hầm trú ẩn mà cả đêm lẫn ngày, trong đó chúng tôi sinh hoạt: ăn uống, ngủ, trò chuyện và đánh bài.
Hố được đào sâu chừng vài thước, lấy đất đắp lên tấn chung quanh, chất thêm mấy lớp bao cát. Trên nóc che tôn, đổ đất vun lên trông như những ngôi mộ to lớn, chui vào trông có vẻ giống những nhà mồ. Vào những buổi trưa mùa hạ, khi gió Lào thổi về không ngớt, thì những nhà mồ đó biến thành những lò hấp bánh, trong đó trăn trở, lăn lộn những thân người trần trụi, đầm đìa mồ hôi. Trung sĩ Lâm trở lại, vẫn không ngớt phàn nàn “cái bản báo cáo mắc toi”. Ông không tìm thấy “thằng hạ sĩ cù lần”. Ông đến bên tấm lịch bóc một tờ, nhìn con số chỉ ngày mới rồi vò nát tấm lịch cũ trong lòng tay, vất vào chiếc sọt rác méo mó, để ngay dưới chân ghế.
- Tôi về Huế sáng nay nghe, ông Lâm. Phiền ông làm cho tờ phép.
Ông Lâm ngước lên nhìn tôi thoáng chút dò hỏi. Tôi cũng nhìn lại ông.
- Bữa nay cấm trại mà, Chuẩn úy. Ông ngập ngừng trả lời.
- À… há, tôi cố kéo dài giọng để thay lời giải thích là tôi cũng có nhớ điều đó, đã xem qua lệnh cấm trại và cũng biết đến nỗi lo lắng của ông qua hai tiếng “cấm trại” trong một ngày đặc biệt. Tôi gục gật đầu nhè nhẹ ra chiều đã hiểu.
Ông vẫn còn nhìn tôi chờ đợi, dường như ông cho rằng tôi cần phải tỏ ra biết điều hơn chút nữa, phải nói thêm một vài lời biểu đồng tình cho ông được yên tâm. Nhưng tôi lại mỉm cười, khiến cho ông không hiểu, đâm ra bực bội.
Tôi đang ngồi ở mép bàn, mấy ngón tay lồng vào nhau, kẹp giữa hai đùi, đu đưa chiếc chân hỏng đất, nện gót giày vào chân bàn cồm cộp. Một lúc lâu sau, trước khi cúi xuống với công việc, Trung sĩ Lâm mới nói:
- Chừ không thể làm giấy phép được, Chuẩn úy. Chỉ có thể cấp Sự vụ lệnh, mà sợ ổng – Đại đội trưởng – cũng không chịu ký nữa à.
Tôi nói “không sao” để ông ta yên lòng, bởi nét mặt ông lúc đó tỏ vẻ ái ngại đã không giúp tôi được việc mà lẽ ra ông đã làm một cách dễ dàng trong những ngày thường.
- Thôi, không cần giấy phép nữa, tôi nói lững lờ. Tôi dù về một lát, chắc cũng không đến nổi gì đâu.
Tôi muốn hỏi lại ông câu chuyện mà lúc mờ sáng tôi đã nghe ông nói không được rõ ràng – tôi dở thức dở ngủ – nhưng tôi vẫn ngồi im lặng. Trí tưởng tượng của tôi đã vẽ ra những hình ảnh khủng khiếp khiến tôi phải vội xua đuổi. Tôi sợ ông Lâm sẽ khiến cho câu chuyện đó trở thành sự thật. Tôi muốn thính giác tôi đã có sự lầm lẫn trong khi nghe ông Lâm nói về điều đó lúc mờ sáng.
- Nhờ Trung sĩ nói lại với Đại đội trưởng giùm nghe. Tôi phải đi Huế ngay, có chút việc cần.
Ngoài sân một chiếc xe Dodge đang rồ máy. Tôi gọi lớn:
- Thượng sĩ Đăng, cho tôi về Huế với. Ông Lâm, tôi đi nghe.
Tôi nhảy xuống – làm chiếc bàn đóng bằng ván gỗ pháo binh rung rinh – phóng ra sân, leo lên ngồi bên cạnh Thượng sĩ Đăng. Ông bảo tôi vào trong để ông ngồi ngoài vì ông có súng. Tôi cười nhìn gương mặt sạm nắng của ông và vừng trán khuất một nửa dưới chiếc mũ đen rộng vành phai mầu.
Ông giữ khẩu cac-bin M2, nơi thắt lưng đeo lủng lẳng mấy quả lựu đạn. Lúc xe ra đến đầu con đường dốc đổ xuống cổng, tôi còn thấy Trung sĩ Lâm đứng nhìn theo ái ngại và khi xe lăn chầm chậm xuống dốc, ông chạy ra giữa sân nói với theo:
- Chuẩn úy đi đường coi chừng, cẩn thận. Bữa nay đường đi nguy hiểm.
Tôi vẫy ông vội đưa tay lên làm loa, hét trở lại:
- Chết thì chôn, lo gì.
Chiếc xe chở đầy quần áo cũ đem về đổi ở phòng tiếp liệu Tiểu khu. Ngồi bên trái, sau lưng tôi, một người lính nghĩa quân tay lăm lăm cây M2, ngón trỏ luôn để hờ bên cạnh ổ cò, mắt anh đăm đăm nhìn vào phía núi. Dãy núi đổ dốc xuống những thửa ruộng lúa chín, một vài nơi đã gặt còn trơ lại gốc rạ. Thấp thoáng trong những đám ruộng gần chân núi, nổi lên giữa mầu lúa chín vàng những chấm trắng nón lá và những tấm lưng áo đen di động.
Xe bị chết máy ở khoảng đồi 30, lúc sắp qua một quãng đèo ngắn. Thượng sĩ Đăng và người lính nhảy ngay xuống đường chĩa súng vào hướng ruộng lúa. Tài xế giở nắp xe sửa chữa. Một lúc, xe nổ máy. Thượng sĩ Đăng lên xe, lấy khăn tay ra lau những giọt mồ hôi vả lấm tấm trên vầng trán da đen bóng.
- Chiếc xe mắc dịch, ông phàn nàn. Thật khéo lựa chỗ chết máy. Điệu này coi chừng không về tới Huế.
Ông móc túi lấy cái bật lửa để vào lòng nón quẹt châm thuốc. Làn khói đầu tiên rít hết hơi phà ra miệng mũi có vòi, bị gió thổi quặt về phía sau tan biến.
- Thiếu úy Dũng, Đại đội trưởng cũ bị phục kích chết tại đồi 30 đó. Thượng sĩ Đăng kể. Ông đưa đám tang Trung sĩ nhất Chánh lên Đá Bạc, lúc trở về thì bị. Ngay ban ngày chớ phải tối tăm gì. Đám lính đi dàn chào chỉ đem theo vài băng đạn, bắn hết bỏ chạy. Ông bị thương ở chân không chạy được, tháo lon lết vô trốn trong kẹt đá, họ lôi ra bắn chết.
Anh tài xế cho xe chạy như bay, anh nói chạy được lúc nào hay lúc ấy, vì chiếc xe không đáng tin cậy. Vả, chạy nhanh như thế, may ra có thể lướt qua những ổ mìn?
- Thượng sĩ có nghe tin gì về trận đánh đồn Lương Mai đêm hôm không? Thốt nhiên tôi buộc miệng hỏi ông ta.
Mắt vẫn không rời khỏi mặt đường lồi lõm, ông dở chiếc mũ vuốt mái tóc đã điểm bạc cho xuôi theo hướng gió, thong thả trả lời:
- Nghe đâu khi máy bay lên thả trái sáng thì chỉ thấy một đống lửa đang cháy rực, không còn chi tiết nào khác nữa. Sáng nay có phái đoàn trên Tiểu khu ra thị sát và lấy xác.
Tôi nhắm mắt lại. Ông Đăng đã vừa giúp tôi dở tấm vải phủ trên gương mặt nát của người thân chết thảm thương tôi đã kịp nhìn thấy trước khi nhắm mắt lại.
Xe hãm bớt tốc lực, rẻ xuống con đường vòng vào một thửa ruộng vì cây cầu vừa bị giật sập mấy ngày trước đây. Một thân chiếc cầu cắm xuống bùn sâu, phần còn lại chổng lên trời, dựng đứng thẳng góc với mặt đường.
Trên suốt quãng đường từ đồi 30 đến giáp cầu Truồi đếm cả thảy bảy ổ mìn đã nổ. Hai chiếc xe hàng bị lật còn để tại chỗ, nằm đưa bốn bánh lên trời. Đi trên quãng trường nầy bao giờ đến nơi mới tin mình còn sống. Ngồi trên xe luôn có cảm tưởng chiếc xe sắp bay bổng lên và không biết lúc nào tất cả chúng tôi cùng tan ra với mớ quần áo cũ.
Nhưng dẫu sự lo lắng có căng thẳng thần kinh tôi đến thế nào đi chăng nữa, hình ảnh ngọn lửa thiêu trọn đồn Lương Mai vẫn cứ chập chờn trước mắt. Hình ảnh của đám lính trong đồn liều mạng băng qua chính bãi mìn phòng thủ của mình để thoát thân, khiến cho gan ruột tôi cồn cào và một nỗi khiếp sợ lẫn ghê tởm chợt đến, quấn chặt lấy tôi đến nỗi, cuối cùng tôi thấy mình biến thành một ngọn lửa run rẩy tự thiêu mình và trong tận cùng nỗi tuyệt vọng, bỗng nảy sinh một ảo tưởng.
“Ngọc đang đứng ở ngưỡng cửa ra vào căn nhà bếp. Như thường ngày, nó mặc chiếc quần đùi đỏ, để mình trần, bày ra cái lồng ngực xẹp lép trơ xương. Thấy tôi về nó đưa tay lên vẫy: “Ê, mới về đó hả bồ? Dù coi chừng bị nhốt nghe”. Không kịp trả lời, tôi chạy bay tới ôm lấy nó mà khóc, vì mừng rỡ. “Ngọc ơi! Mày còn sống! Mày còn sống, hả Ngọc?”. Nó có vẻ ngạc nhiên lôi tôi ngồi xuống chiếc giường ngủ – mà đã bao nhiêu lần chúng tôi cùng ngủ chung trong những đêm học bài thi – hỏi giật giọng: “Cái gì vậy, hả? Có gì thì kể tao nghe, sao lại khóc?”. Tôi vẫn ôm lấy nó không trả lời. Ngọc quàng một tay lên vai tôi bóp nhẹ: “Cái gì làm mày đến nỗi phải khóc? Điên à? Lính tráng gì mà yếu quá vậy?”. Giọng Ngọc đã thoáng có vẻ lo lắng. Tôi ngẫng lên nhìn nó một lúc, như muốn để tin chắc rằng, tôi không đang sống trong một giấc mơ.
Nó đó, Ngọc đó. Với đôi mắt sâu và cặp lông mày dày nhưng nhạt màu, mái tóc quăn quăn kia. Hai vai thì lòi xương đòn gánh và những ngón tay dài quá khổ đang để trên vai tôi kia. Phải, đó là Ngọc, bằng xương thịt, Ngọc đang còn sống trên cõi đời. “Đêm qua đồn Lương Mai bị xơi gọn rồi. Tao tưởng mày…”. Ngọc cười to lên, cúi xuống ôm lấy tôi siết lại một cái thật mạnh tưởng chừng tôi bị gẫy xương. Nó buông tôi ra mà cơn cười vẫn chưa dứt, hai tay không ngớt vỗ xuống bắp đùi trần chan chát, đầu nghiêng ngã, gục gật ra chiều đắc ý. “Cái số tao cao lắm”, Ngọc dằn cười, nói, rồi lại cười lên ha hả. “Dại gì đi trình diện sớm chứ. Ở lại chơi cái đã. Đi đánh nhau chớ phải đi ăn cỗ đâu mà đi sớm. Mày thấy tao hên không? Phải đi trình diện đúng ngày thì chừ tiêu tùng rồi còn gì! “Đột nhiên nụ cười tắt trên môi nó, vẻ mặt Ngọc trầm ngâm hẳn lại.
Tôi có cảm tưởng như nó đang chìm vào giây phút mặc niệm một-thằng-Ngọc-nào-đó-là hình bóng của nó- vừa từ biệt cõi đời một cách tức tưởi thay cho nó. “Không còn gì cả Ngọc ạ”. Tôi nói. Bọn họ hai tiểu đoàn, pháo kích và tấn công chớp nhoáng. Pháo binh mình phải yểm trợ trên mục tiêu. Hôm nay là ngày kỷ niệm lớn, mày nhớ chứ?”. Ngọc gục gật đầu tỏ ý đã hiểu. “Mìn nổ trên suốt quãng đường tao về đây”. Ngọc quàng vai tôi đứng lên, nhìn vào mặt tôi cười. Bỗng nhiên tôi thấy nụ cười nó không gây cho tôi chút hứng thú nào. Tôi cau mày nhìn lại và nụ cười nó vội tắt.
… Hôm hai đứa đến bốc thăm chọn đơn vị ở Tiểu khu - theo lời Thiếu tá Tham mưu trưởng thì trong hai mươi chín người về trình diện đã có tới hai mươi sáu người, cha mẹ hoặc thân nhân có quen biết với ông, tới “nhờ Thiếu tá trông nom hộ”, nên để được công bằng, ông phải tổ chức cuộc bốc thăm. Nhưng ông lưu ý các tân sĩ quan, sẽ không có một người nào ở lại hậu cứ – dù là Chi khu đi nữa – tất cả đều phải đi làm Trung đội trưởng chiến đấu “cho quen đạn”. Ít nhất là nửa năm. Khi Ngọc bốc cái thăm có viết địa danh Lương Mai thì Thiếu tá Tham mưu phó nói ngay: “Anh đừng ngại, Đại đội đóng ở đó tối đa là ba tháng thôi”. Ông quay lại hỏi viên phụ tá: “Đại đội mấy hè?”. “Dạ 213”. “À, Đại đội này đã đóng ở Lương Mai một tháng rồi, ông nói. Hai tháng nữa tôi sẽ cho đổi về gần!”.
Chúng tôi ngơ ngác không hiểu gì. Lương Mai ở đâu, như thế nào, mà theo lời ông có vẻ “dễ sợ” quá vậy? Trong lúc Ngọc bối rối nhìn quanh thì Thượng sĩ Tân – hạ sĩ quan hướng dẫn chúng tôi – vội nắm khuỷu tay nó dìu ra một nơi. Chúng tôi vẫn lần lượt lên rút những cái thăm định mệnh, đựng trong chiếc mũ sắt để cao lên quá đầu. Kẻ Phú Thứ, người Phú Vang. Có người về Quảng Điền, Phong Điền, Vinh Lộc. Phần tôi bốc thăm nhằm Phú Lộc, một Quận lỵ nằm ven quốc lộ 1, cách Huế hơn bốn mươi cây số về hướng Nam.
Theo lời Thượng sĩ Tân, thì Lương Mai là một vùng tử địa. Ông nói với Ngọc bằng vẻ mặt nghiêm trọng:
- Tôi nói không phải để làm Chuẩn úy mất tinh thần đâu. Chỗ đó có tiếng nguy hiểm xưa nay, VC như rươi. Mới năm ngoái đây, đồn đã bị hốt sạch một lần rồi. Ngừng lại để chờ người nghe kịp hiểu rõ những lời mà ông nghĩ là rất đáng lưu tâm, nhất là đối với một sĩ quan mới ra lò như Ngọc, rồi ông thản nhiên nói tiếp: “Nói về cái cực khổ thì… Ông lắc đầu, trề làn môi dưới ra rồi thả lững lờ mấy tiếng “không chê được”. Ông cam đoan, đó là một cái đồn cô độc… nhất thế giới. Một tuần mới có chuyến bay tiếp tế một lần, gặp khi trời mù thì … hai tuần, có khi cả tháng, chỉ có cơm sấy đổ nước mà thôi và cá hộp… trường kỳ. Ông ngừng nói, rít những hơi thuốc dài. Ông định nói thêm gì nữa, nhưng nhìn nét mặt lo âu của Ngọc, ông hơi lưỡng lự. Ông cố tìm những chi tiết hạn chế bớt sự bi thảm sợ làm Ngọc nản lòng. Với hai con mắt nhìn ông không chớp, hai tròng mắt lồi của Ngọc đứng yên, dán vào đôi môi khô thâm đang ngậm chặt điếu thuốc gần tàn.
- Nói xin lỗi Chuẩn úy, lắm khi … đi đồng cũng phải bò từ trong đồn ra cầu, chứ hễ đi sổng lưng thì… tắc cụp! Thế là xong. Bọn họ bắn sẻ tài tình lắm. Mà lại núp trong bụi bờ, làm sao mình thấy được.
Nhưng rồi ông lại trấn an Ngọc:
- Mấy tháng nay nghe nói có một Tiểu đoàn pháo binh Mỹ và Đại Hàn đóng trên đó, như vậy có lẽ cũng đỡ. Ông vỗ vai Ngọc khuyên nhủ như một người anh từng trải nói với đứa em sắp sửa dấn thân vào chốn hiểm nghèo:
- Nói là nói vậy, chớ con người sống chết có số cả, lo lắng làm gì cho thêm mệt. Đời nhà binh không đo lường tính toán được. Có khi thấy tưởng xui mà lại hóa ra hên và ngược lại. Thôi cứ tới đâu thì hay tới đó.
Nói xong ông lảng đi, bỏ Ngọc đứng lại một mình.
Tôi bỗng chua xót nghĩ thầm: “Chẳng có số mệnh con khỉ khô gì ráo. Nếu không gây ra chiến tranh, nếu không đem con người ra trong cái “trò-chơi-xử-tử-lẫn nhau” ấy, thì làm sao họ có thể chết hàng đàn hàng lũ như vậy được?
Số mạng? Tôi ghét cay ghét đắng và thương hại những kẻ tự lừa gạt mình và lừa gạt cả thiên hạ bằng hai tiếng vô nghĩa đó. Đó là một thứ ngụy tín của bọn ý chí suy nhược, bất lực và ngu xuẩn. Hoặc của bọn xảo quyệt, có ác tâm, dùng để lừa đảo.
Bốc thăm xong, chúng tôi tụm năm, tụm ba lại bàn tán. Có những người đùa nghịch đòi đổi bù tiền để lấy chỗ có tiếng hiểm nghèo mà người bạn không may đã vớ phải.
Tôi quàng vai Ngọc xuống lầu. Thấy nét mặt rầu rầu của bạn, tôi không muốn làm cho Ngọc thêm lo với câu chuyện của một người lính mà tôi vừa nghe được. Theo lời anh ta thì những người ra đồn Lương Mai ít ai có dịp về phép. Lần về nghỉ phép của họ là dịp họ nhận một giấy phép về chơi bên kia thế giới – những người lính gọi đùa là “thuyên chuyển về vùng V – và mình mặc một chiếc “sơ mi gỗ tạp”.
Lúc chúng tôi xuống nửa bậc thang, có người chạy theo gọi Ngọc, anh ta nhảy từng hai bậc thang một:
- Nghe mày cũng ra Lương Mai hả? Hắn vội đưa cái thăm cho Ngọc xem. Tôi thấy rõ hai chữ “Lương Mai”. Đi cho có đôi, đỡ buồn. Hắn ta nói. Mầy định bao giờ trình diện? Đi trễ trễ đợi tao với nghe.
Giọng buồn mà quả quyết, Ngọc nói sau khi đã chửi thề:
- Cho chết! Tao cóc cần! Ở nhà tới cuối tháng luôn, chơi cho đã rồi sẽ hay.
Hôm đó mới là mồng 9 tháng 5. Trọng Sự vụ lệnh đề ngày 10 tháng 5 phải trình diện đơn vị.
*
Xe dừng lại trước Tiểu khu, tôi vội phóng xuống đón chuyến buýt về chợ Đông Ba. Nắng hạ tuần tháng 5 ngột ngạt, đi bộ về đến nhà tôi hoa mắt.
Ông cụ bảo tôi:
- Sao con lại mạo hiểm vậy? Không nhớ hôm nay là sinh nhật Cụ Hồ à? Để qua ngày khác đi có hơn không?
Bà cụ tôi nói:
- Con nó mới về còn mệt, ông để nó nghỉ, hỏi dông dài chi vậy. Rồi bà dịu dàng bảo tôi:
- Con đi rửa mặt, tắm rửa cho khỏe.
Bà giục đứa em gái út pha cho tôi ly chanh đá. Nhưng tôi không làm theo lời bà cụ mà chỉ cởi bộ đồ trận, nằm sãi tay trên mặt đi-văng, nhắm mắt lại:
Một lúc, hốt nhiên tôi mở choàng mắt, hỏi ông cụ một cách đột ngột:
- Ngọc đi trình diện đơn vị ngày nào vậy, ba?
- Thì nó cũng đi hôm con về Phú Lộc đó, nhưng không có máy bay nên buổi trưa về lại. Mãi mấy hôm sau mới đi được. Hình như nó mới đi hôm kia.
Tôi ngồi bật dậy, mở to mắt nhìn ông và bắt gặp ông cũng đang hướng về tôi, vẻ nghi ngờ, dò hỏi:
- Đồn Ngọc bị đánh mất đêm hôm rồi. Tôi nói, như hoàn toàn do bất ngờ, lưỡi tôi run lên vậy, rồi ngã mình không gượng, nằm xuống lại. Mắt nhìn lên trần nhà. Dường như cho rằng mình đã nghe lầm, ông cụ lập lại những lời tôi vừa nói thành câu hỏi:
- Đồn Ngọc bị đánh? Mất đêm hôm rồi? Nhưng nó mới đi hôm kia đây mà. Con nghe tin đó ở đâu vậy?
- Ở ban truyền tin Đại đội con. Đến hôm nào mà họ đánh chẳng được? Tôi đáp xẵng. Bỗng dưng tôi tức giận vô cớ và cảm thấy mình lố bịch. Tôi dịu giọng nói với ông:
- Ba làm ơn qua báo cho bác Huỳnh hay để bác sang Tiểu khu hỏi lại cho đích xác. Theo chỗ con biết thì không có mấy người chạy thoát.
Để mình trần, ông cụ tôi chạy băng ngang đường sang nhà bác Huỳnh - đối diện với nhà tôi.
Còn lại một mình, tôi nằm yên và nhớ lại cái cảm giác bàng hoàng thảng thốt khi tôi vừa về đến cổng nhà, nhìn qua khung cửa bếp nhà Ngọc trống trơn. Ngọc đâu có đứng đó, tôi đâu có được ôm Ngọc khóc sung sướng như tôi đã tưởng tượng.
Cả khu phố công chức im lìm trong buổi trưa nắng cháy. Buổi trưa như một khối thủy ngân rực rỡ chĩu nặng, đè xuống lòng người. Một sự im lìm trông có vẻ như vô hại của một khối thuốc nổ. Cái yên lặng trong khu rừng đã có sẵn ổ phục kích.
Khi tôi sang nhà Ngọc, ông cụ tôi hãy còn ở đó. Bác Huỳnh ngồi xếp bằng tròn trước mâm cơm có đĩa cà muối, bát canh cải xanh và đĩa cá đối kho. Ở vành mâm trước mặt bác, chén cơm đầu vừa bới ra, chưa động đũa, đang bốc hơi.
Bác mở to đôi mắt ốc nhồi nhìn tôi nói, tưởng như bác nghe tôi bằng hai con mắt muốn lồi ra đó, trên gương mặt thất đảm xám xanh. Đôi đũa trong tay bác run lên, cái trán hói nhăn lại những nếp sâu, đã rịn mồ hôi. Miệng bác há hốc để lộ mấy chiếc răng vàng đóng đen nhựa thuốc lá. Một lúc lâu bác mới hỏi tôi, bằng một giọng mất hẳn âm điệu thường ngày mà nếu tôi không trông thấy bác chắc hẳn tôi không còn nhận ra:
- Thiệt… thiệt hả con? Đồn thằng Ngọc …. Mất đêm hôm rồi ồ… ồi à?
- Dạ… con cũng nghe tin điện tại Đại đội con như vậy thôi. Ăn cơm xong bác qua Tiểu khu hỏi lại cho chắc.
Nhưng bác đã vội đứng lên thay áo quần đi ngay. Chén cơm còn nguyên đang nguội dần. Bác đã quên bữa cơm.
*
Cả khu xóm công chức của tôi đã hay tin, nhưng người ta còn chờ ông cụ Ngọc trở về để biết chắc chắn. Mỗi người như có gài sẵn trong tim một quả mìn nổ chậm. Thời gian trôi qua và những trái tim căng, sắp vơ.
Nắng hừng hực như có đám cháy ngay trên đầu, không có lấy một làn gió nhẹ. Lá cây rủ xuống trong sự chịu đựng kiệt lực. Suốt con đường vắng tanh. Nắng. Chỉ có nắng đang ngự trị, thả ra muôn vàn con đom đóm sáng lóa trên mặt nhựa đường, trên các mái ngói.
Trong nhà tôi, nét mặt mọi người trở nên xa vắng một cách kỳ cục. Mỗi người chọn cho mình một chỗ và cách ngồi, bộc lộ tâm trạng họ, như những người tham thiền, họ thấu hiểu tư tưởng của nhau, không cần phải thổ lộ bằng lời nói: họ đang chờ đợi tin một tai họa mà họ còn nuôi chút hy vọng được cứu vãn bằng một phép màu vào giây phút cuối cùng. Một thứ ảo ảnh của người khát nước trong sa mạc, khi họ chưa ngã xuống, niềm hy vọng chỉ bám víu vào sự phò hộ của một quyền lực vô hình.
Đột ngột, phá tan bầu không khí yên lặng, từ đầu đường, có tiếng máy xe hơi nhà binh vang tới. Rồi một chiếc xe "đốt" xuất hiện, chạy chầm chậm vào con đường. Cả xóm như bị dựng dậy, mọi người đổ xô ra đứng ở hàng hiên nhìn trân trối chiếc xe vừa dừng lại trước nhà Ngọc. Hạ sĩ tài xế từ trên xe bước xuống. Cả nhà tôi cùng chạy sang. Chú Kham ở liền vách nhà Ngọc, bước choàng qua hàng rào dâm bụt, không kịp vào bằng cửa chính. Hai bên hàng xóm kéo tới. Chúng tôi đứng vây lấy anh. Anh hạ sĩ đưa mắt nhìn khắp một lượt để đáp lại những tia nhìn của chúng tôi đang đổ dồn về anh, với nét mặt buồn, nhưng giọng điềm tĩnh, anh nói:
- Tôi muốn gặp thân nhân của Chuẩn úy Ngọc. Bác Diên trai vội gọi với vào nhà:
- Bác Huỳnh gái đâu? Người ta kiếm… À, kia rồi. Có anh đây muốn gặp bác để … Bác ngừng bặt, chưa biết nói gì thêm, nét mặt hoàn toàn bối rối.
Anh Hạ sĩ rẽ đám người, tới trước mặt bác Huỳnh gái mà gương mặt đã tái nhợt như một hình nộm. Thân hình bé choắt của bác như bị dìm mất trong trạng thái vô giác. Bác đứng vòng hai tay trước bụng, đầu ngoẻo sang bên gần thẳng góc với chiếc vai so, vẻ thảm thương, bác nhìn anh lính trân trối. Bỗng mọi người nghe tiếng khóc cố kìm hãm của Hương - cô em gái kế Ngọc - nức nở. Anh Hạ sĩ quay nhìn Hương đứng giấu mặt khóc sau cánh cửa, đoạn nhìn thẳng vào mặt bác Huỳnh gái:
- Thưa vâng. Tôi xin báo tin buồn cho bà được biết, Chuẩn úy Ngọc đã tử trận đêm hôm qua, xác sẽ được đem về để tại nhà “Vĩnh biệt” bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Giọng nói của người lính nghe rõ ràng, âm độ vừa phải, không vấp váp, như đọc một câu anh đã học thuộc lòng vì từng lập lại nhiều lần. Khi nào tẩn liệm, anh nói tiếp, chúng tôi xin tin bà được biết. Anh cúi chào bác Huỳnh gái, hơi nghiêng người về phía đám đông, rồi lặng lẽ rẽ lối bước ra xe.
Hương khóc to lên gọi tên Ngọc thất thanh: “Anh Ngọc ơi! Anh Ngọc ơi!… Nàng ôm lấy mặt và những giọt nước mắt chảy ràn rụa qua kẽ tay nàng.
Mọi người có mặt cũng khóc theo nàng. Một vài người cố dùng nghị lực để chống lại cơn cảm xúc, chỉ chợt tái mặt đi, nhưng nước mắt réo gọi được nước mắt và cuối cùng người ta cũng thấy họ kín đáo quay mặt đi để che giấu nước mắt trong khăn tay.
Bác Diên gái vừa khóc vừa đỡ bác Huỳnh đang ngã ra bất tỉnh:
- Bác Huỳnh! Bác Huỳnh ơ.. ơ.. ơi! Khổ quá! Bác Huỳnh! Bác Huỳnh ơi! Bác tỉnh lại. Bác Diên gái réo ba hồn chín vía bác Huỳnh gái. Người ta phụ nhau đỡ bác Huỳnh vào nhà.
Chú Kham mắt đỏ hoe, chạy đi lấy ống dầu ngửi. Những người khác lăng xăng đem tới tí thuốc cấp cứu nào ở nhà họ tìm thấy. Bà Phán bên nhà cắt một lát sâm, cạy miệng cho bác Huỳnh gái ngậm. Bác đang nằm thiêm thiếp trên giường với chiếc khăn mặt thấm nước lạnh đắp ngang trán. Da mặt bác trắng như một tờ giấy. Mãi cho đến khi bác Huỳnh trai trở về làm cho chút niềm hy vọng mơ hồ của mọi người tan ra như mây khói – và người ta lại xúm nhau khóc một lần nữa – bác Huỳnh gái vẫn chưa tỉnh.
Bác Diên gái vừa khóc mếu máo vừa thốt lên những tiếng gì nghe không rõ, như là “trời ơi” và “tội nghiệp”. Hầu như không ai còn lời gì khác hơn để nói. Bác Hồng, bà Phán cũng chỉ thốt lên những tiếng ấy.
Còn bác Huỳnh trai khóc mà không có nước mắt. Chỉ thấy cái miệng móm của bác méo xệch và đôi mắt đỏ hoe như bác đang làm trò. Bác khóc một lúc rồi ngừng hẳn lại kể chuyện. Kể xong bác lại tiếp tục khóc theo cái lối đặc biệt của bác. Những lúc bác nói, tôi tưởng bác đang kể đến cái chết của một người xa lạ nào không phải chính con trai bác.
- Xong rồi, các bác ơi! Ba ông Chuẩn úy mới ra trường, tiêu hết rồi… Còn gì!
Bác kể rằng…, và… Đó là những điều bác vừa nghe về trận đánh người ta kể lại bên Tiểu khu.
Xác Ngọc chưa đem về được. Bác hỏi ý kiến bác Diên về cách tổ chức đám tang và phải đặt để quan tài Ngọc chỗ nào trong căn nhà chật chội của bác.
Chúng tôi xúm nhau đào lỗ dựng cột, che tạm một mái hiên bằng hai tấm bông-sô ghép lại. Chú Kham theo bác Huỳnh trai xuống nhà xác Mang Cá Nhỏ chờ nhận xác Ngọc. Bác Huỳnh vừa khóc vừa nói:
- Các bác coi. Tội nghiệp thằng nhỏ tôi, nó vừa mới ra trường sĩ quan. Vừa đi hôm kia đây chớ lâu la gì cho cam. Người ta hứa chín mười hôm nữa sẽ cho nó về làm ở văn phòng. Bác khóc rống lên thê thảm. Cái số con sao mà đen quá vậy Ngọc ơi! Con ơi! Gập đôi người lại, hai tay bác ôm lấy bụng, như ruột bác vừa mới đứt ra. Phải nghe lời người ta thì có đâu đến nỗi này. Bác kể lể. Họ bảo trong thời gian chờ đợi, hãy khai bệnh nằm nhà thương đi, chờ cho đến khi nào được đổi về làm ở văn phòng rồi xuất viện đi làm. Tôi không nghe, cũng nổi máu anh hùng rơm, xúi nó đi trình diện, “con trai mà, thử lửa một chút cho biết”, tôi nói với nó như vậy. Trời ơi! Con ơi! Nào ngờ lửa nóng quá, con chịu không thấu, Ngọc ơi! Mà hôm đi thấy nó cũng vui vẻ. Cả thằng bạn nó cũng vậy. Mặt hai đứa tươi tỉnh, đâu có vẻ gì là sắp chết bất đắc đâu. Chỉ có hôm nó ủi bộ đồ trận bị cháy cái lon, tôi đã sinh nghi, nhưng lại cho là dị đoan, chớ có ngờ đâu là điềm dữ…
Rồi bác Huỳnh lại khóc ngất.
- Trời ơi! Chú Kham hốt hoảng kêu lên. Làm sao, sao vậy? Bác Huỳnh! Bác Huỳnh! Bác Huỳnh mặt tái dần, mắt trợn ngược rồi ngã ra bất tỉnh. Người ta vội vực bác đem vào nhà, trong phòng riêng của bác.
Bác Huỳnh gái vừa tỉnh lại – Những người đàn bà hàng xóm đã ra về, chỉ còn lại bà Phán, vợ chồng Lan – Chị cả của Ngọc – đang săn sóc cho bác. Bác nằm trên giường, lăn qua trở lại, đập chân tay xuống mặt giường réo tên Ngọc thảm thiết. Bác đấm vào ngực thình thịch. Bà Phán giữ tay bác lại, tìm lời an tủi:
- Thôi bác Huỳnh, dẫu sao cháu nó cũng đã mất rồi. Bác cũng không nên buồn bã âu sầu quá mà có hại đến sức khỏe. Bác vừa mới qua cơn đau, người đang còn yếu. Bác nên nghĩ đến Hương, thằng Bé và Huệ.
Bác Huỳnh gái nhìn bà Phán, đôi mắt dại của bác dần dần lấy lại được thần sắc. Bác nhận ra Lan đang ôm lấy vai bác khóc thút thít. Bác nằm thẳng cẳng, hai mắt nhìn không chớp lên trần nhà như nhìn một vật, một người nào nhưng chỉ một mình bác thấy. Và rồi, hai giòng nước mắt tuôn chảy ra hai bên khóe, lăn tràn xuống kẽ tai, thấm ướt cả chiếc gối. Giòng nước mắt tràn từ hai khóe mắt của bác Huỳnh gái tưởng chừng như hai mạch nước ngầm chảy ra từ một kẽ đất nứt, không bao giờ dứt. Một lúc mặt gối ướt đầm đìa như đổ nước dù Lan không ngớt lấy khăn tay thấm đi cho bác.
Từ buồng bên, chú Kham đi ra cho hay bác Huỳnh trai cũng đã tỉnh lại, đang sửa soạn đi lấy xác Ngọc, nghe đâu đã được chở về.
*
Bác Diên đứng ở cổng ra vào nhà bác Huỳnh nói chuyện với chú Kham, đợi bác Huỳnh cùng xuống Mang Cá nhỏ.
- Cũng còn chút hy vọng chớ chú. Nghe nói trong đồn có bốn sĩ quan mà chỉ chết ba. Biết đâu Ngọc nó đang còn chạy lạc ở đâu đó chưa tìm thấy. Có những trường hợp lạ lùng lắm. Cứ đinh ninh là chết rồi, cả nhà xúm lại khóc lóc, lập bàn thờ khói hương nghi ngút sì sụp vái lạy. Mấy hôm sau lù lù trở về như ma hiện hồn.
Chú Kham ái ngại nhìn bác Diên, chú trả lời bác, giọng nhỏ nhẹ và cố làm cho trở nên nhẹ nhàng, tỏ cho bác Diên là chú không muốn làm cho chút hy vọng vừa chớm nở của bác tan ra như bọt sóng va vào đá cuội:
- Vâng, tôi hiểu ý bác. Bác muốn nói đến vị sĩ quan thứ tư chứ gì? Đó là ông Đại đội phó đi phép, đêm tấn công ông không còn ở trong đồn nữa. Bác Huỳnh vừa gặp ông ta bên Tiểu khu. Vả, người ta đã tìm thấy xác Ngọc có đeo tấm thẻ đính bài khắc rõ tên họ. Sở dĩ xác chưa đem về được vì còn phải đợi máy bay.
Chú Kham và bác Huỳnh trai vừa ra khỏi cổng thì một chiếc xe Jeep đổ lại. Một ông Trung úy Hắc Báo đến cho hay, chính ông đã tìm thấy xác Ngọc trước tiên bị vùi dưới hố cát, và căn cứ vào thẻ bài kim khí, ông đã viết lại rõ ràng tên họ của Ngọc trên một tờ giấy đính vào xác cho thân nhân dễ nhận. Nói xong ông lái xe đi ngay, bỏ lại bác Diên đứng sững như bị trời trồng. Bóng bác in xuống mặt nền xi măng, đen như một vết dầu hắc loang.
*
Bác Diên gái rơm rớm nước mắt nói với tôi:
- Tội nghiệp Ngọc quá con à. Bác thương nó như con vậy. Mới mấy ngày trước đây, nó qua nhà bác lục cơm nguội ăn với Đức – con trai bác Diên, đi trước Ngọc hai khóa – khi hai đứa đi chơi khuya về đói bụng. Có chuyện gì Ngọc cũng kể lại cho bác nghe và hỏi ý kiến bác. Vậy mà bữa nay Ngọc không còn trên cõi đời nữa. Thật như nằm mơ, bác không thể nào tin được là Ngọc đã chết. Vậy mà đó là sự thật. Bác ngừng lại, lật vạt áo lên lau mắt.
Nghĩ đến bạn, mắt tôi cũng bắt đầu thấy cay cay. Nhưng tôi cố kìm hãm – mọi người đã khóc, đó là công việc của đàn bà và của những ông già tinh thần suy nhược. Tôi không muốn tỏ ra – ít ra là trước mặt một người thứ hai – là tôi cũng yếu đuối như vậy. Tôi an ủi bác Diên, và thật khó chịu, khi chính tôi cũng lại nói đến số mệnh – trong hoàn cảnh của bọn thanh niên chúng tôi đối với cuộc chiến tranh nầy, tôi không sao hiểu nổi hai chữ đáng thương đó – để làm cho bác Diên dịu bớt cơn phiền não - đó là cái số không may của riêng Ngọc hay là cái số khốn nạn chung cho cả thế hệ chúng tôi trong cuộc chiến bỉ ổi hiện nay?!
Bác Diên gái nói tiếp:
- Vợ chồng bác Huỳnh lâu nay sống cực khổ, thắt lưng buộc bụng nuôi con ăn học, vừa thành tài thì bị bắt đi lính để bây giờ ra nông nỗi vậy. Ngọc nói với bác là khi nào lãnh lương Ngọc sẽ đưa hết cho cha mẹ… Ngọc là nguồn hy vọng độc nhất mới chớm nở của gia đình bác Huỳnh, đã vội tàn. Thằng Bé thì ham chơi bời lêu lõng, chẳng kể gì đến nhà cửa. Con Hương, thằng Huệ còn đi học. Lan có chồng có con yên phần nó. Bác Huỳnh trai ngày hai buổi còng lưng trên chiếc xe đạp, bất kể nắng mưa với số lương ít ỏi, có đủ đâu vào đâu. Còn bác gái thì quanh năm suốt tháng chúi đầu vào bếp có biết đến một trò giải trí nào. Ngọc chết là nguồn hy vọng của gia đình bác cũng tắt hẳn. Hương rồi sẽ đi lấy chồng. Đợi cho đến lúc thằng Bé, thằng Huệ lớn lên làm sao đợi nổi? Già sắp xuống lỗ đến nơi rồi.
Bác Diên nói với tôi rằng, bác có khuyên bác Huỳnh gái hãy để thì giờ mà cầu Trời khấn Phật cho Ngọc nó được tai qua nạn khỏi. Chính bác đêm nào cũng tụng kinh, xin Phật Trời phù hộ cho Đức, con trai bác.
- Nói xin lỗi con, bác tiếp lời. Chớ ngay như đến chồng bác bây giờ bác cũng không cần đâu con. Chỉ có những đứa con của bác thôi. Chúng nó mà có làm sao thì chắc không sống nổi con à… Tội nghiệp, trước hôm đi Ngọc có hứa với đám con bác, bao giờ lãnh lương ráp-pen Chuẩn úy nó sẽ đãi đám nhỏ đi xi-nê. Mấy đứa nhỏ mừng rỡ vây lấy Ngọc, “hoan hô anh Ngọc một phát”.
Giọng bác Diên gái mỗi lúc trở nên bình tĩnh hơn, giống một bầu trời trong sáng lên dần khi gió thổi đẩy đi xa những đám mây u ám. Bác kể, buổi sáng cách đây ba hôm, bác thấy một chiếc xe “đốt” dừng lại trước nhà Ngọc. Trên xe đã có người bạn của Ngọc. Ngọc xách chiếc ba lô từ trong nhà đi ra cười với bạn:
- Ê, sao bữa trước nói ở nhà chơi cho đã mà bữa nay lại đi sớm vậy bồ?
- Thì nói thế thôi. Đi phức cho rồi, ở nhà chẳng biết làm gì. Người bạn cũng tươi cười trả lời.
Ngọc quăng xắc lên xe hỏi:
- Lần nầy chắc có máy bay không đó? Ngọc vừa hỏi vừa leo lên xe. Không khéo đợi đến trưa rồi lại trở về như bữa trước.
Má Ngọc chạy theo ra đứng cạnh hông xe nhìn lên. Bác hiền lành quá, chẳng biết nói với con những gì trước khi từ biệt. Bác cứ đứng vịn tay vào bờ thanh sắt mà nhìn Ngọc mãi như muốn thu lấy cho rõ ràng hình ảnh đứa con trai yêu vào tâm khảm, đứa con trai bác rứt ruột đẻ ra, nhọc công nuôi nấng cho lớn khôn, bây giờ sắp xa bác, đi vào chốn hiểm nghèo.
Ngọc chống tay lên càng xe, cúi xuống nói với mẹ:
- Thôi má vào nhà đi, đứng đó làm gì cho thêm nắng. Con đi ít lâu có phép lại về thăm nhà. Đâu có xa xôi gì má lo. Lên đến con viết thư về liền cho má yên lòng.
Bác Huỳnh gái nhìn con van lơn:
- Mặc kệ má con à, nắng chút có sao. Con cho má đứng nhìn con một lát. Con đi rồi, có muốn má cũng không nhìn con được nữa.
- Nhưng nắng quá mà, má. Ngọc nôn nao nói. Con đi lâu nhất là hai tháng con lại về, má à. Ngọc cười tươi. Lúc đó tha hồ má nhìn con chớ gì.
Má Ngọc gượng cười, lập lại lời nói:
- Kệ má, con. Cho má đứng đây nhìn con một lát. Xe chưa chạy mà.
Bác Huỳnh trai đã đi làm, lũ em Ngọc đi học. Buổi sáng, khi dắt chiếc xe đạp ra đường, ông bắt tay Ngọc cái bắt tay đầu tiên ông dành cho đứa con trai:
- Lát nữa… Ba không có nhà… Thôi con đi mạnh giỏi.
Hai đứa em kế Ngọc, Hương và Huệ, tay mang cặp, cũng nói:
- Anh Ngọc đi mạnh giỏi nghe.
Hương, cô em gái nói mà không nhìn anh, quay mặt dấu nước mắt sau vành nón lá. Còn Huệ, cậu em trai thì lí lắc:
- Anh đánh giặc cho chì nghe. Lấy về cho em cây súng, nhớ nghe. Em bắn chim.
Bác Diên gái cũng ra đứng ở cửa, trông thấy, Ngọc đứng thẳng người đưa tay lên chào theo lối nhà binh, rồi cười nói:
- Lần này chắc con đi thật rồi, còn lâu con mới về, vì đường giao thông khó khăn. Con xin chúc hai bác ở lại mạnh giỏi.
Người tài xế đã cho nổ máy xe. Ngọc quay sang mẹ, cầm lấy hai tay bà rồi bất ngờ, hôn lên làn má nhăn nheo của mẹ:
- Má, con chúc má ở nhà bình an. Nói con gởi lời chào ba con và các em. Thôi, con đi nghe. Xe sắp chạy rồi, má vào đi kẻo nắng.
Mặc cho Ngọc có nói gì, người mẹ cũng vẫn đứng đó, hai mẹ con nhìn nhau. Ngọc gắng gượng cười tươi cho mẹ yên lòng.
Chiếc xe lăn bánh. Hai tay người mẹ níu lấy thành xe rớt xuống, trơ trọi. Nhìn theo con, bấy giờ hai giòng nước mắt mới tuôn tràn xuống má.
Trẻ con trong xóm chạy theo gọi “anh Ngọc, anh Ngọc”. Ngọc cười, đưa tay vẫy. Có đứa nghịch ném lên xe một hòn sỏi. Ngọc cung tay lên làm bộ điệu bắn súng, miệng thét “Pằng! Pằng!” Bọn trẻ con vẫn chạy đuổi theo xe. Ngọc vẫn quay lại bắn bằng miệng cho đến lúc chiếc xe tăng tốc độ bỏ lại lớp bụi mờ và khuất mắt ở khúc quanh đầu đường.
- Bây giờ, bác Diên tiếp. Bác còn nghe rõ ràng tiếng Ngọc cười nói, tiếng giày Ngọc nện cồm cộp trên mặt đất lúc Ngọc chạy ra xe. Bác lắc đầu, thật khó tin quá con ạ, bác khó tin là Ngọc đã thực chết rồi.
Bác thở dài, chào tôi ra về. Tôi đưa bác ra cổng, không biết phải nói lời an ủi nào với bác cho phải. Bác còn nán lại thêm chút nữa, nói:
- Ngọc thật vô tội con ạ. Ngọc chết vô tội. Công lao cha mẹ nuôi nấng hơn hai mươi năm trường cầm bằng đem đổ xuống sông. Mà có ích lợi gì cho ai đâu? Lợi cho ai thì chẳng thấy, chỉ thấy thiệt thân con cháu mình và làm đau buồn các bậc cha mẹ. Thôi, con vào ăn cơm đi, bác về. Mai con còn ở lại chớ? À, con nên nói với anh em trong xóm giúp đỡ bác Huỳnh đưa Ngọc đến nơi an nghỉ cuối cùng. Một lần trong một đời người, nghĩa tử nghĩa tận. Rồi thì người sống có công việc của người sống, còn ai có thì giờ mà nhớ đến Ngọc nữa, phải không con?
*
Buổi chiều thì tôi nghe xác Ngọc đã được liệm, đang còn quàn tại chùa Diệu Đế. Nghe đâu Ngọc chết nhằm ngày trùng nặng nên bác Huỳnh cử không dám đem về nhà.
Sau khi mở cuộc lạc quyên trong xóm lấy tiền mua lễ vật phúng điếu, chúng tôi – những thiếu niên trong xóm – đến chùa làm lễ.
Quan tài Ngọc được kê trên hai bục gỗ, để ngay trước sân chùa, bên trên phủ lá cờ dài rủ xuống che gần khuất hai bên hông. Trên nắp áo quan, cháy leo lét một hàng sáu cây nến trắng. Ở một đầu có đặt bàn thờ với tượng Phật Bà Quan Thế Âm. Bác Huỳnh đang bàn việc chôn cất với sư ông trụ trì. Bác cho chúng tôi biết, là bác đã liệm Ngọc bằng một bao bố trà Tàu. Bác nhờ chúng tôi làm một mái hiên che quan tài Ngọc, “kẻo mai nắng dọi tội nghiệp nó”.
Hôm sau, suốt buổi sáng tôi bận việc nên không đến chùa được. Nghe đâu sáng đó, Trung tá Tiểu khu trưởng và phái đoàn chính quyền có đến phúng điếu. Ông có đọc một bài điếu văn ngắn theo thông lệ với nội dung sáo, cho rằng Ngọc là một sĩ quan can đảm “đã sát cánh cùng đơn vị chiến đấu đến giây phút cuối cùng” và “đã hy sinh cho chính nghĩa, để lại bao tiếc thương cho dân tộc”… Ngọc được truy thăng cấp bậc Thiếu úy và gắn Anh dũng Bội tinh kèm nhành dương liễu. Buổi trưa, trước khi về đơn vị, tôi xuống chùa, gọi là để từ giã vong linh Ngọc lần cuối cùng. Chiếc hòm đã được sơn màu lam nhạt, trang trí hai bên hông hình bông sen trắng. Trên đầu quan tài, bức ảnh Ngọc chụp khi mới gắn Alpha được phóng to, lồng khung kính. Bên cạnh để cặp lon Thiếu úy, hoa mai đồng vàng chói nổi bật trên nền vải nhung đen. Tôi đứng xa nên không thấy tấm huy chương để chỗ nào.
Thằng cháu nhỏ đi theo tôi nói:
- Anh Ngọc được thăng cấp Thiếu úy.
Tôi hỏi nó:
- Cháu có thích làm Thiếu úy như anh Ngọc không?
Nó giãy nãy:
- Làm Thiếu tướng cháu cũng không thèm. Chết rồi thì còn biết gì nữa. Nghĩ ngợi một lúc, nó phát biểu thêm:
- Chết rồi mà cho làm Tổng thống cháu cũng không ưng. Làm dân thường mà sống sướng hơn.
Tôi nhìn đăm đăm vào bức ảnh của Ngọc. Tôi nhớ lại lời tôi đã nói với nó buổi sáng hai đứa đi nhận Sự vụ lệnh:
- Ngọc này, Thiếu tá nói còn hai tháng nữa Đại đội mày sẽ được đổi về chỗ tốt. Hai tháng kể ra không là gì, ngay như hai năm cũng vậy, đối với một đời người. Nhưng mày nhớ cho là giữa sự sống và sự chết khoảng cách không đầy một giây đồng hồ.
Ngọc đã làm thinh không trả lời. Mãi lâu sau nó mới nói một cách giận dữ:
- Ôi thôi! Kệ cha nó, hơi đâu mà lo lắng cho mệt xác. Nói xong nét mặt Ngọc trở nên buồn rũ rượi. Từ ngày đó đến nay mới hơn một tuần lễ.
Tôi muốn đến chào vĩnh biệt Ngọc, nhưng chân tôi vẫn không nhúc nhích. Tôi nhìn ảnh Ngọc đang mỉm cười với ánh mắt sáng rỡ kia mà tự nhủ: “Không Ngọc ạ. Tao không cần phải đến chào vong linh mày. Không cần thứ hình thức phiền toái tầm thường đó. Cái điều tao phải làm khó khăn hơn nhiều và không phải một mình tao có thể làm nổi. Nó cần đến tất cả những người còn lòng xót thương cho số phận khổ ải của đất nước nầy. Nó cần đến sự chung sức của cả dân tộc mình đó Ngọc… Mày chết yên phần mày, bỏ cái cõi sống đầy bất trắc này lại cho bè bạn. Công việc phải làm không phải là thăng cấp cho mày và ban thưởng bảy thứ huy chương – đó chỉ là hành vi phỉnh phờ – Không, công việc phải làm là từ nay cố ngăn ngừa những thằng- Ngọc-vô-tội khác, không cho vùi thân một cách lãng nhách, tội tình trong lò quay súc vật của bọn đồ tể quốc tế. Cố ngăn giòng nước mắt của các ông cha bà mẹ già nua khóc những đứa con còn măng trẻ.
Ngay trưa hôm đó tôi trở về đơn vị. Đám tang Ngọc mãi xế chiều mới đưa.
*
Trong cái chết của Ngọc có hai điều mà người nhà của Ngọc không muốn cho ai biết.
Thứ nhất, Ngọc chưa có vợ mà lại chết nhằm ngày trùng nặng. Ba má Ngọc sợ có chuyện rắc rối trong gia đạo do hồn oan của Ngọc không chịu đi đầu thai trở về quấy phá, như trường hợp các cô gái còn trinh chết uất ức.
Tôi biết điều này không thể xảy ra được, dẫu cho có thật chuyện hồn oan đi nữa, vì Ngọc đã không còn là một cậu trai tân. Chính tôi đã dắt Ngọc xuống đò sông Hương, xô nó vào lòng một ả và mọi sự đã xảy ra hoàn toàn như ý, dù rằng trước đó nó có phản đối lấy lệ và khi cô gái choàng tay ôm nó, nó run lên như cầy sấy. Đối với Ngọc, việc đó có thể chưa được rõ ràng và cũng chẳng lấy gì làm điều, nhưng bây giờ chắc nó cũng được yên tâm đi đầu thai kiếp khác và tự hào kể với những con ma ngây ngô rằng, nó đã từng biết đàn bà là gì rồi.
Còn điều thứ hai, thì chỉ riêng bác Huỳnh và chú Kham biết rõ mà thôi, khi hai người nhận xác Ngọc để tẩm liệm. Chi tiết hệ trọng nầy bác Huỳnh và chú Kham không tỏ cho ai biết nhất là đối với những người trong gia đình Ngọc. Nhưng chú Kham đã không cầm lòng được khỏi kể lại với tôi, trong lúc tôi đang sửa soạn trở về đơn vị.
- Cháu về trại đó hả? Chú hỏi tôi. Này, đi đứng cẩn thận nghe cháu, mấy ngày nay họ hoạt động ghê lắm. Cháu không nghe các trận đánh xảy ra khắp nơi, mìn đua nhau nổ trên quốc lộ đó sao? Rồi, sau một hồi lâu trầm ngâm, chú vội nói, như vừa chợt nhớ ra:
- À, cháu đi không kịp đưa đám Ngọc hả? Tội nghiệp Ngọc cháu ạ. Chú lại nín lặng một lúc rồi mới ngập ngừng nói tiếp:
- Ngọc bị chết thiêu, cháu à. Áo quần cháy hết. Chết trần truồng và không được toàn thây. Chú nói, nhưng cháu để bụng, đừng kể lại với ai nữa mà tủi cho vong linh nó. Giọng chú trở nên thì thầm, như tự nói với mình một điều gì quan trọng. Chú nhìn cũng chẳng ra nữa cháu à. Y như một khúc than hầm. Phải, một khúc than không hơn kém. "Tượng khỏa thân đàn ông" của một điêu khắc gia bi quan thuộc trường phái biểu tượng. Mất một phần đầu và cả cánh tay mặt, người lấy xác bảo tìm mãi không thấy. Làm sao tìm cho ra được, phải không, khi nó đã cháy rụi trong tro than ấy chứ? Nếu trên cổ tay Ngọc không còn lại tấm lắc thì chẳng biết đàng nào mà nhận ra nữa cháu ạ. Thê thảm quá! Trông tang thương cái cảnh cha liệm xác con ấy. Không làm sao mặc áo quần vào cho nó được. Thật là khó khăn quá. Chỉ có thể để yên như vậy rồi quấn vải trắng bao quanh thì mới giữ nguyên lành được. Cháu nghĩ, chín rục hết cả rồi, động tới là nó rã ra cả. Thôi thì đành thất lễ với cháu nó vậy và cầu cho vong linh nó thấu rõ lòng cha nó chua xót đến độ nào đã phải làm như vậy.
Tôi nói:
- Cháu vì bận chút việc chiều qua, nếu không cháu cũng theo chú đi nhận xác Ngọc.
- Thôi cháu ạ, chú nói cháu đừng trách, không đi mà lại hơn. Đi chỉ thêm đau lòng. Chuyện vui nên chia sẻ. Trong hoàn cảnh nầy, tốt hơn là nên giới hạn nó lại. Gieo rắc thêm nỗi khổ tâm cho người khác có ích gì. Chú và bác Huỳnh đã đủ rồi. Ảo não lắm cháu ạ. Lúc người ta mới dỡ tấm khăn che mặt lên chỉ cho bác Huỳnh cái khúc than đó nói là xác của Ngọc, ông khóc rống lên:
- Con ơi! Sao mà con chết thê thảm như vầy… Ai bắt con chết, ai xui con chết vậy con ơi… Con tôi vô tội. Con đã làm nên tội tình gì mà bắt con phải chết oan ức giữa tuổi thanh xuân…? Ngọc ơi! Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng nuôi, con chưa đền đáp mà… Ai bắt con chết, Ngọc ơi?!
Ông ôm lấy xác Ngọc khóc như một người điên loạn, chú phải hết lời khuyên can ông mới nguôi, chiếc áo trắng của ông lấm đầy bụi than.
Tôi đứng lặng yên nghe chú Kham nói. Chú ngưng kể nhìn tôi hỏi:
- Bao giờ cháu đi? Cháu đi ngay bây giờ chứ? Ừ, thôi cũng được. Ráng mà lo bảo toàn lấy tấm thân cháu nhé. Công lao cha mẹ dưỡng nuôi mấy mươi năm trường mới nên được như ngày nay. Chú bắt tay tôi:
- Cháu đi mạnh giỏi và may mắn. Chú còn giữ tay tôi, mắt đăm chiêu. Cháu ạ, như vậy là Ngọc chưa kịp lãnh lương Chuẩn úy nữa nhỉ?
- Thưa chú vâng. Tôi đáp. Ngọc vẫn còn lãnh lương Trung sĩ.
- Mới mấy hôm đời lính. Chú nói, vội buông tay tôi./.
|