văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Saturday, September 29, 2012

Hà Thúc Sinh * Buồn Quán Nhỏ


Góc đường Las Tunas và Rosemead trong thung lũng San Gabriel có một quán cà phê nhỏ. Tên quán là Hải Ký. Chủ nhân là một cặp vợ chồng người miền Nam. Cả hai tuổi đã ngoại lục tuần. Nghe nói xưa ông chủ là dân giang hồ, giỏi võ. Họ có cô con gái đẹp không dưới hăm lăm. Tên cô là Cẩm Hồng. Sau một thời gian ở Mỹ, Cẩm Hồng có theo chúng bạn học một hai năm ở đại học cộng đồng Pasadena, môn tâm lý hay xã hội gì đó, ông bà Hải Ký không rõ lắm, và cũng không quan tâm đến việc học lẫn thôi học của con. Nhưng từ đó họ hay nói “Con nhỏ cử nhơn nhà tui!”
 
Trước Cẩm Hồng ít ra quán, sau nghỉ học, cô ra thường xuyên và ngồi nơi ghế thu ngân. Cô thường chỉ tủm tỉm với những ông khách tử tế, còn thì ngồi chăm chú đọc sách dưới ngọn đèn nhỏ, giống như đó là nơi cho cô trốn tránh một số phận.
 
Cũng có một thanh niên tên là Huy Cường đôi khi có mặt ngoài quán. Anh ta phải ngoài ba mươi, to lớn, đầu hói sớm, có đôi mắt ngầu ngầu của hạng hảo hán, nhưng khi nói với khách lại có giọng ngọt ngào kiểu một anh kép cải lương đĩ tính. Huy Cường hay gấu ó với Cẩm Hồng sau bếp, kiểu như người anh lớn khó tính với đứa em gái chỉ có vũ khí là sự nín nhịn. Lâu lâu khách nghe thấy sau bếp có tiếng bốp bốp như tiếng bợp tai. Không ai la ó, không ai khóc, cứ như tất cả những người sau bếp đều là hạng quen chịu đựng nhau, giống cánh cửa có gió thì phải dập vào khung cửa, nếu khung cửa mà phản ứng thì hoạ đã có động đất. Mà động đất là hết, là chẳng ai còn hy vọng giữ được nguyên vẹn chút vốn liếng sau cùng.
 
“Cái tình cái nghĩa là trọng chớ. Ngũ quả thì phải mua cho có ý nghĩa, ít ra cũng phải cầu-dừa-đủ-xài-riêng. Mua chi toàn đồ rởm!”
 
Không thấy ông bố lên tiếng, chỉ bà mẹ khẽ nhằn:
“Táo lê nho cam chuối mà mày nói rởm sao Hai? Mày biết trái mãng cầu nhiêu hôn, hơn mười đồng. Trái đu đủ cũng sáu bảy đồng. Xoài trái mùa mắc như quỷ. Còn sầu riêng… Dĩa trái cây xíu xiu mấy chục bạc buôn bán lúc này tao chịu sao thấu!”
“Thì đừng cúng.”
“Thôi mày đi nhậu đi Hai, đi nhậu đi! Mày tưởng mày còn là cậu công tử sao Hai?”
 
Ngày rằm hay cúng quẩy chi đó khách thường nghe thấy Huy Cường mất đi giọng ngọt ngào cố hữu mà trở nên cọc cằn, cự nự mọi người trong bếp.
 
Lại có lúc Huy Cường hằn học vu vơ:
“Về nấu cho miếng cơm chớ! Bộ cây không trái gái không con không là vợ chồng sao? Tui như thằng chết vợ.”
Đến lúc đó Cẩm Hồng mới nói nhỏ:
“Anh mình ên. Anh ở không. Bộ anh tính làm công tử Bạc Liêu mãn đời sao? Tui ra giúp ba má, đói sao anh không ra đây ăn cho rồi, hành tui chi vậy? Bữa nào tui nấu cơm rồi cũng đem đổ.”
 
Lại có mấy tiếng bốp bốp:
“Nói nghe coi, đây quán cà phê hay quán cơm, đồ đĩ ngựa?”
Bấy giờ khách mới biết Cẩm Hồng và Huy Cường là đôi vợ chồng trẻ không hạnh phúc.
 
***
 
Ông Hải Ký rất thương yêu con gái nhưng ông không bênh. Ông tự hiểu ông không có quyền bênh. Thuyền theo lái gái theo chồng. Con ông giờ thuộc nhà khác dù vì hoàn cảnh nó vẫn tiếp tục sống trong nhà ông. Bà cũng vậy. Bà đứt ruột nín nhịn dù Cẩm Hồng là đứa con gái duy nhất còn sót lại sau lần vượt biển lắm tai ương. Họ quý rể không thì không biết, nhưng cách nào đó người ta ngờ ông bà có nợ nần bên con rể điều gì to lớn lắm, mà họ lại là người nghĩa khí, thà chịu đựng đau khổ hơn là mang tiếng phụ ân.
 
Trai gái yêu nhau, lấy nhau, rồi xung đột nhau, chuyện thường; nhưng bước kế tiếp bỏ nhau là ác mộng sau cùng của cặp vợ chồng già. Cho nên ông bà cố chịu đựng người con rể, khổ như chạy đua có sạn trong giày, nhưng đích đến đời họ nào còn bao xa! Mất hết rồi. Xứ người rốt cuộc chỉ còn nhiêu đây. Dù không êm chèo mát mái, ông bà vẫn cố giữ cho con tàu đừng chìm, cho hai đứa nhỏ hiểu rằng người ta khó sống khi không còn nhau.
 
***
 
Dù lắm rầu rĩ nhưng ông bà Hải Ký là người sở hữu sự ngọt ngào pha khôn lanh của người mở quán nhiều kinh nghiệm. Sự ngọt ngào khôn lanh ấy lôi được khách; còn nụ cười ẩn mật của cô gái thì giữ được họ, và khiến những khách thiếu hào hoa chồn tay khi muốn vơ về những đồng tiền lẻ.
 
Ông khách gặp cơn buồn nhưng chán những trà đình tửu điếm ồn ào? Ông sẽ đến quán Hải Ký. Ở đây ông bà chủ biết cách kín đáo giúp ông giải sầu. Họ không có nhiều món đâu, nhưng món lươn um sữa của họ không tệ, nhất là món cánh gà chiên bơ thì thật xuất sắc.
“Cho cái ấm đi!” Đó là mật hiệu.
 
Bà chủ chào khách bằng ánh mắt ấm áp. Bà mời khách ngồi vào chiếc bàn sâu phía trong. Chiếc ấm đem ra. Khách kín đáo rót vào cốc dòng bia vàng lạnh. Mươi phút sau khách đã có thể vừa nhâm nhi món ngon, vừa hưởng chút cảm giác hồi hộp của kẻ ăn vụng thứ khoái khẩu trong một quán nhậu vô phép tắc giữa một nước Mỹ đầy phép tắc.
 
Nhưng chín giờ tối quán nhất định ngưng giúp khách giải sầu. Khách quen lắm, buồn lắm quán mới bấm bụng mở lòng thêm cho đôi ba “cái ấm” với đĩa đậu phọng da cá, hay con mực nướng, coi như thiếp tạ chàng mối ân tình quyến luyến bấy lâu nay.
 
***
 
“Cho cái ấm đi!”
Ít ra cũng hơn hai tháng qua anh thanh niên đã đến với quán vào những giờ muộn màng. Và chỉ thứ bảy chủ nhật. Cẩm Hồng không nhớ rõ dịp nào anh ta đến làm quen với bộ bàn ghế nơi góc quán, chỗ nhìn ra con hẻm trồng nhiều liễu. Cô chỉ nhớ lần cô chú ý đến anh là bữa đó có trăng. Con trăng to và sáng, khi nhú lên khỏi toà cao ốc có rạp hát Edwards Theater, nó như bị lũ bạch đàn cao ngất níu kéo sao đó, khựng lúc lâu, giúp cô cơ hội thấy được bộ mặt anh như tráng một màu buồn phiền kỳ dị. Đó là bộ mặt có râu rậm, mái tóc nghệ sĩ bờm xờm, đôi mắt sâu u hoài như cố nhìn xuống đôi môi thường mím chặt. Trông anh có vẻ lúc nào cũng có một bài toán khó không giải không xong. Cẩm Hồng tìm thấy ở anh một nét đàn ông cô từng gặp đâu đó, có thể giống một anh đánh đàn từng xuất hiện trên truyền hình Việt Nam, mà cũng có thể trong một giấc mơ. Đã có lúc cô muốn tháo bỏ khỏi vách mấy tấm tranh in hình hiệp sĩ Nhật Bổn. Họ là những thần tượng của ba cô từ trẻ. Ông hay nói: “Lũ hói đó chỉ có tiến lên để sống hùng hoặc chết hùng. Tụi nó không bỏ chạy.” Nhưng giờ thì cô ghét những cái đầu hói, ghét quá trời.
 
Nhớ lần đầu má cô có lưỡng lự khi tiếp ông khách này. Bà bảo khẽ lúc này bọn cảnh sát cộng đồng đóng vai cớm chìm nhiều lắm. Rồi anh nói gì đó với bà và được toại nguyện. Một cái ấm và một đĩa đậu phọng rang.
 
Thường anh ngồi cả tiếng, tiêu chuẩn nhâm nhi đúng hai ấm, rồi đứng lên, tuồng như không bao giờ có ý biến mình thành người khách sau cùng. Anh giằn tiền dưới ấm, tờ mười đô, rồi lẳng lặng ra về.
 
Má cô nói: “Thiệt kỳ, chả không khi nào chịu chờ thối tiền nghe.” Nhưng nhờ đó anh nhanh chóng biến thành đối tượng quan tâm đặc biệt của bà, đến nỗi có lần phá lệ bà hỏi anh muốn ăn chi không. Anh chỉ nhẹ lắc đầu, giọng lạnh lùng: “Ăn rồi bà chủ!”
 
Ông Hải Ký có lần nói đùa: “Chắc phá sản hay hèn ra cũng mới thất nghiệp.” Nhưng Huy Cường không đồng ý, anh nói: “Tui sợ là giả mới chết vợ. Ai chớ tui...” Bà Hải Ký kín đáo nhìn con rể. Huy Cường thôi nói nhưng đó là lúc hiếm hoi anh nhìn vợ bằng đôi mắt dịu dàng.
 
***
 
Hai năm sau quán cà phê Hải Ký vẫn còn, nhưng khách hết đông như trước. Hoạ vô đơn chí. Sau lần vợ chồng xô xát nhau, Cẩm Hồng bỏ nhà đi không lâu thì Huy Cường tử nạn xe hơi. Xe Huy Cường lao xuống đèo siêu lộ 118 vào một chiều Thu. Đám cháy làm đen một khoảng cỏ vàng rộng lớn. Đống sắt vụn không để lại mấu chốt cho sở cảnh sát: Y say rượu, say ma tuý, y tự tử hay xe bị trục trặc dầu nhớt thắng lái?
 
Đôi khi bà Hải Ký thở dài: “Ghe ba má nó, tiền ba má nó, cái gì cũng của ba má nó; mình kiếp nào mới trả nổi?” Không hiểu sao lời than thở ấy làm được người đằm tính như ông Hải Ký phát nổi giận. Nhưng ông không nói gì hết, giống như ông muốn cơn giận sẽ là ngọn lửa chỉ để thiêu đốt âm thầm lòng ông, cho ông có dịp tạ lỗi với người bạn tri kỷ đầy tình nghĩa giang hồ.
 
Mười năm rồi ông không nhận được thư bạn. Hay đã vượt chuyến sau mang hoạ cả nhà? Nhưng ông vẫn nhớ lá thư đầu bạn gửi từ quê hương. Bạn viết: “Giữ thằng nhỏ giùm tui, cứ coi như mình là sui rồi đó.” Ông lại nhớ đến thư con gái ông để lại. Cẩm Hồng viết: “Đừng phi báo chi hết nghen ba má. Con chỉ đi xa một thời gian thôi. Đừng nghĩ con giận ai đâu nha. Có điều những con tàu chìm không cứu được nhau.” Nó viết chi kiêu kỳ quá, vợ chồng ông không hiểu được thấu đáo. Ông bà nghĩ con nhỏ đọc riết ngộ sách. Nhưng lá thư vẫn là bằng chứng cho ông bà yên tâm. Họ biết đâu đó con gái họ còn sống.
 
***
 
Bà chủ quán mừng rỡ gặp lại người khách cũ. Anh ta vẫn lặng lẽ như hai năm trước, duy có vẻ buồn hơn, xơ xác hơn và dường như cũng khó tính hơn. Anh nốc một hơi bia, đặt ly xuống, đôi môi vẫn mím. Một lát anh nói thật khẽ với chiếc ly:
 
“Con Lan đã sạch nợ đời, bắt chi cái thằng Điệp đứng giựt dây chuông hoài bà chủ!”
Anh đề nghị bà tắt đi bản vọng cổ. Rồi anh lại uống, uống tiếp hoài, uống cho tới khi anh biến thành người khách cuối cùng.
 
Ông Hải Ký mấy lần sửa soạn đóng cửa, nhưng nể khách quen lâu ngày gặp lại, ông đành rót cho ông một ly, bày thêm mấy miếng khô cá thiều trước sự nóng lòng của bà vợ.
Ông nốc một hơi, khà một tiếng:
“Lâu quá chú em không tới chơi, dễ hai năm rồi à nha.”
“Tôi đi làm ăn xa, ông chủ.”
“Hên chớ?”
“Dạ là sao?”
“Thì may mắn, cái chi cũng có thêm vô.”
“Ồ, vậy tôi chỉ mất thêm ra, mất ráo trọi. Mà ông chủ...”
“Gì chú?”
“Hỏi thiệt ông chủ... người ta sống nổi không nếu người ta đã mất ráo trọi?”
 
Ông Hải Ký rờ rờ chiếc cằm có nhiều cọng râu bạc, mắt lim dim:
“À à... khó đa. Nhưng chắc nổi khi người ta chưa biết chắc đã mất ráo trọi.” Ông đột ngột nhìn khách, dò xét: “Mà chú hỏi chi vậy?”
Anh thanh niên chỉ cười ngặt nghẽo, làm thêm ngụm bia, khẽ hỏi:
“Tôi nghe nói anh con rể ông chủ chết rồi?”
Bà Hải Ký thở dài:
“Nó bị tai nạn xe.”
 
Anh nhìn cả hai vợ chồng, giọng bất ngờ khó hiểu:
“Hay giả là kẻ đã biết chắc giả mất ráo trọi?”
Ông Hải Ký bối rối; còn bà vợ thì không muốn dây vào câu chuyện bà thấy khó hiểu, thấy kỳ cục. Bà nhìn ra trời khuya, nói đại:
“Chú say rồi đó. Về ngủ đi!”
 
Người thanh niên giờ mới trợn đôi mắt lên. Bộ râu rậm máy động. Nhưng anh không nhìn ông bà chủ quán nữa mà nhìn lên con trăng chênh chếch trên toà cao ốc, lẩm bẩm lập lại:
“Hay giả đã biết chắc giả mất ráo trọi?”
Bà vợ nói với chồng thay vì với khách:
“Ngưng uống nghe ông. Tui đóng cửa ạ!”
 
Anh thanh niên không đợi bị đuổi. Như bao giờ, anh móc tờ mười đô dằn dưới chiếc ấm. Anh xốc lại áo. Nhưng hơi khác xưa, lần này anh ra trước quầy, đứng nhìn đăm nụ cười ẩn mật của cô gái trong ảnh lúc lâu, rồi mới lặng lẽ kéo cao cổ áo, lặng lẽ bước ra.
 
Cơn gió đêm thổi những cành liễu rào rào. Mấy lon bia không của đám vô gia cư lăn leng keng trên hè phố đêm. Ông bà chủ quán nhìn theo anh thanh niên lắc đầu ái ngại. Họ đều tính hỏi lẫn nhau “Hay chú ấy đã thương thầm con Cẩm Hồng?”
 
Khi đóng cửa, ông bà Hải Ký còn thấy anh đứng ngắm con trăng nơi góc đường vắng người.
 
Ông nói khẽ với bà:
“Ở đây riết điên hết. Chú ấy chắc điên. Mà khi nãy tôi nói vậy đúng hay sai bà?”
“Ông nói gì?”
“Người ta sống nổi khi chưa biết chắc đã mất ráo trọi.”
Bà vợ khó chịu:
“Nghĩa là sao?”
“Nghĩa là người ta sẽ chết khi đã biết chắc mình mất ráo trọi!”
 
Câu chuyện nãy giờ khiến bà Hải Ký vừa bực lại vừa rối trí, nhưng chắc là bà đã thấy mọi việc chẳng có gì quan trọng nếu như đúng lúc đó bà đừng bồn chồn nghĩ tới đứa con gái thân thương vắng nhà.

Hà Thúc Sinh

Friday, September 28, 2012

Văn Quang * Từ chức khó lắm chứ!




Tưởng như nó ở giữa tính liêm sỉ và không liêm sỉ, nhưng thật ra ai cũng hiểu nó là một. Vậy thì tốt nhất hãy nhìn lại mình, can đảm từ chức nếu thấy nó cần thiết cho lương tâm thanh thản”.
Bỏ phiếu tín nhiệm “các quan” và “văn hóa” từ chức là đề tài nóng đang được nhiều người dân Việt Nam quan tâm. Chuyện râm ran từ ông “trí thức thành thị” nhanh chóng lan đến những “khách cà phê” ở những quán trung bình và những công tư chức lúc rảnh việc. Đây là một đề tài không mới đối với thế giới “các quan” trên thế giới, nhưng ở Việt Nam lại là một nét mới trong sinh hoạt chính trị, có ảnh hưởng lớn trong đời sống bình thường của người dân mỗi khi nhìn lên tư cách, đạo đức, tài năng của những vị đang trực tiếp chi phối cuộc sống của mình về mọi mặt.

Một đề tài cũ nhưng… rất mới đối với người dân Việt Nam
Trong những ngày gần đây, đề tài này đã được nhắc tới khá nhiều trong cuộc họp của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội Việt Nam khi bàn về “Đề án quy trình, thủ tục, cách thức thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc Hội, Hội Đồng Nhân Dân bầu hoặc phê chuẩn”.
Thực ra, “đề án” trên không hề đề cập việc bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm mà chỉ là một quy trình lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc Hội, Hội Đồng Nhân Dân bầu hoặc phê chuẩn. Nói cách khác, đây chỉ là một tiền đề (trong trường hợp tín nhiệm thấp) để đi tới quyết định tiếp theo là bỏ phiếu quyết định xem người đó có được tiếp tục giữ chức vụ đã được bầu hoặc phê chuẩn hay không.
Tuy nhiên, theo nhiều ủy viên trong Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội, việc lấy phiếu tín nhiệm sẽ là “cơ hội” cho các cán bộ lãnh đạo không đạt được tỉ lệ tín nhiệm cần thiết thể hiện “văn hóa từ chức” trước khi bị đưa ra bỏ phiếu bất tín nhiệm.
Đó chính là mấu chốt của vấn đề được người dân theo dõi, bởi cái vụ tín nhiệm hay không tín nhiệm, những “quan chức” đang làm việc nước hầu như chưa ai đặt ra bao giờ. Dù cho đó là một trong những hình thức dân chủ, được quyền “xâm phạm” tới tài năng đức độ của người đang có chức có quyền, tức là các “quan chức”. (Ở đây gọi chung là “cán bộ”). Một vấn đề trở nên rất mới đối với người dân Việt.

Quan bất tài vô dụng cũng cứ ngồi yên vị
Bởi từ trước đến nay, “cán bộ” giữ chức vụ do Quốc Hội, Hội Đồng Nhân Dân bầu hoặc phê chuẩn là coi như yên vị. Cho dù người đó làm việc tốt hay không, hiệu quả hay không, thậm chí gây hậu quả xấu thì vẫn kéo dài chức vụ cho đến hết nhiệm kỳ, thậm chí trúng tiếp nhiệm kỳ sau. Có những người giữ chức vụ quan trọng, nhưng tài ít đức mỏng, không hoàn thành trách nhiệm, nhưng không có cơ chế để bãi miễn. Nói rõ hơn là không có luật lệ, không có quy định nào tước cái chức vị của ông cán bộ đã được bầu đó. Bởi các ông ấy được “nhân dân” bầu chứ không phải cho “thủ trưởng” cơ quan hoặc cấp trên chỉ định. Hai chữ “nhân dân” gắn trên ngực áo ông lúc này có một quyền lực như bất khả xâm phạm.
Cho nên, những vụ được gọi là tiêu cực, là tham nhũng, hống hách, chèn ép… ở các ngành, các địa phương trong nhiều năm qua cho thấy nguyên nhân chính là do cán bộ lãnh đạo yếu kém, người dân biết rõ điều đó nhưng phải chấp nhận các ông quan bất tài vô dụng.

Mở đường cho “văn hóa từ chức”
Có ý kiến cho rằng bỏ phiếu bất tín nhiệm là mở đường cho “văn hóa từ chức”, nói khác đi là mở một lối thoát danh dự cho các quan chức yếu kém tự xin “về vườn”. Cần phải phát huy tinh thần từ chức để nó là chuyện bình thường trong đời sống như các nước khác trên thế giới.
Hãy nhìn lại, chuyện từ chức ở Việt Nam, nhất là với các chức vụ lãnh đạo cao, vốn rất hiếm hoi. Trong vài chục năm qua, mới có 2 trường hợp từ chức là Bộ Trưởng Nông Nghiệp - Phát Triển Nông Thôn Lê Huy Ngọ từ chức tháng 4-2004 do vụ Lã Thị Kim Oanh và Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải Đào Đình Bình từ chức tháng 4-2006 sau hàng loạt vụ bê bối như đổ tàu E1, công trình hầm chui Văn Thánh phẩm chất kém và đặc biệt là vụ tham nhũng quá lớn PMU18.
Việc từ chức quả thật là quá hiếm ở Việt Nam cho dù thời gian qua đã xảy ra nhiều vụ làm thất thoát tài sản quốc gia “động trời” làm chấn động dư luận. Bên cạnh các nguyên nhân như văn hóa từ chức, lòng tự trọng của cán bộ…, còn do nguyên nhân không kém phần quan trọng là cơ chế “tập thể chỉ huy” chồng chéo nên nhiều khi trách nhiệm cũng lại đổ cho “tập thể”, không rõ ràng, cứ như không có cá nhân nào chịu trách nhiệm nên không đổ tội cho đích danh quan nào được.
Theo dõi các phiên chất vấn tại Quốc Hội Việt Nam về các vụ thất thoát kinh hoàng xảy ra tại Vinashin hay Vinalines, có thể thấy rất rõ điều này.
Mặt khác, người dân không có quyền bỏ phiếu tín nhiệm các “cán bộ lãnh đạo”, nhưng dân biết rất rõ ông nào liêm khiết, ông nào tham nhũng, ông nào vì dân vì nước, ông nào vì bản thân và gia đình. Không qua mặt được nhân dân đâu. Do đó, lá phiếu tín nhiệm phải thể hiện được lòng dân.

Bỏ phiếu tín nhiệm cũng khó lắm
Phải quan niệm rõ ràng, hành vi từ chức là hành vi văn hóa, thể hiện lòng tự trọng của con người. Tín nhiệm thấp, làm không được việc mà cứ khư khư bám lấy cái ghế để cho dân chúng khinh thường thì làm người bình thường còn chưa xứng đáng huống nữa làm quan to.
Cho nên bỏ phiếu tín nhiệm hay không tín nhiệm thì người bỏ phiếu phải công tâm, có bản lãnh, trung thực thì lá phiếu mới có giá trị thực chất, còn xuê xoa cho qua hay phe cánh nâng đỡ nhau thì mục đích ban đầu của bỏ phiếu tín nhiệm sẽ là vô ích.
Mời bạn đọc ý kiến dưới đây của một người dân trên báo Dân Trí ngày 17-9:
Bạn Nguyễn Bá Thành Đạtviết: “Bỏ phiếu tín nhiệm nếu minh bạch, công khai, công bằng thì tốt nhưng ở nước ta lâu nay vấn nạn chạy chức, chạy quyền; ê kíp, bao che thấy rõ. Cấp dưới mang ơn cấp trên do cơ chế bổ nhiệm kiểu đề cử từ một số người. Trong các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan công quyền, tình trạng con ông, cháu cha và bạn bè thân hữu luôn chiếm số đông.
Làm gì có chuyện con, cháu bỏ phiếu bất tín nhiệm cha, ông, chú, bác, cô, dì nhà mình, phải không bạn? Càng không thể có chuyện cùng ê kíp, cùng ăn chia hoặc anh tuyên dương tôi, tôi đề cao thành tích của anh lại hất cẳng nhau bằng phiếu bất tín nhiệm. Nguy hại nhất là ở chỗ sẽ có không ít người, thậm chí là cả một nhóm người lợi dụng việc bỏ phiếu để hè nhau gạt bỏ những người có đạo đức, có năng lực ra khỏi bộ máy để dễ bề thao túng. Những anh thẳng thắn trung thực thường nói thẳng, đôi khi lại có cái vẻ ngang ngang, bởi anh ta không sợ sự thật nên nhiều người vừa sợ vừa ghét. Đó là thực tế bởi người trung thực, liêm chính không nhiều; người lừng khừng, ba phải không ít; nếu hè nhau bỏ phiếu thì... đó là một tai nạn lớn cho dân. Cho nên bỏ phiếu bất tín nhiệm khó lắm chứ, không phải là chuyện giản dị.
Từ chức và bị bãi miễn là hai vấn đề khác nhau. Một đằng là sự tự nguyện bởi lòng tự trọng hay nói cho đúng là phải có văn hóa xấu hổ mới có văn hóa từ chức. Một đằng là bị buộc phải rời bỏ chức vụ, hay nói cho đúng bị sa thải, bị bãi miễn. Nếu đã bị bỏ phiếu bất tín nhiệm rồi mới từ chức thì chẳng khác nào nhận được một ân huệ giảm khinh sau khi phạm tội. Cũng chẳng vinh dự gì. Tưởng như nó ở giữa tính liêm sỉ và không liêm sỉ, nhưng thật ra ai cũng hiểu nó là một. Vậy thì tốt nhất hãy nhìn lại mình, can đảm từ chức nếu thấy nó cần thiết cho lương tâm thanh thản”.

Từ chức có khó không?
Có bạn trẻ nói khôi hài rằng làm cái đơn xin từ chức là xong, ngại là ngại có dám đưa ra công khai không mà thôi. Chỉ sợ làm cái đơn rồi cứ thập thò để trong ngăn bàn, chẳng bao giờ dám đưa cho ai đọc. Thật ra bạn trẻ đó thừa biết sự từ chức ở Việt Nam khó hơn thế rất nhiều. Không phải vì sợ cấp trên và bạn “đồng liêu” quá yêu, quá tín nhiệm mà cố níu giữ anh lại theo cái kiểu “chỉ có anh mới xứng đáng ở chức vụ này, anh khác nhảy vào là hỏng việc ngay, chẳng anh nào xứng đáng đâu”. Ít có ông nào tự tin đến “khùng” quá như thế. Thật ra không dám từ chức vì lo ngại những dây mơ rễ má quấn quanh mình.
Trước hết là sợ kẻ thù. Từ khi anh nhậm chức đến nay, không thể tránh khỏi có những kẻ thù trước mặt và nguy hiểm hơn là kẻ thù sau lưng. Có kẻ thù “chính đáng” vì bất đồng quan điểm và cũng có cả những kẻ thù vì ghen ghét đố kỵ, dù anh có tài. Và đó là loại anh có thể liệt vào loại tiểu nhân, nhưng loại này mới thực sự nguy hiểm cho anh. Chúng sẽ nhân cơ hội này trả thù anh, triệt hạ anh bằng mọi cách. Rất có thể có những sự việc từ lâu anh đã quên, nhưng chúng nó nhớ. Bây giờ chúng mới “móc” ra, tấn công anh. Anh sẽ không thể “hạ cánh an toàn” như ý muốn. Đấy là chưa kể đến những ông bạn “cuốn theo chiều gió”, ôm chân sếp mới, nó đá giò lái anh gẫy xương.
Thứ hai là cả một “bộ sậu” vẫn trung thành đứng sau lưng anh, làm ăn, kiếm chác đều dựa vào cái chức cái quyền hành của anh. Họ hàng hang hốc nhà anh, nào con nào cháu, nào ông chú bà dì, người làng người xã, bạn bè gần xa… cũng sẽ chịu chung ảnh hưởng tai hại vì cái sự từ chức của anh. Anh có thể mất hết cơ nghiệp vì sự từ chức… dại dột này. Cái sự “hy sinh đời bố, củng cố đời con” chưa chắc đã thực hiện được. Có khi con cũng vạ lây.
Thứ ba là những thói quen ăn chơi sa đọa, bán trời không mời Thiên Lôi, những nhà hàng “miễn phí” đối với anh, nơi nào anh đặt chân tới cũng được nghênh tiếp trịnh trọng, tiệc chiêu đãi ăn hoài không hết, bây giờ anh không chức không quyền sẽ cảm thấy “hoang vắng”. Rồi những ông bà hàng xóm vẫn thấy anh chễm chệ xe hơi biển xanh, lính lác chạy lao nhao quanh nhà, họ sẽ nhìn anh và vợ con anh ra sao sau khi anh từ chức, nhà anh vắng hoe, chả ma nào thèm ngó tới.
Bằng ấy thứ bao vây quanh cái sự từ chức của anh. Nên phải nói thẳng ra là ở Việt Nam từ chức khó lắm, “tế nhị” lắm, gian nan lắm chứ không dễ đâu các bạn ạ.
Nhìn rõ thực trạng ấy, bạn Nguyễn Như Ý vừa có nhận định trên báo Dân Trí ngày 19-09-2012:
- “Việt Nam mà, làm gì có văn hóa từ chức, từ TW (trung ương) đến địa phương. Ngồi mà giữ ghế để hưởng bổng lộc mà, tôi thấy thất vọng... Không những vấn đề này mà còn nhiều việc khác như Vinasin, Vinaline, dầu khí, EVN. Nói thật, tôi rất lo sợ khi niềm tin không còn”.
- Bạn Nhat Vietcó nhận định mỉa mai: “Mình thấy ở Việt Nam là sướng nhất, an toàn nhất trên thế giới. Ở nước ngoài khi làm không được thì người ta thấy có lỗi với nhân dân, tự xin thôi chức. Ở Việt Nam thì khi làm không được thì chỉ biết rút kinh nghiệm, khiển trách để lần sau em sửa sai.
Chứ các bác không thấy sao: khi làm ở huyện không được thì xem xét rút kinh nghiệm để về tỉnh về thành phố làm tốt hơn. Chán thật!!!”.

Lại đến chuyện kiểm điểm nghiêm túc
Còn nếu không từ chức thì bài thuốc “kiểm điểm nghiêm túc” là phương thuốc “chữa cháy” rất hiệu quả. Nghe mãi trên truyền hình, đọc mãi trên báo chí, người dân Việt đến phát ốm vì những điệp khúc cũ mèm này. Cứ có họp hành, có phê bình “kiểm thảo” là có bài ca con cá “kiểm điểm nghiêm túc”. Nó thường được mở đầu bằng những hàng rào chắn rất kỹ, trước hết kể lể thành tích “công tác đã đạt được những kết quả tốt đẹp rất khả quan nhưng bên cạnh đó vẫn còn những yếu kém tồn tại. Hội nghị đã nghiêm túc kiểm điểm, nhận… thiếu sót và kiên quyết khắc phục”. Dù cho tội lỗi có tầy đình cũng “huề cả làng”.
Cụ thể, việc gần đây nhất, vụ di sản văn hóa quốc gia nổi tiếng chùa Trăm Gian thời Lý (xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP. Hà Nội) đang lâm vào thảm họa.

Người ta thản nhiên phá dỡ di tích lịch sử tan tành
Chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm hay còn gọi là chùa Tiên Lữ), một di sản văn hóa độc đáo được lập từ đờiLý Cao Tông, niên hiệu Trinh Phù thứ 10 - năm1185đã vĩnh viễn bị phá hủy.Xin tạm liệt kê vài thành tích phá di tích lịch sử chùa Trăm Gian:
- Gác khánh thâm nghiêm, cổ kính, quyến rũ, vững chãi như thế này. Vì sao họ đập ra để làm mới toàn bộ?
- Người ta dỡ trắng, như kiểu “giải phóng mặt bằng” cả nhà tổ, gác khánh, bỏ toàn bộ cấu trúc cũ, mua gỗ mới, đổ bê tông nền, lát đá - gạch mới toanh, dựng lên một di tích mới
- Khu nhà tổ rộng mênh mông giờ bị dỡ toàn bộ. Nền bị bóc lên, khoét sâu xuống, đổ bê-tông vĩnh cửu. Các cấu kiện bị dỡ xuống vứt chỏng kềnh, thay mới toàn bộ. Tượng bị khênh đi nơi khác. 100% gỗ mới, xi-măng, gạch ngói mới, xây lại cái nhà tổ theo đúng nghĩa đen.
Và, đau thương thay, gác Khánh là một di tích cổ kính tuyệt mỹ từng làm nao lòng bao người, cũng đã bị “giải phóng mặt bằng tuyệt đối” y như vậy.
Đường dẫn lên chùa, dãy cầu thang đá cao vút, rêu phong, người thợ xưa đẽo thủ công vững như bàn thạch. Đang tốt thế, người ta cho thợ vào dùng búa đập vỡ tan tành, mua đá mới xẻ bằng máy trắng phau lát vào. Đá cũ ném ngổn ngang trước cửa chùa…
- Toàn bộ cấu kiện gỗ, ngói lợp và chân tảng cũ của nhà Tổ và gác Khánh - những vật liệu đã làm nên một tác phẩm kiến trúc ngàn năm tuổi - bị chất đống phía sau chùa. Bậc cấp lên sân tiền đường được thay mới bằng đá xanh...
- Người dân vô tư hè nhau leo tuốt lên mái ngói, tha hồ bóc dỡ mang về… xây chuồng heo.

Cơ quan văn hóa không biết, không nghe, không thấy
Một ngôi chùa với hàng trăm gian, nằm ở khu dân cư đông đúc, cách trụ sở Ủy Ban Nhân Dân xã có hơn 1km, cách Ủy Ban Nhân Dân huyện có 4km, lại ở Thủ đô Hà Nội, đã bị đâp phá hơn một trăm ngày với tiếng búa, tiếng cưa và ngổn ngang vật liệu mà các cơ quan quản lý văn hóa cũng như chính quyền địa phương vẫn “không biết, không nghe, không thấy” thì không phải là chuyện “con voi chui lọt lỗ kim” mà là cả đàn voi chui lọt... lỗ tai. Hài hước thay, nó đã bị thay đổi 100% rồi, tức là chẳng biết đống gỗ rui mè thay ra có còn hay… chui vào bếp, thanh travăn hóa mới về thị sát và đình chỉ. Xin thưa, còn gì nữa mà thị với sát? Mà đình với chỉ?

Làm quan sướng lắm chứ
Đến nay, vụ phá hoại di tích lịch sử chùa Trăm Gian đã kết thúc, kỷ luật nghiêm những người vi phạm cứ như chuyện “xem qua rồi bỏ”. Thật ra hình thức kỷ luật này cũng chẳng khác mấy với các vụ vi phạm nghiêm trọng khác, vụ việc đã có hình thức kỷ luật rất… quen thuộc là “Kiểm điểm nghiêm túc, rút kinh nghiệm sâu sắc”!
Cụ thể là Ủy Ban Nhân Dân huyện Chương Mỹ nghiêm túc kiểm điểm sâu sắc,Ủy Ban Nhân Dân xã Tiên Phương bị khiển trách. Về cá nhân, nghiêm khắc phê bìnhphó chủ tịch phụ trách văn hóa xã Vũ Văn Đông. Hai ông trưởng phòng phó phòng Văn Hóa Thông Tin làHoàng Minh Hiến và Trịnh Văn Ban nhận mức khiển trách. Các ông Vũ Văn Doãn - chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã, ông Tống Bá Lương - phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã, ông Nguyễn Xuân Chít - cán bộ Văn Hóa xã cùng nhận mức cảnh cáo. Người duy nhất “đen đủi” bị cho thôi giữ chức là trưởng ban Quản Lý Di Tích. Và hết!
Thực ra không phải chỉ vụ việc này mà gần đây, nhiều vụ việc khi đưa ra kết luận xử lý đều khiến dư luận ngỡ ngàng bởi vụ việc thì lớn, hậu quả thì nghiêm trọng đến rất nghiêm trọng. Thế nhưng cái “roi” kỷ luật giơ lên rất cao song khi hạ xuống thì rất khẽ, nhẹ đến giật mình.
Không chỉ những vụ việc nhỏ mà cả những vụ án hình sự nghiêm trọng, số tài sản thất thoát ảnh hưởng đến nền kinh tế cả nước cũng được xử lý rất… tình cảm.
Một bạn đọc Emailnhuque85hb@gmail.comgửi cho báo chí một câu kết rất đúng người đúng cảnh: “Ở Việt Nam mình hay nhỉ. Làm sai chỉ cần kiểm điểm với phê bình là xong. Sướng thật!”.
Vâng, làm quan ở Việt Nam sướng lắm chứ! - (VQ)

Saturday, September 22, 2012

ĐỖ HỒNG NGỌC * Lời Gọi Cỏ May của Phan Bá Thụy Dương




Phan Bá Thụy Dương, tên thật Phan Bá Dương, sinh năm 1940 tại Tuy Phong, Bình Thuận, cùng học chung lớp Đệ thất A1 trường Phan Bội Châu Phan Thiết năm 1954 với Trần Vấn Lệ, Phan Đổng Lý, Huỳnh Ngọc Hùng, Huỳnh Tấn Thời, Đỗ Hồng Ngọc…
 
Bọn tôi “thất lạc” nhau mấy chục năm, người góc biển kẻ chân trời, năm nay bỗng gặp lại nhau- tình cờ cũng là dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường Phan Bội Châu, Phan Thiết – đứa nào đứa nấy ngớ ra, đầu bạc răng long, ú ú ớ ớ rồi mày mày tao tao tíu tít như những cậu học trò nhỏ nghich ngợm ngày xưa bên bờ sông Cà Ty và bãi biển Thương Chánh!
 
Phan Bá Thụy Dương viết văn làm báo sớm, từ năm 1958 với nhiều bút hiệu, thân quen  nhiều người trong giới văn nghệ sĩ. Anh là một người “khoái hoạt”, vui tính, náo nhiệt, chuyện trên trời dưới đất gì cũng biết nên ai gặp cũng vui. Anh làm sách cho nhiều tác giả mà quên làm cho mình cuốn nào. Mãi nay bạn bè hối thúc quá mới in một cuốn “tuyển tập thơ văn Lời Gọi Cỏ May” cho vui. Lời gọi cỏ may có nhiều bài thơ cảm động, anh em bè bạn viết cho nhau.
 
Thơ Phan Bá Thụy Dương phải nói là hay, khoái hoạt mà khinh bạt, trầm lắng… Thử đọc một đoạn trong liên khúc vô thường:
 

liên khúc vô thường
 
ném công án, vất kinh thư bất ngộ
theo đường trăng-
trăng khi tỏ khi lu
tìm người hiền nơi thâm cốc âm u
thõng tay vào rừng giả làm ẩn sĩ
giòng sinh mệnh
chừng nhuộm màu chướng khí
bến nhân gian ai quán niệm vô thường
hành trình xa ngựa đà lỏng dây cương
trên vách núi chân dung in mờ tỏ
…….
 
(LGCM, tr 4)
 
Và đọc một đoạn Phan Đổng Lý “vẽ” Phan Bá Thụy Dương:
 
Nhớ Phan Bá Thụy Dương
 
Nhớ đến bạn già mà lòng ta ngán ngẩm
Nặng nhẹ bao lần như đàn khảy tai trâu
Miệng phập phì phèo, nặc nồng mùi khói tỏa
Mắt mở mơ màng, trầm mặc cuộc bể dâu!
Mải miết rong chơi trăm đường thành ngỏ cụt
(…)
Trời xanh chơi ác
Tuổi thơ ngổ ngáo, già lại ngu ngơ
Trầm thân vào chốn bụi mờ
Bạc đầu lưu lãng làm thơ gọi tình
(…)
 
(LGCM, tr 79)
 
Cũng trong Lời gọi cỏ may có một bài thất ngôn bát cú của Trần Vấn Lệ gởi theo PBTD khi bạn về thăm gia đình ở Phan Thiết.  Đã lâu lắm mới thấy có một bài thơ như vậy viết cho bạn bè.
Đọc, cảm động, bèn họa lại mấy vần. (ĐHN)

Trần Vấn Lệ
 
Gửi Theo Phan Bá Thụy Dương
 
Bạn đã về chưa? Bạn đã về?
Đến nơi chưa vậy mà im khe!
Hỏi ai, chẳng biết ai han hỏi
Đợi bạn, không nghe bạn nói gì…
Tôi độ rày sao hay tức thở
Bạn hồn nhiên nhỉ vẫn ham đi
Tuổi người, chớp mắt, tôi thường chớp
Chắc khó có ngày ngó lại quê…
 
 
Đỗ Hồng Ngọc
 
Gửi Trần Vấn Lệ

Về đi! Sao bạn chẳng đi về?
Khế ngọt sim rừng đợi: nín khe
Bè bạn ấu thời còn mấy đứa
Người thơ cơm áo chớ lo gì!
Ruộng vườn hoang rậm thôi, đừng nhắc
Sông nước gập ghềnh mặc, bỏ đi
Áo ngoại vẫn phơi ngoài giậu trúc
Cơi trầu thơm mãi chút hồn quê…
 
ĐHN * Sg 16.9.2012
………………………………………….
Bạn nhớ hái ăn chùm khế ngọt
Tôi quên để héo trái sim còi…
(thơ TVL)



Từ trái: Nguyễn Hòa vcv, Huỳnh Ngọc Hùng, Đỗ Hồng Ngọc, Phan Bá Thụy Dương

Friday, September 21, 2012

Tiểu Tử * CHUYỆN CHẲNG CÓ GÌ HẾT


tranh Đằng Giao


Thật vậy, chuyện chẳng có gì hết. Nhưng sao nó cứ đeo theo ám ảnh tôi từ mấy hôm nay. Tôi cứ nghĩ đến nó, nhớ rõ từng chi tiết, hình ảnh, từng xúc động trong lòng mình lúc đó. Để rồi trăn trở băn khoăn, không biết những người khác – những người Việt Nam cũng lưu vong như tôi – có cùng một tâm trạng như tôi hay không, nếu họ chứng kiến câu chuyện chẳng có gì hết này. Đó là lý do tôi muốn kể lại những gì tôi đã nghe thấy cách đây mấy hôm. Và tôi nghĩ : kể lại, chắc sẽ làm nhẹ bớt những gì từ bao lâu nay tôi chất chứa trong lòng…

...Hôm đó, tôi đi mua đồ ở siêu thị. Sau khi kiểm điểm lại những gì mà vợ tôi dặn mua – một danh sách mười mấy món – tôi đẩy xe caddie lại xếp hàng để ra két. Vì đông người nên hàng thật dài, kéo sâu vào hành lang giữa hai dải kệ đầy bánh kẹo. Tôi đứng ở cuối cái đuôi, kiên nhẫn đợi, bởi vì người xếp hàng đã đông mà caddie của người nào cũng đầy ăm ắp.


Phía trước tôi, cách hai người, có ba con đầm tuổi choai choai chắc đi chung nên thấy xô đẩy nhau cười nói. Chúng nó nói chuyện với nhau, nói lớn tiếng như chúng đang ở ngoài đồng và như đứa này cách đứa kia hàng trăm thước ! Một đứa bỗng lấy ra một điện thoại di-động bấm nút rồi nói chuyện. Vì hai đứa kia đang nói lớn tiếng nên nó phải la lớn hơn để người đối thoại mới nghe. Đại khái, nó hỏi : " Hôm qua mày đi với thằng nào ? ... Super... Ừ ! Ừ !... Thằng Alex hả ?... Génial ! ... Ừm ! Ừm ! … Génial ! ... Rồi mày làm sao ?...Ừm ! Ừm !...". Bỗng nó rú lên vừa nhảy cẫng vừa hét vào máy : " Ố ! Ố !...Super ! Super ! Génial !... Ờ… Thôi ! Mày gọi lại tao há ! Bye ! " Nó đóng máy lại mà mắt môi vẫn còn đầy kích động ! Có vài người nhìn nó, nhưng cái nhìn dửng dưng. Chẳng thấy có ai cau mày hay lắc đầu nhè nhẹ để thấy họ có phản ứng, dù là gián tiếp ! Coi như chuyện bình thường…

Tôi thì tôi không chịu được ! Thật là mất dạy. Mà ở xứ Pháp này, cái thứ mất dạy như vậy, đầy ! Chẳng còn nề nếp gì hết, chẳng còn lễ độ gì hết, chẳng còn kiêng nể gì hết. Loạn !

Chính trong lúc đó tôi nghe phía sau tôi giọng đàn bà nói tiếng Việt Nam : " Sophie ! Đừng làm như vậy ! Mẹ nói đừng làm như vậy !". Ngạc nhiên, tôi nhìn lại : đứng ngay sau tôi là một thiếu phụ Việt Nam tuổi độ ba mươi và một đứa bé gái tóc vàng mắt xanh cỡ chừng bảy tám tuổi. Thấy tôi nhìn, cô ta mỉm cười gật đầu chào, rồi tiếp tục nói với đứa con : " Mẹ dạy con làm sao ? Muốn cái gì cũng phải hỏi ý mẹ trước. Thứ này ở nhà con còn tới hai hộp lận, ăn chưa hết mà con lấy nữa làm gì ?" Đứa bé đứng cúi đầu. Cô ta nói tiếp, giọng hơi gằn : " Sophie ! Nhìn vào mắt mẹ nè !" Đứa bé ngước lên nhìn mẹ, đôi mắt xanh chớp chớp. Người mẹ vừa nói vừa chỉ hộp bánh nằm trong caddie : " Con đem hộp bánh trả lại trên kệ hàng cho mẹ ! Đừng làm cho mẹ giận, Sophie !" Đứa bé làm theo lời mẹ, rồi trở về nắm ống tay áo mẹ giựt giựt nhẹ, giọng như sắp ướt nước mắt : " Mẹ đừng giận con, nghe mẹ. Mẹ đừng giận con…"

Ngạc nhiên, tôi nói : " Cháu nói tiếng Việt giỏi quá, há cô !". Mẹ nó cười tươi : " Dạ, lúc nào nó nói chuyện với cháu nó cũng nói bằng tiếng Việt. Còn nói với ba nó thì nó nói tiếng Pháp". Rồi cô ta quay qua nói với con : "Chào ông đi con". Con bé khoanh tay cúi đầu : "Dạ chào ông". Tôi đưa tay xoa đầu nó, nói được có một tiếng "Giỏi" rồi nghẹn ngang. Tôi vội nhắm mắt quay mặt đi để che giấu niềm xúc động. Nhắm mắt mà tôi vẫn thấy đứa bé khoanh tay cúi đầu chào, một cử chỉ rất tầm thường nhưng sao nó bật lên cho tôi hình ảnh quê hương, cái quê hương ngàn trùng xa cách ? Từ lâu, rất lâu – có lẽ cũng gần ba mươi năm – tôi không còn thấy cái cung cách lễ độ đó. Ở Việt Nam, phần lớn các bà mẹ đều dạy con như vậy. Bây giờ, trên xứ Pháp xa xôi này, một người mẹ Việt Nam trẻ tuổi chẳng những dạy đứa con lai nói rành rọt tiếng Việt mà còn dạy cả cung cách Việt Nam nữa. Người mẹ đó bỏ xứ ra đi, đã biết mang theo những gì quí nhứt của quê hương. Hình ảnh Việt Nam bỗng ngời lên trước mắt…

Trả tiền xong, tôi quay lại nói : "Thôi ! Chào cô nghen ! Thấy cô dạy cháu bé như vậy, tôi thật cảm phục. Ở đây, hiếm lắm, cô biết không ?". Cô ta cười : "Dạ ! Có gì đâu? Mình là người Việt Nam mà bác. Dạ ! Chào bác". Bé gái đang phụ mẹ chất đồ lên quầy cũng ngừng tay nhìn tôi cúi đầu chào… Thấy thương quá !

Trên đường về tôi miên man nghĩ tới người thiếu phụ trẻ tuổi đó và thấy quí những người như vậy vô cùng. Không phải tại vì hiếm mà quí. Mà tại vì nhờ có những người như vậy cái gốc Việt Nam vẫn còn, vẫn có trên khắp các nẻo đường lưu vong.

Rồi liên tưởng nhắc tôi một thằng bạn. Tụi tôi quen thân nhau từ nhỏ. Lớn lên, nó làm trong nhà nước, tôi làm hãng tư, nhưng vẫn thường gặp nhau. Nó di tản trước tháng tư 75 rồi định cư ở Pháp. Tôi bị kẹt lại, sống mấy năm trời lận đận. Sau đó tôi vượt biên. Rồi cũng định cư ở Pháp. Chúng tôi lại gặp nhau ở Paris. Nó làm việc cho nhà nước Pháp, cuộc đời ổn định từ lâu. Tôi lêu bêu một dạo rồi trôi qua Phi Châu mới có công ăn việc làm. Từ đó, chúng tôi bặt tin nhau…

Phải hai mươi năm sau, về Paris tôi mới lại gặp nó. Nó có nhà ở dưới tỉnh, cách Paris cả ngàn cây số. Nhân dịp lên Paris ở hai ngày để dự đám cưới thằng cháu, nó tìm gặp lại tôi ở nhà một người bạn chung. Nói chuyện suốt cả buổi chiều vẫn chưa thấy đã.
Sau đó, nó biên cho tôi địa chỉ của nó trên một tờ giấy nhỏ, tôi nhìn mà nhớ lại thuở thiếu thời. Hồi đó, nó là một trong vài thằng viết chữ đẹp nhứt lớp, cho nên ông thầy chỉ định nó mỗi buổi sáng vào lớp trước giờ học để viết trên đầu tấm bảng đen cái thứ trong tuần và ngày tháng năm. Hồi thời đó, được chỉ định như vậy, "hách" ghê lắm ! Bây giờ, tuồng chữ của nó vẫn còn đẹp như xưa nhưng cứng rắn hơn.

Mấy hôm sau, tôi viết cho nó một bức thư dài, nhắc lại những kỷ niệm cũ mà hôm gặp lại nhau còn quên chưa kịp nhắc. Thằng con tôi bảo tôi viết xong đưa nó đánh vào máy vi tính rồi in ra cho tôi. Máy của nó có hệ VNI nên đánh chữ Việt Nam được. Tôi nói : "Không ! Ba muốn gởi thư viết tay, nó trang trọng hơn. Ngoài ra, khi bạn của ba cầm lá thư trên tay, chưa đọc, chỉ nhìn tuồng chữ thôi, ông ta cũng sẽ thấy được ba trong từng nét bút. Còn thư đánh máy, nó không mang một bản sắc nào hết, nó cứng ngắt, vô hồn…"

Mươi ngày sau, tôi nhận được lá thư hồi âm của nó. Thư đánh máy và bằng tiếng Pháp. Tôi cảm thấy thật hụt hẫng. Tôi đâu có dè nó "mất gốc" đến độ như vậy ! Tôi chỉ còn nhìn ra được thằng bạn tôi ở cái chữ ký, còn lại là một thằng tây nào đó chớ không phải một thằng Việt Nam ! Tôi chua xót, nhưng cũng ráng đọc cho hết bức thư trước khi thả nó rơi vào sọt rác. Tình bạn mà tôi đã dành cho nó từ thời tuổi nhỏ chắc cũng đã rơi theo vào sọt rác, nghe nhẹ như hơi thở dài…

Đó ! Câu chuyện không có gì hết mà tôi muốn kể lại. Suy cho cùng, chắc nó có mang một "cái gì đó" chớ không phải "không có gì hết". Tại vì tôi không thấy. Chớ nếu nó không "nói" lên cái gì hết thì tại sao tôi cứ phải nghĩ ngợi băn khoăn ?

Có lẽ tại vì lâu nay tôi thường nghe người Việt lưu vong than đã mất quê hương, mà tôi thì cứ cho là chuyện bình thường, chẳng có gì phải suy nghĩ. Chính cái cung cách khoanh tay cuối đầu chào của cô bé tóc vàng mắt xanh đã bắt tôi phải suy nghĩ. Nếu người Việt lưu vong giống thằng bạn của tôi thì đúng là họ đã để mất quê hương thật.
Còn như họ giống mẹ con người thiếu phụ trẻ tuổi mà tôi gặp trong siêu thị thì làm sao nói mất quê hương ? Quê hương còn nguyên đó chớ, thể hiện bằng tư duy, bằng ngôn ngữ, bằng phong cách đặc thù Việt Nam. Đó là cái gốc mà mình đã mang theo, chỉ cần một quyết tâm gìn giữ, vun bồi là nó sẽ đâm chồi nẩy lộc… Còn hay hơn nữa : mình nên bắt chước người mẹ trẻ tuổi đó, coi chuyện gìn giữ cái gốc là chuyện tự nhiên, ai ai cũng phải làm. Tôi nhớ hoài câu nói của cô ta : "Dạ ! Có gì đâu ? Mình là người Việt Nam mà bác !". Và tôi tin chắc : một người như cô ta chẳng bao giờ than rằng đã mất quê hương !

Bây giờ thì tôi thấy "câu chuyện không có gì hết" thật sự không phải không có gì hết!

Tiểu Tử

Phan Bá Thụy Dương ● bóng thời gian






cho LêHùng & Phan ĐổngLý


biển lặng sóng nước xanh như mắt ngọc
liểu vờn bay như suối tóc người tình
cơn nắng hồng - giọt nắng mới lung linh
thuyền ai đó mái chèo khua bỡ ngỡ

ôm khổ hạnh én lần qua đất nhớ

gió về đâu
nghiêng ngã khóm phi lau
gió về đâu
mà bụi khói xôn xao
mây lờ lửng trên đỉnh trời vàng vọt

cành lá biếc

vừa đâm chồi nảy lộc
ai báo Xuân cho lau cỏ rộn ràng
nhịp trống nào xa
khoan nhặt mênh mang
nghe phảng phất bóng thời gian vời vợi.



Phạm Tín An Ninh * NGƯỜI BẠN LÀNG TAM ÍCH


tranh Thanh Trí



Bạn về gõ cửa đêm thâu
Ta nghe âm vọng nỗi sầu ngày xưa


Sau ba năm ngồi bên nhau ở trường Võ Tánh, chia tay, mỗi thằng đi mỗi ngã. Anh bạn của tôi thì vào trường luật, còn tôi thì vào trường...lính. Khi còn đi học, bạn chăm chỉ và giỏi hơn tôi nhiều. Hai đứa học trò nghèo, cùng ở quê lên tỉnh học, nên dễ dàng là bạn tâm giao. Con nhà nghèo nhưng tôi lại mê truyện François Sagan và thơ Xuân Diệu nên biết yêu hơi sớm, nên thay vì theo bạn học thêm vài ba chữ, thì tôi lại đắm say ngụp lặn trong một cuộc tình kiểu Aimez-vous Brahm. Mà dường như tình yêu nó làm cho người ta đổi thay ghê gớm lắm. 

Không biết tình yêu ngày ấy có làm tôi "...chết ở trong lòng một ít, và... lạc lối giữa u sầu mù mịt" như ông Xuân Diệu hay không, nhưng nó đã biến tôi thành một thằng lính. Để cho có vẻ lãng mạn một chút, tôi tự cho mình là một thằng lính đa tình.

Trước ngày chia tay, anh bạn dẫn tôi về thăm quê. Từ Nha trang chúng tôi di xe đò Khánh Hòa. một trong những chiếc xe Renault sơn màu nửa xanh nửa trắng, quen thuộc một thời với đám học trò từ Vạn Giã, Ninh Hòa vào Nha Trang đi học. Qua khỏi đèo Rọ Tượng một lúc, xuống xe, anh bạn đèo tôi trên xe đạp về làng. Đi dọc theo con đường đất, hai bên bát ngát những ruộng đồng, hun hút phía xa xa, nằm ẩn hiện sau ngôi đình với bao tàn cây cổ thụ, là làng Tam Ích. Cái làng quê đẹp như bức tranh vẽ và thần tiên như trong cổ tích. Ngay cả cái tên của bạn tôi cũng mộc mạc dễ thương như cánh đồng tôi vừa mới đi qua. Làng Tam Ích hiền hòa, êm đềm với tiếng gió đồng nội hòa cùng tíếng sóng rì rào tạo thành khúc nhạc huyền dịu của đất trời, và hun đúc cái hiền lành thánh thiện trong tâm hồn người bạn thời niên thiếu của tôi...

Vậy mà chiến tranh cũng đã một thời cướp đi cái yên bình đầm ấm của ngôi làng. Ăn cơm chiều sớm, hai đứa chúng tôi chào những người thân, rồi đèo nhau ra phố Ninh Hòa ngủ qua đêm. Nếu chiến tranh ngày đó đã cướp mất của tôi bao nhiêu điều tốt đẹp, thì trong đó có cả cái lần tôi không được ở lại làng Tam Ích một đêm để cùng anh bạn tôi kéo giành bắt cá, đi câu, và ngồi ngắm ánh trăng lung linh trên đầm Nha Phu trong một vùng biển trời tĩnh mịch.

Ra khỏi quân trường tôi về Nha Trang tìm thăm bạn tôi một lần. Hai thằng rủ nhau ra tiệm sách Vĩnh An Thành, bên cạnh chợ Đầm, vờ mua sách để ngắm dung nhan cô chủ mà anh bạn của tôi đã từng say đắm một thời. Rồi kể từ đó biền biệt xa nhau. Chiến trường ngày càng ác liệt, những thằng lính đánh giặc như tôi chỉ biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Phố phường, bạn cũ trường xưa, là một quá khứ thật dễ thương, nhưng cũng đành phải mờ nhạt phía sau lưng.

Mười năm sau, khi cùng đơn vị sống chết từng phút từng giờ với chiến trường Kontum trong "mùa hè đỏ lửa", bất ngờ tôi gặp lại người bạn làng Tam Ích ngày xưa. Anh sinh viên trường luật ngày nào bây giờ chỉ huy một đơn vị CTCT, vừa từ Ban Mê Thuột lên hỗ trợ tinh thần cho đơn vị tôi. Bộ "chinh y" chưa làm cho chàng ta thay đổi. Vẫn nét mặt thư sinh cùng nụ cười hiền hậu ngày xưa. Hai thằng ôm nhau trong lúc đạn pháo trên các chiến xa T-54 thi nhau bắn vào căn cứ. Nửa khuya hôm ấy đơn vị tôi nhận lệnh di chuyển bất ngờ. Vậy là tâm tình chưa cạn thì hai thằng đã phải lặng lẽ chia tay, chưa kịp bắt chước nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn nắm tay hò hẹn: 

"Ngày mai đánh giặc ta còn sống
Về ghé Pleiku* phá phách chơi..
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui "

Chiến tranh đã làm bạn bè tan tác, nhưng đến khi kết thúc lại còn tan tác bi thảm hơn. Sau tháng 4 /75, cái cổng trại cải tạo của nhà nước đã làm chia ly biết bao tình cảm con người. Bạn bè kẻ chết ở đầu non, người mỏi mòn góc bể. Người bạn làng Tam Ích bây giờ chỉ còn mờ mịt đâu đó trong ký ức hiu hắt của tôi.

Vậy mà Trời thương, hai thằng còn sống. Mang tấm thân tàn tạ về với gia đình. Tội nghiệp, nghe tin tôi về, anh bạn trọn tình, tìm đến nhà ông bà già vợ tôi ở Ninh Hòa thăm thằng bạn cũ. Lúc ấy chính quyền Cách Mạng không cho phép "tạm trú" với vợ con ở Ninh Hòa, tôi phải về sống với một bà cô ngoài quê nội, nên bạn tôi không gặp. (Ô hay, chẳng lẽ trên quê hương tôi đã từng có cái cảnh "gần trong gang tấc mà xa nghìn trùng " như thế hay sao ?)

Đúng ba mươi năm sau, từ những phương trời xa lạ, bất ngờ đọc trang web Ninh Hòa, bạn nhắn tìm tôi. Kẻ bên bắc Mỹ, người tận bắc Âu xa tít mịt mù, vậy mà tôi có cảm giác hai thằng đang ngồi bên nhau như lúc còn ở trường Võ Tánh. Trên đầu giây điện thoại, hai đứa nhắc nhau bao kỷ niệm vui buồn về bạn cũ trường xưa, cùng chia sẻ mọi nỗi niềm oan khổ từ những ngày "vì sao mà ra nông nỗi..".

Tội nghiệp người bạn một thời học hành chăm chỉ và khi làm lính thì vẫn hiền lành như một thư sinh, vậy mà hơn sáu năm tù đày trở về phải bỏ cái làng quê Tam Ích với biết bao dấu chân suốt một thời thơ ấu, dắt vợ con lang thang vào vùng kinh tế mới Đồng Bò. Chỉ hai năm sau, rừng thiêng nước độc đã cướp mất của bạn tôi người vợ hiền chung thủy cùng đứa con trai mà ngày cha vào tù nó chưa gọi được tiếng Ba.

Bạn chôn cất vợ con và chôn theo nỗi đau đớn tột cùng của đời mình, rồi trốn khỏi vùng kinh tế mới, đem hai đứa con còn lại gởi cho ông bà ngoại, đi làm bất cứ công việc gì để nuôi hai đứa con thơ. Con gà trống nuôi con trong túng quẫn, mà mỗi ngày vẫn nhìn con mình như nhìn về phía chân trời để có thêm nghị lực đứng lên và đi tới.

Cám ơn Trời Đất đã mở ra một con đường cho những người cuối đường bất hạnh. Mang hai đứa con đến Mỹ khi chúng vừa mới lớn, bạn tôi, con gà trống bây giờ lại nuôi con trên xứ lạ quê người. Bằng tấm lòng độ lượng của người cha, cuối cùng hai đứa con thơ cũng đến được chân trời. Ngày hai đứa con thực sự trưởng thành, như những con chim bắt đầu tự bay lên bằng chính đôi cánh vững chải của mình, người bạn của tôi tiễn cô con gái lớn theo chồng rồi trở về sống một mình với nỗi hiu quạnh của tuổi sáu mươi.

Hai năm trước đó, nhờ một nhịp cầu tao ngộ, bạn tôi gặp một cô "con gái" Long Khánh. "Hai người sống giữa cô đơn, nàng như cũng có nỗi buồn giống...tôi " nên trở thành đôi bạn tâm giao. Nhưng chờ lo cho con cái lớn khôn và có cuộc sống riêng, mới đây hai người mới về chung một mái nhà, cùng san sẻ nỗi niềm và cho nhau một chút hơi ấm ở chặng tuổi cuối đời.
Gặp nhau trên điện thoại viễn liên, tôi nghe được một giọng nói phúc hậu hiền lành. Chị cho tôi biết anh bạn tôi có thú làm thơ, đọc sách, còn chị thì thích trồng và chăm sóc mấy cành hoa. Tôi đùa: " thì chị cũng đang mỗi ngày chăm sóc một cành hoa Tam Ích đẹp đẽ đó thôi. Tôi hy vọng qua những ngày thiếu nắng thiếu nước, bây giờ cây hoa ấy được trồng trên vùng đất màu mỡ hiền hòa Long Khánh, chắc nó sẽ còn cho chị và cho đời nhiều bông hoa lắm đó ". Chị cười như cùng đồng cảm với những điều tôi vừa mới nói. 

Tôi không biết nhiều về Long Khánh, ngoại trừ một lần duy nhất tôi ghé lại đây. Đó là cái ngày tôi ra khỏi trại tù Z 30 C. Sáu thằng tù vừa được thả, tiều tụy xanh xao, trong túi không có một đồng, đứng giữa rừng buổi trưa nắng cháy, đón xe quá giang xe về Sài Gòn, nơi có gia đình của ba trong sáu đứa. Anh tài xế xe lam còn nặng tình với những thằng lính cũ, không đón khách mà dành cả chiếc xe chở bọn tôi về bến xe Long Khánh và hứa sẽ tìm xe quen gởi chúng tôi về tận Sài gòn. Thời buổi ấy, muốn mua được cái vé xe đò có khi phải nằm ở bến chờ đợi mấy hôm, huống hồ gì chuyện quá giang. Đến bến xe Long Khánh, không còn chiếc xe nào, anh tài xế xe lam tốt bụng mời chúng tôi vào quán ăn, đãi một chầu phở. Trong quán cũng có mấy người đàn bà, hình như buôn bán gần đâu đó. Biết chúng tôi là tù cải tạo mới thả, họ bàn với chủ quán, thay vì mang phở ra, dọn cho sáu thằng chúng tôi một bữa cơm thịnh soạn. Chúng tôi từ chối, nhưng các bà nhất định không cho, bảo chúng tôi đừng phụ lòng của người Long Khánh. Khi xe đến, các bà gặp tài xế, trả tiền xe trước cho chúng tôi. Đã vậy, khi về đến Sài Gòn, anh tài xế còn chuyển lại cho chúng tôi một gói tiền của các bà gởi biếu. Chúng tôi cầm tiền mà muốn rơi nước mắt. Trong cái cảnh bi thương giữa một thời nhá nhem tình nghĩa, vẫn còn có biết bao tấm lòng như người Long Khánh.

Bây giờ bất ngờ gặp chị, nghe lại giọng nói hiền từ của một người Long Khánh, tôi bất giác nhớ lại chuyện xưa, và càng trân trọng chị. Chị đã mở rộng tấm lòng, đón nhận một người bạn đời trên tuổi sáu mươi, mà những vết thương trong tâm hồn vẫn chưa lành được. Xin cám ơn Long Khánh, đã sản sinh cho đời những người con gái giàu tình nặng nghĩa. Tôi mừng cho người bạn thật dễ thương, hiền hậu của tôi, tìm được vòng tay, an ủi, vỗ về, sau những đớn đau mất mát tưởng chừng chẳng còn gì lớn lao hơn

Ngồi nghe bạn kể về cuộc đời gió mưa của bạn, lòng tôi lắng xuống bâng khuâng. Tôi chợt nhớ một vài kỷ niệm thuở hai thằng còn đi học và cảm nhận có đôi điều dường như đã vận vào số phận của bạn, của tôi.

Ngay từ lúc còn là học sinh trung học, hai thằng đã nghèo mà lại còn mang cái bệnh "đa sầu đa cảm". Tôi thì mồ côi mẹ từ lúc mới lên hai, cả một thời ấu thơ và lớn lên trong vòng tay tình nghĩa của cô, dì, ông bà nội ngoại, nên lòng sớm biết u sầu. Vậy mà tôi không mau nước mắt và biết làm thơ buồn như người bạn làng Tam Ích của tôi. Mới học đệ ngũ đệ tứ gì đó mà dám đứng ra thành lập một "thi văn đoàn" giữa đất Ninh Hòa. Cái xứ mà dường như bây giờ mỗi người là một nhà thơ.

(Tôi còn nhớ lúc tôi còn nhỏ, ba tôi thường bảo, những đứa trẻ sớm có tính đa sầu đa cảm thì sau này cuộc đời sẽ buồn ghê lắm. Ông kể cho tôi nghe chuyện nữ thi sĩ Kiết Đào bên Trung Quốc. Lúc còn rất nhỏ, nàng đã thích thơ phú. Bà có người anh là một nhà thơ nổi tiếng, nên thường theo anh để học làm thơ. Năm Kiết Đào mới lên mười, trong một hôm mưa bão, người anh nhìn ra ngoài trời thấy một cây ngô đồng bị gió mưa tơi tả, bảo Kiết Đào làm mấy câu thơ vịnh thử, nàng liền ứng khẩu:

                          Chi nghênh nam bắc điểu
                          Diệp tống vãng lai phong


Ông anh nghe xong thất sắc, vừa phục tài nhưng vừa lo lắng điều không may cho hậu vận của em mình. Sau này, khi một triều đại Trung Hoa thay đổi, gia đình bị tù đày khổ ải, nên Kiết Đào đã có thời phải đi làm kỹ nữ. Từ ấy trong văn chương mới có câu " Gió lá cành chim", "đón đưa ai gió lá chim cành". Chuyện ba tôi kể đã trên năm mươi năm, không biết tôi nhớ sai hay đúng, nhưng nó vẫn cứ nằm mãi trong lòng, để liên tưởng tới hôm nay.)
.............

Năm đệ tam, trong giờ Việt văn của thầy Nguyễn Văn Châu, lúc cả lớp tranh luận về bài Tổng Vịnh Truyện Kiều, bạn và tôi đứng về phía Chu Mạnh Trinh hết lời bênh vực nàng Kiều: " Giả sử ngay khi trước Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng dở việc ma chay, quan lại công bằng, án viên ngoại tỏ ngay tình oan uổng, thì đâu đến nỗi son phấn mấy năm lưu lạc, đem thân cho thiên hạ mua cười, mà chắc rằng biên thùy một cõi nghênh ngang ai xui được anh hùng cởi giáp..."

..."Ta cũng nòi tình thương người đồng điệu, cái kiếp không hoa lẩm cẩm, con hồn xuân mộng bâng khuâng, ...lại toan đúc sẵn nhà vàng chờ người quốc sắc, lại muôn mượn chùm phương thảo hú vía thuyền quyên.. "

Năm đệ nhất, hai thằng lại cùng say mê những giờ văn học sử Pháp của Thầy Cung Giủ Nguyên, nên đã nắn nót viết vào tập và đọc đi đọc lại đến độ thuộc lòng mấy bài thơ lãng mạn của Lamartine, Chateaubriand, Jacques Prévert, Victor Hugo.

Cuối cùng thì cuộc đời hai thằng, dù là nam nhi, nhưng nào có khác gì thân phận trôi nổi của nàng Kiều:

Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu
(Nguyễn Du)

hay của những chàng thủy thủ mịt mờ trong Oceano Nox:

Où sont-ils les marins sombrés dans les nuits noires ?....
Oh flots ! Que vous savez de lugubres histories !
(Victor Hugo)

Gặp lại tôi sau gần bốn mươi năm, trong những lời tâm tình, bạn cho tôi biết thêm một điều nuối tiếc:
"Tớ buồn quá, vì không tìm thấy cái làng Tam Ích nhỏ nhoi, nghèo mà quá đổi thân thương của mình trên tấm bản đồ Ninh-Hòa trong trang web Ninh-Hòa DOTcom. Cái làng mà ngày xưa bạn có lần về thăm với mình rồi vội vã ra đi ấy ! "


Tôi nghe lòng lắng xuống và thấy thương người bạn hiền thời thơ ấu rồi thương cả chính mình. Thế hệ chúng tôi sao bỗng dưng phải mất đi bao nhiêu điều quí giá, để cuối cùng lại trở thành "khúc ruột ngàn dặm" của quê hương?
Hình ảnh cái Làng Tam Ích ngày xưa của bạn tôi như đang nhạt nhòa trước mắt. Im lặng giây lát, tôi lấy lại bình tĩnh, rồi cười với bạn :

" Thì bạn hãy viết và gởi cho trang web Ninh Hòa, về cái làng của bạn đi, để bạn có cái cảm giác của một Từ Thức trở về nơi xưa chốn cũ, tìm lại dấu vết một thời cùng những "hang động tuổi thơ". Còn với mình, cái "làng Tam Ích dù không trọn một ngày" ấy vẫn mãi mãi còn lại trong lòng mình như một tấm bản đồ, có cả “tọa độ” ngôi đình làng, ngôi nhà của bạn và "điểm đứng" của hai đứa mình trong một ngày nào đó thật xa xưa"


phạm tín an ninh
* Trong nguyên tác của Nguyễn Bắc Sơn: "Về ghé Sông Mao phá phách chơi.".