văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Friday, April 9, 2021

Thái Quốc Mưu ** Người Lấy Ma


Khách ngồi trong tửu điếm, nhìn những hạt mưa cuối mùa đầu ngày lất phất. Gió biển từng đợt ùa vào, se lạnh. Chén rượu Mao Đài không đủ ấm lòng kẻ tha hương. Khách chạnh lòng nhớ quê. Nhìn hàng thông bên đường ngả nghiêng trước gió, đầm mình trong mưa, như đời phiêu lãng của mình trước bao giông tố cuộc đời.

Bên kia đường, cổ miếu Quan Vân Trường, một ngôi miếu do người Trung Hoa đến đây từ thuở xa xưa thiết lập, buồn bã, im lìm như đầy sức thi gan cùng tuế nguyệt. Đang đắm chìm trong bao nỗi suy tư. Bỗng khách chau mày thảng thốt:

 

- Ha! Hảo công phu!

 

Một người mình trần, quần cụt, gầy như que, dưới bụi mưa trong cái lạnh giá buốt của nền trời xám xịt mà khách vẫn nhìn rõ được hai dãy xương sườn lộm cộm được đỡ bằng đôi chân khẳng khiu như hai chiếc gậy! Thế mà hắn ta nhún người một cái, nhảy phóc lên tận mái miếu thờ, lại thu người phóng xuống sân. Rồi phóng lên nhảy xuống. Thao tác nhẹ nhàng như nhảy qua con mương nhỏ.

 

Trời mưa, ế khách, chủ quán bèn lân la bên khách tìm chuyện cầu vui. Thấy khách kinh ngạc, chủ quán nói:

 

- Lão ta bị quỷ nhập đó.

 

- Quỷ nhập?

 

- Năm xưa tại Kình Ngư Thôn nầy, công tử đã đến nhà của Lục lão uống rượu rồi mà!

 

- Đúng vậy, thế nào?

 

Quán chỉ tay về miếu, "tên quỷ nhập" không còn thi thố thuật phi thân nữa, mà ngồi ủ rũ, dựa cột thềm thở dốc, rồi lại gục đầu như gà bị mưa. Quán nói:

 

- Lục lão đấy!

 

- Lục lão? Nguyên lai thế nào mà lại tồi tệ như thế nầy?

 

Khách không tưởng nổi, một người tuổi mới ngũ tuần, da dẻ hồng hào, trông bề quắc thước. Thế mà chỉ một năm sau...

 

Quán kể:

 

- Như công tử biết đó, Lục lão là một trong những người cư trú lâu đời của Kình Ngư Thôn nầy. Có con trai lớn ở kinh thành, năm tháng Lục lão sống cùng vợ và đứa con gái út với mảnh vườn, thửa ruộng. Gia nghiệp "ngó lên thì chẳng bằng ai...". Nhưng có cây có trái, ra công lam lũ nên ngày ngày cũng được no cơm ấm cật.

 

Một buổi, lão ra đồng đắp bao ngạn, nắng chưa nóng lưng, bỗng phát hiện dưới lớp bùn hai vật tròn tròn như hai trái bưởi. Lão ta bèn rửa sạch, thì ra hai cái đầu lâu! Chẳng chút kinh hoàng, lão khấn:

 

- "Hai vị nằm đây tự bao giờ mà khiến hôm nay tôi mới được gặp. Nếu không duyên là gì? Thôi để tôi tìm cho đầy đủ xương cốt rồi an táng quý vị sau".

 

Thế rồi lão ta cứ đào thêm xuống, cứ nới thêm ra để tìm cho đủ mấy trăm lóng xương còn lại. Huyệt đã rộng thành ao. Dù những len đất xắn lên lão đều bóp vụn, cốt mong tìm được vài đốt xương tàn. Nhưng lão tuyệt vọng!

 

Lũ chim chiều theo nắng xuống, gọi đàn. Tứ chi rũ rượi mỏi nhừ, lão khô cả cổ, quờ quạng tìm bình nước, vô tình cầm nhầm chiếc đầu lâu! Nó nhìn lão cười, hàm răng trắng toát nằm trong cái miệng rộng hoác, trống phọc, đôi mắt sâu thăm thẳm. Lão khấn:

 

- "Xương cốt nhị vị tôi đã cố tìm, nhưng tiếc rằng không thể đào hết cả mảnh ruộng nầy! Thôi thì lòng thành hơn đi chùa bái Phật! Cung thỉnh hai vị theo tôi về tệ xá để tiện việc khói hương".

 

Thế là lão để hai cái đầu lâu vào giỏ cơm, mang về lập trang thờ.

 

Hơn tuần sau, đang mơ màng thì bên tai lão vang tiếng:

 

- "Hừ lòng tốt của ngươi ta chấp nhận, nhưng ngươi mang ta về lại cho Quan Tướng Quân trông thấy. Mười ngày nay ta không dám vào nhà, chịu lạnh chịu đói ngươi biết không? Hôm nay Quan Tướng Quân đi họp với chư thần, qua Xuân mới về. Nhân dịp nầy, ngươi hãy dựng cho ta cái lều, xa hẳn ánh sáng của Thanh Long Đao. Yên nơi yên chỗ, ta sẽ phù hộ cho ngươi thành đại phú, ngược lại, xương một nơi, hồn một nẻo không thể nương nhau. Thà ngươi vứt ta vào chốn bùn lầy còn được tự do hơn".

 

Lục lão muốn nói ra nhưng cổ họng như bị ai chận lại, ú ớ chẳng ra lời. Giọng nói kia trở nên sắc bén như từng lát dao khứa thịt:

 

- "Hay ngươi đem ta vào để Quan Tướng Quân xẻ thịt?"

 

Phút kinh hoàng đã qua. Lục lão nén bực tức:

 

- "Ô hay! chẳng ân thì chớ, lại còn giở trò quỷ, định hù ta sao?"

 

- "Rõ ràng ngôn cách của kẻ trượng phu! Được lắm! Bây giờ nghe ta hỏi, "Ngươi định thế nào?"

 

- "Vì lòng nhân ái, ngày mai ta sẽ cưa cây, chầm lá, cho ngươi yên chỗ một bề, nhưng ngươi nhớ rằng..."

 

Hồn ma cười, cướp lời lão:

 

- "Nhớ rằng vì lòng nhân ái chớ không phải vì khiếp sợ đúng không? Tốt lắm! Nhưng hồn phách tinh anh không thể nương vào nơi tạm bợ tồi tàn. Ngươi hãy xây cho ta một am viên chu vi rộng 36 trượng. Trong có bệ thờ Nhất, Nhị Nương, tức chị em ta, ngoài có nơi nương cho các đẳng linh hồn. Ngày đêm đèn hương không dứt, để ta được hưởng dương quang. Đúng hơn nghìn ngày, ngươi tất thấy chuyện lạ. Khoan vội nghĩ xa! Ta chẳng hề quá đáng! Đáp lại, ngươi cũng được vàng rồng trăm dật, ngựa đẹp trăm xe, tôi tớ đầy nhà, cổng cao cửa rộng. Hãy nghe ta bảo nhỏ nầy..."

 

Rồi bên tai Lục lão nghe tiếng thì thào. Mắt lão sáng lên, gật đầu lia lịa...

 

Vài hôm sau, người dân Kinh Ngư Thôn ai cũng lấy làm lạ vì một hiện tượng không ngờ: Hàng trăm phu thợ ngày đêm thi công trên mảnh vườn Lục lão. Và sau đó, một gia trang đồ sộ không thua gì dinh cơ quan huyện. Có kiểng có vườn, giả sơn giả thủy, hồ cá ao sen... Duy có một điều kỳ quái là gần đó có một cái am thờ... hai chiếc sọ khô!

 

Chủ quán cười tinh quái:

 

- Lại làm đám cưới với hai chiếc sọ khô nữa chứ!

 

Khách:

 

- Đám cưới? Là thế nào?

 

- Thì... đám cưới chứ sao nữa...

 

- Quán có dự không?

 

- Hân hạnh được! Lão ta mời cả thôn nầy. Thật là vui vẻ!

 

- Họ dám dự à?

 

- Việc gì không dám? Có chẳng dám không dự thì có. Công tử đừng quên, uy thế Lục lão bấy giờ quan huyện còn phải kiêng dè, huống chi là đám dân ngu nầy? Điều đáng hoan nghênh là lão cấm mang quà cáp đến, tham dự là tốt rồi. Đám ngu dân nầy lâu lâu được đầy bụng một lần dại gì không đến? Và tiếc gì lời chúc tụng đầu môi?

 

- Còn cô dâu?

 

- Nào ai thấy mặt mũi gì đâu! Đã bảo quỷ ma mà! Xong tiệc, kẻ bàn ra người tán vào, nhưng rồi chuyện thị phi cũng lãng dần theo năm tháng.


***

Hôm sau, khách đến thăm nhà họ Lục, khác hẳn năm xưa như đen với trắng. Vạn phần không còn lại chút gì của nền đất cũ. Lục bà tuy áo gấm xênh xang, nhưng cung cách nông dân, vẻ chân quê vẫn còn lộ nét. Bà tiếp người quen cũ với nét niềm nở ban sơ, mà khách vẫn dễ dàng bắt gặp trên gương mặt phúc hậu ấy đượm nét ưu phiền.

 

Trên bộ ván cẩn ngà, Lục lão như bộ xương bất động, lâu lâu đưa đôi mắt mất hẳn thần khí nhìn khách một cách thờ ơ lơ đãng. Khách đã biết chuyện gì xảy ra với lão, trong khi Lục bà ái ngại:

 

- Xin công tữ miễn chấp cho. Lão nhà tôi bị bệnh. Số là... ôi! thật là oan nghiệt mà...!

 

Lục bà thuật lại cho khách nghe, tương tự như chủ quán, song còn đôi điều mà chỉ có Lục bà mới biết được. Khi lập am xong, một đêm Lục lão đang ngon giấc thì bị lay dậy. Lão bừng mắt, trước mặt là hai nữ nhân cốt cách khác phàm. Một người nói:

 

- "Đa tạ lòng tốt của ngươi, nhưng phận gái đã bị ngươi ẵm bồng, ngươi không cưới chẳng được đâu".

 

Ngỡ trong mộng, Lục lão nắm thử bàn tay người nói chuyện, lạnh ngắt như băng. Lão kinh hoàng rút nhẹ tay về, run lập cập vì biết mình đang đối diện với ai!

 

- "Ma!"

 

- "Ma có gì đáng sợ, chẳng qua là âm cảnh nặng nề thiếu hẳn dương khí nên lạnh lẽo đó thôi. Cũng như người trần gian, khi vầng dương tắt, gió Bấc thổi về thì thịt da tê tái. Có chi là lạ? Sống là người, chết thành ma, ma chết thành quỷ, quỷ chết thành yêu tinh, việc đó như đường độc đạo, ai cũng phải đi, đi tất phải đến. Có chi mà ngại? Ngươi thấy ma hại người bao giờ chưa mà ngươi lại sợ? Còn hàng ngày ngươi thấy người hại người, cớ sao ngươi vẫn chung sống? Quan trấn áp dân, cướp của cải người, giàu ức nghèo, mạnh hiếp yếu, khôn lừa ngu làm cho cội gốc của người đời chao đảo. Cớ sao ngươi không sợ? Thế gian những chuyện vợ dối chồng, em dối anh, trò phản thầy, bạn bè, đồng hội đồng thuyền phản nhau, đâm lén nhau, tranh nhau từng miếng ăn cái uống, giành giựt nhau từng chút danh hời. Cớ sao ngươi không dè? Cũng chẳng thiếu chi những kẻ cướp giựt của người, chiếm đoạt vợ người, gạt gẫm thiên hạ, chém giết lẫn nhau, tranh giành áo cơm dơ bẩn, làm cho máu ruột phân ly, nhân tình phân tán. Cớ sao ngươi không ngại? Ta nghĩ lũ người kia không những đáng sợ mà còn đáng khinh nữa! Còn chị em ta đây, đường đường là cành vàng lá ngọc, đi có kẻ hầu, ngồi có kẻ hạ, chải tóc có người cầm lược, cài đầu có kẻ giắt trâm, mười tám năm khuê trung khép kín, chưa hề biết mặt nam nhân. Thế mà cũng tại con người giành quyền đoạt lợi, binh lửa nổi lên. Lũ giặc gặp chị em ta như cáo gặp gà, như hùm gặp thỏ. Và chúng ta tử tiết để bảo toàn tiết hạnh giá trong. Người xưa đã dạy "Nam nữ thọ thọ bất tương thân". Nay ngươi đã ôm ta vào lòng, ấp ta vào ngực, nếu không là chồng vợ với chị em ta thì điều đó có đúng không?"

 

Lục lão nghe cũng có lý, chín mười phần sợ chỉ còn một hai. Đang trù trừ, lại nghe giọng cương quyết:

 

- "Chị em ta dòng dõi họ Tô, tổ tiên từ phương Bắc, theo Mạc Tướng Quân (*) xuôi Nam lánh nạn. Ta là Ngọc Phượng, em ta là Bích Phượng. Người đương thời gọi là "Song Phượng Bảo Châu". Nay ngươi ưng ai cứ nói".

 

Lục lão ái ngại:

 

- "Ta đã già rồi!..."

 

- "Điều đó không phải để ngươi lo".

 

Mành mành lay nhẹ, hương thơm quyện ngợp căn phòng. Bấy giờ Lục lão mới dám nhìn thẳng vào mặt hai người: "Rõ ràng là hai thiếu nữ bội phần xinh đẹp, mỗi vẻ mỗi người". Lục lão cảm thấy tuổi xuân trở lại, nên đáp:

 

- "Ta ưng cả hai".

 

"Song Phượng Bảo Châu" nhìn nhau, nét thẹn thuồng hiện trên đôi má. Cô chị nói:

 

- "Cái lão già nầy tham lam quá, không sợ chị em ta phanh thây rỉa thịt sao?"

 

Khách hỏi:

 

- Vì cớ gì Lục ông lại ra nông nỗi nầy?

 

Lục bà não nùng:

 

- Chuyện còn dài. Sau đám cưới, ông nhà tôi dọn về sau am, xây phòng hoa chúc, vui cuộc mây mưa, không thiết gì đến cơm nước, hình vóc ngày càng tồi tệ, tâm trí ngày càng lú lẫn, biếng nói biếng cười, không nhận được người quen kẻ lạ.

 

***

 

Năm sau, có dịp qua Kình Ngư Thôn, ghé thăm Lục lão. Khách mặc nhiên thấy Lục lão đầu cạo sạch tóc, mặc áo già lam, sắc mặt hồng hào, dung quang tươi nhuận, chấp tay chào khách:

 

- A Di Đà Phật! Mừng công tử giá lâm!

 

Lục bà giải thích:

 

- Sau lần công từ viếng thăm. Lão nhà tôi càng ngày càng tệ, chúng tôi mời bao nhiêu đạo sĩ đến cúng chữa nhưng vô hiệu. Bỗng một hôm có vị đại sư đường đột vào nhà nói rằng:

 

- "Bần tăng không màng ngàn dặm đến đây vì thấy được yêu khí ngất trời. E rằng nếu chậm...".

 

Đại sư chưa dứt lời, bỗng lão nhà tôi từ ngoài chạy vào phục đầu dưới đất, lạy như tế sao, sưng vù cả trán:

 

- "Sư phụ xót thương tình nghĩa vợ chồng mà đừng hành tội".

 

Vị đại sư cười hiền hòa, nhưng giọng đầy cương quyết:

 

- "Ta vì đức hiếu sinh nên không cho ngươi chọn lựa con đường nào khác ngoài việc rũ bỏ nợ trần theo ta về sơn am tu luyện. Nghiệt súc! Không thu mình vào đây còn đợi chừng nào?"

 

Nắp hồ lô đậy lại, xem dễ dàng như một trò chơi, trong khi lão nhà tôi đang nằm bất động dưới nền. Đại sư nói:

 

- "Không sao! Vì hoang dâm vô độ nên thần kiệt khí hư, lại bị ma đạo hoành hành nên trí cùng lực tận, không chữa không xong. Đây là "Tái Sinh Phục Thần Dưỡng Khí Đơn", hãy nhận và kiếp cho uống ngay. Còn đây, "Trấn Quỷ Phù", hãy dán trước cổng ra vào, tà ma phải lánh xa. Nhân đây ta cũng chúc mừng: Vị thí chủ nầy ngày sau sẽ giác ngộ, phổ độ chúng sanh, nhờ lòng nhân của lão ấy".

 

Đại sư nói xong, chỉ hai bước rời khỏi nhà, thoắt cái mất dạng.

 

***

 

Vị khách là La công tử, con của Lại Bộ Thượng Thư. Tuy dòng dõi trâm anh thế phiệt, nhưng không thích ràng chân nơi cửa ngọc lầu vàng. Tánh thích phiêu lưu lang bạc, khí phách mã thượng giang hồ.

 

Mùa Xuân năm qua, La công tử đến thăm ta, nằm trên sân thượng ngắm trăng, gác chân lên nhau rồi kể lại chuyện nầy. Đoạn cười nói:

 

- Thế gian không thiếu những kẻ lòng lang dạ sói, háo danh cầu lợi, mê sắc dục, làm điêu vô sỉ, bán đứng lương tâm, làm cho thế sự đảo điên, nhân tình ta thán, oán ngút trời xanh, hận thâm địa ngục. Nghĩ mà phát ngán. Như ta đây, đầu đội trời, chân đạp đất; danh chẳng ham, lợi chẳng màng; chỉ cần ngày hai bữa. Phù điều phải, diệt điều trái; xa lánh bọn gian tà. gần bậc cao minh; học cái hay, bỏ cái dở; luyện thần trong sáng, giữ lòng thanh bạch; ưu tư thế sự, nặng tình nước non; bốn phương làm bạn, tám cõi là nhà; đi để danh thơm, ở để tiếng lành; lánh điều ác, làm điều thiện; vì đại nghĩa dám nói điều ngay, vì dân tộc cứ thẳng đường chính mà tiến; sống cho đời, chết vì đất nước. Thân xác hiên ngang sừng sững như bá như tòng, chí cao ý cả như trời cao biển rộng... Sá gì chuyện tử sinh, sợ gì lời dị nghị, đàm tiếu của phường vô liêm sĩ, của bọn tị hiềm, của loài ung nhọt...

 

Chuyện ta kể, đầy tính chất hoang đường, thế gian hi hữu, nhưng ngươi đã nghe thì cứ nghĩ rồi viết lại cho hậu thế xem...vui.

 

Thái Quốc Mưu

Ghi chú: (*) Mạc Cửu