văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Monday, January 30, 2012

LAN ĐÀM * MÙA XUÂN 1975


Đỗ Duy Tuấn
 
Những cơn mưa mùa dài dòng như một người kể chuyện vô duyên nhất đã chỉ làm được một điều tốt là làm cho bầu trời ô nhiễm của vùng Los Angeles sạch sẽ hẳn. Những cơn mưa lê thê cũng níu kéo cái lạnh của những ngày cuối đông, làm cho tháng ba ở đây mang đầy hình ảnh của một thành phố Đà Lạt trong quá khứ. Tâm Như mặc chiếc áo coat bằng dạ màu nâu sậm mua tại Ann Taylor từ hơn ba tháng trước. Lúc đó là mùa thu. Buổi chiều thứ sáu Bích Hà điện thoại cho Tâm Như, giọng nói hốt hoảng như vừa nghe tin động đất ở Seattle:
- Ann Taylor nó hạ đại giá mùa thu! Mày ghé tao rồi chúng mình đi Brea Mall.
Tâm Như chọn hai cái khăn quàng cổ và chiếc áo coat dạ. Hai món hàng này đều được trừ 50% và còn trừ thêm extra 10% nữa. Bích Hà chọn một chiếc áo coat màu đen.
- Tao thích màu nâu như mày chọn. Nhưng nếu cả hai đứa đều mặc màu nâu, tụi bạn chúng lại kêu lên là mình ở viện mồ côi ra…
Ngồi ở food court, Bích Hà kể:
- Mày biết không, năm 1975 tao vừa bảy tuổi, bố tao định cho hai anh em tao làm trẻ mồ côi để được di tản sang Mỹ …
Tâm Như ngạc nhiên:
- Hai anh em? Tao có bao giờ thấy anh mày đâu?
- Anh Hải ở với chú tao bên Maryland. Chính chú tao đã lo cho gia đình tao đi Mỹ. Mày không biết là tao còn một người anh lớn nữa. Anh ấy ở Virginia. Bốn mươi lăm tuổi rồi mà chưa có vợ!
Tâm Như thấy đau nhói trong tim. ‘Mình cũng ba mươi lăm rồi mà vẫn chưa có chồng’. Ba Tâm Như là một sĩ quan cao cấp trong quân đội VNCH cũ. Ông là một người lịch thiệp nhưng kín đáo. Ngay đối với vợ con, ông cũng không bao giờ để lộ một xúc động tình cảm nào cả. Một vài lần cả gia đình đi ăn tiệm, Tâm Như hết sức cảm động khi thấy nhiều người đồng hương ghé lại bàn chào ba Tâm Như thật kính cẩn, ‘Ở nhà Ba chỉ là một người cha bình thường. Ra đường Ba được mọi người kính trọng…’. Một lần ba Tâm Như giải thích ‘ Họ là những chiến hữu của ba’. Những companion-in-arm. Tâm Như biết ba là một quân nhân, nhưng Tâm Như không biết một chút gì về quá khứ của ông. Tâm Như cũng không biết gì về chiến tranh, ngoài những cuốn phim như The Longest Day, Forest Gum hay Saving Private Ryan … mà Tâm Như đã xem một cách thờ ơ. Tâm Như không thể hiểu được rằng tại sao lại phải có chiến tranh? Tại sao con người có thể cầm súng bắn con người, như người thợ săn bắn một con thú? Trong cuốn album gia đình, chỉ gồm những tấm ảnh ghi lại những ngày còn ở quê nhà, có một tấm chụp ba Tâm Như mặc đại lễ đứng giữa một đám đông trong một buổi tiếp tân nào đó. Tâm Như rất thích hình ảnh của những quân nhân lịch thiệp trong những bộ đại lễ lộng lẫy giữa khung cảnh rực rỡ của những buổi dạ vũ mà Tâm Như thường thấy trên màn bạc. Tâm Như nhớ hình ảnh của André và Pierre trong War And Peace, của Napoléon trong Désirée…Nhiều lúc Tâm Như thấy mình như là một thứ alien, một kẻ ngoại cuộc giữa đám đông vui vẻ, nhộn nhịp. Một lần Tâm Như đã thoáng nghe mẹ than thở với ba:
- Con gái hơn ba mươi tuổi rối mà chưa lập gia đình. Con mình nó đẹp chứ nó đâu có xấu! Lại còn học hành đàng hoàng…
Mẹ Tâm Như nói về số mệnh, về tuổi tác, về các vì sao trên trời. Tâm Như nghe ba trấn an mẹ:
- Mình đang ở Mỹ chứ không còn ở Việt Nam thời Tự Lực Văn Đoàn nữa. Con gái bây giờ muốn lấy chồng lúc nào cũng không muộn…
Mẹ thở dài:
- Vẫn biết vậy nhưng nếu con nó lập gia đình sớm, mình sớm có cháu ngoại bế…
Những cơn mưa vội vàng buổi sáng đã tạnh hẳn. Bầu trời phía bắc còn u ám nhưng nắng đã trải óng ánh trên thảm cỏ vàng của những ngọn đồi nằm hai bên xa lộ. Xe chạy qua exit Imperial Highway, lối dẫn vào Brea Mall, đường bắt đầu lên dốc. Ở điểm cao nhất của xa lộ, những ngọn đồi hai bên như vạt rộng ra, mở trước mắt Tâm Như một khoảng núi trùng trùng điệp điệp, đỉnh cao phủ tuyết trắng như bạc. Tâm Như ngẩn ngơ, ‘ Mấy tuần nay không ghé thăm Bích Hà, không ngờ thiên nhiên đã thay đổi tuyệt vời như vậy!’. Cảnh đẹp khiến cho lòng Tâm Như tươi sáng. Tâm Như chợt hứng khởi hát nho nhỏ theo người ca sĩ qua radio trên xe ‘ I just call to say I love you’. Tâm Như không có ai để điện thoại và nói ‘ I love you’ dù Tâm Như muốn được nói điều này. Tâm Như khao khát được nói ra điều này. Tâm Như rất ngạc nhiên trước thái độ sống của Bích Hà. Vinh, chồng Bích Hà, tình nguyện đi làm ở Singapore hai năm. Bích Hà không đi theo vì ‘ Tao có công việc của tao ở đây và tao cũng còn phải trông coi bà già tao nữa chứ! Đi hai năm không đóng thuế, không chi phí gì, anh ấy có thể để dành tiền, mai mốt retire sớm…!’.
Khi Tâm Như đậu xe trước cửa nhà Bích Hà, trời đã nắng ráo. Tâm Như mở cửa xe bước xuống đường và chợt chú ý đến một chiếc SUV to cao sừng sững đậu trên driveway. Xe mang bảng số của tiểu bang Virginia với dòng chữ ‘Virginia Is For Lovers’. ‘ Bích Hà có khách phương xa lại thăm. Nó không cho mình biết gì về việc này cả…’.
Bích Hà đón tiếp Tâm Như thật nồng nhiệt, tưởng như hai người đã lâu lắm không gặp mặt nhau. Bích Hà lúc nào cũng có nụ cười trên môi, nụ cười thật tươi, thật tự tại, ‘ Con nhỏ này không bao giờ biết buồn’. Tâm Như ngồi xuống ghế sofa trong family room. Bích Hà đi vào trong bếp,
- Để tao pha bình trà.
Bích Hà biết Tâm Như thích uống trà. Bích Hà luôn luôn ghi nhớ những ý thích của bạn hữu. Tâm Như hơn Bích Hà ba tuổi nhưng hai người thân thiết với nhau từ những ngày học ở UCLA. Những ngày thật vui, thật vội vã, thật nuối tiếc, ‘ Mình bắt đầu thấy sợ hãi những bước chân của thời gian’. Bích Hà từ trong bếp đi ra với một khay trà.
- Mày có khách phương xa tới thăm à?
Bích Hà đặt trà xuống bàn:
- Không phải khách. Anh Phong, anh già của tao ở Virginia, có job mới ở California nên bỏ đất của những người tình để về đây.
- Ông ấy đâu rồi? Xe đậu ngoài cửa…
- Ông ấy đưa bà già tao đi chợ. Bà già bảo không bao giờ bà thèm leo lên chiếc xe cục mịch như xe đò của anh Phong. Anh Phong lái chiếc Saab của tao.
Bích Hà gọi mẹ là bà già, nhưng Tâm Như thấy bà chưa già. Mẹ Bích Hà có một vẻ đẹp quý phái, bà có đôi mắt như mắt người mẫu trong tranh tố nữ của Trung Hoa. Mẹ của Bích Hà chắc chỉ trên sáu mươi, bà là một người có trái tim rộng lượng, lúc nào cũng trang trọng như một người khách quý ghé thăm bạn hữu trong những chuyến du lịch mùa hè. Bà ăn nói điềm đạm nhưng cởi mở, hành động chững chạc nhưng thân tình.
Bích Hà rót trà ra tách nhỏ :
- Trà sen thật do bà ngoại tao từ Hà Nội gửi qua đấy. Trà sen hóa học uống hắc xịt mà còn hại cho sức khỏe nữa.
- Bà ngoại của mày ở Hà Nội?
Tâm Như thấy Bích Hà như một cuốn sách, mỗi trang lại có thêm cái mới, mỗi chương lại có thêm một biến cố. Tâm Như thích thú tìm hiểu về Bích Hà, về gia đình Bích Hà, như một người say mê đọc một cuốn tiểu thuyết.
- Chắc có một ngày nào đó mày sẽ cho biết là ông tằng tổ của mày là một vị vua nhà Lê…
Bích Hà đưa tách trà cho Tâm Như:
- Giòng họ tao không có ai làm lớn cả. Hình như tao có ông cụ ngoại đậu cử nhân nên được gọi là Cụ Cử. Mẹ tao rất hãnh diện về cái lai lịch này.
Tâm Như nhìn Bích Hà, và chợt ghi nhận những thay đổi nhỏ trong cách trang trí cái family room quen thuộc này. Trong những bức hình treo trên tường có một bức hình mới. Hình một người lính trẻ đứng bên một dòng sông. Bức hình mờ nhạt như bị out-of-focus, nụ cười của người trong ảnh chỉ là một vệt dài trắng xóa. Và bức tượng bán thân của Beethoven đặt trên mặt chiếc đàn dương cầm, mọi lần chỉ đeo cái headphone, hôm nay lại được trang bị thêm một chiếc mũ beret đỏ. Tâm Như chợt nhớ lại có một lần Bích Hà tâm sự:
- Anh tao là lính nhảy dù. Qua Mỹ, anh ấy giữ mãi chiếc mũ beret đỏ. Ông ấy dặn dò mẹ tao giữ cái mũ cho ông ấy như của gia bảo vậy.
- Mỗi người đều giữ một kỷ niệm…
- Kỷ niệm của anh tao là chiếc mũ beret đỏ. Ông ấy gàn bát sách nên đến bây giờ vẫn không có vợ…
- Chưa có vợ?
- Tao nghĩ tao dùng chữ ‘không’ rất chính xác. Mỗi lần anh tao về Cali, anh ấy lại đem cái mũ beret đỏ ra đội và ngắm mình trong gương cứ như anh chàng Narcissus vậy.
- Tao nghĩ ông ấy không chỉ yêu một kỷ niệm mà còn hãnh diện về quá khứ. Người ta có quyền hãnh diện với quá khứ là cựu cái này, cựu cái kia. Ông ấy có quyền hãnh diện với quá khứ là người lính đội mũ beret đỏ…
Tâm Như đặt tách trà xuống bàn, chậm rãi đứng dậy và bước lại bên bức tường treo những khung ảnh đủ cỡ.
- Người lính này là anh của mày phải không?
- Ừ, hình anh Phong đấy. Hình chụp bên bờ sông Thạch Hãn. Anh Phong bảo Thạch Hãn có nghĩa là mồ hôi của đá. Tao thấy đó là hình ảnh của cuộc đời người lính…Mẹ tao được điện thoại anh tao bảo về Cali, bà mang hình đóng khung và treo ở đây. Bà cũng đem cái mũ beret đỏ của anh Phong ra triển lãm…Tao nghĩ mẹ tao phải là một chính trị gia, một chính trị gia giống như Bà Hillary… Anh Phong về, anh ấy cảm động lắm, anh ấy mua tặng bà già tao cái đồng hồ Cartier.
- À, từ lúc nãy tao để ý không thấy bác trai đâu. Chắc bác đi xoa mà chược?
- Không, bố tao theo ông chồng tao qua Singapore. Ông chồng tao điện thoại về mời,’ Bố retired rồi, bố qua đây chơi cho nó thay đổi không khí. Vui thì bố ở lâu, buồn thì bố về Mỹ’…. Tao xúi dục thêm ‘ Bố qua bên đó canh chừng chồng con hộ con…’

Tâm Như cầm chiếc mũ beret đỏ trên đầu bức tượng bán thân của nhạc sĩ Beethoven. Tâm Như chợt nhớ như một bức ảnh phóng đại đặt ngay trước mắt, bức ảnh những người lính đội mũ beret đỏ đứng giữa một khu phố vắng tanh vào một buổi chiều mùa xuân kinh hoàng tại thành phố Sàigòn hơn hai mươi lăm năm về trước…
Tâm Như nhớ thật rõ theo nhịp tim đập dồn dập, Sàigòn đang tắt lịm như một ngọn nến tàn. Chiến tranh dưới mắt nhìn của một đứa trẻ lên mười mang những đe dọa thật kinh hoàng. Chiến tranh đang tiến dần về thành phố Sàigòn, đang bao quanh thành phố Sàigòn. Chiến tranh như một đám mây đen chụp xuống một tòa lâu đài cổ trong một cuốn phim ma quái.
Tâm Như nhớ mãi buổi chiều hôm đó, mẹ mặc chiếc áo len xanh cho Tâm Như, mẹ viết tên tuổi Tâm Như lên một tờ giấy lớn gấp tư, nhét vào túi áo trước ngực có kim băng cài giữ. Mẹ vẫy xe taxi đưa Tâm Như vào Tân Sơn Nhất, ‘ Mẹ muốn cả gia đình xum họp vào lúc Sàigòn sụp đổ’. Xe taxi bị chặn lại trước Bộ Tổng Tham Mưu. Tâm Như ngơ ngác trước những người lính nhảy dù đội mũ đỏ. Tâm Như nhớ mãi khuôn mặt người lính nhảy dù thật trẻ nhìn qua cửa kính xe,
- Thưa bà, bà nên đưa em trở về nhà. Nơi đây sắp sửa thành bãi chiến trường.
Người tài xế taxi hốt hoảng đuổi khách, ông ta nhảy bổ khỏi xe và mở toang cửa sau,
- Bà xuống đi, tôi không tính tiền xe đâu! Tôi phải trở lại Sàigòn ngay…
Hai mẹ con Tâm Như đứng giữa một con đường lặng câm, với người lính bình thản, và bầu không khí chiến tranh nặng nề đến nghẹt thở. Người lính nhảy dù trẻ ái ngại nhìn hai mẹ con Tâm Như :
- Bà nên đưa em về nhà ngay…
Mẹ Tâm Như đáp thật tự nhiên, Tâm Như chưa lần nào thấy mẹ lạnh lùng như vậy:
-Tôi là vợ Đại Tá Thu, tôi muốn ở bên cạnh chồng tôi vào lúc nguy khốn này. Xin anh giúp tôi và cháu gặp nhà tôi..
Người lính dù chợt đổi sắc diện. Tâm Như tưởng như đôi mắt sáng trưng của anh chợt mờ đi:
- Bà và em đứng tránh dưới gốc cây này, để tôi trình với thượng cấp của tôi .
Anh vội vã chạy đi, và một lúc sau đó trở lại với một người sĩ quan cũng còn thật trẻ :
- Thưa bà, đây là thiếu úy Phan…
Thiếu úy Phan nghiêng người chào mẹ Tâm Như:
-Thưa bà, ông nhà đang họp trong Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi được lệnh đưa bà và em vào phi trường di tản. Trung sĩ Phong sẽ đưa bà và em vào phi trường. Xin bà đừng lo, ông nhà và chúng tôi sẽ di tản sau nếu cần thiết.
Trung sĩ Phong lái xe Jeep đưa mẹ con Tâm Như vào phi trường Tân Sơn Nhất. Tâm Như nhìn sang, thấy người lính nhảy dù trẻ có một vết sẹo ở phía trên lông mày. Vết sẹo như nhát dao xẻ trên những ổ bánh mì nóng Tâm Như vẫn thường ăn vào buổi sáng mỗi ngày. Tay áo trận sắn cao, cánh tay anh xâm hình một con chim soải cánh.
Xe đậu giữa phi đạo hỗn loạn, trung sĩ Phong đưa mẹ con Tâm Như đến bên một chiếc trực thăng lớn. Anh dơ tay chào người phi công và gửi gấm:
- Gia đình Đại Tá Thu, xin Đại úy lo giùm.
Trung sĩ Phong giúp mẹ con Tâm Như leo lên trực thăng. Trước khi từ giã, anh dúi vào tay Tâm Như một thanh kẹo chocolat:
- Chúc bà và em may mắn.
Mẹ Tâm Như móc tờ giấy trong túi áo Tâm Như, viết vài hàng chữ và trao cho trung sĩ Phong:
- Nhờ anh đưa cho ông nhà tôi.
Sau này khi gia đình đoàn tụ tại Subic Bay, ba Tâm Như kể với mẹ, ‘ Nhận được giấy từ trung sĩ Phong, anh yên tâm vì em và con đã di tản nên sau đó, ở phút cuối cùng, anh đã quyết định cùng một số chiến hữu ra đi…’
Tâm Như và Bích Hà đang ngồi nói chuyện ngoài sân sau thì mẹ Bích Hà đi chợ về. Bác Minh Tâm, mẹ của Bích Hà, ôm Tâm Như:
-Tuần trước Bích Hà xuống dưới đó chơi với cháu nên bác không được gặp cháu. Bác cảm thấy như mất một buổi xum họp đại gia đình. Cháu vào trong nhà để bác giới thiệu anh trai của Bích Hà với cháu.
Ba người cùng đi vào nhà trong. Khi đi qua phòng bếp, Tâm Như thấy một thanh niên hai tay ôm hai túi giấy đi chợ. Tâm Như tự hỏi, ‘ Mình xếp loại anh ta là một trung niên hay một thanh niên? Anh chàng chưa già nhưng cũng không còn trẻ nữa!’
Bác Minh Tâm nắm tay Tâm Như:
-Phong, anh của Bích Hà đấy cháu. Còn đây là Tâm Như, bạn của Bích Hà.
Phong gật đầu chào Tâm Như. Phong có một vẻ gì thật quen thuộc, ‘ Mình phải gặp Phong ở đâu rồi? Hay Phong giống một người nào mình quen?’. Tâm Như chợt để ý đến vết sẹo phía trên lông mày phải của Phong . ‘Chẳng lẽ anh chàng này là…? Không hiểu cánh tay Phong có xâm hình con ó hay không?’. Phong đặt hai túi giấy xuống bàn :
- Mẹ tôi bảo nhà có khách. Mẹ tôi lại không giỏi nghề nấu nướng. Bà đề nghị ra tiệm Tàu mua thức ăn về nhà ăn cho tiện.
Bà Minh Tâm cười:
- Tiệm Sam Woo nấu ăn được lắm cháu. Bác nghĩ nấu nướng ở nhà cũng chỉ ngon đến vậy là cùng…
Mọi người vui vẻ bày thức ăn ra bàn. Khi Phong đưa bát cơm cho Tâm Như, anh phân trần:
- Ba tôi bảo nếu mẹ tôi nấu nướng cũng giỏi như bà chơi mà chược thì ông là người hạnh phúc nhất trên đời này!
Bích Hà bênh mẹ:
- Mẹ bỏ mà chược cũng đã hơn bốn năm nay rồi!
Bác Minh Tâm nhìn Phong, đôi mắt bác chợt mang đầy nét trìu mến. Bác nói thật nhỏ nhẹ, thật chân thành:
- Từ hơn bốn năm nay mẹ vẫn ăn chay mỗi tháng một tuần. Mẹ cầu xin Trời Phật cho Phong lấy được một người vợ hiền. Nếu mẹ giầu, mẹ đã xây chùa, mẹ đã đúc chuông…
Bích Hà nắm tay bác Minh Tâm:
- Con cũng sẽ ăn chay để cầu Trời Phật cho anh Phong lấy được vợ.
Phong cười lớn:
- Cám ơn mẹ, cám ơn Bích Hà. Nhưng tại sao mọi người đều đang đói bụng, nhìn thức ăn thì ngon mà không chịu ăn đi. Nhà lại có khách quý, chúng ta không nên làm phiền khách quý vì những chuyện lôi thôi của tôi…
Tâm Như tự nhiên muốn đặt mình vào trong cuộc:
- Tại sao anh Phong sợ lấy vợ? Tôi nghe nói một người lính chiến không bao giờ biết sợ. Anh là người lính dù, anh yêu cái mũ beret đỏ của anh…
Phong quay sang nhìn Tâm Như, đôi mắt chân thật, đôi mắt tự tin của một chiến sĩ :
- Chuyện sợ hay không sợ là một chuyện thật dài. Tôi mong sẽ có dịp trình bày với cô Tâm Như. Chuyện tôi không có vợ nó không liên hệ đến chữ sợ mà nó liên hệ đến chữ cơ và chữ duyên. Cái cơ đã đẩy tôi chạy thục mạng trong suốt cuộc đời tôi. Ngày trượt tú tài, tôi tình nguyện đi lính nhảy dù. Chọn lựa này cũng chẳng liên hệ gì đến chữ sợ hay chữ không sợ. Nó là một chọn lựa bốc đồng. Cả nhà tôi khóc như mưa, như gió. Lính nhảy dù đánh trận quanh năm không có thì giờ nghĩ đến chuyện lập gia đình. Tôi đi lính đúng vào lúc chiến trường sôi động cực độ. Qua Mỹ, tôi cắm cố đi học lại cho mẹ vui lòng. Học xong đi làm để trả nợ. Và ngoảnh đi ngoảnh lại đã… sắp già. Còn chữ duyên thì là tôi không có duyên với ai, hay chưa có duyên với ai…
Tâm Như thấy Phong thật lạ, anh nói về cuộc đời như anh nói về một cuộc vui chơi. Tâm Như cố xếp Phong đứng ở một khu phố vắng tại Sàigòn vào một ngày cuối cùng trước khi sụp đổ. Phong cũng có vết sẹo ở trên long mày phải . ‘ Phong có xâm con ó ở tay hay không?’. Trời tháng ba ở Cali còn lạnh. Phong mặc chiếc áo len rộng màu ngọc thạch. Tâm Như chợt thấy Phong thân thiết như một người bạn cũ, một người bạn chân thành và tận tình. Một người bạn hiểu rõ lòng ta như một thứ alter-ego. Phong nói về Phong, như nói về Tâm Như. Tâm sự của Phong cũng là tâm sự của Tâm Như . ‘ Mình cũng chạy hụt hơi theo cuộc đời, và bây giờ mình đã ba mươi lăm tuổi rồi!’.
Sau bữa cơm trưa thật thoải mái, Bác Tâm Minh bảo bác có tật xấu do ảnh hưởng của thực dân Pháp để lại . ‘ Bác phải ngủ trưa nửa tiếng đồng hồ thì đầu óc bác mới minh mẫn…’. Bích Hà pha một bình trà mới.
- Tụi mình ra ngồi ngoài patio nhìn tuyết trên núi cao.
Buổi trưa tháng ba thật đẹp. Những cơn mưa vừa đổ qua khiến bầu trời như tấm kính được lau chùi sáng choang. Không khí thoang thoảng mùi hoa trà. Ba người ngồi quanh chiếc bàn gỗ đặt dưới giàn hoa giấy. Bích Hà là người yêu nghệ thuật, hay nói đúng ra, Bích Hà là người yêu vẻ đẹp của vườn tược. Khu vườn sau nhà Bích Hà giống như một khu rừng nhiệt đới, đầy bóng mát, đầy cây cỏ. Màu xanh của lá khiến cho Tâm Như cảm thấy lòng mình thật thoải mái.
Phía sau bức tường đá xanh che chở khu vườn là những dốc đồi ngổn ngang. Tường có treo những chậu hoa đầy màu sắc, tô từng mảng màu rực rỡ trên nền đá sần sùi. Xa xa là những dãy núi đỉnh phủ đầy tuyết trắng. Tâm Như chợt hiểu tại sao tâm Bích Hà lúc nào cũng bình yên. Thiên nhiên là bàn tay vỗ về và nâng đỡ dịu dàng nhất. Thiên nhiên không bao giờ làm dáng nhưng thiên nhiên lúc nào cũng đẹp tuyệt vời.
Tâm Như chợt ghi nhận là Phong đội chiếc mũ beret đỏ không rõ từ lúc nào. Hơn bốn mươi tuổi, Phong trông vẫn còn nhiều nét thơ dại. Hình ảnh ngày cuối cùng ở Sàigòn đột ngột chuyển qua lũ lượt trước mặt Tâm Như. Những người lính dù ở gần phi trường Tân Sơn Nhất. Những người lính thầm lặng và bình thản giữa một không khí chiến tranh ngột ngạt. Tâm Như hỏi Phong:
- Anh là một người lính chiến, anh hãy kể một kỷ niệm đẹp nhất trong đời quân ngũ của anh đi. Tôi đọc sách, thấy những người lính chiến thường nhắc lại quá khứ của họ như nhắc về những mối tình thật đẹp…
Phong gỡ chiếc mũ beret đỏ đặt xuống bàn:
- Kỷ niệm tôi không bao giờ quên được là kỷ niệm về lần uống rượu sau cùng với các bạn đồng ngũ. Tôi không bao giờ uống rượu sau lần đó nữa. Tôi nhớ chúng tôi nghe lệnh đầu hàng của vị tổng thống sau cùng đọc trên đài phát thanh. Lệnh đầu hàng như một trái bom nổ ngay chỗ đóng quân. Chúng tôi đang ở giữa thành phố Sàigòn thân yêu vậy mà chúng tôi vẫn cảm thấy thật cô đơn, cô đơn như những kẻ sống sót cuối cùng trên một hành tinh đang tàn lụi.
Tôi nhớ anh Sáu, anh Sáu là xếp lớn, là đại bàng của chúng tôi, anh Sáu đứng trên capot xe Jeep chỉ huy, anh nói thật bình thản, thật gãy gọn như anh vẫn thường nói với chúng tôi từ bao nhiêu lâu nay. Anh bảo, ‘ Vận nước có lúc thịnh, có lúc suy. Nhưng ngay bây giờ đây là vận mạt của tổ quốc. Cũng đành vậy thôi !’ Cũng đành! Nghe như một tiếng thét tuyệt vọng. Anh Sáu bảo ‘ Chúng ta hãy uống với nhau một lần sau cùng rồi chia tay’. Rượu chỉ còn hai chai Martell. Anh bảo,‘ Hãy bắt chước người xưa, rượu hòa với nước, trên dưới cùng uống’. Rượu được hòa với nước, mỗi người múc môt ca mà uống, như uống chính nỗi điên cuồng trong lòng mình. Rượu nhạt thếch, nhưng rượu thật đắng cay. Thiếu úy Hạnh uống ca rượu, rồi ngẩng mặt nhìn trời khóc nức nở,‘Tại sao?’. Chính tôi cũng tự hỏi tại sao ? Và tôi, cùng đồng đội, cùng bật khóc như Thiếu Úy Hạnh.
Rồi mọi người chia tay sau những cái vung tay chào giã biệt. Tôi tình nguyện lái xe đưa anh Sáu đi ‘ thăm Sàigòn của chúng ta một lần cuối cùng’, vì tôi chẳng còn nơi đâu để về… và trời đất xô đẩy làm sao, hai thầy trò ghé vào một tiệm hủ tiếu ở Cầu Ông Lãnh. Một ông chủ ghe đã mời hai thầy trò chúng tôi lên một chiếc ghe bầu chở đầy dưa hấu. Ghe chạy ra Vũng Tàu, rồi ra khơi nơi có hạm đội Mỹ. Khi chia tay, người chủ ghe bảo ‘ Con trai tôi cũng là lính nhảy dù!’. Tôi không bao giờ uống rượu nữa, vì tôi không bao giờ quên được bữa rượu ngày hôm đó…
Tâm Như cảm thấy mình cũng muốn tâm sự với Phong:
- Tôi cũng có một kỷ niệm về những người lính mũ đỏ. Tôi nhớ một buổi chiều mùa xuân buồn thảm của một ngày Sàigòn đang chờ tan rã. Mẹ con tôi vẫy được chiếc taxi để đi tìm bố tôi. Xe bị chặn ở gần phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi nhớ người lính mũ đỏ nhìn qua cửa kính xe. Anh có vết sẹo phía trên lông mày bên phải.
LAN ĐÀM

Friday, January 27, 2012

MH.HOÀILINHPHƯƠNG * Tô Canh Mồng Tơi Bên Trời Hoa Thịnh Đốn.

Lương Trường Thọ


* viết nhân ngày mừng tuổi thọ 83 của mẫu thân.


Thư con gái viết từ miền Đông Bắc

Sao nghe nghẹn lòng, nước mắt chan cơm

Canh mồng tơi nhắc một thời lận đận…

Ba tội tù, Mẹ thề nguyện sắt son


Trả áo phu nhân, thân cò quãng vắng

Gánh gạo nuôi chồng tù ngục oan khiên

Vai nào mang một đàn con thơ dại?

Vai nào gồng một quê mẹ ngã nghiêng?


Nước mất, nhà tan…trời cao quá đổi!

Chất ngất hận thù… đất thấp không hay

Giữa khốn cùng, Mẹ vươn vai lá mỏng

                                Mong con nên người ở một ngày mai …


Mẹ có một đời bảng đen, phấn trắng

Hun đúc cho con ý chí quật cường

Thương Việt Nam vẫn còn dài tăm tối

Ba tử tù – trong huyệt mộ - bi thương!


Chúng con tha hương – những mùa xuân đất khách

Đã qua một thời khốn khó, điêu linh

Nhưng chiều nay bên trời Hoa Thịnh Đốn

Canh mồng tơi – nghe lệ nhỏ riêng mình!


Từ Đông Bắc thương Mẹ già trăm tuổi

Năm tháng quay cuồng trong căn bệnh trầm kha

Alzheimer đưa Mẹ vào hoang tưởng

Thuở xa xưa…miền quê cũ chưa nhòa…


Con bất hiếu – nghìn trùng – xin tạ lỗi

Chưa đáp đền ơn Mẹ đã hy sinh

Tô canh mồng tơi vẫn còn trong ký ức

Vẫn tươi xanh như màu biển Thái Bình!


M.H.HOÀI LINH PHƯƠNG

Washington DC Jan 25, 2012




Thursday, January 26, 2012

PHÒ MÃ LẦU ÔNG HOÀNG * LÀM THƠ TRÊN SÔNG CÀ – TI



tặng ung thị bạch tuyết, ung thị thu hà, nguyễn thanh tùng, phan thiết
phạm đình thừa, phan bá thụy dương …



Về Phan Thiết thèm ngâm câu lục bát

bạn ta ơi! Từ Thế Mộng, Hoài Khanh…

con sông ấy có trôi theo thân phận (1)

có chở đầy trăng và thuyền cũng đầy trăng.


Về Phan Thiết thèm ngâm câu lục bát

bạn ta ơi! Kiều Thệ Thủy, Thế Viên …

buổi sinh thời thầy trò nhà ngươi cùng ta chén rượu

nay xa người

ta không rượu cũng môi cay.


Về Phan Thiết thèm ngâm câu lục bát

bạn ta ơi! Tôn Thất Trâm, Tuệ Tâm, Chế Vân …

một dạo ta về chơi Phố Lầu, Phan Rí Cửa

đêm mưa rừng trắng mường trắng mán

bạn ta cùng tập hút thuốc uống ly đen

năm mươi năm ta chưa gặp lại

ta bây giờ thất quốc sang bang.


Về Phan Thiết thèm ngâm câu lục bát

ta đứng hát cát bụi bay mờ mờ châu thổ

thành quách xưa ứa lệ dưới chân người

lạnh ngắt trái tim hồn treo tháp cổ

ma nương Bình Thuận xuống trăng chơi.


Về Phan Thiết thèm ngâm câu lục bát

Hoài Khanh, Từ Thế Mộng, Thế Viên ơi

một thuở bạn ta làm thơ ngất trời ngất biển

đêm mưa rừng cuồng lũ nước sông trôi.


Về Phan Thiết thèm ngâm câu lục bát

chiếc cầu gỗ em đi về mấy độ

nay không còn khua nhẹ bước chân quen

sông Cà - Ti ơi có nhớ thương người

bao nhiêu con nước xa nguồn

thì con sông ấy cũng buồn thế thôi (2).


Về Phan Thiết thèm ngâm câu lục bát

Hoài Khanh, Từ Thế Mộng, Thế Viên ơi

người yêu tôi khóc đêm qua

má hồng lệ nhỏ tay ngà chìm sao (3)

trời mưa ướt bụi ướt bờ

lạy trời đừng ướt áo Hồ Thế Viên (4).


Về Phan Thiết thèm ngâm câu lục bát

vui qua mau sầu ở lại lâu dài (5).

  1. Hoài Khanh, Thân Phận, Sàigòn Việt Nam, 1958.
  2. Hoài Khanh, Dâng Rừng, Saigòn Việt Nam, 1957.
  3. Thế Viên, Người Yêu Tôi Khóc, Sàigòn Việt Nam, 1960.
  4. Nữ sinh Phan Bội Châu Phan Thiết tặng thầy Hồ Thế Viên.
    (do Hồ Đình Phương trích dẫn, Văn Nghệ Tiền Phong, Sàigòn Việt Nam, 1957.)

  1. Tạ Ký, Sầu Ở Lại, Quế Sơn, Sàigòn Việt Nam, 1974, trang 3.


tháng giêng 2012

ở san jose

PHÒ MÃ LẦU ÔNG HOÀNG






HẢI PHƯƠNG * Lục bát hậu chăn trâu ở Hoàng Liên Sơn


Hờ Hữu Thủ
1.

Biển khỏa thân nắng

sớm mai

ta sơ sinh gió

thổi dài mái lưng.

Em tươi rói biển

thơm lừng

ta linh hồn sợi

dây thừng

bán khai.


2.

Em nằm

lục địa trùng tu

ngực cời

mông độn

biên khu tăng cường.

Em bày thế trận

điên cuồng

mưa sa trên núi

ngọn nguồn biển xanh.


3.

Em nằm trên cỏ

hát chơi

vành môi thiên cổ

ngậm lời nguyên ngôn.


Đêm khuya ngát nguyệt

bãi cồn

tóc tươi rói gió

lay hồn cỏ lau.


Cơ đồ tái

ngộ biển dâu

mưa phai phế tích

nắng màu phiêu du.

Em nằm

lá hát vàng thu

nguồn cơn háo hức

biển mù

mịt cơn.


4.

Em nằm

lục địa phân vân

vòng eo

khép lại trời gần đất

nghiêng

ngực trần ra quẻ

sấm rền

hư vô trụi lá cành mềm vong thân

                             đường sinh tử dưới khe mòn

chân dài bát nhã

càn khôn dậy thì.


Mùa xuân sắm sửa

ra đi

đỏng đảnh áo mặc nhiều khi quên cài

ý hỏi tóc xõa lai rai

nẻo về thế sự tròn vai phố phường.


5. Tặng Trương Vũ


Khỏa thân em

biển cuồng lưu

vọng âm trên núi

sương mù dưới khe.

                             Khỏa thân em

bước chân nghe

lao xao thuở ấy

lá hè rụng rơi.

                             khỏa thân em

gió lên khơi

mưa dầm phế tích

đêm cời trăng

xanh.

Sắc màu em

điệu vô thanh

ngày sau

vỗ nhịp dạ hành

khúc xưa.


tháng giêng 2012

ở san jose

HẢI PHƯƠNG


PHẠM TÍN AN NINH * Trời Đất Bao La




Định cư ở Na Uy hơn ba năm, sau khi ổn định công việc làm ăn và việc học hành cho mấy đứa con, tôi tổ chức một chuyến Âu du bằng xe hơi. Chiếc xe Ford của tôi vừa cũ kỹ vừa nhỏ, không thể nào vượt qua một chặng đường trên dưới mười ngàn cây số khứ hồi, và dĩ nhiên cũng không đủ chỗ cho một gia đình lớn nhỏ tám người. Lại nghe mấy người bạn tới trước hù, bảo là trên xa lộ Âu châu vào mùa hè, chạy một cái xe cũ có thể bị giữ lại giữa đường và nộp tiền phạt vì cái tội làm trở ngại giao thông. Tôi mướn một cái xe mới toanh mười hai chỗ ngồi, có máy lạnh và kính mát đàng hoàng. Tôi không muốn bất cứ điều gì làm mất cái hứng thú cho cuộc hành trình đầu tiên của chúng tôi trên những đất nước mà trước đây tôi đã từng một thời mơ ước nhưng chẳng bao giờ nghĩ là có một ngày được đi qua. Tôi và đứa con trai lớn vừa mới đủ tuổi lấy bằng lái xe, thay nhau làm tài xế. Bà xã và cô con gái lớn chịu trách nhiệm xem bản đồ và theo dõi lộ trình.

Tuần lễ đầu tiên, chúng tôi rất thích thú khi đi qua những vùng đất xa lạ, mà ngày trước tôi chỉ biết mơ hồ qua sách vở. Sau một ngày, băng qua hai đất nước hiền hòa Thụy Điển, rồi Đan Mạch, chúng tôi sang Hamburg, thành phố lớn cực bắc của Tây Đức. Thời gian này nước Đức còn chia đôi, nên vừa mới đến ranh giới là không khí đã căng thẳng. Cảnh sát với súng ống dầy người, trông mặt người nào cũng đằng đằng sát khí làm tôi nhớ tới hình ảnh của Hitler trong bộ phim dài chiếu mỗi tuần trên truyền hình Nauy. Vừa mới thoát ra cảnh chiến tranh tù đày ở quê nhà, lại được định cư tại một quốc gia ban phát giải Nobel Hòa bình, tôi không muốn phải ngộp thở trên quê hương của ông Hitler, nên sau khi qua khỏi Frankfurt, tôi rẽ sang Hòa Lan. Một đất nước mà tôi nghe như huyền thoại: nằm dưới mặt nước biển trung bình, có một con đập dài nhất thế giới, cũng là một xa lộ băng qua biển. Chạy xe trên con đập này, tôi cứ ngỡ mình đang lái tàu chạy giữa biển khơi. Xứ sở của hoa Tulip, với vườn hoa lớn và đẹp nhất thế giới, những chiếc quạt gió cùng những con kênh đào thơ mộng.

Ở thủ đô Amsterdam, có một nơi dành cho những người nghiện đến nhận thuốc phiện miễn phí của chính phủ; nguyên cả một khu phố lớn dọc theo bờ sông thơ mộng lại là một khu dành cho mấy cô gái điếm đủ sắc dân. Đây là một cơ sở kinh doanh, có đóng thuế cho nhà nước, nên dược cảnh sát bảo vệ. Trước mỗi nhà là một cái tủ kiếng, bày hàng thật cho khách bốn phương chiêm ngưỡng. Hàng thật là một hay hai cô gái thoát y 90%, dĩ nhiên phải là đẹp, đứng như những pho tượng nữ thần Hy lạp. Chúng tôi ghé thăm gia đình mấy ngưòi bạn cùng quê, sống rải rác khắp nơi. May mà đất nước Hòa Lan này không rộng lắm, lái xe từ bắc xuống nam chỉ mất khoảng bốn tiếng đồng hồ. Dừng lại nhà một người bạn ở Bergen op Zoom, thành phố biển phía nam chúng tôi tha hồ ăn sò huyết và những con "hàu". Mấy loại này ở đây chỉ cần lội xuống biển mười phút là mang lên cả thùng nướng ngay tại chỗ. Hôm sau, chúng tôi sang Bỉ, Lục Xâm Bảo, và cuối cùng chúng tôi đến Pháp.

Điểm đến cuối cùng cũng là nơi quan trọng nhất mà chúng tôi muốn đến. Tôi dành một nửa thời gian, hai tuần lễ còn lại, cho cái xứ sở mà lúc còn nhỏ, khi học lịch sử thì tôi thù ghét, nhưng khi học văn chương thì tôi lại mê thích nó. Nào là tháp Eiffel bên dòng sông Seine tình tự, nào là nhà thờ Notre Dame cổ kính mà tôi mơ hồ thấy trong phim Thằng Gù ở nhà thờ Đức Bà, nào là vườn Luxembourg, nơi hẹn hò của bao cặp tình nhân. Tôi bắt gặp đâu đó những đứa trẻ trong Sans Famille của Hector Malo, những người đàn bà trong Les Misérables , và cả những bến tàu có cảnh tiễn đưa trong Oceano Nox của Victor Hugo. Chúng tôi ở trong khách sạn của một người Hà Nội, sang Pháp lập nghiệp từ hơn 50 năm trước. Khách sạn nằm trên con phố chính trong quận 13, nơi có đông ngưòi Việt Nam sinh sống. Hơn một tuần ở Paris, chúng tôi xuôi về miền Nam nước Pháp. Thành phố Nice nằm bên bờ Đại Tây Dương, gần thành phố Cannes nơi qui tụ những tài tử điện ảnh hằng năm, và không xa đất nước Monaco với những sòng bài và những chuyện tình nóng bỏng của mấy nàng công chúa. Mười ngày nằm trên thành phố biển này, tôi tạm quên những bất hạnh trong quá khứ và những gì đang xảy ra trên quả đất có quá nhiều phiền muộn này.

Rời Nice, chúng tôi trở lại Paris trước khi về Nauy. Trời mùa hè đang nóng, bà xã và mấy cô con gái của tôi đề nghị chạy ban đêm, vừa cho mát vừa được ngắm những thành phố rực rỡ trong ánh đèn. Nhìn trên bản đồ, tôi thấy trên đường đến thành phố Lyon, mình có thể dừng lại Grenoble rồi rẽ sang Genève của Thụy Sĩ,, xem thử nơi đã cho ra đời cái hiệp định làm khốn khổ quê hương mình ra sao. Như được trở lại thời trận mạc xa xưa, tôi gọi cả bầu đoàn thê tử lại để ban bố " lệnh hành quân". Chúng tôi không đi theo xa lộ 85 mà chọn con tỉnh lộ nhỏ trực chỉ Grenoble. Tôi đích thân xem bản đồ hướng dẫn cho cậu con trai làm tài xế. Rời Nice lúc 7 giờ tối. Sau hơn ba giờ từ "tuyến xuất phát", tôi mới biết là mình đã sai lầm khi xử dụng con đuờng tắt này. Vì chúng tôi bắt đầu chạy qua một khoảng rừng và những đồng lúa mì mênh mông, không thấy một bóng người.

Đang mơ màng thì nhìn thấy phía đầu xe bốc khói. Tôi ra dấu cho đứa con trai dừng lại, bảo cả nhà xuống xe gấp. Khói trước xe vẫn còn bốc lên mờ mịt. Tôi tái mặt , vì bao nhiêu năm nay, từ lúc còn ở Việt nam cũng như sang đây, ngoài việc cầm vô- lăng và đổ xăng ra tôi có biết gì về xe cộ nữa đâu. Chờ cho khói tan hết và rờ vào nắp xe thấy không còn nóng, tôi mở nắp xe lên bảo cậu con trai rọi đèn pin vào máy nhìn thử. Đến đường cùng thì làm như phản xạ tự nhiên vậy thôi, chứ tôi có biết cái gì trong máy đâu mà xem. Nhìn quanh một chập, tôi cảm giác có điều gì lạ lạ. Cuối cùng tôi mớí phát hiện là sợi dây cu-roa không còn nữa. Nước trong bình đã bốc hơi không còn một giọt. Thấy tôi xách đèn pin trở lại, bà vợ và đám con gái đang nằm trên bờ cỏ ruộng lúa mì, ngồi bật dậy. Nghe tôi ra lệnh " đóng quân tại vị trí " vì xe hư không biết khi nào mới chạy được, bà vợ xỉ vả cho tôi một trận, bảo hèn chi ngày xưa ông đánh giặc thua là phải, đừng có đổ thừa tại tụi Mỹ nó phản bội bỏ miền Nam.

Tôi bảo đám đàn bà con gái lên xe nằm và khóa cửa lại cẩn thận, vì biết đâu khu này có thú dữ. Đàn bà coi dữ vậy chứ nhát gan, ríu rít tuân lệnh. Tôi và thằng con trai đi vòng vòng xem có nhà cửa gì không. Nhưng tất cả đều tối om, tĩnh mịch. Đến gần một giờ sáng, khi tôi đang nằm mơ màng trên ruộng lúa, thì nghe có tiếng động. Dường như là tiếng của một loại động cơ nào đó, càng lúc càng gần hơn. Một lúc sau, tôi thấy có ánh đèn từ khu ruộng lúa chay ra. Một chiếc máy cày. Ai đi cày ruộng vào giờ này ? Chưa kịp tìm câu trả lời cho thắc mắc của mình, chiếc máy cày đã dừng lại trước mặt tôi. Qua ánh đèn xe, tôi thấy một người đàn ông trẻ, có lẽ là người Pháp, bước xuống tiến lại phía chúng tôi. Cử chỉ anh ta không phải là một người gian. Tôi yên tâm. Anh hỏi chúng tôi bằng tiếng Pháp, anh nói từng chữ vì sợ chúng tôi không hiểu:

- Chắc là xe các anh bị hư ? Có cần tôi giúp điều gì không?

Lúc còn đi học, Pháp văn là sinh ngữ chính của tôi. Vậy mà lâu quá không xử dụng, tôi hiểu tiếng được tiếng mất, vừa trả lời vừa ra dấu :
- Xe tôi bị đứt dây cu-roa, khô hết nước, không chạy được nữa.
- Các anh ở tỉnh nào tới ?
- Chúng tôi từ Nauy sang, chứ không phải ở Pháp. Trên đường từ Nice về, thì xe bị hỏng.


Anh bảo bây giờ đã khuya rồi, nhà anh cũng ở gần đây, anh sẽ giúp chúng tôi kéo xe về nghỉ tạm, rồi ngày mai sẽ tính..Tôi mừng rỡ gật đầu. Anh ra dấu cho tất cả chúng tôi lên xe. Chiếc máy cày kéo xe và chúng tôi chạy lòng vòng chỉ khoảng 10 phút thì về đến nhà. Trời tối, tôi không thấy gì ngoài mấy cái nhà khá lớn nằm dưới những tàng cây. Anh đưa chúng tôi vào một gian phòng rộng, mang thêm vài tấm nệm và mấy cái mền mỏng. Một chập sau anh lại mang vào bánh mì, phô- mát, và một ấm cà phê nóng, rồi chúc mọi người ngủ ngon. Lạ nhà, nhưng có lẽ vì mệt quá, nên khi chúng tôi thức dậy thì trời đã sáng tự lúc nào. Kim của chiếc đồng hồ lớn treo trên tường chỉ 8 giờ 10 phút. Mở cửa sổ nhìn ra ngoài, tôi mới biết đây là một nông trại khá lớn. Chưa kịp gọi bà vợ và mấy đứa con dậy xem, thì có tiếng gõ cửa. Anh bạn trẻ tốt bụng tối hôm qua đến dắt tôi chỉ khu nhà tắm, nhà vệ sinh, rồi dặn tôi khoảng 45 phút nữa, anh sẽ trở lại đón chúng tôi ăn sáng. Ngồi vào bàn ăn, anh giới thiệu vợ và hai đứa con nhỏ. Cô vợ khá xinh, vui vẻ, lúc nào miệng cũng cười, vừa nói vừa làm dấu với mấy đứa con gái của tôi.

- Các anh là người Việt Nam ? Anh ta vừa bưng tách cà phê vừa hỏi.
- Nhưng làm sao anh biết được vì ở bắc Âu cũng có nhiều người Tàu, người Đại Hàn , người Thái Lan và cả người Nhật nữa? Tôi không trả lời mà hỏi ngược lại anh.

- Tôi không nói được nhưng hiểu một ít tiếng Việt. Bà ngoại tôi là người Việt Nam mà. Mẹ tôi cũng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Lúc còn sống bà nhớ Việt Nam lắm và thường kể cho chúng tôi nghe những thắng cảnh bên ấy. Đặc biệt, bà thường nhắc đến một thành phố có tên là Đà Lạt. Bà bảo nơi đó thật thơ mộng và có những nơi hò hẹn thật dễ thương cho những cặp tình nhân. Tội nghiệp, bà mới mất hơn hai năm nay, trong một tai nạn xe hơi cùng cô em gái duy nhất của tôi.

Ăn điểm tâm xong, anh đưa chúng tôi vào thăm phòng đọc sách. Một tấm bản đồ Việt nam thật to treo trên vách. Anh chỉ cho chúng tôi thành phố Đà Lạt mà mẹ anh thường kể cho anh và cô em gái nghe mỗi lần bà nhớ về quê mẹ.

Càng lúc chúng tôi càng thấy gần gũi và thân thiết với gia đình anh bạn trẻ có một chút gốc gác Việt Nam này. Anh bảo vợ anh đưa chúng tôi đi thăm khu nuôi bò sữa và vắt đem về vài lít sữa tươi để chúng tôi dùng thử, trong khi anh lấy xe chạy ra phố tìm mua sợi giây cu-roa để thay cho xe chúng tôi. Mấy cô con gái của tôi rất thích thú khi được cô chủ nhà chỉ cho cách vắt sữa bò. Sau đó chúng tôi vào thăm một vườn nho.

Khi trở về, thì anh ta đã sửa xong cái xe và đang cho máy nổ thử. Thấy chúng tôi, anh cười đưa ngón tay cái lên báo hiệu là xe đã tốt. Anh tắt máy xe và giao chìa khóa lại cho tôi. Tôi chưa kịp trả tiền sợi giây cu-roa và nói lời cám ơn thì anh đã vỗ vai mời chúng tôi ở lại chơi với gia đình anh vài hôm. Anh bảo là lâu lắm anh mới gặp được những người đến từ quê ngoại. Thấy ông bà chủ hiếu khách, phong cảnh ở đây hữu tình, lại có sẵn sữa tươi và rượu nho, bà xã và mấy cô con gái cười nheo mắt nhìn tôi. Tôi hiểu ý và nói với anh là chúng tôi chỉ có thể ở lại một đêm. Trưa ngày mai chúng tôi phải lên đường.

Ăn cơm chiều xong, trời dịu mát, anh đề nghị chúng tôi đi thăm khu vườn cam nằm trên ngọn đồi. Vào vườn cam chúng tôi có cảm tưởng như lạc vào một chốn thiên thai nào đó. Những hàng cam thẳng tắp, trĩu vàng những quả, mùi hoa cam tỏa ra thơm cả một góc trời. Giữa vườn cam là một công viên nhỏ, trồng đủ các loại hoa. Bên kia công viên, ngay giữa đỉnh đồi là khu nghĩa trang nhỏ của gia đình. Vợ chồng anh mời chúng tôi đến thăm mộ của ba má anh và cô em gái. Ba ngôi mộ xây đơn giản, nhưng lại có nét đẹp cổ kính. Trên mỗi mộ bia đều có một tấm ảnh lồng trong khung kiến. Đến trước từng ngôi mộ, tôi cung kính cúi đầu, chấp hai tay trước ngực và đọc thầm từng tên khắc đậm trên bia..

Khi đọc đến tên người mẹ :

JACQUELINE CUVÉRO GAULTIER

- tôi bỗng giựt mình. Cái tên này tôi thấy quen lắm. Bà mất lúc tròn 50 tuổi. Nhìn tấm ảnh thật lâu, tôi nghĩ đến một người.

Khi về nhà, tôi ngỏ ý muốn xem những tấm ảnh lúc cha mẹ anh còn trẻ. Anh bạn chủ nhà mang đến cho chúng tôi mấy quyển album. Bà xã và mấy cô con gái thì tranh nhau xem quyển album lúc ông bà làm đám cưới và nức nở khen mấy cái áo của cô dâu. Riêng tôi dành lấy tập album cũ với những tấm ảnh đen trắng mà nhiều cái đã ngã màu vàng. Bỗng tôi lạnh người khi xem những tấm ảnh của mẹ anh thời con gái, đặc biệt là tấm ảnh có mái tóc cắt ngắn giống ca sĩ Sylvie Vartan thời cô ta đang nổi tiếng. Chẳng lẽ lại là nàng ? - Không thể nào ! Tôi lắc đầu nói thầm trong miệng.

Năm học lớp đệ nhất trường Võ Tánh, Nha Trang, dù học không giỏi nhưng tôi cũng cố gắng để được trở thành một thằng sinh viên, dù chỉ là loại sinh viên hạng bét, và cũng để khỏi phụ lòng thương yêu, lo lắng của cha tôi, suốt một đời làm gà trống nuôi con. Vậy mà tôi bị một lúc hai cái tai ương. Tự dưng có một nàng con gái, mà lại là con gái đẹp, yêu tôi. Đang ngụp lặn trong tình yêu thì ông Trời phạt tôi: phận nhà nghèo mà lại đèo bồng yêu người đẹp, nên giáng cho tôi một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Vì vậy khi bạn bè vác lều chỏng đi thi, thì tôi đang nằm bất động ở nhà thương tư của bác sĩ Thạch ở đường Trần Quí Cáp. Ba tháng sau, khi vừa xuất viện về tiếp tục điều trị tại nhà, tôi nhận được bức thư tạ từ. Người đẹp đi lấy chồng. Tôi bỏ thành phố Nha Trang, bây giờ với tôi là thành phố buồn, vào Sài gòn lang thang kiếm việc làm thuê để có tiền đi học tiếp. Nhưng rồi cũng chẳng có ai chịu thuê một thằng thư sinh nhà quê như tôi. Vừa buồn vừa không có tiền trả tiền cơm cho bà Cả Đọi, tôi đăng vào lính.

Khi chân ướt chân ráo vào Sài gòn, tôi chẳng có ai quen, ngoài một bà cô họ xa, trước lấy chồng Tây. Chồng chết, bà ở với mấy đứa con mang hai dòng máu ở sau khu tiệm phở Tàu Bay, Tàu Thủy, trên đường Lý Thái Tổ. Tôi không ngờ trong khu này đa số là những gia đình có con lai Pháp, trắng có đen có, được tòa đại sứ Pháp cưu mang lo lắng từ việc sinh sống tới việc học hành. Hầu hết đều mang quốc tịch Pháp và được theo học ở các trường Tây Sài gòn, Đà lạt. Những ngày cuối tuần tôi thường ghé lại đây chơi. Đang cô đơn ngơ ngác thì được mấy người con của bà cô họ giới thiệu cho tôi nhập bầy với đám Tây lai này. Họ cũng dễ thương và dĩ nhiên là có phong cách Tây lắm. Chiều cuối tuần họ thường tụ tập để ăn uống và nhảy đầm. Anh con cả của bà cô họ tôi là trưởng nhóm, chỉ định một cô bé tóc vàng, có mái tóc ngắn và đôi mắt thật dễ thương dạy tôi nhảy đầm và cũng làm partner cho tôi khi có tiệc tùng. Nghe mọi người trong nhóm gọi cô là Sylvie Vartan, tôi cũng gọi theo, nhưng biết vì khuôn mặt và mái tóc của cô giống người ca sĩ Pháp đang được ái mộ này nên bè bạn gọi đùa, chứ đó không phải là tên thật của cô.

Chỉ đi chơi với nhóm một vài lần gì đó, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Hôm lễ gắn Alpha, thấy anh em mời thân nhân bạn bè nhiều quá, tôi cũng tủi thân. Gia đình tôi và một số bạn bè thân ở tận Nha Trang, còn ở Sài Gòn này thì tôi tứ cố vô thân. Cuối cùng tôi nghĩ đến ba người con lai Tây của bà cô họ và mời họ đến dự lễ gắn Alpha, rồi sau đó cùng đi dự tiệc với tôi. Hôm ấy cả ba người đều đến và còn dẫn theo nàng con gái Sylvie Vartan. Họ rất thích thú với khung cảnh quân trường và sinh hoạt của lính. Ai cũng chụp chung với tôi một tấm ảnh có mang cầu đai Alpha.

Sau đó, trong những lần về phép ngắn ngủi, tôi cũng có ghé thăm họ một đôi lần. Đêm ra trường, họ cũng đến dự. Sau đó đưa tôi về Sài gòn, họ làm một buổi tiệc chia tay tôi. và lần này tổ chức tại nhà cô gái có tên Sylvie Vartan. Gia đình cô không ở trong khu Lý Thái Tổ mà có một biệt thự riêng, khá xinh, nằm trên một con hẻm lớn trên Tân Định.

Tôi không gặp ai trong gia đình của cô hôm ấy, chỉ xem tấm ảnh người cha ruột của cô chụp với mẹ cô khi còn rất trẻ, và cả tấm ảnh chụp gia đình cô bây giờ, với ông cha Việt Nam, một người em gái cũng lai Tây như cô và hai người em nhỏ cùng mẹ khác cha. Mẹ cô có nhan sắc, nên ông chồng mới sau này thuộc loại nhà giàu. Tôi nghĩ như thế.

Tới hơn hai giờ sáng, tiệc mới tàn. Khi nói lời chia tay, không hiểu vì xa họ không biết khi nào gặp lại hay vì nghĩ đến đời lính chiến nay mai trên rừng núi cao nguyên mà tôi chạnh lòng, muốn khóc. Nàng cũng nhìn tôi nghẹn ngào. Khi mọi người đi tìm áo khoác và mang giày, nàng kéo tôi ra phía sau, tặng tôi một tấm ảnh, rồi bất ngờ hôn tôi trên má.

Ngồi trên máy bay ra trình diện đơn vị, tôi bất chợt nhớ đến nàng, mở xách tay ra tìm lại tấm ảnh. Nàng có mái tóc thật dễ thương, nhìn kỹ đúng là giống cô ca sĩ Sylvie Vartan. Sau tấm ảnh nàng viết một câu ngắn ngủi: À toi, avec tout mon coeur. Phía dưới cô chỉ ghi là người có mái tóc Sylvie Vartan.

Nhớ tới nụ hôn bất ngờ tối hôm qua, tôi đưa tay lên sờ má, thấy vẫn còn thoang thoảng một mùi hương. Tôi mỉm cười và nói thầm một mình: Đúng là lãng mạn như Tây. Tôi ra đơn vị đúng vào lúc chiến trưòng cao nguyên bắt đầu sôi động, cùng lúc nhóm người Thượng Fulro nổi loạn, giết một số sĩ quan, viên chức hành chánh người Kinh, chiếm một vài nơi, đặc biệt là tỉnh Quảng Đức và một vài quận lỵ. Đơn vị tôi đang tiếp viện cho chiến trường Quảng Nhiêu còn mịt mờ lửa đạn ở bắc Ban Mê Thuột thì được lệnh di chuyển về phi trường Phụng Dực, xử dụng máy bay dân sự của hàng không Việt Nam để đáp xuống Nhơn Cơ, một phi trường bỏ hoang nằm cách tỉnh lỵ Quảng Đức khoảng 30 cây số, do một đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt mũ xanh của ta kiểm soát. Thằng trung đội trưởng mới ra trường như tôi làm sao có khả năng để ứng phó với một chiến trường nửa ta nửa địch, mà trong sách vở quân trường không hề nói tới. Lòng tôi thật băn khoăn. Nhưng cuối cùng thì mục tiêu cuộc hành quân Dân Thắng này cũng đạt được. Đơn vị tôi không hề tốn một viên đạn. Mấy lãnh tụ người Thượng thấy quân chủ lực bao vây bốn hướng, cộng với lời thuyết phục tài ba của vị chỉ huy nào đó, đã ra lệnh cho những lực lượng người Thượng buôn súng.

Nằm trong cái tỉnh khỉ ho cò gáy mà dân chúng sống rải rác trong các buôn làng hầu hết là người thượng, mấy thằng lính trẻ như tôi chỉ có buồn muốn khóc. Ai cũng mong sớm chuyển đi tỉnh khác Vậy mà riêng tiểu đoàn của tôi được lệnh nằm lại đây để giữ an ninh cho dinh điền Đạo Nghĩa nằm trong một thung lũng gần biên giới Cam Bốt. Một trong những dinh điền do Thổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh sáng lập để thu hút di dân sau 1954.

Ra trường đã hơn hai năm. Đời lính cao nguyên thật là vất vã và buồn. Nhiều lúc nằm giữa rừng già, nghe tiếng chim kêu vượn hú, tôi thường chạnh lòng nhớ tới thời còn đi học , và khuôn mặt những người quen. Đôi khi tôi cũng chợt nhớ tới cô con gái lai Tây và lấy tấm ảnh ra xem. Đến bây giờ tôi cũng không biết tên thật của nàng. Mà biết để làm gì? Vì giữa nàng với tôi là cả một thế giới cách biệt. Tôi, một thằng lính trận, gốc gác nhà nghèo, không biết sống chết ra sao. Còn nàng lại là một cô con gái lai Tây, xinh đẹp và quí phái. Nàng quen với tôi , thích tôi một chút, cũng là cái thích lãng mạn của một tiểu thư sống trong thành phố lâu ngày được bất ngờ ra thăm một vùng dân giả, thế thôi.

Ở Quảng Đức gần hai năm, đánh nhau một vài trận, tôi được mấy cái huy chương rồi lên làm đại đội trưởng. Trong mấy thằng đại đội trưởng, tôi là thằng trẻ nhất, và cũng nghèo kinh nghiệm chiến trường nhất. Ra trường gần hai năm rồi mà trông mày vẫn cứ như thư sinh. Ông tiểu đoàn trưởng bảo tôi như thế trước khi cho tôi dẫn đại đội solo xuống núi biệt phái cho tiểu khu Lâm Đồng

Đoàn xe chở đại đội tôi vừa vào ranh giới Lâm Đồng, tôi nhận lệnh ông tiểu khu trưởng, trực chỉ đến khu cầu Đại Ngà để giữ an ninh cho công binh làm lại mấy cây cầu trên QL 14, từ Saigòn chạy lên Đàlạt, vừa bị đặc công giựt sập trong hai đêm trước. Đến vị trí, tôi phối hợp với một đại đội địa phương quân đã có mặt tại chỗ và một đơn vị công binh mới từ Đà Lạt xuống, bố trí quân theo nhu cầu. Riêng ban chỉ huy đại đội cùng trung đội vũ khí nặng, nằm trên một đồn điền trà có cao độ tốt cho việc phòng thủ và yễm trợ hỏa lực. Phía duới khu đồn điền này là cây cầu Đại Ngà, cây cầu dài nhất vừa bị phá hoại. Sau khi công binh làm xong mấy cái cầu tạm, lưu thông họat động trở lại. Do ứ động mấy hôm trước, nên ngày đầu tiên có khá nhiều xe đò từ Sài Gòn chạy lên Đà Lạt. Hơn nữa bây giờ đang là mùa hè, người Sài Gòn rủ nhau lên Đà Lạt nghỉ mát. Để bảo đảm an ninh, trước khi xe chạy vào khu quân sự, đều phải dừng lại, tất cả hành khách xuống xe để được kiểm soát giấy tờ. Trạm kiểm soát là một căn nhà bằng ván do công binh vừa mới dựng lên, toán quân báo của đại đội tôi phối hợp cùng với ba nhân viên cảnh sát đảm trách. Mỗi ngày tôi lái xe đi kiểm tra các cây cầu và thường ghé lại ngồi nghỉ trong trạm kiểm soát này.

Buổi chiều, trời vừa tắt nắng, tôi định trở về vị trí đóng quân, thì một đoàn xe đò chạy tới. Có lẽ đây là mấy cái xe cuối cùng từ Sài Gòn lên. Anh cảnh sát bảo với tôi như thế. Trong số những hành khách xuống xe bước qua cái cổng chắn làm bằng kẻm gai dã chiến, tôi để ý tới một cô gái tóc vàng, mặc một cái jupe màu vàng sậm. Khi cô móc ví lấy giấy tờ, ngước mặt lên nhìn anh cảnh sát, tôi thấy thật quen và vội chạy ra. À, cô Sylvie Vartan, cô lên đây làm gì ? Tôi hỏi bất ngờ, rồi quay sang bảo anh cảnh sát ; cô này là người nhà của tôi. Anh cảnh sát trao lại cho tôi tấm thẻ căn cước bằng tiếng Tây mà anh chưa kịp hiểu.

Cô nhìn tôi cười rạng rỡ :
- Anh là anh Ninh, phải không ? Mấy năm rồi tụi mình không gặp. Em lên Đà Lạt đón cô em về Sài Gòn nghỉ hè. Nó học trên Lycée Domaine de Marie.
- Tôi đóng quân trong đồn điền trà nằm trên đồi cao kia.
Tôi vừa nói vừa chỉ tay về hướng đồn điền
- Đẹp lắm, và ông chủ hình như cũng là người Pháp. Mời cô ghé lại chổ tôi chơi. Tôi sẽ đón chuyến xe sau gởi cô về Đà Lạt.

Cô ngần ngừ một chút rồi gật đầu. Tôi đưa cô lại xe lấy túi hành lý và nói với anh tài xế :
- Cô này là người nhà của tôi, cô ở lại đây chơi với tôi rồi lên Đà Lạt sau.
Anh tài xế trẻ, nhìn tôi nhoẻn miệng cười.

Tối hôm ấy nàng ở lại với tôi. Có lẽ nàng cũng biết là chuyến xe của nàng là chuyến cuối cùng. Chẳng còn có chuyến sau nào để tôi gởi nàng lên Đà Lạt , như lúc tôi hăm hở nói với nàng, mà không biết là mình đang nói dối. Giữa cảnh núi rừng, nàng đẹp rực rỡ như một bông hoa. Không biết nàng đã nói gì vơí ông chủ người tây, ông dành riêng cho cô một phòng ngủ và mời chúng tôi dùng bửa cơm chiều với ông. Bửa cơm đầy đủ hương vị tây , mà chai rượu chát ông khoe đã gởi mua từ bên Pháp. Sau bửa cơm, tôi đưa nàng đi dạo trong đồn điền trà. Bây giờ đang là mùa hè, bầu trời trong vắt, ánh trăng tỏa ánh vàng xuống cả một đồi trà. Đêm cao nguyên trời bắt đầu lành lạnh, thơ mộng như một muà thu. Chúng tôi nắm tay nhau bước tung tăng dưới ánh trăng , nghe từng nhịp đâp của trái tim giữa một vùng đất trời tĩnh mịch. Nàng kể cho tôi nghe về một ước mơ của nàng : muốn có lần trở về quê cha, thăm ngôi mộ của người và bà nội già còn đang sống ở đó với mấy người cô. Quê nội nàng đẹp lắm lại là một đất nước với nhiều thi ca lãng mạn. Chúng tôi đã xuống cuối chân đồi, nghe tiếng nước chảy từ một con suối nhỏ. Nàng bảo tôi dừng lại và dìu tôi đến ngồi xuống một bải cỏ. Bên kia con suối là một cánh đồng cỏ rộng mênh mông - Anh có thấy gì lạ không ?

Tôi đang ngơ ngác, thì nàng chỉ cho tôi mấy hàng cây bên kia bờ suối
- Bây giờ là mùa hè, mà sao có nhiều lá vàng đang rơi. Anh không thấy sao?

Nàng âu yếm dựa sát vào tôi và hỏi tôi có biết bài thơ Les feuilles mortes của Jacques Prevert không ?

- Lúc học Littérature Francais , anh có học, nhưng lâu quá, anh chỉ còn nhớ một đôi câu. Bài thơ thật hay và cảm động. Tôi đã đổi cách xưng hô tự lúc nào không biết. Nàng cất tiếng khe khẻ hát bài thơ Les feuilles mortes được phổ nhạc. Hát xong bài hát nàng chậm rãi đọc lại mấy câu:

Et la vie sépare ceux qui s'aiment
Tout doucement, sans faire de bruit
Et "le vent" effface sur la "plaine"
Les pas des amants désunis.

Tôi hỏi sao nàng dám đổi lời một bài thơ hay của tác giả. Nàng không trả lời mà ôm tôi hôn thật lâu. Trong say mê tôi cảm thấy có cái gì lành lạnh trên gò má. Tôi sờ tay lên mân mê: nước mắt. Nàng ôm tôi ngồi khóc, nàng bảo là nàng có nhiều bạn bè, nhưng nàng có cảm tình thật nhiều với tôi từ khi nhìn tôi mặc áo lính. Nàng thấy ở tôi có cái gì khác lạ so với mọi chàng trai lai Pháp mà nàng quen. Và cũng ở nơi tôi nàng được thấy lại hình ảnh của cha nàng. Cũng làm lính cả một thời trai trẻ, rời quê hương, rồi chết sớm ở xứ người bỏ lại mẹ và hai chị em nàng. Những người con gái mang hai dòng máu. Buồn lắm phải không anh ? mấy lần nàng hỏi tôi như thế. Đêm hôm ấy nàng không ngủ trong căn phòng sang trọng mà ông chủ đồn điền đã dành sẵn cho nàng. Nàng ra ngồi trong căn lều phủ poncho của tôi cùng uống trà tươi mà tâm sự thâu đêm. Nàng rủ tôi ngày mai cùng nàng lên Đà Lạt vài ngày để nàng làm thủ tục đón cô em gái về và đưa nàng đi thăm các thắng cảnh thơ mộng ở đây. Sáng hôm sau, tôi lên máy gọi về trung tâm hành quân TK Lâm Đồng xin gặp ông Tiểu Khu Trưởng, xin ông cho ba ngày phép và được xử dụng chiếc xe jeep của TK biệt phái, đón người vợ sắp cưới vừa mới lên Đà Lạt. Tôi tả oán thêm là cả một năm nay, phải tham dự nhiều cuộc hành quân, nên hai đứa chưa được gặp nhau. Ông Tiểu Khu trưởng tốt bụng, vui vẻ chấp thuận, và dặn dò tôi phải bàn giao công việc thật kỹ càng cho anh đại đội phó. Ba ngày ở Đà Lạt là ba ngày thần tiên nhất trong đời lính của tôi. Sau khi đưa nàng đến trường thăm cô em gái và làm một số thủ tục cần thiết, chúng tôi lấy phòng ở khách sạn La Palace nằm trên một ngọn đồi cao gần hồ Xuân Hương và cách khu phố Hòa Bình không xa lắm. Ban ngày chúng tôi đi tắm ở thác Cam Ly, thăm hồ Than Thở, cỡi ngựa ở sân Cù, bơi thuyền trên hồ Xuân Hương. Buổi tối đi ăn bê thui, uống rượu vang, rồi ra nhà Thủy Tạ ngồi tâm tình đến khuya. Ngày hôm sau, chúng tôi rời thành phố. Sau khi thưởng thức cà phê Tùng, chúng tôi chạy về hướng thác Prenn. Nàng chỉ đường cho tôi tìm đến một hotel nằm trên núi, ông chủ cũng là một người Tây. Lấy phòng và gởi hành lý xong, chúng tôi đi bộ xuống thác Prenn, nằm không xa phía dưới. Nàng kéo tôi xuống tắm dưới dòng thác. Hai đứa ôm nhau trong cái lạnh của nước từ trên núi cao đổ xuống. Nàng dắt tôi chạy vào khu rừng phía sau để đùa với mấy con khỉ, con gấu và cả một con cọp nữa trong vườn bách thú. Rồi nàng đi trốn, giả vờ làm nàng Jane mắc nạn để bắt tôi làm Tarzan đi cứu. Nàng hò la và ôm tôi cười vang cả một khu rừng. Trong ba ngày, nàng đã cho tôi tất cả những gì hạnh phúc nhất mà không đòi hỏi ở tôi bất cứ một điều gì. Hôm cuối cùng, tôi đưa nàng trở lại trường Domaine de Marie để gặp lại em nàng. Ngồi trên xe, nàng trầm ngâm không nói một lời. Đến cổng trường, nàng bảo tôi dừng lại. Nàng hôn tôi thật lâu. Tôi nghe tiếng nàng khóc. Tôi định nói một lời gì đó, nhưng nàng lấy một ngón tay để trên miệng tôi, không cho tôi nói, rồi bảo tôi ngồi yên trên xe chờ nàng. Hơn hai mươi phút sau nàng chạy ra, cầm tay tôi và trao cho tôi một tờ giấy nhỏ, rồi vụt chạy vào phía sau trường. Trên mảnh giấy nàng viết vội vàng bằng tiếng Việt: Xin cám ơn và tạm biệt anh ở đây. Em và đứa em của em sẽ về Sàigòn vào sáng sớm ngày mai. Anh hãy trở lại đơn vị, đừng chờ và cũng đừng tìm em nữa. Hôn anh. Tôi vội vàng bước xuống xe, chưa biết gọi nàng bằng tên gì, thì nàng đã mất hút phía sau trường. Tôi ngồi trên xe nhìn thẩn thờ vào khu trường. Tất cả đều vắng lặng, chỉ nghe một vài tiếng lá rơi từ những hàng cây đứng chơ vơ im lìm trước cổng. Tôi trở lại nhà Thủy Tạ, tìm lại bóng dáng và mùi hương của nàng. Buổi trưa, bốn bề yên lặng. Một con chim lạ, có dáng của một con hải âu, đậu xuống con thuyền bơi phía trước, kêu vài tiếng, vụt cánh bay sà xuống mặt hồ, rồi biến mất trong rừng thông. Cả một khung trời Đà Lạt nhạt nhòa trong nước mắt. Tôi không biết mình đã khóc tự bao giờ.

Tôi lái xe trở về đơn vị mang theo một nỗi buồn kỳ lạ, dường như trong lòng chỉ còn là một khoảng trống bao la. Suốt đêm hôm ấy, tôi lang thang trong đồi trà, ngồi một mình bên bờ con suối nhỏ, nhìn mấy chiếc lá vàng rơi xuống và trôi theo dòng nước, bàng bạc dưới ánh trăng. Nửa đêm tôi trở về căn lều cũ, đun đầy một ấm trà tươi mà không uống. Tôi ngủ vùi từ lúc nào không biết. Thức giấc, mặt trời đã lên cao. Tôi vội vã xách xe chạy xuống trạm kiểm soát. Ngồi suốt cả ngày hôm ấy, tôi vẫn không tìm thấy bóng dáng của nàng. Hai ngày sau, khi thay bộ đồ trận ra giặt, thò tay vào túi áo lấy mọi thứ ra, bất ngờ tôi thấy tấm thẻ căn cước của nàng, viết bằng tiếng Pháp do tòa đại sứ cấp. Tôi nhớ anh cảnh sát đã giao tấm thẻ này cho tôi hôm ở trạm kiểm soát và tôi đã quên trả lại cho nàng. Đến bây giờ tôi mới biết được tên thật của nàng: Jacqueline Cuvéro.

May mắn trong tấm căn cước có cả địa chỉ. Tôi gởi trả lại nàng tấm thẻ căn cước, viết kèm theo bốn câu thơ trong bài thơ Les feuilles mortes mà nàng yêu thích. Les feuilles mortes se ramassent à la pelle

Les souvenirs et les regrets aussi
Mais mon amour silensieux et fidèle
Sourit toujours et remercie la vie

Tôi phập phồng chờ thư hồi âm, nhưng không thấy. Tôi viết thêm vài cái thư nữa cho nàng nhưng tất cả đều biệt vô âm tín. Ba tháng sau tôi xin bảy ngày phép thường niên về Sàigon. Trước khi tìm đến nhà nàng, tôi trở lại khu đường Lý Thái Tổ thăm gia đình bà cô và rủ người anh họ cùng đi. Anh bảo là nàng cùng cô em gái đã về định cư bên Pháp hơn hai tháng nay. Không biết khi nào mới trở lại Việt Nam.

Tôi lang thang ở Sài Gòn hai ngày thì lấy xe đò về Nha Trang để thăm cha tôi. Nhưng ngày nào tôi cũng đi lang thang trên bờ biển, nhìn sóng đổ vào bờ cuốn theo tất cả mọi dấu chân mình trên cát, và nhớ đến nàng.

Tôi trở lại đơn vị, đúng vào lúc đại đôi tôi nhận lệnh rời khỏi Lâm Đồng để di chuyển về Phan Thiết, tăng phái cho Tiểu khu Bình Thuận, hành quân phối hợp với một đơn vị thiết kỵ của Hoa Kỳ vừa mới đến Việt Nam, giải tỏa mật khu Lê Hồng Phong.

Kể từ ngày ấy, trên bảng tên may trên nắp áo lính, ngay phía dưới tên tôi, có thêu một chữ nhỏ: Jacqueline, màu vàng. Mấy thằng lính bảo sao tôi lại có tên con gái. Tôi giã vờ: tại vì tao ái mộ bà vợ của Tổng Thống Kennedy.

Sáng ngày mai gia đình chúng tôi phải rời nông trại GAULTIER thơ mộng này để trở về Nauy. Vợ chồng anh chủ nhà cùng mấy cô con gái của tôi đang rượt bắt mấy con gà Tây. Anh muốn đãi chúng tôi một bũa ăn Tây truyền thống. Tôi đi lang thang khắp nơi trong khu nông trại, như để cố tìm ra những dấu tích của nàng.

Buổi chiều, khi bà xã và mấy đứa con đang ngồi ở phòng khách, say mê theo dõi một cuốn phim trên truyền hình, tôi một mình lặng lẽ ra vườn cam, rồi vào khu nghĩa địa.

Tôi ngồi trước mộ nàng rất lâu, hình dung lại hình ảnh của nàng trong những ngày cùng tôi trên đồn điền trà ở bên cây cầu Đại Ngà và tung tăng khắp nơi ở bờ hồ, thác Prenn và trong rừng thông Đà Lạt.

Một cơn gió xào xạc, mấy chiếc lá vàng trên tàng cây chầm chậm rơi xuống mộ nàng.

Tôi đưa tay sờ tấm ảnh nàng trên mộ bia, nói thì thầm trong gió :

Et la chanson que tu me chantais
Toujours, toujours je l'entendrai. !
(Và bài hát mà em đã hát cho anh nghe. Mãi mãi, mãi mãi, anh vẫn còn đang nghe đây)