văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Sunday, March 18, 2012

Đặng Tiến * Ngày Xuân tìm Động hoa vàng


Nhà thơ Phạm Thiên Thư là một tác gia dồi dào, đã in ra hằng vài ba trăm ngàn câu thơ, có lẽ kỷ lục về số lượng trong nền văn chương tiếng Việt, vượt xa Bùi Giáng.
Nhưng câu thơ được biết nhất, trước sau vẫn là :
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Câu thơ trích từ đoạn 41 trong trường ca Động hoa vàng, gồm 100 đoạn 4 câu, làm theo thể lục bát cổ điển, nhưng qua hàng lên xuống theo nhiều dạng khác nhau. Tác phẩm in năm 1971, không ghi nhà xuất bản ; bài thơ nổi tiếng nhờ Phạm Duy phổ nhạc nhiều đoạn dưới tên Đưa em tìm động hoa vàng cùng một lần với nhiều bài thơ khác của tác giả : Ngày xưa Hoàng thị, Em lễ chùa này… Phạm Thiên Thư nổi danh từ đấy.
Thơ lạ, nhạc hay, đã đành. Nhưng còn thêm lý do tâm lý quần chúng : những bài thơ tình này là của một nhà sư có pháp danh Tuệ Không , tu tại Thiền viện Pháp Vân 1964-1975, Sài Gòn. Cùng thời điểm này, hay trước đó, tu sĩ Tuệ Không đã chuyển ngữ Kinh Phật Kim Cương ra thơ Việt, dưới tên Qua suối mây hồng, xuất bản 1971, kèm theo hai tùy bút văn xuôi, Ngã pháp mây nổi và Hiện hóa pháp, viết 1969, giúp ta hiểu thêm tâm tưởng Phạm Thiên Thư, hơn là những bài thơ đôi khi trầm bổng qua vần điệu.
Động hoa vàng chứng tỏ tài hoa của tác giả, nhưng ít người quan tâm đến nét thâm trầm của những câu thơ, nói chung là diễn tả giấc mơ thoát tục của con người trong một giai đoạn nhiễu nhương, đồng thời niềm hoài vọng hướng về quá khứ xa xưa của dân tộc, nhớ nhung nhiều kỷ niệm cũ càng, có thật hay hư tưởng, từ quê hương thôn dã, một thuở thanh bình đã phôi pha.
Rằng xưa có gã từ quan…
Chúng ta tìm hiểu câu thơ. Muốn từ quan thì phải làm quan, thường là quan to, bậc khoa bảng, thành phần giai cấp quyền lực. Tác giả đã hạ giá danh vọng bằng từ « gã » bình dân, thân mật. Bình thường không ai gọi ông quan bằng « gã ». Và « gã » đây là ai ? Suốt tập thơ Động hoa vàng, bốn trăm câu, ta không biết. Muốn biết, ta phải đọc Đoạn trường vô thanh, phổ biến năm sau, nhưng có lẽ sáng cùng lúc. Câu 621 :
Học đòi theo gã Từ quan
Bên chùa cởi áo chuộc nàng dưới hoa
Mái chèo lãng đãng yên ba
Thần Phù xõa tóc la đà rong chơi
Rõ là chuyện Từ Thức trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thời Mạc. Từ Thức làm quan tri huyện, có hôm đi chùa xem hội hoa. Một cô gái trẻ, lỡ làm gãy hoa, bị bắt đền, Từ Thức đã « cởi áo cừu gấm trắng » để chuộc lỗi cho người con gái. Người xưa « khen quan huyện là người hiền đức » 1. Ngày nay ta gọi là hào hoa, thậm chí bay bướm. Sau đó, không chịu sự ràng buộc của quan trường, Từ « bèn cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về », rồi dong buồm chơi cửa bể Thần Phù, lạc vào động tiên, gặp lại cô gái vốn là tiên, tên Giáng Hương, cưới làm vợ, rồi trở về trần. Trong động tiên cũng có « hoa vàng » lọt vào cửa sổ :
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non
Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son

(Trúc Khê dịch)
Trở lại câu thơ « tìm động hoa vàng ngủ say ». Lên đến hang động heo hút mà chỉ để « ngủ say » thôi ư ? Trong lối hiểu thông thường, thì ngủ say đây là cách quên công danh, những hệ lụy công danh, mà cũng là cách quên đời. Người xưa có lúc lấy giấc ngủ làm hạnh phúc, như trong bài thơ Khúc ca thích ngủ, cũng trong Truyền kỳ mạn lục, nhắc lại giấc ngủ của danh nhân như Khổng Minh, Trần Đoàn, Đào Tiềm, Chu Liêm Khê 2. Biết điển cố này ta hiểu sâu sắc hơn hai câu thơ, cùng trong đoạn 41 :
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan…
« Ngủ » là trạng thái thụ động có tính cách phủ định. « Đánh giấc » là động từ, chủ động, niềm vui của tư duy khi ý thức nghỉ ngơi. Giấc ngủ là giai đoạn ý thức nhất thời chuyển mình vào cõi vô thức mà không tự hủy. Trong tùy bút Ngã pháp mây nổi, 1969, Phạm Thiên Thư đã ca ngợi : « Giấc ngủ say, giấc ngủ mệt thiếp, giấc ngủ chết lịm, giấc ngủ của đạo gia. Giấc ngủ của kẻ đau nhừ thất bại và hoan hỷ trong sự thành công mỹ mãn nhất (…) ; một giấc ngủ không tham vọng, không chấp chặt vì tất cả đều thất bại (…). Một giấc ngủ không tịch, gối đầu, duỗi chân trên hai đỉnh tuyệt vô cùng » 3.
Dĩ nhiên, giá trị của giấc ngủ chỉ hiển hiện sau khi chúng ta đã tỉnh dậy và nhận thức, như trong thơ vua Trần Nhân Tông, vị tổ sư của phái Thiền Việt Nam :
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
Dịch :
Thức giấc mở song mây
Xuân về, lòng chưa hay
Song song đôi bướm trắng
Phất phới cạnh hoa bay
Đồng thời chúng ta cũng không quên giấc ngủ vô tội, hồn nhiên của trẻ thơ, có lẽ là khoảng tịch lặng đẹp nhất trần đời.
*
Nói chung Động hoa vàng là bài ca siêu thoát, giữa xã hội và thời sự đảo điên, những lời thơ chấp chới đào vong vào một giấc mơ dài, kết nối nhiều hình ảnh thi vị của một trần gian xa cách. Quê hương thanh bình, con người an vui, trong một nền văn hóa đã quá khứ. Hạnh phúc đơn sơ :
Ngày xưa trên giậu vàng hoa
Chiều chiều kê chõng nằm ra ngó trời
(…)
Gây giàn thiên lý vàng hoa
Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây
Xuống đầm tát cá xâu cây
Bới khoai vùi lửa nằm dài nghe chim.
Khách xa nhớ đến nhau tìm
Lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà
Hứng nước suối thết bình trà
Hái bầu nấu bát canh hoa cười khàn

(khúc 89-97-98)
Đây chỉ là cảnh tưởng tượng mà thôi. Thực tế chưa bao giờ thi vị, nhất là lý tưởng như thế. Người xưa có thể kê chõng, gây giàn thiên lý, cắt cỏ, tát cá, bới khoai vùi lửa… nhưng khó bề nằm dài nghe chim…
Hình tượng có vẻ là thực tế đơn giản, tuy thật sự hão huyền, nhưng giấc mơ thì có thật trong lòng người. Nó không xâu chuỗi thành hệ thống vần vè như vậy, nhưng rời rạc vẫn ẩn hiện trong tâm thức mỗi người Việt, ít ra trong một thế hệ nào đó : Chiều chiều kê chõng… nằm dài nghe chim.
Hình ảnh có lúc tách ra khỏi phong cảnh bình dị, cụ thể của nông thôn. Mộng mơ thì vốn không biên giới, có khi vươn đến cõi bờ siêu thực :
Mùa xuân mặc lá trên ngàn
Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư
Động Nam hoa có thiền sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn
Rượu tâm hư là rượu gì, không ai biết. Nhưng rượu gì cũng là rượu. Câu thơ thú vị chỗ đó : vừa chính thống, vừa dí dỏm. Nét hóm hỉnh tạo không khí thoáng nhẹ, niềm vui thầm lặng, cho toàn tập thơ, một không khí “thiền”.
Người đọc, nhất là người nghe nhạc, chú ý đến những câu thơ tình. Ái tình ở đây chỉ làm đề tài cho thơ hồi tưởng. Những cô áo hồng, áo xanh phơ phất, cho dù có mang một ít sắc màu ký ức, cũng chỉ là đề tài thi ca, kết hợp nhuần nhuyễn với toàn bộ tập thơ. Tình yêu ở đây là mơ mộng, trắc trở, xa cách, nhớ nhung.
Có lúc chàng kể :
Ngày xưa em chửa theo chồng
Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc da trời
Sang đông em lại đổi dời áo hoa
Hồi khác chàng lại kể :
Từ hôm em bỏ theo chồng
Áo trắng em cất áo hồng em mang
Thì không ai biết cô nàng mặc áo màu gì. Thậm chí nàng có thực hay không, hoặc nàng chỉ là ảo ảnh của thiên nhiên, thường xuyên thay áo.
Khi tình yêu chỉ là điển cố văn chương, như mượn ý ca dao, Phạm Thiên Thư vẫn có thể làm được câu thơ hay:
Thôi thì em chẳng yêu tôi,
Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng
Có lúc chữ nghĩa gây nên tình cảm thê thiết :
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi
Ý thơ dàn trải, không có gì cao siêu. Nhưng lời thơ da diết chỉ vì những thì thôi, thế thôi, luyến láy, dằn vặt.
*
Phạm Thiên Thư sử dụng nhuần nhuyễn thể lục bát trong hình thái cổ điển nhất. Và những tứ thơ siêu thoát cũng không mới lạ, vì ta đã từng gặp từ thời Nguyễn Trãi ; nhưng đến 1970 thì không mấy ai còn nhớ. Do đó Động hoa vàng khi xuất hiện vẫn làm mới thi ca.
Vào thịnh thời của Thơ Mới, 1940, hay thơ Tự do tại Sài gòn 1960, không ai làm những câu :
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
(…)
Đợi nhau tàn cuộc hoa này
Đành như cánh bướm đồi Tây hững hờ
Hình ảnh lạ lẫm, nhưng lời thơ dân dã, thuận chiều theo lô-gíc :
Đất Nam có lão trồng hoa
Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông
Lại đem bầu ngọc ra trồng
Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân
Ý tứ tân kỳ, nhưng câu chữ không cầu kỳ. Lời thơ ý nhị, dí dỏm, diễn tả được nhu cầu siêu thoát. Nó hiện đại hóa một tứ thơ có từ Nguyễn Trãi :
Bẻ cái trúc hòng phân suối
Quét con am để chứa mây.
Thời đại cho phép một ngôn ngữ mới, ngông nghênh, phóng túng hơn. Nhưng đại thể vẫn vậy.
Đánh giá một tác phẩm, cần đặt nó vào thời điểm xuất phát. Khoảng 1970, chiến tranh lan tràn khốc liệt, xã hội đảo điên.Thịnh hành là lối thơ thân phận, nói lên tâm trạng, hoàn cảnh tang tóc, bi thương. Không ai làm thơ chơi chơi, khơi khơi, như Phạm Thiên Thư :
Có con cá mại cờ xanh
Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân
Nửa giòng cá gặp phù vân
Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi.
Dĩ nhiên người ta có thể thích hay không thích, chấp nhận hay không chấp nhận một lối sáng tác “vô lập trường” như thế.
Ngày nay ta thường dùng từ phản ánh theo nghĩa thông thường : quy chiếu lại hình ảnh của thực tại, theo phép hiện thực hay cách điệu. Nhưng ta có thể dùng ngược lại : phản ánh là quy chiếu những cảm nghĩ trái chiều với thực tế, như bề mặt, bề trái, của một đồng tiền. Như giấc mơ thanh bình đối lập với thực tại bom đạn.
Một đêm nằm ngủ trong mây
Nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời
Cây bưởi trắng ngát hương đời
Nụ là tay Phật chỉ người qua sông.
Trong một đoạn hồi ký, Phạm Duy có nhắc lại giai đoạn này, với kỷ niệm chính xác về Phạm Thiên Thư. Thời đó, 1970, để phản ứng lại với cái “dung tục, trâng tráo” của xã hội, đã xuất hiện khuynh hướng “về nguồn, với con người Việt Nam, cây nhà lá vườn.”
“Đối với tôi lúc đó, hình ảnh thiền, chùa, động hoa vàng, thật là mát mẻ và rất cần thiết (…) Gặp tu sĩ Tuệ Không kiêm thi sĩ Phạm Thiên Thư là tôi như thoát xác, vượt ra khỏi những đắng cay, chán chường và bế tắc (…). Từ đó tôi luôn luôn tìm đọc thơ của Phạm Thiên Thư để phổ thành những bài hát thanh cao nhất của thời đại” 4.
Nhạc phẩm Phạm Duy đúng là những thành tựu nghệ thuật lớn lao, được đón nhận nồng nhiệt ngay. Ngày nay, bốn mươi năm sau, vẫn con nhiều thính giả nghe lại và yêu chuộng.
*
Bài này chỉ đóng khung vào trường ca Động hoa vàng : nguồn gốc thi hứng, giá trị tư tưởng, nghệ thuật, và xã hội của nó.
Tác giả Phạm Thiên Thư còn sáng tác nhiều thi phẩm khác, nhưng không thành công bằng tập Động hoa vàng. Có lẽ tác giả đã vơi nguồn thi hứng đích thực, bớt khả năng cô đúc tình cảm, tập trung tư duy sáng tạo, cho nên những thi phẩm về sau – rất dồi dào – phải nép vào ngôn ngữ tài hoa. Mà tài hoa thì không đảm bảo được một hành trình sáng tạo lâu dài. Nhưng chỉ một thi tập Động hoa vàng cũng đánh dấu một thời đại trong thi ca, đồng thời thăng hoa khả năng thẩm mỹ và diễn đạt diệu vợi của thể thơ lục bát cổ truyền.
Đánh giá toàn bộ tác phẩm Phạm Thiên Thư là việc khó khăn, chưa kể có kẻ lạm quyền đã đánh giá cuộc đời chìm nổi của nhà thơ, qua lắm bể dâu.
Nói ít, nhưng đầy đủ về Phạm Thiên Thư, có mấy câu thơ Bùi Giáng tặng ông :
Chạy quanh khu vực thần tiên
Mỗi chân mười ngón kết liên bốn mùa
Vườn cây trái ngọt trái chua
Mù sương hấp dẫn về chùa ngủ quên.
Đặng Tiến
Orléans, 12.10.2011
1 Nguyễn Dữ, Truyền kỳ mạn lục, tr 106-119, nxb Văn Học, 1971, Hà Nội
2 Nguyễn Dữ, sđd, tr.142, truyện Người tiều phu núi Na.
3 Phạm Thiên Thư, Qua Suối Mây Hồng,1971, tr. 72-73, tái bản, nxb Văn Nghệ, 2006, TPHCM.
4 Phạm Duy, Nhớ, hồi ký, tr.191, nxb Phương Nam, 2005( ?), TPHCM

Saturday, March 17, 2012

TRẦN VẤN LỆ * Tưởng Ai Dưới Nguyệt



M ỗi ngày…mình có một bình minh
Một buổi trưa xanh biếc lá cành
Một buổi xế chiều mươn mướt gió
Một hoàng hôn em của riêng anh…
Nói như hai đứa đang ngồi cạnh
Đang nắm tay và hôn trán nhau
Ai biết là mình xa cách lắm
Buồn ơi bèo giạt nước qua cầu!
Biết thế nên anh thường tưởng tượng
Em là trăng sáng mỗi đêm trăng
Cuối tháng và đầu tháng vắng
Em nằm trong ngực – một Giai Nhân!
Phải chi ở cạnh em bây giờ
Anh nói một ngón chân em một ngón Thơ
Anh vuốt ve hoài Thơ một ngón
Hai bàn chân em một trời mơ…
Anh vuốt tới mười em ngủ thiếp
Anh làm sao nhỉ?  Chắc ăn gian
Hôn lên đầu gối, hai con mắt
Em ngủ đi em!  Ôi vầng trăng!
 
Trần Vấn Lệ
     

VĨNH HẢO * Ảo


Hồi mới qua Mỹ, tối nào chàng cũng lấy cuốn nhật ký ra viết đôi dòng. Có khi hứng thú viết một hơi ba bốn trang. Nhiều chuyện lắm. Biết bao nhiêu là điều mới lạ để học hỏi, để ngạc nhiên, để sửng sốt, để thán phục, để chiêm ngưỡng hoặc để bỗng nhiên sực nhớ rằng mình được may mắn rơi tỏm vào một thiên đường từ lâu mơ ước. Và mới đây thôi, đâu chừng vài tháng trước, chàng hãy còn viết, viết rất nhiều về tình yêụ Một cuộc tình cũng sướt mướt lãng mạn như ai vậỵ Nhưng giờ thì khác rồị Ngày nào cũng giống y chang một khuôn, đâu có hơi đâu mà viết nhật ký.


Không có gì lạ. Và khi nhìn cuốn nhật ký, tự nhiên chàng thấy ớn ớn như nhìn một thứ thức ăn ướp lạnh lâu ngàỵ Không lý mỗi tối ngồi vào bàn cầm bút lên là viết một mạch khỏi cần suy nghĩ rằng: “Hôm nay thức dậy, làm vệ sinh. Ăn một gói mì cho đỡ đói rồi ngủ nướng thêm một giấc cho đến hai giờ trưạ Tắm sơ một cái rồi đi làm. Làm mệt lắm, chán lắm. Nhưng phải ráng. Gần một giờ khuya mới về đến nhà. Lại ăn qua loạ Vừa ăn vừa nghe nhạc. Lên giường. Bấm ti-vi coi bậy một show nào cho đỡ buồn. Rồi ngủ.”

Như vậy đó. Ngày nào cũng như ngày nàọ Có gì mới lạ để mà viết! Hết rồị Qua rồị Những ngày thăng trầm vinh nhục có còn đâu! Hồi đó còn ngủ ké sofa nhà thằng bạn, có khi chui vào sleepping bag ngủ luôn ngoài xẹ Bây giờ thì chăn êm nệm ấm. Cái king bed rộng rinh xoạc cả hai cẳng ra cũng chưa đụng tới hai mép giường. Hồi đó căn phòng lạnh tanh, không có tiếng động, phải tự mình đi ra đi vào, mở cửa đóng cửa, huýt sáo ca hát cho nhộn nhịp lên. Bây giờ thì vừa cassette vừa ti-vi, có cả video nữa, thứ nào trông cũng bảnh và dư sức hoạt náọ Tắt hết để ngủ thì vẫn còn cái tủ lạnh riêng ở góc phòng siêng năng kêu rè rè suốt ngày đêm. Rộn lắm. Có sót cái gì đâụ Thế mà vẫn thấy như thiếu một cái gì. Cảm giác thiếu thốn không phải chỉ mới có lúc này mà có tự đời thuở còn trắng tay vô saả kiạ Nó nổi lên, đòi hỏị Tìm cách đáp ứng nó rồi, nó lại đòi hỏi thứ khác. Chẳng biết chung cục là đâụ Ban đầu chàng tưởng rằng sắm cái cassette để nghe nhạc là êm chuyện rồị Không ngờ nó lại đòi phải có ti-vị Từ ti-vi lại qua videọ Rồi đến tủ lạnh, microwave (để không dùng chung hay dùng ké anh bạn share phòng kế bên nữa), rồi tủ sách đầy tiểu thuyết diễm tình, hộc băng đầy những băng nhạc mùi mẫn, đàn guitar, phim con heo, báo Playboy... không dễ có một thằng thanh niên độc thân nào bì kịp những tư hữu mà chàng sắm, chàng tự hào như vậỵ Thế mà chàng vẫn cứ phải băn khoăn tìm hiểu xem mình còn cần cái gì, thiếu cái gì nữa mà thấy đời sống cô quạnh buồn hiụ

Nhớ lại thời gian nàng đến để rồi khiến mình tương tư, chàng không khỏi thấy trong lòng thoáng bùi ngùị Nàng đến. Vâng, nàng đã đến, rồi đi luôn ra khỏi đời chàng. Nàng là con ông chủ nhà, tên là Xuân. Cái tên nghe như gợi lên một mùa lộc mới với tràn đầy sinh lực và khát vọng tuổi trẻ. Chính nàng đã là đề tài nóng bỏng, sôi động nhất khuấy trộn cả cuộc sống cô liêu buồn tẻ của chàng. Nàng ngúng nguẩy chàng ràng trước mặt chàng như một con gà mái hay một con chó cái đương thời động cỡn. Chàng biết ngay điều đó có nghĩa là gì. ít ra chàng cũng có cái nhạy cảm để nhận biết những dấu hiệu của yêu đương nơi Xuân. Và chính chàng, chàng cũng cảm thấy là mình đã yêụ Và những gì chàng thiếu có lẽ là đâỵ Nhưng Xuân tinh quái lắm. Nàng cứ sàng qua sàng lại, lâu lâu bước thẳng vào phòng chàng một cách tự nhiên, cầm cuốn sách, thử cuốn băng, giống y chang là nàng đã mết chàng rồi vậỵ Thế mà sự thực trái ngược hẳn. Cô ả đâu có chút caả tình gì với chàng đâụ Sách của chàng thì cô chê là tiểu thuyết rẻ tiền (hừ, rẻ! cuốn nào cũng tám chín đô la chứ có ít ỏi gì đâu!); còn băng nhạc của chàng thì nàng nói sao sến hoặc cải lương quá (hứ, Tuấn Vũ, Chế Linh... toàn là thứ chiếng trong làng ca mà còn chê được thì đúng là quê mùa!). Nhưng thôi, gái mới lớn lên ở Mỹ thì trách sao chẳng sành nhạc Việt Nam.

Chàng cứ việc mua quà, hết món này đến món nọ, có cả thơ nữa—những bài thơ trữ tình lãng mạn chép ra từ trong báo nhận bừa là của mình—thành tâm thành ý dâng tặng cô ả. Cô nhận hết, không hề từ chốị Nhưng cuối cùng mới biết cô ả chỉ đùa chơi với chàng thôị Nhận quà là nhận quà, có tặng thì có nhận. Còn yêu đương là chuyện khác: không phải ai tặng cũng có thể nhận được. Xuân xanh mơn mởn, mộng ước cao vời, cô ngước mặt nhìn lên và mới đây thôi, cặp bồ với một chàng kỹ sư điện toán mới ra trường. Thật đơn giản như vậy mà chàng lại hiểu theo cái cảm tính rất ư chủ quan và lạc quan của mình để rồi trượt một cái thiệt đaụ Người ta không yêu gì chàng hết. Rõ ràng quá mà. Qua Mỹ gần bảy năm rồi mà không đi học. Chơi hết ba năm đầụ Năm thứ tư mới quyết định kiếm việc làm vì ông bác đã chịu hết nổi, không muốn thấy mặt thằng cháu vô tích sự, lười biếng, lêu lỏng trong nhà ông nữạ Chàng chỉ có vỏn vẹn chút ít vốn liếng tiếng Anh từ lúc học ở trại tị nạn cọng thêm chút ít nhờ kinh nghiệm đi làm. Chút ít đó vừa đủ để hiểu manager nó muốn mình làm cái gì. Và chút ít đó cũng chỉ đủ để tính tiền với khách hàng, để thỉnh thoảng đi shopping mà thôị Những cuộc tiếp xúc như vậy thì đâu có đòi hỏi gì nhiều tiếng Anh đâu nàọ Vậy đó, rồi cứ đi làm. Đứng bán cho một cây xăng. Bằng cấp chẳng có, chữ nghĩa mù tịt, còn Xuân dù gì cũng đã tốt nghiệp trung học tại Mỹ, làm sao có thể nhìn chàng một cách đầy ngưỡng mộ như chàng lầm tưởng. Mà xét cho cùng, cô ả đâu có đẹp gì đâu kìa!

Chỉ được cái cao ráo, trông có vẻ đẫy đà hấp dẫn mà thôị Nếu cô ở Việt Nam, xí, đố mà chàng để mắt nhìn tớị Ở đây thiếu con gái Việt cô ta mới làm eo, làm trời làm đất như vậy thôị Dù sao, chàng cũng cám ơn cô tạ Cám ơn cô cho chàng mấy tháng mộng mơ, mấy tháng tương tư và mấy tháng mới đây thôi: thất tình. Ồ, cái cảm giác thất tình sao nghe thú vị mới lạ chứ! Mỗi sáng thức dậy hát bậy một câu trên giường: “Một sớm mai thức dậy, tình yêu rời chăn gối, bay theo những cơn mưa phùn... ”của Đức Huy, nghe thấm thía làm sao! Thấm thía nhất cũng bởi vì bản nhạc này là bản ruột của Xuân, cô ả thích bản này lắm mà! Còn chàng thì thích Tuấn Vũ hơn, cho nên từ lúc thất tình, trong khi chờ cà phê sáng, chàng bật cuốn băng của ca sĩ thần tượng này ra nghe rên: “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng... không xong... ” nghe đúng là giọng tri âm! Chưa hết, nhờ quằn quại trong thú yêu đương mà chàng cũng đã nắn nót ghép chữ đẻ ra được hai bài thơ thống thiết về tình phụ và đã được đăng một cách trịnh trọng trong một tờ báo quảng cáo địa phương với tên chàng nổi bật kèm theọ Tờ báo này chắc chắn Xuân sẽ đọc mà, vì cuối tuần nào cô cũng ra chợ Việt mang về một lô báo Việt ngữ thảy lên bàn ở phòng khách để cả nhà xem. Đọc rồi, cô sẽ hối tiếc. Hối tiếc là đã sai lầm đá đít một thi sĩ tài hoạ

Nhưng bây giờ, niềm đau kỳ diệu đó cũng đi qua rồị Nó đi qua và kéo tuốt luốt cả hứng cảm làm thơ của chàng. Và cũng nhờ vậy mà chàng nhận ra một sự thực rất ư là nực cười, rằng xét cho cùng, những thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ của nhân loại có hơn gì chàng đâu! Họ nổi danh là nhờ cái hứng cảm thất tình đó mà. Chỉ có những bài thơ, những tiểu thuyết, những bản nhạc thất tình mới đủ ma lực để cuốn người ta vào cái thế giới ê ẩm riêng tư đầy ý nghĩạ Cho nên, mới đây đọc báo thấy đăng tin: “Nhà thơ X. kết hôn cùng cô Ỵ” hoặc “Nữ văn sĩ V. sánh duyên cùng anh T.” là chàng bật cười buông một câu ta thán rằng: “Ồ, một nhà thơ đã chết, một nhà văn vừa bị chôn.” Phong vận tài hoa của một người coi như bỏ đi khi hắn được thắng lợi vẻ vang trong lãnh vực tình cảm. Chàng nghiệm ra một chân lý rất đơn giản nhưng xác thực: muốn thành một thi sĩ hay văn sĩ lỗi lạc thì phải yêu cho hết mình và phải thất bại trong tình yêu đó. Một đời sống tình cảm quân bình, thành công, êm thắm thì chẳng đẻ ra được cái gì xuất sắc và sẽ chẳng làm nên trò trống gì cả.

Ấy vậy mà chàng cũng đành vùi chôn thiên tài của mình dù rằng chàng đã có, ít nhất cũng một lần, thất tình. Có lẽ nồng độ yêu đương của chàng dành cho Xuân không đủ to lớn để kéo dài niềm đau trong chàng. Huống chi, giữa Xuân và chàng hãy còn một khoảng cách mênh mông cả về tâm hồn lẫn thể xác. Hai tâm hồn hầu như chẳng ăn khớp gì với nhau—xét theo cá tính, sở thích. Còn hai thể xác thì hãy còn thọ thọ bất thân.Chàng chưa đụng được tới ngón tay của Xuân dù rằng đã có lúc chàng cố ý làm vậy (nhưng cũng hụt nữa!). Niềm đau, vì thế, chỉ hành hạ chàng đâu chừng một tháng hơn thì lịm dần rồi mất hút. Cảm hứng làm thơ cũng chết tiệt. Và bây giờ, muốn khôi phục lại thi tài của mình đồng thời khỏa lấp cảm giác thiếu thốn đang xuất hiện trở lại trong tâm thức, chàng chỉ có nước đi tìm một đối tượng khác. Chàng thấy rõ điều đó, nhưng thực hiện nó không phải là chuyện đơn giản. Người ta đi học, ngày ngày đến trường, không lớp này thì lớp kia, thế nào cũng làm quen được một vài cô bạn học cùng xứ để chọn lựa, hay ít nữa cũng có thể kết bạn với vài cô gái nước ngoài như bọn Mễ, Đại Hàn, Nhật Bản, Mỹ trắng, hay Mỹ đen v.v...


Còn chàng, có đi học đâu mà có cơ hội đó! Người ta đi làm xưởng này, công ty nọ, mấy chục người hoặc hàng trăm người cùng làm chung, gặp nhau mỗi ngày, thế nào cũng quen nhau, hò hẹn nhaụ Còn chàng, đứng bán cây xăng từ bốn giờ chiều đến mười hai giờ khuya (có khi làm thêm giờ phụ trội—over-time—đến hai giờ sáng) mà chỉ đứng bán một mình, quen biết ai đây! Khách tới đổ xăng, trả tiền rồi phóng xe đi, có ai rỗi rảnh đứng lại mà ngó ngàng chi đến chàng. Có đối thoại chăng nữa thì cũng chỉ how are you một cách lấy lệ không cần nghe câu trả lời, rồi thank you một cách không ơn nghĩa chi hết.
Sau khi cơn đau của mối tình đơn phương lắng dịu, chàng đi tìm cảm giác mới, khung cảnh mới bằng cách ra ngồi la cà ở một quán cà phê Việt Nam vào mỗi cuối tuần. Ở đây có hai ba cô chạy bàn trẻ trung, lịch thiệp và hiếu khách. Chàng thấy cô nào cũng có vẻ dễ mến hơn Xuân. Sự tương phản thấy rõ giữa họ và Xuân khiến chàng đâm ra ghét Xuân hơn. Tại sao ở đời lại có một thiếu nữ kiêu kỳ đáng ghét như Xuân vậy kìa, chàng tự hỏị Từ đó, chàng siêng năng đi uống cà phê hơn. Uống xong, bỏ tiền tip (buộc-boa) rất hậụ Dần dần, chàng cảm thấy hình như mình đã trở thành một người khách đặc biệt mà các cô hầu bàn ở đây mong đợị Nhìn chung quanh, bàn nào bàn nấy ba bốn cậu thanh niên choai choai ngồi rung đùi, to tiếng cười nóị Nhiều cậu còn buông lời chọc ghẹo các cô hầu bàn nữạ Còn chàng, lúc nào cũng vậy, ngồi một mình lặng lẽ, đăm chiêu, phà khói thuốc, lắng nghe tiếng nhạc, hoặc lắng lòng vào một mộng tưởng xa xôi nào đó, y như một nhà hiền triết đang suy gẫm về một nan đề sâu xa cấp thiết cho thời đạị Phong độ của chàng vì thế hẳn nhiên là phải nổi bật giữa đám người lao xao chỉ biết tán gẫu và sống ồ ạt theo ba động bên ngoàị Chàng cảm thấy rõ ràng như vậỵ

Từ lúc bước vào quán cho đến khi bước đến quầy trả tiền rồi lững thững bước ra ngoài, chàng có cảm tưởng là bao nhiêu cặp mắt đang đổ dồn về mình: một con người xa lạ, thầm kín và hết sức cao vợị Nhất là các cô hầu bàn, hẳn là các cô phải tấm tắc khen trong lòng với bao ngưỡng mộ cũng như ao ước được chàng đoái hoài đến. Đó là các cô chưa biết chàng đã từng có hai bài thơ đăng trên báo; chứ nếu biết thì các cô làm sao mà cầm lòng cho đậu! Ngoài phong độ uống cà phê một mình trong im lặng, chàng còn tạo thêm được ba đặc điểm xuất sắc khác khiến cho người ta—các cô hầu bàn—không thể nào lẫn lộn chàng với một kẻ tầm thường nào khác. Thứ nhất, bước vào quán đúng mười giờ sáng ngày thứ bảy và chủ nhật—chàng thường lái xe đến bãi đậu sớm hơn giờ đó một chút để bảo đảm giờ khắc xuất hiện của mình. Thứ hai, chỉ chọn duy nhất một cái bàn trong góc tối mà từ đó chàng có thể quan sát tất cả mọi người ra vào—nhất là các cô hầu bàn, vì khi mang thức uống cho bất kỳ khách nào bắt buộc các cô đều phải đi ngang chỗ chàng ngồị Chiếc bàn trong góc này hầu như đã trở thành chỗ ngồi ưu tiên của chàng vì sau mười giờ sáng, khách mới vào đông và khi vào, khách thường tìm chỗ ngồi thoáng, gần cửa ra vào nhất chứ chẳng ai nhọc công bước tới góc bàn tăm tối ở cuối tiệm gần restroom (phòng vệ sinh) cả. Thứ ba, chỉ uống cà phê đen thôi chứ nhất định không uống thứ gì khác. Có lần chàng thử gọi một ly mãng cầu xay nhưng các cô hầu bàn bảo đã hết. Từ đó, chàng nhất quyết chỉ gọi cà phê đen thôị Quán này là quán cà phê, thì không thể xảy ra trường hợp hết cà phệ Cà phê đen đá cũng chưa chắc ăn, vì biết đâu lại có lúc hết đá bất tử. Còn cà phê sữa đá thì trông có vẻ như con nít còn ham sữa quá. Huống chi, người ta có thể tưởng ra được một thi sĩ hay một văn nhân đang đăm chiêu bên tách cà phê đen chứ nói ông ta đang đắm mình bên cạnh ly kem dừa, ly mít xay hay ly cà phê sữa đá thì thật là chẳng thích hợp chút nàọ Sinh tố và kem để dành cho đàn bà con nít; cà phê sữa đá thì dành cho bọn thanh niên mới lớn còn thèm sữa mẹ, dùng cái muỗng dài khoắn đá lên cho rộn ràng rôm rả. Tách cà phê đen của chàng thì chỉ cần một cái muỗng nhỏ khuấy nhẹ cho tan đường, chẳng gây tiếng động nào đáng kể và khi uống, có thể nhấm nháp, thong thả, từ từ: cử chỉ thích hợp cho một người có đời sống nội tâm phong phú.

Các loại thức uống có đá và ngon, ngọt, béo, đều có tính cách giải khát, hưởng thụ, đáp ứng trực tiếp cho vị giác và có thể là cho bao tử nữạ Trong khi đó, cà phê đen—một thức uống mang vị đắng mà nói cho cùng thì chàng cũng chẳng mấy hứng thú gì để uống cả—thì có vẻ như một chất xúc tác khơi động đời sống tâm linh sâu thẳm. Không khi nào chàng uống được hơn nửa tách cà phệ Nó chẳng có gì hấp dẫn đối với chàng cả. Nhưng ít nhất, nó là lý do chính đáng để chàng được ngồi lâu một chỗ và đóng cho trọn vai trò của một người bí ẩn, phi phàm. Và nó cũng là cái cớ để chàng tự do ngắm nhìn các cô hầu bàn trẻ trung lúc nào cũng tươi cười và đon đả đón khách.
Sau hai tháng cần cù đến quán đúng giờ đúng khắc, đúng địa điểm, đúng menu (thực đơn, nhưng thật ra chỉ có thức uống thôi, gọi ẩm đơn thì đúng hơn) cố định và đúng cả những động tác trầm ngâm phì phà khói thuốc, nhâm nhi ly cà phê đắng, chàng nghiệm ra được những ý nghĩ cao đẹp cho phong cách đặc biệt của mình mà trước đây chàng không hề nghĩ tớị Rằng một kẻ giữ được giờ giấc qui định hẳn nhiên là một kẻ mô phạm, mực thước; rằng một kẻ chỉ chọn một địa điểm cố định chứng tỏ hắn ta là kẻ chung tình trọn nghĩa, không có mới nới cũ; rằng một kẻ chỉ chọn lấy duy nhất một thứ thức uống có vị đắng thuần chất chứ không pha loãng bởi sữa hay đá xác định hắn là con người có lập trường vững chắc và có thừa khả năng chịu đựng những đắng cay ngang trái trên đờị Ôi, bao nhiêu là phẩm cách cao quí chỉ tập trung nơi mỗi một con người!

Nhưng các cô hầu bàn xinh tươi kia, có ai là tri âm nhìn ra được những đặc tính của chàng không nhỉ? Có. Có lẽ có, ít nhất là một cộ Chàng tin như vậỵ

Cô ta tên Tuyết. Phải, Tuyết. Và thật là trắng như tuyết. Nhưng không phải cô trắng mà đồ cô mặc lúc nào cũng trắng—áo em trắng quá nhìn không rạ Chàng đọc thầm câu thơ đó khi ngắm nhìn Tuyết và thực không nhớ nổi là câu thơ đó do mình sáng tác hay là của thi sĩ nào mà nghe độc đáo như vậỵ Trong góc bàn tối sâm sẩm mà chàng hay ngồi, chàng thấy hình như Tuyết có làn da xẫm bóng như màu vẹc-ni mới phết lên gỗ, hoặc nói cho văn chương như chàng thì cô có nước da màu bánh mật—chàng không hiểu bánh mật là gì cả, chỉ quen dùng để chỉ nước da ngăm ngăm mà thôị Trông nàng khỏe và có duyên. Có duyên nhất là cái miệng méo và rộng.

Méo thì chàng không để ý gì nhiều cho lắm. Chỉ biết đại khái là khi nói hay cười, đôi môi nàng đã tỏ ra là không được ngăn nắp, không chịu sự kiểm soát của nàng một cách nghiêm chỉnh. Còn rộng thì dễ thấy hơn. Khi nàng cười, hai khóe miệng nàng tưởng chừng như muốn kéo tới mang tai, vẽ nên một vành bán nguyệt nên thơ sầu mộng (chàng nghĩ đến bốn chữ này khi liên tưởng đến nụ cười của nàng). Người xưa thường nói: “Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà.” Câu ấy không ảnh hưởng gì đến quan điểm mỹ thuật của chàng cả. Thiếu gì đàn ông miệng rộng mà chẳng thấy sang chút nàọ Ngược lại, đàn bà miệng rộng hồ dễ có mấy người làm nhà cửa tan hoang? Phụ nữ Tây phương đó, cô nào cô nấy miệng chạy cả gang tay, không lý họ đã góp công làm tan nát xứ sở phồn thịnh văn minh củœa họ sao! Huống chi cái miệng rộng rất ư là lợi thế. Ăn, uống, nói, cười, đánh răng, súc miệng và... hôn nữa, thứ gì cũng được thong thả, thoải máị Nhất là khi cười: cái miệng rộng có vẻ như lúc nào cũng chực cười khiến cho ta cảm thấy tươi vui cả cuộc đờị
Chàng quả quyết là Tuyết đã yêu mình. Tất nhiên là phải yêu rồị Một thanh niên trầm lặng, tác phong đứng đắn, cuộc sống ổn cố, nổi bật giữa đám người lăng xăng, chộn rộn và kịch cỡm, dễ gì Tuyết khỏi rung động.
Lần này, không giống như lần trước với Xuân, nhất định là chàng đã không quá tưởng tượng. Có những dấu hiệu hiển nhiên cho thấy rằng Tuyết đã yêu chàng. Gần nửa tháng nay, khi chàng đến, Tuyết tự động pha một tách cà phê đen mang ra cho chàng mà không cần phải khách sáo hỏi: “Anh uống chỉ” như bổn phận của các cô hầu bàn phải làm thế. Cử chỉ tế nhị đó của Tuyết là gì nếu không phải là muốn nói với chàng rằng nàng đã quan tâm đến chàng? Thường thì chỉ có vợ chồng chung sống với nhau mới biết rõ sở thích cũng như những nhu cầu từ cao đến thấp của người phối ngẫụ Thái độ của Tuyết khiến chàng có cảm giác như mình là một người chồng đi làm mới về, được vợ săn sóc mang ra thức uống phục vụ. Chàng coi đó như là cách biểu lộ tình cảm tối thiểu nhất mà Tuyết đã dành cho chàng. Chưa hết, thứ bảy tuần trước, khi chàng vừa bước vào tiệm là Tuyết đã đon đả trờ tới hỏi ngay:
“Sao hôm nay anh đến trễ vậỷ”
“À, tại kẹt xẹ”

Nhìn lại đồng hồ, chàng thấy mới mười giờ năm phút. Trễ mới năm phút. Chàng thầm nghĩ: “Mới trễ có năm phút mà nàng đã tỏ vẻ lo lắng, sốt ruột như vậy huống gì trễ một, hai tiếng đồng hồ hay cả tuần lễ! ôi, thực là tội nghiệp cho nàng. Tại sao ta bắt nàng chờ đợi mong mỏi ta suốt một tuần lễ để chỉ gặp ta có mỗi sáng thứ bảy và sáng chủ nhật! Ta đâu có thể hà tiện thì giờ với nàng như vậy!" Từ đó, chàng bắt đầu sắp xếp lại thời khóa biểu của mình. Thay vì chỉ đi uống cà phê vào mỗi cuối tuần, chàng quyết định ngày nào cũng có mặt. Bớt tiêu xài một chút, bớt ngủ một chút, là chàng có thể mang lại niềm vui và sự ấm áp cho một tâm hồn. Nghĩ vậy, chàng thấy lòng hăng hái hơn và tự nhủ dù sao chàng cũng chẳng thiệt thòi gì cho lắm.
Để có mặt tại quán cà phê mười giờ sáng mỗi ngày, chàng phải thức dậy chín giờ sáng thay vì mười hai giờ trưạ Đó là một cố gắng phi thường, vì chàng làm việc ca đêm, từ nửa đêm đến sáng; nếu phải thức dậy lúc chín giờ sáng có nghĩa là chàng chỉ mới ngủ được vài tiếng đồng hồ mà thôị Không những là cố gắng phi thường, chàng còn cho đó là một sự hy sinh rất ư lãng mạn của một kẻ có đời sống mực thước như chàng. Nhưng mặt khác, chàng cũng có cảm nghĩ rằng mình đã làm một cử chỉ ban phát cơ hội một cách cao cả cho một người phái yếu mà xét cho cùng người ấy chưa phải là đối tượng hội đủ điều kiện để được chàng đoái hoài yêu thương.



Tình yêu bấy giờ nẩy nở một cách rộn rã trong chàng. Và dường như nó chấn động đến tận tủy xương chàng những rung cảm cực mạnh đến nỗi chàng đã tự thốt với chính mình rằng: “Ồ, đây mới thực sự là tình yêụ Trước kia ta chạy theo Xuân chỉ là cái rung động nhất thời, gượng gạo mà thôi!” Xúc cảm mạnh đến thế nhưng vẫn không đủ để đẩy những hứng cảm của chàng trào vọt thành thợ Chàng đã không làm được một câu thơ nào để tặng Tuyết từ khi yêu nàng. Sự kiện đó càng làm cho chàng tin chắc vào quan điểm trước đây của mình. Rằng khi một kẻ thắng lợi trong tình cảm, hồn thơ của hắn bị chết tiệt đị Cho nên, hoặc là chọn lấy tình yêu, hoặc là ôm lấy đau thương để nẩy ra được những bài thơ bất hủ. Bây giờ, chàng không nẻ ra được câu thơ nào dù đã cắn móp cả cái nắp bút nguyên tử. Chàng thở dàị Đành thôi vậỵ Không thể có được cả hai cái vĩ đại cho cùng một kiếp ngườị Có lẽ Thượng Đế chỉ muốn chọn chàng như một tình nhân lý tưởng của các hồng nhan hơn là một thi nhân siêu tuyệt của nhân loạị Huống chi, bỏ Tuyết ngay lúc này, quả là điều khó làm.

Chàng nghĩ, chàng và Tuyết đã yêu nhau và đang tiến đến một cách êm xuôi trên con đường tình ái đầy những hứa hẹn. Không cần thiết phải mơ tưởng đến một đoạn trường dang dở. Và trong tình yêu dành cho Tuyết, chàng cảm thấy còn có một niềm trắc ẩn, một thứ bi mẫn nào đó đi kèm. Không nên bỏ Tuyết. Không nên làm nàng thất vọng. Tuyết yếu đuối, cần được yêu thương vỗ về. Không lý do nào chính đáng để chàng phải chọn một cái gì khác mà bỏ nàng cho dù cái đó có là một sự nghiệp vẻ vang trên thi đàn. Không có tình yêu (hay nói trắng ra là thất tình), chàng có thể trở thành một thi sĩ cô đơn múa bút trên những trường thi tuyệt sắc. Nhưng thiếu tình yêu (hay nói trắng ra là không được chàng yêu thương), Tuyết chỉ biết lặng câm mà ôm lấy sầu hận, đau khổ suốt đờị Nghĩ vậy, chàng thấy xốn xang thương cảm và quyết là sẽ trao đến Tuyết trọn vẹn tình yêu của mình cho dù nàng không xứng với chàng đi nữạ

Sáng hôm nay, chàng cũng có mặt đúng giờ. Chàng sắp đặt sẵn trong đầu những gì sẽ nói với Tuyết. Chàng muốn cho nàng một bất ngờ. Chắc chắn là nàng sẽ vui mừng, sửng sốt đón nhận sự bất ngờ đó. Khi Tuyết mang cà phê đến, chàng nói mà không nhìn mặt Tuyết, với giọng của một ông chủ hỏi cô thư ký riêng của mình:
“Hôm nay Tuyết rảnh không?”
Tuyết đặt cà phê lên bàn, cười một cái thật có duyên với cái miệng rộng rinh của nàng:
“Hôm naỷ Em đang bán ở đây nè.”
“ý anh hỏi chiều tối kiạ”
“À rảnh. Nhưng chi vậy anh?”
“Anh lấy vé rồi, tối nay đi xem phim nghẹ”
“Xem phim? Ơ... có lẽ em đi không được đâụ”

Chàng cau mày, ngạc nhiên tột độ. Bất ngờ quá. Nàng đã không sửng sốt. Nàng đã không vui mừng. Nàng đã không sung sướng với ân huệ chàng ban mà chính chàng mới là kẻ bất ngờ, sửng sốt vì nàng đã có vẻ như không muốn đón nhận cái cơ hội quí giá mà chàng hào phóng tạo rạ
Tuyết trở vào trong quầỵ Chàng móc thuốc ra, tay run run bật lửạ Máu nóng máu lạnh chạy loạn xạ trong ngườị Khói thuốc tuôn ra cay xé đôi mắt.
Một chốc, Tuyết lại bước ra, ngang chỗ chàng, nói ghé một câu như an ủi:
“Em sợ là em không rảnh. Để em coi lại đã nghẹ”
Rồi nàng mang thức uống đến bàn khác. Chàng lầm bầm một mình: “Khỏi, khỏi cần coi lạị Đừng hối hận nhé. Không có cơ hội khác đâụ”
Nhưng khi Tuyết quay trở vào, nhoẻn miệng cười và hỏi: “phim gì vậỷ hay không anh?” thì chàng thấy tươi tỉnh trở lại, hăm hở đáp ngay:
“Phim A Kiss Before Dying. Nghe nói hay lắm!”
“Vậy à!”

Tuyết lại vào trong. Chàng tự nghĩ có lẽ Tuyết giả đò suy nghĩ lại để chàng năn nỉ hoặc để tỏ ra mình không phải hạng con gái dễ dãị Và chàng thực không biết Tuyết nói như thế là đã có ý nhận lời mình hay chưạ Bỗng thấy một đứa bé gái chừng bốn năm tuổi từ ngoài cửa vừa chạy vừa nhảy lơn tơn đến chỗ Tuyết.
“Má,” đứa bé gọị
“Ai dẫn con ra vậỷ” Tuyết hỏị
“Ba, ba ngoài kia kìạ”


Người đàn ông ba của đứa bé đẩy cửa bước vàọ Một gã đàn ông trung niên lực lưỡng, dáng đi hiên ngang hùng dũng, không để mắt nhìn ai, bước thẳng đến chỗ Tuyết nói đôi câu gì đó với nàng rồi ẳm đứa bé gái về.
Chàng móc thêm thuốc, run tay bật lửạ Hút lia lịạ Không khí trong quán có vẻ lạnh một cách khác thường. Hút chưa hết điếu thuốc, chàng đã vội dụi tắt rồi đứng dậy, đến quầy trả tiền.
Tuyết vẫn cười rất tươi với cái miệng rộng có duyên của nàng. Nhưng bây giờ, chàng mới thực sự thấy rằng đàn bà con gái mà miệng rộng thì thật khó coi quá đỗi, chắc chắn không làm tan hoang cửa nhà thì cũng tan hoang cửa lòng chứ chẳng chơi!

Tuyết có vẻ như hiểu tim đen chàng, hơi thương hại, vừa thối tiền vừa nói:
“Cám ơn anh đã có ý mời em xem phim. Nếu có dịp khác rảnh... ”
Chưa đợi nàng nói hết câu, chàng đã quay đi rồị Ra ngoài, chàng nghĩ có lẽ chàng nên phóng xe nhanh về nhà, lấy giấy bút ra để cho mạch thơ tuôn trào một dòng miên man bất tuyệt.
Nhưng khi về đến phòng, chàng chỉ biết nằm thừ rạ Không nẻ ra được câu thơ nào dù cõi lòng tan tác. Trời có vẻ lạnh lắm ở bên ngoàị Bên trong cũng vậỵ Chàng run. Lấy thuốc ra hút và thầm nghĩ: “Có lẽ ta đã vượt ra thế giới của những kẻ đang no đủ trong tình yêu cũng như những kẻ đang đói khát tình cảm: kẻ cần thơ, kẻ cần tình. Thực ra, đâu có bắt buộc phải chọn hoặc cái này, hoặc cái kiạ Không chọn gì cả mới là khó!”


Chàng cầm hai cái vé xi-nê lên nhìn. Hình như có lờ mờ tựa đề của phim in trên vé: A Kiss Before Dying (Nụ Hôn Trước Khi Chết - có người dịch tiểu thuyết này thành Nụ Hôn của Tử Thần, chàng có thấy ngoài tiệm sách Việt bán cuốn đó nhưng mắc tiền quá, không mua). Chàng thở dàị Chàng đã chết rồi đây nhưng chưa được nụ hôn nào cả. Chàng vứt hai cái vé xi nê vào sọt rác. Nằm lăn ra giường. Ngủ.

ĐINH HÙNG * Ác Mộng

nguyễn thị hợp

Niềm khát vọng, ta ghi vào huyết sử,
Dưới chân em, Thơ lạc mất linh hồn.
Ta đau xót trong mỗi giờ tình tự,
Ta khóc nhiều cả những lúc trao hôn.

Đời tàn tạ em đừng ca hát nữa:
Hội thanh bình, cuộc sống gượng vui thôi.
Ta muốn điên vì khóe miệng em cười,
Ta cuồng dại bởi nghìn câu em nói.

Nhan sắc ấy chớ nên tàn nhẫn vội,
Tình mất rồi! oán hận đã mênh mông.
Chớ thờ ơ! Ta nổi giận vô cùng,
Nhiều ác mộng hằng len vào giấc ngủ.

Ta quên hết! Ta sẽ làm Bạo Chúa,
Sống nghìn năm ngự trị một lòng em.
Cuộc ân tình ghê rợn suốt muôn đêm
Nào ai tiếc thương gì thân mỹ nữ!

Tay mỏi ôm sẽ dày vò nhung lụa,
Phấn hương nhàu, tan tác áo xiêm bay.
Ta bắt em cười, nói, bắt em say,
Ta đòi lấy mảnh linh hồn bỡ ngỡ.

Ôi! ly rượu em dâng toàn huyết đỏ,
Ta uống cùng dòng lệ chảy đêm xưa,
Để ưu tư, hờn giận với nghi ngờ
Về hiển hiện bóng ma kề bên gối.

Bao hoan lạc! sau những giờ tội lỗi,
Một mình Em sửng sốt đứng bên giường,
Ngắm ta nằm say giấc ngủ đau thương,
Trong run sợ bỗng thấy lòng tê tái.

ĐINH HÙNG

Friday, March 16, 2012

phan bá thụy dương * CẢM ĐỀ HỌA PHẨM BIỂN TÍM















© biển tím - Lương Trường Thọ



Thuyền ai lạc bãi chiều hoang
Lẫn trong gió cát lời vàng vọng âm

Em từ Biển Tím hiện thân
Dáng tiên lồng lộng trắng ngần thịt da

Sóng cuồng, tóc rũ kiêu sa
Mắt nhung, môi thắm, nhủ hoa rạng ngời

Sắc hương mỹ nữ gọi mời
Rượu ngon chưa nhắp đã chơi vơi hồn


TRẦN VĂN NAM * truyện giả-tưởng tốc-ðộ cao làm thời gian chậm lại của nguyễn mạnh côn




Có những phức hợp trong truyện giả tưởng của Nguyễn Mạnh Côn. Ta có ấn tượng như vậy, khi đọc tác phẩm “Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn” của ông. Cuốn sách gồm nhiều truyện, nhưng truyện trên là chính và dài nhất, gồm hơn 100 trang (xuất bản tại Sài Gòn, 1960)

Tóm tắt truyện: Tháng 6 năm 1954, khi Việt Nam chưa chia đôi ở vỹ tuyến 17, có ba người lính binh chủng Nhảy Dù thuộc Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, gồm một nữ trợ tá quân đội, một bác sĩ, một hạ sĩ quan, đang thực hiện một phi vụ gần biên giới Trung Hoa. Phi cơ của họ bị bắn hạ ở vùng chiến khu Việt Minh, cách Hà Nội độ 350 cây số. Phi cơ đâm nhào xuống, họ không biết gì nữa: đó là lúc họ lọt vào một vùng không khí năng lực phi thường (có lẽ là đạt tới tốc độ ánh sáng), nhờ vậy họ lọt vào vũ trụ thuộc kích thước thứ tư.

Tại đây, họ diện kiến với Lưu Thần và Nguyễn Triệu, hai cổ nhân từ ngàn xưa cũng nhờ gặp một cơn bão tập trung sức mạnh khủng khiếp (ta cũng nên hiểu là lúc đạt tới tốc độ ánh sáng) mà hai vị đã tới vùng kích thước thứ tư ấy. Vậy đây chính là Thiên Thai với cảnh trí tuyệt vời, nước không chảy, hoa không tàn, thời gian hoàn toàn đình chỉ.

Nơi đây có nhiều bộ máy huyền vi, trong số có một trái cầu nhỏ mà rất kỳ diệu. Nó đưa con người tìm về quá khứ hay tương lai, chỉ cần tâm ý ra lệnh cho những dòng chữ hiện lên trên màn ảnh. Có lẽ tác giả muốn nói đến loại phi thuyền vũ trụ, được điều khiển với các máy điện toán (máy vi-tính), mà vào năm 1960 những thứ trên còn rất xa vời. Bác sĩ Mai và nữ trợ tá Kiên Trinh ở lại với Thiên Thai, còn hạ sĩ Khang muốn tìm về quá khứ.

Khang ra lệnh cho dòng chữ hiện lên trong trái cầu muốn trở về thế kỷ 18 (tức là muốn được chuyển đi bằng tốc độ cực nhanh làm thời gian chậm lại),và Khang đã trở về Thăng Long vừa đúng lúc cứu sống vua Quang Trung. Khang cùng với vị anh hùng Tây Sơn thực hiện tham vọng đòi lại Lưỡng Quảng đã bị Trung Hoa sáp nhập từ nhiều thế kỷ trước. Vua Quang Trung rất biết dùng người: mặc dù Khang chỉ là hạ sĩ quân đội nhưng đã là người tiến bộ của thế kỷ 20. Do đó Khang được thống lĩnh lực lượng tiền phương, tổ chức binh đội rất hiện đại thuộc thế kỷ 20, và dĩ nhiên đè bẹp quân nhà Thanh cổ lỗ thuộc thế kỷ 18, rồi thẳng đà định lật đổ chế độ phong kiến Trung Hoa để thiết lập chế độ quân chủ lập hiến. Nhưng quân Tây Sơn vấp phải sự chống cự của dân Trung Hoa. Họ áp dụng phương pháp tiêu thổ kháng chiến và trường kỳ du kích chiến. Ðến đời vua cháu ba đời của QuangTrung Ðại-đế thì cuộc tiến chiếm xứ Trung Hoa hoàn toàn thất bại vì đã bị dân Trung Hoa đông đảo làm Hán-hóa tất cả. Ðến lúc đó, Khang mới sực tỉnh biết mình đã có tham vọng mù quáng, làm tờ trình “xin nhà vua trả cho nước Việt Nam trở về vị trí cũ”.

Tính ra, Khang đã mấy đời sống nơi dương thế, trong khi đó chỉ là thời gian rất ngắn với Kiên Trinh ở chốn Thiên Thai. Ðã có lần Kiên Trinh cũng trở về trần, đi tìm người yêu là hạ sĩ Khang nơi chốn trận mạc, và đau khổ đến điên dại vì biết Khang đã là người trong thân thích gia đình của vua Quang Trung (vợ Khang là Ngọc Chân Công Chúa, em gái của Ngọc Hân Hoàng hậu). Bác sĩ Mai trên Thiên Thai thì động lòng nhớ nhà nhớ quê hương: “Nào Hà Nội với Hàng Rèn, với bờ hồ Hoàn Kiến; nào chiến khu Việt Bắc với đồng bào Thổ áo chàm...”. Tóm lại cả ba đều là những con người thuộc thế gian trần lụy: Khang với tham vọng bành trướng lãnh thổ, Kiên Trinh vì tình duyên, bác sĩ Mai vì lòng nhớ quê hương. Lưu Thần và Nguyễn Triệu biết rằng: “Những người thường, hữu tình và hiếu động, không thể sống mãi được trong Thiên Thai mà họ mơ ước, bởi lẽ họ không biết Thiên Thai chỉ là nơi con người không còn tình dục” (trang 271).

Ta nhận ra có những cái không đồng chất trong truyện. Ðầu tiên là có sự pha trộn giữa khoa học thật và khoa học thêu dệt. Ðành rằng truyện giả tưởng là bịa đặt, nhưng là bịa đặt cốt truyện, không quá đà bịa đặt luôn cả về máy móc kỹ thuật hoang đường. Làm như vậy người đọc dễ bị hoang mang, nếu không biết qua về khoa học kỹ thuật, sẽ khó phân biệt giữa những điều tác giả đã thực sự dựa vào nghiên cứu, và những cái hoàn toàn bịa thêm. Mà hoang mang thì thiếu sự thuyết phục rằng đây là sách “khoa học dự tri và giả thiết khoa học” như tác giả cho ghi ở ngoài bìa.

Những điều làm ta phấn khởi ở những đoạn viết về Thuyết Tương Ðối của Einstein: “Nếu ánh sáng đi chậm lại thì chúng ta sẽ thấy bụi cây trước rồi mới thấy rặng núi sau... Cái nhầm của cổ nhân coi vạn vật chỉ có bề dài, bề rộng, bề sâu, tức là chỉ có ba kích thước, mà không biết rằng sở dĩ người ta trông thấy ba kích thước ấy là nhờ có ánh sáng. Tùy sức ánh sáng đi nhanh hay chậm, tùy con đường từ ta đến cảnh vật xa hay gần mà ta tức khắc trông thấy vạn vật, hay chỉ trông thấy dần dần... Cảnh vật chung quanh ta tưởng rằng nhất định như thế mà thật ra có thể đổi khác (Thấy không khác vì tốc độ ánh sáng ở cõi ta là một hằng số)...Einstein đã biết rằng khi một vật di động càng nhanh, càng tới gần tốc độ ánh sáng thì thời gian và không gian hỗ tương ảnh hưởng vào nhau, sẽ uốn cong lại chung quanh cái vật di động kia. Sự uốn cong này chính là kích thước thứ tư...” (Từ trang 183- 186)

Ðiều làm ta hoang mang như về luồng ngoại tuyến bao bọc thân thể khiến ta lọt vào kích thước thứ tư, theo kịp tốc độ ánh sáng; về cái máy “xuyên-thời di-không ký-ảnh” thấy hết mọi điều xảy ra trên Trái Ðất giống như trái cầu pha lê của các phù thủy trong truyện cổ tích Tây Phương; về viên thuốc kết tinh của ánh sáng thay thế cho thực phẩm trần gian...

Những chỗ khác, tác giả viết nhiều đoạn hay về lịch sử. Như một đạo quân vượt biên thì không thể lấy danh nghĩa gì để thu phục quần chúng, do đó quân Tây Sơn bị lao đao khi đối phó phương pháp tiêu thổ kháng chiến của người Tàu. Như bài học đã từng xảy ra cho một đạo quân viễn chinh trên một lục địa bao la với dân số quá đông như nước Trung Hoa. (Có lẽ tác giả liên tưởng đến trường hợp Mông Cổ xâm lăng và cai trị nước Tàu mà rốt cuộc là bị Hán-hóa). Nội việc phải dùng Hán-văn để giao tiếp cho thuận tiện với quần chúng Trung Hoa là cách lần lần thiểu số bị đa số đồng hóa: “lúc ban đầu còn dùng Quốc-văn, về sau càng ngày càng dùng nhiều Hán-văn cho thuận tiện... Ngót một triệu người Việt phân tán đi cai quản hơn mười ngàn thị trấn, và chiếm đóng hơn ba mươi ngàn đồn binh” (trang 265).

Sự pha trộn không đồng chất rõ ràng hơn hết là lối viết biên khảo và lối viết văn chương. Cuốn sách nặng phần trình bày kiến thức về khoa học để dựa vào đó mà lồng truyện giả tưởng. Ta nhận ra có sự bịa đặt về cốt truyện nhưng thiếu chất huyền ảo, dù tác giả lồng vào đó huyền truyện Ðông Phương nơi chốn Thiên Thai. Hình như như tác giả không chú trọng lắm việc “làm văn chương”, không lộ rõ bút-pháp.

Ngoài kiến thức khoa học, còn kiến thức về lịch sử và kiến thức triết lý. Thiết nghĩ những đoạn về trận mạc giữa quân Tây Sơn và quân nhà Thanh trên đất Trung Hoa bao la đáng là một dịp viết những trang hùng tráng trong bối cảnh địa lý vĩ đại, tương tự như cuộc dàn binh của Nã Phá Luân khi tiến đánh vào đất Nga (mà ta thấy qua màn ảnh đại vĩ tuyến, thực hiện cuốn tiểu thuyết “Chiến Tranh Và Hòa Bình” của Leon Tolstoi). Thiết nghĩ những đoạn khi Kiên Trinh điên dại đi tìm Khang ở chốn ba quân, nếu bằng lối văn chương thiên về xúc-cảm như Mai Thảo, thì đã là một dịp viết thành những trang dị-thường thiên về nghệ-thuật kiểu “Người Ðiên Dưới Chân Sườn Tam Ðảo”: người điên lúc nguy khốn lại tỉnh trí, chạy phất phơ với tấm bao-tải choàng trên người, “dềnh-dàng chuệnh-choạng” ven sườn núi, cốt làm đích nhắm cho quân Pháp bắn gục ngã, cốt đánh lạc hướng để những người thân trong gia đình chạy thoát cuộc truy lùng, thời quân Pháp mở những cuộc bố ráp làng xóm tình nghi.

Kết hợp kiến thức về khoa học của “Thuyết Tương Ðối” với huyền truyện “Lưu Nguyễn Lạc Thiên Thai”; làm lộ ra một điểm mà bấy lâu ta không thắc mắc trong truyện cổ: tại sao có thể lạc vào chốn thời gian đình chỉ. Tác giả giải thích; đó là khi phi cơ rớt và khi gặp bão họ lọt vào một vùng năng lực phi thường, và ta hiểu đó chính là lúc đạt tới tốc độ ánh sáng. Thiên Thai hay vũ trụ thuộc kích thước thứ tư không ở đâu xa: “Bọn ta ở đây vẫn là ở trên mặt đất, nghĩa là vẫn cùng một không gian, với đời sống dương thế, nhưng nhờ có tốc độ ánh sáng thay đổi nên có thể lẫn lộn vào nhau, chồng chất lên nhau mà không biết. Trong ánh sáng đi nhanh hơn lên 90 ngàn lần, cả một vũ trụ sở tại của chúng ta sẽ trở thành vô hình” (trang 187).

Nói chung, quá nhiều kiến thức làm cho cuốn sách nặng nề vì viết theo kiểu biên khảo. Bằng không thì văn học ta đã có thêm một tập truyện huyền ảo, dễ cảm nhận hơn với lối văn chương thiên về rung cảm nghệ thuật, sánh vai cùng bài thơ “Tống Biệt” rất đẹp của thi sĩ Tản Ðà.

TRẦN VĂN NAM

Thursday, March 15, 2012

Tiểu Thu * ÁO LỤA VÀNG

    

Trâm ngừng tay đan, cặp mắt mơ màng nhìn qua cửa sổ. Cây phong trước nhà chỉ còn trơ những cành khẳng khiu. Hôm qua vừa đổ một trận tuyết khá dày, trời lạnh nên ngoài đường chỉ lác đác vài người bộ hành, co ro trong chiếc mùa đông dày cộm! Trâm thở dài. Bữa nay hai mươi ba tháng chạp, đưa ông Táo về trời. Chỉ còn một tuần nữa là Tết. Mùng một sẽ rơi vào ngày thứ ba. Không biết Hải có xin nghỉ được không? Ừ, mà nghỉ ở nhà để làm gì kìa? Tụi nhóc vẫn đi học bình thường. Không lẽ kiêng như hồi còn ở Việt Nam, mùng một không làm gì cả cho suốt năm được thảnh thơi. Kiêng cử cái điệu này lỡ ông Trời chơi khăm, cho "thảnh thơi" thiệt thì không biết đào đâu ra tiền để thanh toán đống bill hằng tháng? Thôi thì lại một ngày như mọi ngày!

Nhớ tới những ngày cận Tết tưng bừng ngày xưa bên quê nhà. Cái Tết cuối cùng vào năm 75. Cũng là lần cuối Trâm gặp Thanh. Trên con đường Lê Lợi đông nghịt người là người, Trâm, Hải và bé Thúy, đứa con gái đầu lòng, đang đi sắm tết, bỗng thấy Thanh đứng trước một tiệm vải, mắt lơ đãng nhìn ông đi qua bà đi lại. Trâm mừng quá kêu :

- Anh Thanh.

Thanh tươi cười:

- Ủa, Trâm đi sắm Tết hả?

Không đợi Trâm trả lời, chàng cúi xuống nựng cằm bé Thúy:

- Cháu bác dễ thương quá, mi bác Thanh một cái lấy hên coi.

Vừa lúc đó một thiếu nữ từ trong tiệm bước ra, tới bên cạnh và ôm cánh tay Thanh đầy vẻ thân mật. Chàng tươi cười giới thiệu:

-Yến, hôn thê của anh. Còn đây là Trâm em gái của Cường và đây là Hải, ông xã của Trâm.

Yến gật đầu chào vợ chồng Trâm. Bỗng dưng nàng có cảm giác chông chênh. Hôn thê của anh...hôn thê của anh... Mấy tiếng này vang lồng lộng bên tai Trâm... Ráng bình tĩnh! Trâm tự nhủ và mĩm cười chào lại Yến. Cao, mãnh mai trong chiếc áo lụa màu ngà. Cặp mắt đen láy, chiếc mũi nhỏ nhắn dễ thương trên cặp môi tô son hồng lợt. Cả người Yến toát ra một sự dịu dàng, thanh thoát. Đúng là mẫu người của Thanh và cũng là một hình ảnh trái ngược với Trâm. Con nhỏ ngổ ngáo, nghịch ngợm, luôn luôn kiếm cách chọc phá mọi người và cái miệng ăn hàng không đợi lành da non!

Trao đổi vài câu vô thưởng vô phạt, vợ chồng Trâm từ giả Yến và Thanh. Trâm dặn :

- Chừng nào đám cưới nhớ cho hay sớm sớm để em còn chuẩn bị may áo mới nghe...

Thanh nháy mắt với Trâm:

-Dĩ nhiên, Cường và Trâm sẽ là người được tin sớm nhất.

Đi ngang tiệm kem Mai Hương, Thúy đòi ăn. Cả hai đành chìu con. Ly kem chocolat bữa nay sao đắng lạ kỳ! Trâm ăn uể oải không tới nửa ly, tâm hồn lơ lửng đâu đâu, đến nỗi Hải hỏi gì đó đến hai ba lần Trâm mới giật mình. Cuối cùng nàng đành nói :

- Em nhức đầu quá, hay tụi mình về, hôm khác đi kiếm giày cho con cũng được.

Hải gật đầu, đứng dậy ra quầy trả tiền. Nhìn theo chồng, Trâm bỗng thấy giận mình quá đỗi. Bao nhiêu năm qua vẫn không quên được mối tình đầu...

...Nói cho ngay, lúc còn cắp sách đến trường ngày hai buổi, nhỏ Trâm tuy nhan sắc không thuộc vào loại chim sa cá lặn, nhưng cũng có hàng tá chàng theo dài dài. Mái tóc ngắn kiểu Sylvie Vartan ôm lấy khuôn mặt trắng hồng. Đôi mắt tuy không phải thuộc loại nai tơ ngơ ngác hay hồ thu sóng lặng như các ngài thi sĩ vẫn tả trong những vần thơ sầu rụng, nhưng đôi khi "cần" cũng biết long lanh, mơ màng hết biết! Cái mũi thon gọn hơi huếch thậtt hợp với tánh ngổ ngáo, nghịch ngợm của cô nàng. Còn những lúc Trâm muốn xin xỏ điều gì đó thì cái vẻ nũng nịu và nụ cười cầu tài của nhỏ thiệt tình không ai từ chối nỗi. Anh Cường là nạn nhân thường trực của Trâm. Lần nào trước khi móc túi, anh Cường cũng cú lên đầu Trâm một cái...nhẹ hều rồi lầu bầu:

-Cái con khỉ nhỏ này. Không hiểu kiếp trước tao có mắc nợ mày không mà hễ gặp mặt là nẹo tiền!?

Trâm chu mỏ :

- Được rồi, hổng cho, em nói xấu anh với chị Hạnh cho coi...

Cứ nghe câu thần chú này là nhỏ muốn bao nhiêu anh Cường cũng phải bầm gan tím ruột mà xì ra! Bởi chị Hạnh là chị của Trúc, con bạn nối khố của Trâm. Chị đang học năm thứ ba Dược và mấy tháng nay anh Cường đang cua chị ráo riết. Dĩ nhiên có sự hổ trợ đắc lực của hai con nhỏ "táo xọn" Trúc và Trâm. Đối phó với một cô đã mệt cầm canh, huống chi hai mạng. Thôi chịu khó thua tụi nó trước cho khỏe. Chừng nào chiếm được mục tiêu rồi "ông" sẽ cho tụi bay biết đá biết vàng. Đừng hòng "bắt địa" ông nữa!

...Trong lớp Trâm, nữ sinh chỉ có một phần ba tổng số, nên chỉ chiếm bốn bàn đầu, phần còn lại là nam sinh. Một hôm Trúc bệnh, Trâm đi học một mình. Bên phía nữ sinh giờ này mới có một mình Trâm. Đang cắm cúi dò bài vạn vật - năm thi tú tài nên đứa nào cũng học phờ râu tôm- chợt có tiếng hỏi:

-Sao bữa nay Trâm đi học sớm vậy?

Trâm ngạc nhiên ngẩng lên, thì ra Dũng. Muốn tới chỗ ngồi, anh chàng phải đi ngang qua bàn của Trâm. Tuy cùng lớp nhưng Dũng phải hơn Trâm ít ra hai tuổi và có tiếng là nghiêm nghị. Nhỏ không trả lời chỉ mĩm cười rồi cúi xuống tiếp tục dò bài. Tưởng chỉ có vậy. Hai hôm sau trong hộc bàn có một phong bì đề tên Trâm. Cho lẹ vô cặp, kẻo Đài phát thanh vô tuyến truyền...miệng tên Kim Phượng ngồi bên cạnh nhìn thấy là cả lớp sẽ biết hết trơn!

Tan trường về đến nhà, chưa kịp cởi áo dài Trâm rút vội phong thơ ra coi. Quái, sao không có tên người gởi? Nhỏ nhíu mày thử đoán mò: Vũ? Không, tên này chỉ thích nói bóng gió, hoặc nhờ chị Kim "chuyển lời" cho Trâm chớ không có khiếu viết thơ tình! Vũ thường bét lớp về việt văn và được nhỏ Trúc gắn cho cái biệt danh "Vũ Tình Gởi". Sơn? Chắc cũng không phải. Tên này chuyên môn nhìn lén Trâm, mỗi lần nhỏ nhìn lại là hắn vội vàng ngó chỗ khác. Không bao giờ dám thổ lộ dù những lời bóng gió! Trúc gắn cho hắn cái tên "Sơn Tình Câm". Hưng? Có thể . Tên này khoái viết thơ lắm mà. Có lần hắn gởi cho Trâm một lá thơ dài 17 trang. Chữ nhỏ chi chít đến nổi Trúc và Trâm đọc muốn mờ con mắt luôn. Bao giờ Trâm và Trúc cũng đồng lòng...mổ xẻ tới nơi tới chốn những cánh thư tình xanh đỏ tím vàng mà hai cô nhận được! Tốn bao nhiêu thì giờ và giấy mực đó, chỉ để nói cho Trâm biết là hắn yêu Trâm! Nhỏ Trúc bèn gán cho cái tên" Hưng Văn Tự" - có nghĩa là dài dòng văn tự!- Nhưng trên bao thơ không phải chữ của Hưng. Cuối cùng Trâm rút mấy tờ giấy pelure màu xanh da trời ra, lật đàng sau xem chữ ký. A ha, té ra anh chàng Dũng! Trâm sững sốt, không ngờ anh chàng coi nghiêm nghị đạo mạo, thường ngày chưa bao giờ thấy nói chuyện với cô nào trong lớp (trừ buổi sáng hôm đó...), bữa nay lại cả gan, dám viết thơ cho Trâm. Trong thơ Dũng thố lộ là có rất nhiều cảm tình tốt đẹp với Trâm vv...và vv...Nhưng có một đoạn làm nhỏ không khỏi chớp mắt cảm động:..." Trâm biết không, buổi sáng hôm đó thấy Trâm một mình nên Dũng mới dám thu hết can đảm (!) hỏi chuyện. Mặc dù Trâm không trả lời, nhưng nụ cười của Trâm làm Dũng xao xuyến suốt buổi học. Chiều về Dũng ăn cơm không được và đêm đó cũng không ngủ được. Cứ nhắm mắt là thấy nụ cười của Trâm. Dũng giống như người đang đi trên mây..."

Đọc đến đây Trâm lo sợ cho số phận của Dũng. Anh chàng đang ở trên mây, lúc té xuống đất thì chắc chắn ...hổng dzui, vì Trâm biết rõ dù rất cảm động trước tấm thịnh tình của anh chàng, nhưng cô không thể nào đáp lại được!

Nhỏ Trúc đọc xong thơ cũng lè lưỡi:

-Úi cha mẹ ơi, không ngờ nụ cười Dracula của mi mà cũng có nhiều ma lực đến thế!

Rồi nhỏ gắn ngay cho anh chàng cái tên "Dũng Đằng Vân". Đương nhiên là Dũng không bao giờ nhận được hồi âm của Trâm và ít lâu sau cũng tránh không đi ngang qua bàn của nàng. Đối với những anh chàng cùng lớp hoặc cùng tuổi, Trâm thấy lòng dững dưng. Người yêu của Trâm? Ít nhất phải hơn Trâm độ năm hoặc sáu tuổi nè, có tính khôi hài càng tốt, nhưng chắc chắn phải độ lượng.. Nhỏ không mơ mộng một túp lều tranh với hai quả tim vàng đâu nghe. Không phải ham giàu hay ham bằng cấp, nhưng mẹ vẫn nói với cái tài ăn hàng như mỏ khoét của con Trâm, đứa nào làm ít lương chắc vợ chồng chỉ có nước húp cháo cầm hơi, vì bao nhiêu tiền nó ăn hàng sạch rồi!...Mà sao cũng lạ, cậu con Ngân là dược sĩ, có nhà thuốc tây đàng hoàng, mặt mũi lại sáng sủa. Tuy là cậu nhỏ Ngân nhưng út ít, nên chỉ hơn tụi Trâm sáu, bảy tuổi gì đó. Hôm nào làm về sớm là Định vác "ếch bà" đến đậu trước cửa trường, đợi tụi Trâm ra là tà tà chạy theo. Ban đầu Trâm không để ý, cho đến hôm đi về một mình, vì nhỏ Trúc đã lặn trước với kép, Định rà xe bên cạnh :

- Trâm lên xe...anh đưa về.

Nhỏ giậtt mình chới với, trống ngực đánh ầm ầm như trống trận...Mặc cho Định lải nhải, Trâm cắm cúi đi không trả lời một tiếng. Tuy có tiếng là ngổ ngáo, nhưng bữa nay cu ky một mình, nhỏ...sợ! Từ đó mỗi lần có Định tà tà theo bên cạnh là Trâm tỏ vẻ khó chịu ra mặt. Riết rồi Ngân cũng biết và đùng đùng về mét mẹ:

- Cậu út kỳ quá, cứ đeo theo con Trâm hoài hà. Mẹ la cậu đi mẹ.

Ai ngờ bà già trợn mắt:

- Con nhỏ này dô diên chưa! Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta ngắm. Cậu mày chưa vợ, con Trâm chưa chồng. Nó thương thì theo, chớ kỳ cái nổi gì?

Nhỏ Ngân bị mẹ xát xà bông thì tịt ngòi, nhưng cũng cố lầu bầu:

- Xí, bộ cậu út muốn con kêu nhỏ Trâm bằng mợ hả? Còn lâu!

May cho Ngân là Trâm không hề có ý định làm mợ của nó...

Năm đó Trâm, Trúc đề đậu Tú tài. Thấy Trâm học cực, lại nhân dịp sinh nhật thứ mười tám, mẹ cho mở party mời bạn bè. Tụi bạn Trâm biết Thanh là bạn thân của anh Cường nên xúi Trâm mời anh đến dự. Thanh là một nhạc sĩ trẻ đang nổi tiếng như cồn. Nhạc của anh ngày nào cũng vang vang trên làn sóng điện và trên đài truyền hình. Trâm phải năn nỉ anh Cường mời dùm. Anh hứa nhưng còn thòng một câu:

- Không chắc đâu nhá. Thanh nó bận lắm. Vả lại già như tụi anh dễ thấy lạc lõng giữa đám "nhi đồng" của tụi em!

Trâm xì một tiếng:

- Tụi em mười tám tuổi rồi chớ bộ.

Trâm không hy vọng lắm, nên khi ra mở cửa, thấy Thanh đứng đó với mười tám bông hồng Baccara trên tay, Trâm kêu lên sung sướng:

- Ô anh Thanh. Cám ơn anh đến chung vui với em.

Đôi mắt nâu của anh cười với Trâm:

- Chúc Trâm một sinh nhật thật vui. Bắt đầu từ hôm nay sẽ gặp mọi sự may mắn trên đường đời. ..Muốn gì được nấy...

Trâm ôm bó hồng trên tay, cười dòn dã:

- Nếu được vậy thì hay quá, vì em muốn nhiều thứ lắm!..

Trâm lôi tay anh vào phòng khách. Anh Cường đang đấu láo với tụi bạn của Trâm, thấy Thanh vội chạy lại:

- Tớ tưởng cậu bận không đến được.

Thanh cười:

- Bận thì lúc nào chẳng bận. Nhưng sinh nhật Trâm thì đặc biệt...

Tự nhiên trái tim Trâm nhảy đến thịch một cái trong lồng ngực. Nhỏ thấy lòng mình lâng lâng và mọi người bỗng trở nên rất dễ thương. Trâm nghĩ có lẽ hôm nay sinh nhậtt mình nên mới cảm thấy sung sướng "nhiều" như vậy!...

Ban đầu các cô còn hơi ngượng, nhưng với tài nói chuyện tếu của anh Cường, không khí từ từ cởi mở. Sau đó, chính Thanh mới là cây đinh của buổi tiệc! Phe húi cua có vẻ "kỵ" Thanh, nên trong lúc đám con gái vây anh, thì anh Cường lại đấu hót rất hào hứng với mấy chàng này. Nói tới đá banh là gãi đúng chỗ ngứa của anh Cường mà lị!

Trâm lăng xăng dọn thức ăn, nhưng thỉnh thoảng "liếc" về phía anh Thanh. Coi kìa cái con Diễm cà chớn! Làm gì mà "bám sát" anh Thanh dữ vậy? Còn con khỉ Hà nữa, cứ chớp chớp cặp mắt, liếm liếm cặp môi, thấy ghét! Con nhỏ Nga miệng "cá trèn bầu" mà cứ toét ra cười. Kỳ thiệt, cái đám bạn mà chỉ mới lúc nảy Trâm thấy dễ thương, sao bây giờ biến thành dễ ghét quá sức!

Trâm vội lấy một dĩa đầy đem đến mời Thanh. Anh cắn miếng chả giò dòn rụm rồi hỏi:

- Ai làm chả giò ngon quá vậy Trâm?

-Trâm chớ ai. Anh thấy ngon thiệt hả?

Thanh gật gù:ể

- Ngon lắm. Kế vị bác gái được rồi đó...

Trâm sung sướng đỏ hồng đôi má. Bao nhiêu bực bội bỗng biến đâu mất tiêu!..

Sau khi cắt bánh, có mục văn nghệ bỏ túi. Ôm cây đàn guitare của anh Cường, Thanh hát tặng Trâm một sáng tác mới nhất của anh. Thả hồn theo tiếng hát, Trâm như đang trôi bềnh bồng trên mây...Nhiều ánh mắt ném về phía Trâm. Ghen tị lẫn ngưỡng mộ. Nhỏ thấy nhưng phớt lờ. Anh Thanh tuyệt cú mèo!..

Tiếng hát vừa dứt, tràng pháo tay nổi lên rào rào: bis, bis... nhưng anh Thanh mỉm cười, xin lỗi phải rút lui. Ngày mai anh trở về đơn vị sớm.

Khách về rồi, Trâm phụ chị người làm thu dọn bãi chiến trường. Ngang qua chiếc bình pha lê cắm 18 bông hồng Baccara, Trâm vùi mặt vào hít hít. Bông thơm lạ lùng mà lòng Trâm cũng vui lạ lùng! Cám ơn anh...

Từ đó, mỗi lần Thanh đến chơi, Trâm thấy như ngày đẹp hơn, trời xanh hơn và nắng cũng vàng hơn. Nhỏ không còn đòi kẹo, đòi bánh như trước mà lại đâm ra làm...điệu mới chết!

Bẵng đi vài tháng Thanh không tới, Trâm hỏi dò anh Cường, chỉ được tiết lộ: nó đang có chuyện buồn. Trâm đoán chắc anh đang hát bài "Anh Đưa Em Sang Sông" hay "Dứt Đường Tơ" gì gì đây.

Ba hôm sau, anh Cường đi làm chưa về. Trâm đang phụ chị người làm sửa soạn bữa cơm chiều. Có tiếng bấm chuông, Trâm ra mở cửa. Nhỏ không khỏi thấy lòng se lại khi nhìn bộ mặt hốc hác của Thanh. Trâm nói:

- Anh vô phòng khách ngồi chơi. Anh Cường sắp về rồi. Để em đi pha nước anh uống. Thanh khoác tay:

- Trâm cứ để mặc anh.

Khi bưng ly cam vắt ra phòng khách, không thấy Thanh đâu, Trâm đoán anh ra vườn. Đến bên cửa sổ vén màn nhìn ra, Trâm thấy Thanh đứng tựa lưng vào cây bông sứ già cỗi trong góc vườn. Nàng kín đáo nép sau bức màn cửa quan sát anh. Miệng ngậm điếu thuốc lá, cặp mắt thật buồn lơ đãng nhìn trời. Thanh ốm nhiều so với hôm sinh nhật Trâm. Bỗng dưng Trâm muốn đưa tay vén những sợi tóc lòa xòa phủ trên vầng trán của anh. Trâm muốn nói ngàn lời an ủi, vỗ về cặp mắt buồn vời vợi kia, để nụ cười của Thanh lại rạng rỡ như hôm nào anh đến chúc mừng Trâm. Trong lòng cô nhỏ bỗng rộn lên một tình cảm khó tả. Từ trước tới giờ Trâm chưa hề có cái "cảm giác kỳ lạ" này. Trâm chưa kịp phân tách cái cảm giác quái dị đó thì tiếng giày cồm cộp của anh Cường đã vang lên. Trâm vội quay lại:

- Có anh Thanh đang chờ anh ngoài vườn.

Anh Cường nói vậy hả rồi mở cửa hông định bước ra. Trâm dặn với theo:

- Anh mời anh Thanh ở lại ăn cơm nghe. Bữa nay có món tôm lăn bột ngon lắm. Anh Cường ờ ờ rồi bước luôn.

Cường và Thanh học chung với nhau từ tiểu học. Thanh mồ côi mẹ sớm nên hay đến nhà Cường chơi và xem ba mẹ Cường như ba mẹ mình. Bữa nay Thanh ăn uống uể oải và chỉ góp chuyện cầm chừng. Trâm phải ép:

- Ăn thêm đi. Lúc này anh ốm lắm đó. Mấy nhỏ bạn em hỏi thăm anh hoài. Tụi nó nói bản nhạc mới nhất của anh sao mà buồn thảm thiết! Tụi nó hỏi em không biết có phải tại... Vừa nói đến đây anh Cường bỗng át giọng:

- Mấy nhỏ này chỉ tổ lộn xộn! Hổng lo học cuối năm thi rớt rồi kêu xui!

Trâm chu mỏ định cãi thì Thanh đã nhìn Trâm cười gượng:

- Không có gì đâu Trâm. Chỉ tại lúc này tinh thần anh hơi...xáo trộn. Cám ơn các bạn em đã nghĩ đến anh.

Em là đứa nghĩ đến anh nhiều nhất đó. Trâm bỗng giựt mình. Gì vậy? Tại sao mình lại nghĩ đến anh Thanh nhiều nhất? Chết! không lẽ ??? Trâm lắc lắc đầu, cố xua đuổi cái "sự" mà nàng không dám nghĩ tới. Trâm len lén đưa mắt nhìn Thanh, đúng lúc chàng cũng nhìn lại. Bỗng dưng Trâm đỏ bừng mặt, tim đập loạn xạ. Trước điệu bộ lúng túng của Trâm, Thanh nhướng cặp lông mày như thầm hỏi nhỏ sao vậy? Trâm càng lúng túng, vội cầm ly nước đá lên uống để lấy lại tinh thần.

Ăn vội vàng cho hết chén cơm, Trâm đứng lên xin phép đi ra. Mẹ ngạc nhiên hỏi:

- Ủa, bữa nay sao Trâm ăn ít vậy con?

Trâm vội trả lời :

- Con no rồi mẹ. Tại lúc bốn giờ ăn chè thưng nhiều quá.

Mẹ quay qua cười với Thanh:

- Thiệt tình. Tới tuổi lấy chồng rồi mà cũng không bỏ được cái tật ăn hàng!

Thanh tủm tỉm cười nheo mắt với Trâm. Nhỏ mắc cở chạy một mạch lên lầu đóng cửa lại. Ngồi trước bàn học Trâm cố định thần. Bao nhiêu ý nghĩ lộn xộn trong đầu: Tại sao mấy tháng nay mình hay nghĩ đến anh?... Mỗi khi anh đến lòng mình lại rộn ràng khó tả?...Thôi đúng rồi, mình đã yêu anh Thanh! Trâm nhắm mắt lập đi lập lại mấy tiếng này, vừa sung sướng lại vừa sợ hãi! Nhưng nếu anh Thanh không yêu mình? Chỉ mới nghĩ đến đó thôi, lòng Trâm đã quặn thắt như bị cắt ruột! Anh Cường đã từng nói thằng Thanh có số đào hoa quá trời. Thấy mấy cô đeo nó mà bắt thèm! Trâm đã gặp vài cô gọi là "bạn gái suông thôi mờ" của anh, cô nào cũng tóc dài lả lướt, áo tơ dịu dàng...Nhỏ gật gù: mẹ cũng có lý khi giảng mô ran" yểu điệu thục nữ quân tử háo cầu", con gái như cô ai dám rước! Lúc đó sao Trâm thấy mẹ cổ lổ sĩ cách gì. Té ra người xưa nói câu nào trúng phóc câu đó. Vậy chỉ còn con đường duy nhất. ..

Từ đó, chú Sồi của tiệm uốn tóc Lyly ngoài đường Phan Đình Phùng tháng tháng không còn gặp cô Trâm nữa. Trâm nhịn ăn quà để may hai cái áo lụa. Một màu ngà có chữ thọ tròn, một màu vàng tươi tơ trời, nổi bông mai lan cúc trúc. Quần tây áo đầm được cẩn thận xếp vào đáy tủ. Cái màn đi đứng mới là khổ! Trâm phải đội cuốn tự điển dày cộm lên đầu để tập đi thật dịu dàng, khoan thai. Trâm thay đổi đến nỗi tụi bạn phải ngạc nhiên. Trúc tra vấn:

- Khai thiệt đi. Có "vấn đề" gì mà mày thay đổi tới 360 độ hả nhỏ? Tao nghi quá... chắc em đã...?

Trâm mắc cở đập vai Trúc:

- Con khỉ chỉ đoán mò. Có gì tao đã cho mày hay rồi.

Trúc vẫn không chịu thua:

- Nhưng lúc này tao thấy mày kỳ kỳ. Khi vui khi buồn, khi thì như đang ở trên mây. Tóm lại mày không còn... như xưa!

Trâm ngập ngừng một phút, định thổ lộ với Trúc nhưng lại thôi. Chưa tới lúc. Liên hệ giữa Trâm và Thanh không có gì thay đổi. Anh vẫn đến chơi và đã vui vẻ trở lại. Trâm cũng tỏ ra săn sóc anh hơn trước. Nàng học mẹ nhiều món ngon để đãi Thanh (Một nhà tư tưởng lớn đã từng phán: Muốn chinh phục trái tim người đàn ông, hãy chinh phục cái bao tử của họ trước!). Trâm tìm mọi cách cho anh để ý đến sự thay đổi của của nàng, nhưng hình như Thanh không thấy gì hết!

Đến hôm Trâm và Trúc hẹn nhau đi ciné. Thanh đến bất chợt thấy Trâm từ trên lầu đi xuống. Mái tóc tơ mềm óng mượt chấm vai. Tà áo lụa vàng quấn quít đôi chân. Thanh trợn tròn mắt:

- Ô, công chúa bữa nay xinh quá. Điệu này chắc mấy chàng phải sắp hàng xin làm quen với Trâm? Ờ, mà sao tới giờ này anh cũng chưa được Trâm giới thiệu bạn trai cho anh biết vậy kìa... Trâm bực bội ngang:

- Em thì ai mà thèm! Còn anh nữa, có khi nào anh giới thiệu người yêu của anh cho em biết đâu?

Mắt Thanh chợt sáng lên:

- Sắp rồi đó. Lần này nghiêm chỉnh. Anh sẽ đưa chị Huyền tới ra mắt cả nhà...

Trời sập xống lúc này chắc cũng không làm Trâm kinh hoàng hơn! Mặt Trâm tái nhợt. Thì ra mọi cố gắng của nàng từ trước tới nay chỉ là công dã tràng!!!

Cảm thấy nước mắt sắp trào ra, Trâm lôi tay nhỏ Trúc, mắt không dám nhìn Thanh:

- Anh ngồi chơi, anh Cường sắp về tới rồi. Tụi em đi ciné nhé.

Ra ngoài leo lên yên sau chiếc xe solex của Trúc, lòng Trâm rối bời.Trúc hỏi hai ba lần không thấy Trâm trả lời, ngạc nhiên ngoáy cổ lại nhìn, thấy hai má bạn đầm đìa nước mắt, nhỏ chợt hiểu, rồi thở dài:

- Tao biết ngay mà. Mày yêu anh Thanh phải không? Thôi nín đi, người ta nhìn kìa . Bây giờ về nhà tao, chớ mặt mũi mày tèm lem đi chơi sao được.

Trúc quay hướng xe về nhà. Vào đến phòng đóng cửa lại là Trâm để cho nước mắt tuôn ra. Trúc ôm đầu Trâm vỗ về:

- Khóc đi, khóc cho hả...

Khóc một hơi, Trâm lau nước mắt nhưng vẫn tức tưởi:

- Tao khờ thiệt! Nhưng mà mày biết mà, chuyện đó tới tự nhiên, tao không sao cưỡng được, dù trong thâm tâm tao vẫn biết anh Thanh chỉ xem tao như em gái...chung quanh anh có hàng tá người đẹp chỉ chờ anh ghé mắt tới!

Trúc chợt nhớ ra:

- Trời đất, mới mấy tháng trước ảnh buồn khủng khiếp vì chuyện chị Mai. Mà bây giờ đã có chị Huyền thế vô. Tao cũng phục luôn!

Trâm giải thích:

- Theo lời anh Cường kể, anh Thanh với chị Mai yêu nhau ghê lắm. Nhưng gia đình chị chê anh Thanh chỉ là trung uý quèn. Nhạc sĩ chỉ có tiếng chớ không có tiền! Trong khi một anh kỹ sư tốt nghiệp bên Mỹ về đeo chị dính cứng. Họ còn dọa nếu anh Thanh không rút lui, một ngày đẹp trời sẽ có màn khăn gói quả mướp, xách đàn lên rừng hát cho... khỉ nghe! Anh Thanh yêu chị Mai, nhưng lần đó tự ái bị tổn thương nặng nề.

Trúc triết lý vụn:

- Có thể gia đình chị Mai cũng có lý. Theo tao thấy, mấy chàng có máu nghệ sĩ không... bảo đảm lắm! Tao nghe kể vợ mấy ổng khổ lên khổ xuống vì ghen. Người của quần chúng mà mày. Mà đôi khi cũng khó tránh, mèo nào chê mỡ? Thí dụ cụ thể: anh Thanh của mày vừa mới thất tình chị Mai, bây giờ đã có một cô Huyền thế vào cái rụp. Nhỏ liếc Trâm rồi ngập ngừng: Nếu bây giờ tình cảm mày chưa sâu đậm lắm thì ráng mà dứt. Nếu không còn khổ dài dài đó em ơi!

Trâm thở dài não nuột:

- Mày có lý. Nhưng bây giờ tao biết chắc rằng từ xưa tới nay tao không hề rung cảm với những người theo tao, vì trong lòng tao chỉ có anh Thanh...

-Tao hiểu. Trúc an ủi.Thôi hy vọng thời gian sẽ làm mày nguôi ngoai. Rồi nhỏ đổi giọng diễu:- Bây giờ mình tính chuyện hiện tại. A lê hấp, đứng lên đi rửa mặt rồi thẳng tiến ra hẽm Casino, tao bao mày một chầu bún thịt nướng. Chỉ nghe mùi thơm thôi là đủ quên hết cuộc đời!

Trâm cười gượng:

- Ừ thì bún thịt nướng. Tao đang cần quên cuộc đời... ô trọc!

... Bắt đầu từ đó Trâm thay đổi nhiều. Vui đó rồi buồn đó. Nàng không còn reo vui mỗi khi Thanh đến, trái lại thường tránh mặt chàng. Thanh chắc đang say duyên mới nên không để ý. Anh Cường còn tệ hơn. Chỉ có chị Hạnh thôi. Dưới mắt anh, Trâm chỉ là đứa -con -nít chưa - biết - gì !

...Noel năm đó nhỏ Nga mở bùm mời đám bạn cũ tới chơi. Lên Đại học mỗi đứa một phân khoa, tản lạc tùm lum. Trừ Trúc và Trâm cùng chọn Văn khoa.Trúc kéo mãi Trâm mới chịu đi... Tự dưng nàng thấy lạc lõng giữa đám người ồn ào và quay cuồng theo tiếng nhạc. Trâm đứng một mình cạnh cửa sổ nhìn ra vườn. Mùi dạ lý thơm ngát. Sát bên bờ tường, những cành hồng trĩu bông đong đưa trong bóng đêm. Có tiếng hỏi sau lưng, nhẹ nhàng:

- Xin lỗi cô Trâm. Cô không thích nhẩy sao?

Nàng giật mình quay lại. Một chàng trạc tuổi anh Cường. Cao hơn Trâm gần một cái đầu. Trong bóng tối lờ mờ, không nhìn rõ mặt, nhưng qua giọng nói và cách ăn mặc thì cũng có vẻ...tử tế! Anh chàng tự giới thiệu:

- Tôi là Hải, anh họ của Nga. Nếu không ngại, tôi xin được mời Trâm bản Rumba này ( Ngại? Tại sao ngại?). Trâm mĩm cười nhận lời. Hải đưa Trâm đi trong tiếng nhạc dìu dặt. Trâm nhận xét: nhảy khá lắm. Dở như mình mà nảy giờ chưa dẫm lên chân anh chàng lần nào. Nói ít nhưng khôi hài có duyên... Sau bản Rumba, Hải không rời Trâm nửa bước. Cuối buổi tiệc còn xin phép được tới nhà thăm. Nàng lịch sự ừ ào cho có lệ...

Trên đường chở Trâm về, Trúc mở máy:

- Cám ơn tao không nhỏ. Tối nay tao thấy mày vui quá trời. Suốt buổi tối, anh chàng Hải bám mày hơi kỹ đó nghe. Thấy vậy tao đã làm một cuộc điều tra chớp nhoáng. Vảnh lổ tai lên nghe cho kỹ nè em. Hải bà con chú bác với con Nga. Vừa xong Cao Học Hành Chánh. Thành phần c.o.c.c. nên hy vọng sẽ vô nằm ở một bộ nào đó tại Sègòn. Độc thân vui tính và rất đễ thương. Đó là theo lời con Nga, chớ tao chưa kiểm chứng. Có vài mối tình vớ vẩn. Nhưng theo tao thấy, tối nay anh chàng đã gặp đúng "mối tình lớn" rồi đó...

Trâm đập tay lên vai bạn:

- Con khỉ! Lúc nào cũng giỡn được.

Về đến nhà, lên giường nằm, nghĩ ngợi lan man một lúc, Trâm lại nghĩ đến Thanh. Quên sao được mà quên. Dáng dấp đó, nụ cười đó, cặp mắt đó đã khắc sâu vào tâm khảm của Trâm dám từ hồi con nhỏ mới lên bảy, lên tám!! Nhưng bây giờ nghĩ đến Thanh, Trâm đã bớt đau. Ừ biết đâu tác giả câu "tình chỉ đẹp khi còn dang dở..." lại không có lý? Lấy nhau rồi liệu Trâm có đương đầu nổi với cái tính bay bướm của Thanh không? Hay ba bữa, nửa tháng đã xách valy về nhà mẹ xin...tị nạn! Ghen tương, khóc lóc chắc chắn sẽ làm Trâm mau già, mau xấu. Lúc đó có gì bảo đảm Thanh sẽ không quăng bỏ Trâm như một tấm giẻ rách?...Thôi đành...Trâm bực bội úp mặt vào gối. Giấc ngủ chỉ tới khi đồng hồ dưới phòng khách gõ bong bong ba tiếng!...

Hôm sau khi Trâm mở mắt, ánh nắng đã tràn trề qua cửa sổ. Chắc phải hơn 10 giờ trưa. Nhớ tới cái hẹn đi ciné với nhỏ Trúc, Trâm lật đật nhảy xuống giường. Rửa mặt mũi xong xuôi, đang pha ly sữa chocolat thì chuông cửa reng. Tưởng Trúc tới, Trâm vừa đi ra vừa lẩm bẩm nhỏ này sao tới sớm vậy kìa? Hẹn xuất 12g30 lận mờ. Vừa mở cửa, há miệng định hỏi, Trâm ngậm lại liền vì người đứng trước mặt Trâm là...Hải! Nàng lúng túng nhìn xuống bộ quần áo ngủ. Hải cũng lúng túng không kém:

- Sẵn có việc đi ngang qua đây nên ghé vô thăm Trâm một tí. Có phiền gì không?

Trâm đã lấy lại bình tĩnh:

- Dạ không phiền gì hết. Mời anh vô nhà. Anh ngồi đây đợi Trâm chút xíu nghe.

Trâm nhờ chị người làm pha nước mời Hải rồi chạy vội lên lầu thay quần áo. Trở xuống phòng khách, nàng thấy Hải đang đứng nơi cửa sổ nhìn ra vườn. Chàng khen:

- Vườn nhà Trâm nhiều hồng quá. Chắc Trâm thích hồng lắm phải không?

Trâm sắp buột miệng trả lời thích nhất là hồng Baccara, may sao thắng lại kịp! Nhớ đây là Hải chớ không phải Thanh đâu nghe nhỏ. Trâm từ tốn trả lời:

- Dạ hoa nào Trâm cũng thích, nhưng đặc biệt là hồng.

Hải cũng đồng ý. Chàng nói hồng vừa có sắc vừa có hương. Trâm tự hỏi không biết anh chàng bắt đầu thích hồng từ lúc nào? Trâm mĩm cười với ý nghĩ này và kín đáo quan sát Hải. Người tầm thước, nước da bánh mật, mặt chữ điền với vầng trán rộng. Không thể nói là đẹp trai như anh Thanh hoặc anh Cường, nhưng có một cái gì toát ra khiến người đối diện dễ có cảm tình lẫn tin cậy. Hai người nói chuyện trời trăng mây nước một lúc thì nhỏ Trúc tới. Thấy Hải, Trúc chào anh chàng rồi quay qua nháy mắt với Trâm, ỏn ẻn:

- Xin lỗi, không biết Trúc có làm phiền hai người không?

- Không, không. Sẵn có chuyện đi ngang đây nên ghé thăm cô Trâm thôi. Thôi xin phép để hai cô tự nhiên. Hải vừa nói vừa đứng dậy.

Trúc vẫn không tha:

- Uả, vậy mà Trúc tưởng...

Hải hơi đỏ mặt (sau này anh chàng thú thật với Trâm là ngay từ lúc thấy Trâm tại nhà Nga, cái dáng gầy gầy, đôi mắt hơi xa vắng và cái vẻ lạc lõng của nàng làm Hải thấy...thương liền! Đêm đó về nhà chàng nghĩ đến Trâm mãi và quyết định sáng hôm sau phải kiếm cớ đến thăm). Trâm đưa Hải ra cửa. Chàng nói nhỏ:

- Nếu Trâm cho phép, thỉnh thoảng...anh sẽ đến chơi.

Nàng lắc đầu chào thua trước sự đánh mau đánh mạnh của Hải!..

Thấy Trâm trở vô, nhỏ Trúc hất mặt:

- Tao nói có đúng phóc không nè? Anh chàng đã bị bị trúng thương nặng rồi. Không ngờ con Nga "cá ngão" mà có ông anh...uy tín quá xá. Cô nàng nhìn Trâm dò xét:

- Mày thấy sao?

Trâm nhún vai:

- Mới nói chuyện có hai lần, mi muốn tao thấy cái gì đây? Thôi dẹp chuyện đó một bên. Sửa soạn đi sắp hàng mua vé ciné là vừa.

Từ đó, không phải thỉnh thoảng mà tuần nào Hải cũng đến thăm Trâm. Lúc đầu còn kiếm cớ này cớ nọ. Riết rồi thành chuyện...tự nhiên! Anh chàng khôn khéo ra gì. Biết lấy lòng mẹ Trâm bằng cách thỉnh thoảng lái xe đưa bà đi chùa. Lâu lâu đánh vài ván cờ tướng với ba. Hiếm lắm mới "dám" thắng một trận! Ba mẹ đều khen Hải hết lời. Anh Cường cũng nói thằng nàycoi giò coi cẳng được lắm.

Trâm nguýt anh:

- Làm như anh Hải là con gà con vịt không bằng!

Anh Cường cốc đầu Trâm:

- Nhỏ khờ ơi, tao coi tướng nó đó. Thằng này có tướng... râu quặp. Đứa nào lấy nó sẽ sướng suốt đời hiểu chưa? Mày không lẹ tay coi chừng mất uổng lắm.

Nói rồi anh cười hà hà ra vẻ khoái chí. Trâm mắc cở:

- Xí, em có thương anh Hải đâu mà lấy.

Tuy nói vậy nhưng sự săn sóc, sự chìu chuộng hết lòng của Hải, khiến Trâm thấy cảm động. Nhưng chưa bao giờ nàng đi chơi một mình với Hải. Trâm sợ, dù không định nghĩa được mình sợ cái gì?

Thanh vẫn ghé chơi như thường lệ. Cái tật dậm chân tại chỗ một lần nữa khiến anh nghêu ngao "Lên Xe Tiễn Em Đi"! Lại ủ ê mất một thời gian. Có lần tức mình quá Trâm nói anh cứ lăng nhăng như vậy mai mốt thành trai già, khỏi cô nào thèm lấy anh ...

Thanh cười:

- Trâm đừng lo. Thầy bói có nói anh tuy tình duyên lận đận, nhưng tiền hung hậu kiết!

Trâm trêu coi chừng hậu kiết...lỵ thì còn khổ hơn!

Thanh nắm lọn tóc dài, bây giờ đã quá vai, của Trâm giựt giựt:

- Trâm hư, dám trù anh hả?

Miệng kêu đau quá, nhưng thật sự Trâm chỉ ao ước được ngã vào lòng anh, được anh ôm chặt trong vòng tay, dù chỉ một lần! Tim Trâm nhói đau khi cảm thấy rõ ràng tình yêu của mình đối với Thanh vẫn nguyên vẹn! Trâm bất lực...

...Hè năm đó Hải ngỏ lời cầu hôn Trâm. Bị hỏi bất ngờ Trâm đành hứa sẽ trả lời Hải sau khi suy nghĩ chín chắn.

Trâm kể Trúc nghe lời cầu hôn của Hải. Nhỏ hỏi:

- Quen Hải bấy lâu nay, cảm tình của mày đối với hắn ra sao?

Trâm trầm ngâm:

- Tao thấy Hải không có điều gì đáng chê. Đúng ra tao cũng có nhìều cảm tình với anh chàng. Nhưng cảm tình khác với tình yêu...

Trúc cắt ngang:

- Nghe đây nhỏ: tình yêu quan trọng thậtt, nhưng theo tao một người chồng tốt quan trọng hơn. Tình yêu có thể tự nó sẽ đến sau.

Trâm nghĩ thầm thiệt tình, con bé này không có một cà ram romantic nào trong máu!

- Sao mày dám chắc vậy? Trong hôn nhân không có tình yêu làm sao mà...sống?

Trúc quả quyết:

- Có gì khó. Tao cứ quan sát những người chung quanh là thấy liền tù tì! Bà Diễm chị họ tao, trước kia nằng nặc đòi lấy ông Quân. Gia đình cản, bà dọa tự tử. Chỉ mới đứa con đầu là ổng trổ mòi. Bỏ cô này bắt bà kia. Bà Diễm khổ như điên mà đâu dám than. Mình làm mình chịu mà mày. Trong khi đó chị Hà tao lại bị gia đình ép lấy anh Sinh. Lúc đầu bả khóc lóc ghê quá. Nhưng ông bà via tao nói lỡ hứa với gia đình bên kia. Mà mày biết đó, ba tao nghiêm một cây. Vậy mà bây giờ anh chị lại yêu nhau ra rít, dính nhau như sam. Sản xuất cả lũ nhi đồng. Nhà chị Hà lúc nào cũng rộn rã tiếng cười, trong khi nhà chị Diễm cứ buồn như bãi tha ma! Thành thử đối với tao, lấy được người mình yêu cũng tốt. Nhưng lấy được người yêu mình thì...khoẻ hơn. Tao chủ trương hưởng nhàn mày ơi!

Trâm gật gù:

- Ở một khía cạnh nào đó mày có lý. Nhưng tao vẫn thấy...không yên tâm.

Trúc nhìn Trâm cười cười:

- Tao thấy tốt nhất từ tình cảm tiến sang tình yêu, hơn là từ tình yêu biến thành...tình hận! Mà đàn bà thì lỗ trăm phần trăm. Mày nghĩ cho kỹ kẻo hối hận sau này. Nên nhớ tình của mày đối với anh Thanh chỉ là tình một chiều.

- Làm người khó quá hả mày!? Trâm thở dài.

Trúc gật gù:

- Nếu không sao cụ Nguyễn công Trứ lại ao ước:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo...

Sau mấy hôm liền suy nghĩ cặn kẽ, Trâm kể mẹ nghe lời cầu hôn của Hải. Dĩ nhiên bà tán đồng cả hai tay. Trâm nói con chưa nhận lời vì không yêu Hải thì mẹ cũng khuyên y như nhỏ Trúc. Bà còn thêm:

- Như ba mẹ hồi xưa còn tệ hơn. Ông bà ngoại chỉ cần tuyên bố gả mẹ cho ba, mẹ không có quyền phát biểu ý kiến, cảm tưởng gì ráo! Lễ vấn danh rồi lễ hỏi, mẹ có dám nhìn ngay mặt ba tụi bây đâu. Vậy mà ba mẹ cũng sống hạnh phúc tới bây giờ. Ăn thua mình thôi con à. Vợ chồng biết nhường nhịn mỗi người một chút là xong hết. Thằng Hải tánh hiền lành, trung hậu. Con lấy nó không khổ đâu.

Anh Cường cũng đốc vô. Không hiểu anh có biết Trâm yêu Thanh không, nhưng anh khuyên một câu làm Trâm giựt mình:

- Nếu Trâm muốn có một cuộc sống bình yên thì nên lấy thằng Hải. Những týp nghệ sĩ lãng mạn như thằng Thanh chỉ đem sóng gió đến cho gia đình. Nhỏ đủ khôn để chọn. Sau cùng Trâm đã chọn Hải.

Trước đám cưới độ một tuần, Thanh từ Biên Hòa về. Anh hỏi Trâm muốn gì cho ngày cưới. Trâm đáp không suy nghĩ Trâm chỉ muốn anh tặng hồng Baccara. Tự dưng cảm giác nghẹn ngào dâng lên khiến đôi môi Trâm run run. Cặp mắt buồn rười rượi của Trâm lần đầu dám nhìn thật sâu vào mắt Thanh. Anh có hiểu không, mười tám nụ hồng ngày nào đã mở cửa cho mối tình vô vọng của em. Em ao ước cũng chính những nụ hồng này sẽ đánh dấu ngày em vĩnh biệt mối tình đó! Trâm thấy Thanh hơi sửng sốt. Anh cũng nhìn lại Trâm đăm đăm ra chiều nghĩ ngợi. Trâm nghĩ là anh đã hiểu và Trâm hài lòng. Ít nhứt anh cũng đã hiểu. Ích lợi gì Trâm không cần biết. Điều quan trọng là anh hiểu...

Đúng hôm cưới, ngay từ sáng sớm, Thanh tới với hai chục bông hồng Baccara còn hàm tiếu. Ghì bó bông vào ngực, nước mắt chực trào ra, Trâm lắp bắp cám ơn anh. Thanh nói vội:

- Coi kìa, ngày cưới phải vui. Cười lên anh coi có đẹp không.

Trâm chớp chớp mắt, hai giọt lệ lăn dài. Không biết nghĩ sao mà Thanh rút mùi soa nhẹ nhàng lau hai gò má đẫm ướt của Trâm, rồi cố pha trò:

- Thậtt đúng câu "khấp như thiếu nữ vu qui nhật". Anh không hiểu sao cô nào đi lấy chồng, trong ngày cưới cũng khóc lóc như vậy? Coi chừng cặp mắt sưng đỏ xấu lắm. Trâm gượng cười mời anh ngồi chơi, nhưng Thanh nói có việc phải đi, hẹn tối gặp lại ở nhà hàng. Trâm đem hoa vô cắm trong phòng... Rồi trước khi rời căn phòng của một thời con gái đầy ắp kỷ niệm để lên xe hoa, một lần nữa Trâm cúi xuống âu yếm hôn mấy đóa hồng... Trúc nhìn Trâm với cặp mắt đầy trách móc:

- Nhỏ này thiệt. Nhớ bữa nay là ngày gì không? Lộn xộn!

- Tội nghiệp tao mà. Trâm cười buồn. Chỉ còn lần này rồi... nghìn trùng xa cách!

Trúc thở dài không nói gì. Nàng thấy thương bạn và hối hận khi nhớ có lần đã nói đùa "bao nhiêu người khổ vì mày. Coi chừng bị quả báo đó em!" Không biết có phải vì "lời nguyền" này mà...?

Hôm sau Hải và Trâm bay lên Đalạt một tuần. Hải đưa nàng đi cùng khắp. Thác Prenn, thác Cam Ly, hồ Than Thở...Khí hậu ĐàLạt mát mẻ, lý tưởng cho những cặp vợ chồng mới cưới. Dễ hiểu thôi, trời lạnh, muốn ấm cần phải...xích lại gần nhau tí nữa đi em (anh)!. Hải rất dịu dàng và tế nhị. Về lại Sàigòn, trước những câu hỏi đượm mùi tò mò tọc mạch của Trúc, Trâm thú thật cũng không đến nổi "khủng khiếp" như các nàng đã tưởng tượng!..Khi Trúc muốn đi sâu vào chi tiết, Trâm dẫy nẫy:

- Không được. Ráng chờ rồi sẽ biết. Nếu tao tiết lộ hết, chừng đó mi sẽ mất thú vị!...

...Cuộc sống hai vợ chồng bình thản. Hải làm ở Bộ Nội Vụ. Trâm vẫn cắp sách đến trường. Cuối tuần hoặc về nhà ba má Hải, hoặc về đằng ba mẹ Trâm. Hè tới anh Cường sẽ làm đám cưới với chị Hạnh. Trước hạnh phúc của hai người Trâm cũng cảm thấy vui lây, tuy trường hợp của nàng và Hải không giống như của "đôi chim cu" Cường- Hạnh. Thanh vẫn đến chơi với anh Cường. Một hôm Hải đánh cờ với ba trong phòng khách, Trâm đang lúi húi tỉa hồng thì Thanh đẩy cửa bước ra vườn. Trâm ngước nhìn anh. Nụ cười làm sáng cặp mắt nâu của anh khiến lòng Trâm se sắt. Thanh chỉ mấy khóm hồng:

-Trâm thấy không, từ khi Trâm xa nhà anh thấy mấy cụm hồng cũng bớt đẹp. Có lẽ nó nhớ Trâm đó... Không hiểu trời xui đất khiến gì Trâm buột miệng:

- Còn anh thì sao, có giống mấy cụm hồng này không?

Hỏi xong mới thấy mình táo bạo, mặt Trâm đỏ bừng. Thanh không trả lời mà hỏi lại:

- Lúc này Trâm mập ra, chắc có tin mừng phải không?

Trâm e lệ gật đầu:

- Dạ, hơn ba tháng rồi anh.

Thanh gật gù như nói một mình:

- Điều này chứng tỏ Trâm hạnh phúc. Anh mừng...

Hạnh phúc! Ôi hạnh phúc là điều rất mơ hồ...Trước tình yêu chân thành và nồng nàn của Hải, Trâm đáp lại với tất cả tấm lòng của một người vợ hiền thục. Chỉ vậy thôi. Hải không đòi hỏi gì hơn. Chắc anh chàng rất hạnh phúc vì lấy được người mình yêu. Trâm bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Có lẽ đó cũng là một khuôn mặt của hạnh phúc. Nhạc sĩ Vũ Thành An chẳng từng viết: đời một người con gái ước mơ đã nhiều, Trời cho không được mấy... Nếu tất cả ước mơ đều được toại nguyện thì trái đất này là một thiên đàng! Trâm đã chọn cuộc đời bình lặng và hy vọng mình không lầm. Nàng nói với Thanh giọng đượm buồn:

- Dạ, có thể là em hạnh phúc. Anh thì sao? Chừng nào cho em ăn cưới?

Thanh nhăn nhó ra vẻ đau khổ:

- Số anh là số con rệp. Các cô bỏ anh đi lấy chồng hết trơn!

Trâm ngắt lời:

- Đừng đổ tội cho các cô. Tại anh, cứ tiến một bước lại lùi hai bước!

Thanh nhìn Trâm, cặp mắt xa vắng, giọng bỗng ngậm ngùi:

- Trâm có lý. Có thể là anh đã thả mồi bắt bóng. Cũng có thể vì anh không hiểu rõ lòng mình. Lúc "Tình Yêu Thật Sự" của anh đi lấy chồng, anh hiểu ra thì quá muộn!

Lòng Trâm chùng xuống:

- Có ai uống được hai lần cùng một giòng nước, ở cùng một con sông, cũng như ly nước đổ xuống đất rồi làm sao hốt lại được hả anh?!

Thanh chưa kịp trả lời thì anh Cường gọi vào ăn cơm.

...Thúy ra đời trong sự mong chờ của mọi người. Trâm bận hơn trước nên thưa về nhà mẹ, thành cũng ít gặp Thanh hơn...Tết 74, vợ chồng Trâm đem con về chúc Tết ba mẹ, gặp Thanh cũng đến chúc Tết ông bà. Tuy ít gặp, nhưng mỗi lần gặp được bác chìu chuộng và chơi với bé hàng giờ, Thúy rất yêu bác Thanh. Nhìn con cười ngặt ngẽo trên vai chàng, Trâm nghĩ sao Thúy không là con của Thanh? Nhưng khi nhìn khuôn mặt hiền hậu của chồng, Trâm cảm thấy hối hận, tự cấm mình không được nghĩ vớ vẩn như vậy nữa... Hôm gặp Thanh ngoài phố với Yến, biết họ sắp lấy nhau, Trâm buồn hết mấy ngày. Sau cùng Trâm nghĩ khi Thanh đã thuộc hẳn về một người đàn bà khác, chắc nàng sẽ quên Thanh dễ dàng hơn...

...Cuối tháng 4 năm 75, vợ chồng Trâm may mắn thoát khỏi Việt Nam và qua định cư tại Québéc. Anh Cường và Thanh đều kẹt lại. Khi liên lạc được với bên nhà, Trâm được biết một năm sau ngày vợ chồng Trâm ra đi, Thanh cưới Yến và bây giờ họ có hai con.

Hôm nay ngồi một mình giữa mùa đông vây quanh, nơi xứ lạ, cách quê nhà hàng vạn dậm, qua bao nhiêu biến cố thăng trầm, Trâm chợt nghĩ đến Thanh. Nàng tự hỏi không biết mình có quên được chàng? Chắc là không, nhưng Trâm không còn xót xa khi nghĩ đến Thanh nữa. Chàng bây giờ chỉ còn là một kỷ niệm. Kỷ niệm nào lại không đẹp, dù là kỷ niệm buồn?!. Trâm vẫn sống bình yên trong tình yêu tuyệt vời của Hải. Nàng không dám đòi hỏi gì hơn ở cuộc đời. Bên ngoài, muôn ngàn đoá hoa trắng rụng đầy trời. Nhìn những bông tuyết lạnh lùng, Trâm chợt nhớ tới mùa thu. Mùa thu nơi đây đẹp lạ thường. Hai hàng cây trên con đường nhà Trâm rực rỡ lá vàng. Bỗng dưng nàng thèm tha thiết được mặc lại chiếc áo lụa vàng ngày xưa. Mặc chiếc áo này, đi trong nắng vàng mùa thu, giữa hai hàng cây rực rỡ vàng, gió thu lay nhẹ hai tà áo...Đôi mắt Trâm thoáng mơ màng...Ngoài kia tuyết vẫn nhẹ nhàng rơi.. Trâm thấy lòng thật thanh thản. Tình yêu năm xưa chắc vẫn còn đó, nhưng đã ngủ yên...

Thiếu Khanh * năm khúc tình dao



















Khúc tình dao thứ nhất

Em còn ngoảnh mặt làm thinh
Mặc anh phân giải dỗ dành nỉ non
Long lanh giọt tủi lăn tròn
Giọt thương lăn ngược, giọt hờn lăn xuôi
Gió đưa cây cải về trời. . .”

Khúc tình dao thứ hai

Hôm qua anh đến làm lành
Mắt em ngân ngấn cho anh bùi ngùi
Đồ chừng em đã nguôi nguôi
Anh lân la tới
Em lùi thật xa
Trời kia có lúc phong ba
Sông kia có lúc phải qua thác ghềnh
Lạy trời cho hửng nắng lên
Cho mưa tạnh giọt cho mình nguýt ta
Thương nhau cau bẩy bổ ba. . .”

Khúc tình dao thứ ba

Vì anh bằn bặt phương xa
Vì nhà em lắm người ra người vào
Vì chưa tươi tốt trầu cau
Vì cha vui chén rượu nào phải không?
Nắng mưa e má thôi hồng
Hay vì cách núi ngăn sông mỏi mòn
Mà lòng nhạt phấn phai son
Mà tình chưa chút dỗi hờn
Bỗng dưng. . .
Tay bưng dĩa muối chấm gừng. . .”

Khúc tình dao thứ tư

Rằng xưa ai nỡ làm ngơ
Tội anh tháng đợi năm chờ uổng công
Ai ngờ con sáo sang sông
Giờ em tay bế tay bồng với ai
Tóc mai sợi ngắn sợi dài. . . “

Khúc tình dao thứ năm

Một thương mẹ đặt – em ngồi
Mười thương đũa xếp thành đôi chẳng đều
Trăm thương mắt nhắm chân liều
Nghìn thương em mãi trôi theo ý người
Mấy thương mua lại nụ cười…”

Thiếu Khanh