Đặng Tiến * Ngày Xuân tìm Động hoa vàng
Nhà thơ Phạm Thiên Thư là một tác
gia dồi dào, đã in ra hằng vài ba trăm ngàn câu thơ, có
lẽ kỷ lục về số lượng trong nền văn chương tiếng
Việt, vượt xa Bùi Giáng.
Nhưng câu thơ được biết nhất,
trước sau vẫn là :
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non
tìm động hoa vàng ngủ say
Câu thơ trích
từ đoạn 41 trong trường ca Động hoa vàng, gồm 100 đoạn
4 câu, làm theo thể lục bát cổ điển, nhưng qua hàng lên
xuống theo nhiều dạng khác nhau. Tác phẩm in năm 1971,
không ghi nhà xuất bản ; bài thơ nổi tiếng nhờ Phạm
Duy phổ nhạc nhiều đoạn dưới tên Đưa em tìm động
hoa vàng cùng một lần với nhiều bài thơ khác của tác
giả : Ngày xưa Hoàng thị, Em lễ chùa này… Phạm Thiên
Thư nổi danh từ đấy.
Thơ lạ, nhạc
hay, đã đành. Nhưng còn thêm lý do tâm lý quần chúng :
những bài thơ tình này là của một nhà sư có pháp danh
Tuệ Không , tu tại Thiền viện Pháp Vân 1964-1975, Sài
Gòn. Cùng thời điểm này, hay trước đó, tu sĩ Tuệ
Không đã chuyển ngữ Kinh Phật Kim Cương ra thơ Việt,
dưới tên Qua suối mây hồng, xuất bản 1971, kèm theo hai
tùy bút văn xuôi, Ngã pháp mây nổi và Hiện hóa pháp,
viết 1969, giúp ta hiểu thêm tâm tưởng Phạm Thiên Thư,
hơn là những bài thơ đôi khi trầm bổng qua vần điệu.
Động hoa vàng
chứng tỏ tài hoa của tác giả, nhưng ít người quan tâm
đến nét thâm trầm của những câu thơ, nói chung là diễn
tả giấc mơ thoát tục của con người trong một giai đoạn
nhiễu nhương, đồng thời niềm hoài vọng hướng về
quá khứ xa xưa của dân tộc, nhớ nhung nhiều kỷ niệm
cũ càng, có thật hay hư tưởng, từ quê hương thôn dã,
một thuở thanh bình đã phôi pha.
Rằng xưa có gã từ quan…
Chúng ta tìm
hiểu câu thơ. Muốn từ quan thì phải làm quan, thường
là quan to, bậc khoa bảng, thành phần giai cấp quyền lực.
Tác giả đã hạ giá danh vọng bằng từ « gã » bình
dân, thân mật. Bình thường không ai gọi ông quan bằng «
gã ». Và « gã » đây là ai ? Suốt tập thơ Động hoa
vàng, bốn trăm câu, ta không biết. Muốn biết, ta phải
đọc Đoạn trường vô thanh, phổ biến năm sau, nhưng có
lẽ sáng cùng lúc. Câu 621 :
Học đòi theo gã Từ quan
Bên
chùa cởi áo chuộc nàng dưới hoa
Mái chèo lãng đãng
yên ba
Thần Phù xõa tóc la đà rong chơi
Rõ là chuyện
Từ Thức trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, học
trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thời Mạc. Từ Thức
làm quan tri huyện, có hôm đi chùa xem hội hoa. Một cô
gái trẻ, lỡ làm gãy hoa, bị bắt đền, Từ Thức đã «
cởi áo cừu gấm trắng » để chuộc lỗi cho người con
gái. Người xưa « khen quan huyện là người hiền đức »
1. Ngày nay ta gọi là hào hoa, thậm chí bay bướm. Sau đó,
không chịu sự ràng buộc của quan trường, Từ « bèn
cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về », rồi dong buồm chơi
cửa bể Thần Phù, lạc vào động tiên, gặp lại cô gái
vốn là tiên, tên Giáng Hương, cưới làm vợ, rồi trở
về trần. Trong động tiên cũng có « hoa vàng » lọt vào
cửa sổ :
Một đêm gió thổi nguyệt đầy
non
Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son
(Trúc
Khê dịch)
Trở lại câu
thơ « tìm động hoa vàng ngủ say ». Lên đến hang động
heo hút mà chỉ để « ngủ say » thôi ư ? Trong lối hiểu
thông thường, thì ngủ say đây là cách quên công danh,
những hệ lụy công danh, mà cũng là cách quên đời.
Người xưa có lúc lấy giấc ngủ làm hạnh phúc, như
trong bài thơ Khúc ca thích ngủ, cũng trong Truyền kỳ mạn
lục, nhắc lại giấc ngủ của danh nhân như Khổng Minh,
Trần Đoàn, Đào Tiềm, Chu Liêm Khê 2. Biết điển cố
này ta hiểu sâu sắc hơn hai câu thơ, cùng trong đoạn 41
:
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng
đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan…
« Ngủ » là
trạng thái thụ động có tính cách phủ định. « Đánh
giấc » là động từ, chủ động, niềm vui của tư duy
khi ý thức nghỉ ngơi. Giấc ngủ là giai đoạn ý thức
nhất thời chuyển mình vào cõi vô thức mà không tự
hủy. Trong tùy bút Ngã pháp mây nổi, 1969, Phạm Thiên Thư
đã ca ngợi : « Giấc ngủ say, giấc ngủ mệt thiếp,
giấc ngủ chết lịm, giấc ngủ của đạo gia. Giấc ngủ
của kẻ đau nhừ thất bại và hoan hỷ trong sự thành
công mỹ mãn nhất (…) ; một giấc ngủ không tham vọng,
không chấp chặt vì tất cả đều thất bại (…). Một
giấc ngủ không tịch, gối đầu, duỗi chân trên hai đỉnh
tuyệt vô cùng » 3.
Dĩ nhiên, giá
trị của giấc ngủ chỉ hiển hiện sau khi chúng ta đã
tỉnh dậy và nhận thức, như trong thơ vua Trần Nhân
Tông, vị tổ sư của phái Thiền Việt Nam :
Thụy khởi khải song phi
Bất
tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách
sấn hoa phi
Dịch :
Thức giấc mở song mây
Xuân về,
lòng chưa hay
Song song đôi bướm trắng
Phất phới
cạnh hoa bay
Đồng thời
chúng ta cũng không quên giấc ngủ vô tội, hồn nhiên của
trẻ thơ, có lẽ là khoảng tịch lặng đẹp nhất trần
đời.
*
Nói chung Động
hoa vàng là bài ca siêu thoát, giữa xã hội và thời sự
đảo điên, những lời thơ chấp chới đào vong vào một
giấc mơ dài, kết nối nhiều hình ảnh thi vị của một
trần gian xa cách. Quê hương thanh bình, con người an vui,
trong một nền văn hóa đã quá khứ. Hạnh phúc đơn sơ :
Ngày xưa trên giậu vàng hoa
Chiều
chiều kê chõng nằm ra ngó trời
(…)
Gây giàn thiên lý vàng hoa
Lên
non cắt cỏ lợp nhà tụ mây
Xuống đầm tát cá xâu
cây
Bới khoai vùi lửa nằm dài nghe chim.
Khách xa nhớ
đến nhau tìm
Lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà
Hứng
nước suối thết bình trà
Hái bầu nấu bát canh hoa
cười khàn
(khúc 89-97-98)
Đây chỉ là
cảnh tưởng tượng mà thôi. Thực tế chưa bao giờ thi
vị, nhất là lý tưởng như thế. Người xưa có thể kê
chõng, gây giàn thiên lý, cắt cỏ, tát cá, bới khoai vùi
lửa… nhưng khó bề nằm dài nghe chim…
Hình tượng
có vẻ là thực tế đơn giản, tuy thật sự hão huyền,
nhưng giấc mơ thì có thật trong lòng người. Nó không
xâu chuỗi thành hệ thống vần vè như vậy, nhưng rời
rạc vẫn ẩn hiện trong tâm thức mỗi người Việt, ít
ra trong một thế hệ nào đó : Chiều chiều kê chõng…
nằm dài nghe chim.
Hình ảnh có
lúc tách ra khỏi phong cảnh bình dị, cụ thể của nông
thôn. Mộng mơ thì vốn không biên giới, có khi vươn đến
cõi bờ siêu thực :
Mùa xuân mặc lá trên ngàn
Mùa
thu mặc chú bướm vàng tương tư
Động Nam hoa có thiền
sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn
Rượu tâm hư
là rượu gì, không ai biết. Nhưng rượu gì cũng là rượu.
Câu thơ thú vị chỗ đó : vừa chính thống, vừa dí dỏm.
Nét hóm hỉnh tạo không khí thoáng nhẹ, niềm vui thầm
lặng, cho toàn tập thơ, một không khí “thiền”.
Người đọc,
nhất là người nghe nhạc, chú ý đến những câu thơ
tình. Ái tình ở đây chỉ làm đề tài cho thơ hồi
tưởng. Những cô áo hồng, áo xanh phơ phất, cho dù có
mang một ít sắc màu ký ức, cũng chỉ là đề tài thi
ca, kết hợp nhuần nhuyễn với toàn bộ tập thơ. Tình
yêu ở đây là mơ mộng, trắc trở, xa cách, nhớ nhung.
Có lúc chàng kể :
Ngày xưa em chửa theo chồng
Mùa
xuân em mặc áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc da
trời
Sang đông em lại đổi dời áo hoa
Hồi khác chàng lại kể :
Từ hôm em bỏ theo chồng
Áo
trắng em cất áo hồng em mang
Thì không ai
biết cô nàng mặc áo màu gì. Thậm chí nàng có thực hay
không, hoặc nàng chỉ là ảo ảnh của thiên nhiên, thường
xuyên thay áo.
Khi tình yêu
chỉ là điển cố văn chương, như mượn ý ca dao, Phạm
Thiên Thư vẫn có thể làm được câu thơ hay:
Thôi thì em chẳng yêu tôi,
Leo
lên cành bưởi nhớ người rưng rưng
Có lúc chữ nghĩa gây nên tình cảm
thê thiết :
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì
thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe
đường
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi
Ý thơ dàn
trải, không có gì cao siêu. Nhưng lời thơ da diết chỉ
vì những thì thôi, thế thôi, luyến láy, dằn vặt.
*
Phạm Thiên
Thư sử dụng nhuần nhuyễn thể lục bát trong hình thái
cổ điển nhất. Và những tứ thơ siêu thoát cũng không
mới lạ, vì ta đã từng gặp từ thời Nguyễn Trãi ;
nhưng đến 1970 thì không mấy ai còn nhớ. Do đó Động
hoa vàng khi xuất hiện vẫn làm mới thi ca.
Vào thịnh
thời của Thơ Mới, 1940, hay thơ Tự do tại Sài gòn 1960,
không ai làm những câu :
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng
kêu rụng giữa giang hà xanh xao
(…)
Đợi nhau tàn cuộc hoa này
Đành
như cánh bướm đồi Tây hững hờ
Hình ảnh lạ lẫm, nhưng lời thơ
dân dã, thuận chiều theo lô-gíc :
Đất Nam có lão trồng hoa
Mùa
hoàng cúc nở ướp trà uống đông
Lại đem bầu ngọc
ra trồng
Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân
Ý tứ tân kỳ,
nhưng câu chữ không cầu kỳ. Lời thơ ý nhị, dí dỏm,
diễn tả được nhu cầu siêu thoát. Nó hiện đại hóa
một tứ thơ có từ Nguyễn Trãi :
Bẻ cái trúc hòng phân suối
Quét
con am để chứa mây.
Thời đại
cho phép một ngôn ngữ mới, ngông nghênh, phóng túng hơn.
Nhưng đại thể vẫn vậy.
Đánh giá một
tác phẩm, cần đặt nó vào thời điểm xuất phát.
Khoảng 1970, chiến tranh lan tràn khốc liệt, xã hội đảo
điên.Thịnh hành là lối thơ thân phận, nói lên tâm
trạng, hoàn cảnh tang tóc, bi thương. Không ai làm thơ
chơi chơi, khơi khơi, như Phạm Thiên Thư :
Có con cá mại cờ xanh
Bơi lên
nguồn cội tắm nhành suối xuân
Nửa giòng cá gặp phù
vân
Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi.
Dĩ nhiên người
ta có thể thích hay không thích, chấp nhận hay không chấp
nhận một lối sáng tác “vô lập trường” như thế.
Ngày nay ta thường dùng từ phản ánh
theo nghĩa thông thường : quy chiếu lại hình ảnh của
thực tại, theo phép hiện thực hay cách điệu. Nhưng ta
có thể dùng ngược lại : phản ánh là quy chiếu những
cảm nghĩ trái chiều với thực tế, như bề mặt, bề
trái, của một đồng tiền. Như giấc mơ thanh bình đối
lập với thực tại bom đạn.
Một đêm nằm ngủ trong mây
Nhớ
đâu tiền kiếp có cây hương trời
Cây bưởi trắng
ngát hương đời
Nụ là tay Phật chỉ người qua sông.
Trong một đoạn
hồi ký, Phạm Duy có nhắc lại giai đoạn này, với kỷ
niệm chính xác về Phạm Thiên Thư. Thời đó, 1970, để
phản ứng lại với cái “dung tục, trâng tráo” của xã
hội, đã xuất hiện khuynh hướng “về nguồn, với con
người Việt Nam, cây nhà lá vườn.”
“Đối với
tôi lúc đó, hình ảnh thiền, chùa, động hoa vàng, thật
là mát mẻ và rất cần thiết (…) Gặp tu sĩ Tuệ Không
kiêm thi sĩ Phạm Thiên Thư là tôi như thoát xác, vượt
ra khỏi những đắng cay, chán chường và bế tắc (…).
Từ đó tôi luôn luôn tìm đọc thơ của Phạm Thiên Thư
để phổ thành những bài hát thanh cao nhất của thời
đại” 4.
Nhạc phẩm
Phạm Duy đúng là những thành tựu nghệ thuật lớn lao,
được đón nhận nồng nhiệt ngay. Ngày nay, bốn mươi
năm sau, vẫn con nhiều thính giả nghe lại và yêu chuộng.
*
Bài này chỉ
đóng khung vào trường ca Động hoa vàng : nguồn gốc thi
hứng, giá trị tư tưởng, nghệ thuật, và xã hội của
nó.
Tác giả Phạm
Thiên Thư còn sáng tác nhiều thi phẩm khác, nhưng không
thành công bằng tập Động hoa vàng. Có lẽ tác giả đã
vơi nguồn thi hứng đích thực, bớt khả năng cô đúc
tình cảm, tập trung tư duy sáng tạo, cho nên những thi
phẩm về sau – rất dồi dào – phải nép vào ngôn ngữ
tài hoa. Mà tài hoa thì không đảm bảo được một hành
trình sáng tạo lâu dài. Nhưng chỉ một thi tập Động
hoa vàng cũng đánh dấu một thời đại trong thi ca, đồng
thời thăng hoa khả năng thẩm mỹ và diễn đạt diệu
vợi của thể thơ lục bát cổ truyền.
Đánh giá toàn
bộ tác phẩm Phạm Thiên Thư là việc khó khăn, chưa kể
có kẻ lạm quyền đã đánh giá cuộc đời chìm nổi của
nhà thơ, qua lắm bể dâu.
Nói ít, nhưng
đầy đủ về Phạm Thiên Thư, có mấy câu thơ Bùi Giáng
tặng ông :
Chạy quanh khu vực thần tiên
Mỗi
chân mười ngón kết liên bốn mùa
Vườn cây trái ngọt
trái chua
Mù sương hấp dẫn về chùa ngủ quên.
Đặng Tiến
Orléans, 12.10.2011
1 Nguyễn Dữ,
Truyền kỳ mạn lục, tr 106-119, nxb Văn Học, 1971, Hà Nội
2 Nguyễn Dữ,
sđd, tr.142, truyện Người tiều phu núi Na.
3 Phạm Thiên
Thư, Qua Suối Mây Hồng,1971, tr. 72-73, tái bản, nxb Văn
Nghệ, 2006, TPHCM.
4 Phạm Duy,
Nhớ, hồi ký, tr.191, nxb Phương Nam, 2005( ?), TPHCM