văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Tuesday, July 10, 2012

NGUYỄN MẠNH TRINH * GALANG MỘT THỜI MỘT ĐỜI



 


Như thói quen mỗi buổi sáng ở freeway trên con đường đến sở, tôi lơ đãng bật đài phát thanh để nghe cho đỡ đường dài. Bỗng nhiên, nghe đoạn phóng sự những người tị nạn về Galang thăm lại cảnh cũ xưa, tưởng như mình lạc vào một thế giới khác. Trước mặt, không thấy cảnh kẹt xe nữa. Suy nghĩ miên man, đi quá mấy exit mà không biết. Trong tâm, bùi ngùi cảm xúc. Hai mươi năm, qua thật mau. Một thời đã qua. Một đời tiếp nối. Tự nhiên, những người trăm năm cũ hiện về. Từ ký ức chẳng thể nào quên. Những ngày tháng ấy.
Tôi vượt biển vào tháng tám năm 1980. Cũng đã đi nhiều lần, cũng lên “cá lớn, cá nhỏ” nhiều bận, bị lừa gạt, chạy xát bất xang bang nhiều phen, rốt cuộc đến được xứ sở tạm dung vào một ngày trăng tròn. Đến đảo Kuku, khi nơi đây dân tị nạn vừa chuyển tiếp từng đợt qua đảo lớn Galang nên chỗ này hoang vu lắm. Những dãy nhà dài bỏ không, cây cỏ xanh um. Ngôi chùa ở lưng đồi, trơ những hàng cột và những tấm bạt ni- lông rách bươm phần phật trong gió. Và nghĩa địa, nơi những người tị nạn sớm bỏ dương trần, những bia gỗ sắp hàng trong cái lạnh lùng hoang dã không sinh khí.
Nhưng, phong cảnh đảo thì tuyệt đẹp. Đi sâu vào trong, có dòng suối, có những mỏm đá hữu tình. Bờ biển cát trắng, nước trong. Những ngày đầu, trăng sáng lồng lộng. Qua một hành trình mệt nhọc trên biển, bây giờ mới biết chắc mình còn sống. Lúc đầu, chân lơ lửng bềnh bồng như trên sóng. Mấy ngày sau, mới bình thường đi lại vững vàng trên mặt đất.
Thời khắc mà nhìn biển với màu xanh mù mịt thăm thẳm đã qua. Nhớ lại cảm giác,trên hành trình, nhìn đại dương xanh biền biệt một màu, nhất là vào những buổi chiều tắt nắng sao cô đơn và phập phồng chi lạ. Biển với những tay sóng thịnh nộ như lúc nào cũng muốn ra oai vùi dập với con người và con thuyền gỗ nhỏ bé. Biết bao nhiêu người vùi mình dưới đáy đại dương. Biết bao nhiêu con thuyền vỡ tan trong giông bão. Đến lúc nhìn thấy những cánh chim sao ấm áp quá. Đất đã hiện ra, và cái sống đã như trở lại.
Bây giờ, biển lại hiền hòa vỗ về bờ cát. Bây giờ, biển lại âm vang những khúc tình ca. Ngay cả khi trong những cơn mưa nhiệt đới, dù mù mịt ngoài khơi nhưng trong bờ nước ấm áp dễ chịu. Ngọn núi ở phía trong, với những đường mòn khuất khúc, với những khoảng rừng thưa, như hứa hẹn những không gian nào, nơi chốn nào cho tìm tòi khám phá. Hết rồi những ngày bị dòm ngó, bị đe dọa ở quê hương. Saigòn, có những lúc rưng rưng nhớ. Thành phố của những ngày mới lớn, của những mơ ước, của những nỗi niềm.
Ở Kuku nửa tháng rồi có tàu lớn chở qua Galang, một cuộc sống khác bắt đầu, như ở một phố nhỏ nào lạ lẫm. Một con đường trải nhựa từ bến tàu đi vào trung tâm đảo. Những dãy nhà tôn hai bên, khu Galang I. Con đường đi qua tới cuối đảo là khu Galang II đang xây cất. Lúc ấy cả đảo có chừng gần hai chục ngàn thuyền nhân, có người di chuyển từ Mã Lai, Thái Lan hoặc Hồng Kông tới. Thuyền nhân Hồng Kông thì có bề ngoài bảnh bao hơn những nơi khác đến. Nhiều lần tôi ở trong những người đại diện trại đón tiếp và cũng nhiều lần được nghe những mẫu chuyện về đời thuyền nhân. Có những nghẹn ngào cố nén xúc động khi nhắc về những người đã khuất và những chuyện thương tâm. Biển đưa người đi nhưng biển cũng vô tình giết người.
Ở đó, một cuộc sống tạm bợ lạ lùng bắt đầu. Cũng có các nơi phải đến: nơi cấp lương thực hai tuần một lần, nơi phát thư để mong có những liên hệ với thế giới bên ngoài, có văn phòng cao ủy để làm thủ tục định cư, có ban đại diện trại để lo những công tác công cộng.
Nhìn bề ngoài thì như vậy, nhưng trong thâm tâm mỗi người tị nạn chất chứa đầy ắp những nỗi niềm. Cá nhân tôi, may mắn mọi chuyện chót lọt, không phải lo lắng đến chuyện đi Mỹ nên tâm tư thoải mái hơn. Dù rằng, vẫn nghĩ về quê hương với nỗi ngậm ngùi. Còn phần đông, với mọi người là cảnh huống nóng lòng chờ đợi ngày đi định cư. Những ngày ở đảo, dài theo chuỗi đợi chờ. Có nhiều người bị ở đây cả năm nên tinh thần khá sa sút. Những cái loa, báo tin mừng, tin buồn. Người đi vui vẻ. Người ở lại, lo lắng đợi chờ.
Nhưng, có những nỗi đau đớn lớn hơn. Có những người mất mát thân nhân ngoài biển cả. “Nghĩ đắt vô cùng giá tự do”, câu thơ Thanh Nam thật là đúng. Ở barrack tôi ở có ông già người Hoa cả đại gia đình cả mấy chục người chỉ còn sót lại có hai ông cháu. Buổi tối ông cõng đứa cháu nội trên vai lủi thủi đi xem truyền hình rồi nặng nề trở về trong đêm tối trông đau đớn làm sao. Có lần ông kể trong nước mắt, cái đêm mà cả đại gia đình của ông bị lính Mã Lai áp tải lên thuyền tống ra khơi rồi tất cả bị sóng cuốn đi. Tiếng khóc nén trong lồng ngực nghe tội nghiệp. Xoa đầu đứa bé ba bốn tuổi, ông nói nếu không có nó chắc ông cũng chẳng sống làm gì. Những người như vậy, chắc đến lúc họ xuôi tay về với đất mới có thể quên lãng được nỗi đau đớn ấy.
Nếu có dịp trở lại, tôi sẽ ghé về để nhìn lại barrack mà mình đã sống gần sáu tháng. Cũng như, sẽ bồi hồi biết bao khi đứng ở cầu tầu để đón những người đến và tiễn những người đi. Con đường xuyên qua đảo, biết bao nhiêu kỷ niệm. Những hình bóng thoáng qua. Những cuộc tình vời vợi. Cũng có những nuối tiếc bâng khuâng, ngày ấy tuy đã hơn ba mươi tuổi mà sao nghe già cỗi cuộc đời. Mới đây hai mươi lăm năm. Và, những người muôn năm cũ.. Tôi chợt nhớ đến một bài hát làm tôi xúc động. Bài “Trên đảo Galang nghe người hát” của anh Trần Đình Quân, bây giờ đã khuất núi. Bài hát mà tôi đã nghe chính tác giả hát trong một cuộc họp mặt có rất đông những người viết văn làm thơ viết nhạc ở nhà tôi với tiếng đàn đệm dương cầm của chị Quỳnh Giao. Bài nhạc đã làm cho tôi rưng rưng và mắt đỏ đến
nỗi phải ra sau vườn để trấn tĩnh lại. Nốt nhạc buồn, ngôn ngữ bình dị nhưng truyền cảm, diễn tả một tam trạng mà bất cứ ai đã ở trại đảo đều cảm thấy. Hình như tôi đã thấy đôi mắt buồn vời vợi của người hát:

“Chiều qua trên đảo Galang, nghe người hát bài Kembali Ké Jakarta (trở về Jakarta). NgườiI có Jakarta, người có quê hương để trở về thăm nhà.
Chiều nay trên đảo Galang quê người xa lạ một mình nghe lòng đau. Trở về đâu. Về đâu?
Quê ta! Về đâu! Về đâu! Trở về đâu! Về đâu!?
Quê ta đó ta không được ở. Nhà ta đó ta phải bỏ đi.
Cha mẹ ta tủi buồn thương nhớ. Người yêu ta đau đớn lìa xa. Anh em ta âm thầm từ biệt. Bạn bè ta câm nín ngậm ngùi”
Điệp khúc về đâu, về đâu cứ xoáy mạnh trong tim người nghe. Về đâu bây giờ, những người đã bỏ mình trong biển cả? Về đâu bây giờ những người lưu lạc bỏ lại quê hương? Không phải một mình anh Trần Đình Quân có câu hỏi ấy, lúc đó. Mà, bây giờ, cũng có nhiều người
ngậm ngùi hát điệp khúc ấy trong hồi ức như tôi, lúc này. Sao tôi muốn gửi theo những người thuyền nhân trở về thăm lại Galang, Bidong một chút tâm tình chia sẻ. Hãy thấp giùm tôi một nén nhang nơi nghĩa trang của những người nằm lại. Hãy đi giùm tôi lên nhà
thờ trên dốc cao hay bước những bậc thang gỗ lên chùa để cầu nguyện và đa tạ đất trời. Tôi muốn cám ơn đất nước Indonesia đã dung chứa và bảo bọc chúng tôi. Tôi vẫn luôn luôn nghĩ mình là một người may mắn dù trong bất cứ hoàn cảnh ngặt nghèo nào. Làm lại cuộc đời ở tuổi trên ba mươi dù chậm nhưng vẫn còn chưa trễ. Định cư xứ người đi học, đi làm, tôi đã hiểu được cái giá mà khi mình vượt biển đã định. Cố gắng sao sống cho đúng con người, chu toàn bổn phận với chính bản thân mình, gia đình mình, đất nước mình. Có phải, đó là điều tôi thực hiện? Xin ơn trên dìu dắt tôi đi trên con đường ấy!

NMT


TƯỜNG LINH ● mùa nghiêng nẻo gió











  “chim hồng đã mỏi cánh chưa “ *
  người về hỏi lại, xin thưa cùng người :

  dài cơn giấu khóc giả cười
  những mười năm mất + những mười  năm xa

  ngu ngơ giữa cõi ta bà
  vòm trời riêng mãi la đà bóng mây

  thơ treo ngọn cỏ may gầy
  mùa nghiêng nẻo gió trả đầy tiếng xưa

  Tuong LinhSaigon 2012

(*) câu cuối bài “túy mộng du du hề” của PBTD tặng TL.

Hà Thúc Sinh * Kẻ Nào Bố Cháu & Nguồn Cơn




* Kẻ Nào Bố Cháu










Nhìn thử xem nào các cháu ngoan
Ai người trong ảnh cả nhà thương
Phải ông đeo kính ông đầu hói
Hay đứa cầm côn đứa mặt rằn
Nếu đúng lúc này ao tích nước
Bằng không mai mốt họa vào thân
Bởi thằng bố cháu quân ăn mặn
Sẽ khát đời con há hốc mồm


* Nguồn Cơn

  

(Trái sang phải) Lý Bằng, Giang Trạch Dân,
Nguyễn văn Linh, Ðỗ Mười, Phạm văn Ðồng.




Việt quận thành thì Việt quốc tan (55)
Phải chăng công ấy Linh Mười Ðồng  
Ức Trai loà mắt Nam Quan kiếm
Mạc tộc què chân Bản Giốc lùng  
Giang Lý bò đen lưng đỉnh núi
Hồ Ôn khuấy bẩn mặt gương đông
Than ôi dân nước gần trăm triệu
Biết ẩn nơi đâu một đấng hùng

Ha Thuc Sinh
__
(55) Theo nhiều nguồn tin được tiết lộ, sau khi Liên Xô sụp đổ, để cứu chế độ, cánh chóp bu cộng sản Hà Nội thời ấy đã chạy sang Tàu van xin hoà hiếu trở lạị Cuộc họp hai ngày từ mùng 3 đến 4 tháng 9 năm 1990 ở Thành Ðô, tỉnh Tứ Xuyên đã diễn ra giữa Việt cộng gồm Nguyễn văn Linh (TBT), Ðỗ Mười (chủ tịch HÐBT tức thủ tướng), và Phạm văn Ðồng (cố vấn) với Trung cộng gồm Giang Trạch Dân (TBT) và Lý Bằng (TT). Kết quả cuộc họp với nhiều nhượng bộ ở tầm bán nước của phái đoàn Việt cộng như cắt đất, dâng biển, dẫn đến những thảm họa tiếp nối có tính long lở từ đó đến nay cả thế giới đang chứng kiến.

Trần Thiện Hiệp * chuyện sâu tham nhũng nước tôi

Đinh Cường














Chủ Tịch Nước, Tổng Bí Thư
Cả hai bất lực diệt trừ tham quan
Cán bộ từ tỉnh đến làng
Từ Trung Ương đảng đến hàng Bộ, Ban
Cấu kết tham nhũng dọc ngang
Quốc doanh rút ruột trăm, ngàn tỷ đô

Công quỷ thâm thủng khổng lồ
Đô la, vàng ký chạy vô túi bà
Ô tô, biệt thự nguy nga
Con học ngoại quốc, xa hoa ngất trời
Nạn cưỡng chiếm đất kiếm lời
Văn Giang, Tiên Lãng, khắp nơi biểu tình
Tỉnh-thành-huyện-xã bất minh
Dân oan khiếu kiện, đảng mình im hơi

Lãnh đạo rủi ro hết thời
Thanh Tra, Tòa án vẻ vời bao che
An toàn hạ cánh, lui ghe
Án tuyên đại khái, phè phè rút lui
Coi dân như điếc, như đui
Cháo rau nghèo khổ ngậm ngùi miệng câm
Hở môi đàn áp, hại ngầm
Chẳng ai còn bé cái nhầm đảng ta

Danh xưng xã hội cọng hòa
Sản sinh tham nhũng nước nhà tả tơi
Toàn dân khấn đất kêu trời
Diệt sâu tham nhũng đổi đời Việt Nam

Tran Thien HiepSG mùa mưa

 
 

Monday, July 9, 2012

Tạ Quang Khôi * Ký giả nằm vùng







vũ hạnh




 






Tôi không biết chắc miền Nam trước 30 tháng 4 1975 có bao nhiêu ký giả nằm vùng cho cộng sản, tôi chỉ nhớ có mấy người. Có người tôi quen thân, cũng có người tôi chỉ gặp một vài lần mà không quen.

Người tôi quen thân nhất là Nguyễn Ngọc Lương vì Lương cùng làm đài phát thanh Saigon
với tôi nhiều năm, lại cùng quê Nam Ðịnh. Lương ở Hải Hậu, tôi ở ngay tỉnh lỵ.
Vì tình đồng hương, chúng tôi dễ thân nhau. Hồi mới gặp Lương, tôi không ngờ ông lại là một cán bộ cộng sản được gài vào Nam theo cuộc di cư năm 1954. Ông có vẻ nhà quê và ít hiểu biết. Vào cuối thập niên 1950, thuốc chữa bệnh lao phổi rất hiệu nghiệm là Streptomycine, thế mà Lương không biết. Khi tôi sang thăm ông bên Thị Nghè, thấy ông gầy và xanh xao. Tôi ngạc nhiên hỏi ông có ốm đau gì không, thì ông cho biết bị lao phổi và đang uống thuốc Bắc. Tôi rất ngạc nhiên về sự kém hiểu biết của ông. Vậy mà cũng là biên tập viên phòng bình luận đài phát
thanh Saigon. Tôi liền nói :
“Trời ơi, sao cậu lại uống thuốc Bắc ? Cậu phải đi bác sĩ hoặc vào nhà thương ngay.Thuốc Bắc làm sao chữa được ho lao.”
Quả nhiên sau một thời gian nằm bệnh viện Saint Paul, Lương khỏi bệnh. Con người như thế, ai có thể ngờ là một cán bộ cộng sản nằm vùng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ông bị công an bắt. Không phải một lần mà nhiều lần. Tôi không hiểu sao công an bắt rồi thả mà không giam giữ luôn trong tù hoặc đưa ra tòa nếu biết chắc ông hoạt động cho cộng sản ? Không những thế, ông tổng giám đốc Nha Vô Tuyến Truyến Thanh còn vào khám thăm Lương. Nhưng rồi ông không làm đài phát thanh nữa mà ra mở báo riêng, một tờ nguyệt san (tôi quên tên tờ nguyệt san này). Tòa báo ở đường Phạm Ngũ Lão và bút hiệu ông là Nguyễn Nguyên. Như vậy, chính quyền miền Nam quá khoan dung.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, Lương lộ nguyên hình là một cán bộ cộng sản trong lãnh vực báo chí. Ði đâu ông cũng ôm kè kè một chiếc cặp da đầy các bài viết. Ông thường hôi thúc tôi viết cho ông, nhưng không nói rõ sẽ đăng ở báo nào. Một hôm, Ông mở cặp lấy ra hai bài viết của hai tác giả nổi tiếng miền Nam (tôi xin phép được dấu tên hai tác giả này vì một người đã qua đời và một hiện sống ở Úc). Tôi tò mò đọc lướt qua hai bài viết. Cả hai đều bị Lương sửa bằng bút đỏ, như thầy giáo sửa bài luận văn của học trò. Thật ra, tôi cũng chưa bao giờ sửa bài học trò quá đáng như vậy. Tôi rất ngạc nhiên về sự sửa chữa ấy. Dù sao họ cũng là những tác giả đã nổi tiếng trước 1975.
Sau nhiều lần bị Lương hối thúc, tôi đành viết một truyện ngắn, tên là “Tiếng Hát Trương Chi” với mục đích bênh vực các nhà văn miền Nam cũ, cho rằng họ là những người có tài, nhưng bị chế độ mới ruồng rẫy, ghét bỏ. Khi tôi viết xong, tìm Lương thì không thấy ông đâu. Có người cho biết lúc đó ông phải về quê Hải Hậu, Nam Ðịnh, để xác nhận lại đảng tịch và cấp bậc thượng tá. Khi tôi đưa các con tôi vượt biên thì ông vẫn chưa trở lại Saigon.
Sau khi được định cư ở Mỹ, tôi lại liên lạc được với Lương qua những lá thư gửi bưu điện. Tôi biết tin ông không còn được đảng và nhà nước cộng sản trọng dụng nữa.
Ngay cả vợ ôg cũng đã bỏ ông. Bà là em gái ông Ngô Vân, chủ nhiệm nhật báo Tia Sáng ở Hà Nội trước năm 1954. Bà làm cho sở Mỹ, đáng lẽ được Mỹ bốc ra khỏi Việt Nam trước 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng vì chồng bà là cán bộ cộng sản nên bà bị Mỹ bỏ rơi. Cuối cùng Lương qua đời vì bệnh ung thư.

Người thứ hai mang tiếng nằm vùng hay thân cộng là Vũ Hạnh. Tôi quen Vũ Hạnh từ hồi cùng làm báo Ngày Nay của nhà văn Nguyễn Họat tức Hiếu Chân, Rồi sau đó lại cùng dạy ở một trường tư. Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Ðức Dũng, người Ðà Nẵng (hay Hội An ?). Theo ông Vũ Ký, một giáo sư của trường Pétrus Ký, cũng là một nhà văn, cùng quê với Vũ Hạnh, thì Hạnh đã bị chính quyền tỉnh Ðà Nẵng (hay Hội An ?) nọc ra giữa sân tòa tỉnh trưởng để đánh đòn về tội thân cộng, rồi thả ra mà không bắt giam. Quả thật tôi không biết chuyện này thực hư ra sao nhưng thắc mắc nếu đã biết Hạnh là cộng sản nằm vùng mà không bắt giam, chỉ đánh đòn thôi ? Không lẽ chính quyền miền Nam chống cộng một cách…ngây thơ như vậy ?
Dù nhiều người không ưa Vũ Hạnh, nhưng ai cũng phải công nhận ông viết văn hay. Nhiều lần ông đề nghị ông và tôi xúat bản một tờ báo lấy tên là “Ði Về Hướng Mặt Trời”. Tôi đứng tên chủ nhiệm, ông chủ bút. Tôi hiểu thâm ý của ông nên cương quyết từ chối.

Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, chính quyền cộng sản tổ chức một buổi họp mặt các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ cũ của Ðại Hàn, Hạnh và mấy cán bộ nàm vùng, như Thái Bạch, Nguyễn Ngọc Lương đều đeo súng lục bên hông. Thi sĩ Hoàng Anh Tuấn nửa đùa nửa thật nói với Hạnh :”Anh em văn nghệ chỉ quen dùng bút, chư có biết chơi súng đau.” Hạnh lườm xéo Tuấn rồi bỏ đi.

Nhưng mấy tháng sau đó, tôi tình cờ gặp Hạnh ở giữa đường. Tôi chưa kịp hỏi thăm, ông đã lắc đầu nói nhỏ :”Totalement decu !” (hoàn toàn thất vọng). Tôi không dám có ý kiến gì vì khi ở với cộng sản, ta không thể tin bất cứ ai trừ những người thân trong gia đình. Sau đó ít lâu, một người bạn giầu có của tôi cho biết anh cộng tác với Vũ hạnh để mở một gánh hát cải lương. Tôi không quan tâm mấy nên không hỏi thêm điều gì, vì lúc đó vợ tôi đang ốm nặng. Dường như gánh hát thất bại nên ít lâu sau lại nghe tin Hạnh lập xưởng làm xà bông. Tất nhiên cũng phải có người bỏ vốn. Tôi thắc mắc tại sao Hạnh thân cộng, nằm vùng mà sau khi chiếm được miền Nam cộng sản không dùng Hạnh khiến ông long đong phải làm hết việc này đén việc khác để kiếm sống ? Bẵng đi một thời gian khá lâu, khi tôi đang tìm đường vượt biên, một hôm tôi tình cờ gặp Trần Phong Giao ở nhà bưu điện Saigon. Giao là chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ nguyệt san Văn trước năm 1975. Giao và tôi ngoài tình bạn văn nghệ còn có tình đồng hương nữa. Chúng tôi cùng sinh trưởng ở Nam Ðịnh. Vì lâu không gặp nhau, chúng tôi ngồi ngay xuống bậc thềm nhà bưu điện để nói chuyện. Chúng tôi nói đủ thứ chuyện, cuối cùng tôi thì thầm cho Giao biết tôi đang tìm đường vượt biên. Ông liền hỏi tôi có biết Vũ Hạnh cũng đang tìm đường vượt biên không ? Tôi ngạc nhiên hỏi
”Nó mà cũng vượt biên ?”
Giao lắc đầu và cho biết Hạnh tìm đường cho các con Hạnh thôi. Rồi Giao cười, nửa đùa nửa thật :
“Thằng ấy mà ra khỏi nước thế nào cũng bị người ta quẳng xuống biển.”
Rồi Giao nói thêm :
“Ngay cả việc giới thiệu cho con nó đi thôi cũng không dám, lỡ nó tố cáo với công an tổ chức vượt biên thì mệt lắm.”
Có một điều rất ngạc nhiên là từ khi ra khỏi nước, sống ở hải ngoại, tôi không hề nghe ai nhắc tới Vũ Hạnh nữa, kể cả những bạn văn nghệ còn sống ở Việt Nam. Cho đến nay tôi không hiểu Hạnh còn sống hay đã chết ?
Nhà văn thứ ba bị coi là nằm vùng cho cộng sản là Ngọc Linh. Khi viết truyện cho nhật báo Hồa Bình, cứ hai ba hôm tôi lại phải ghé tòa báo để đưa bài. Lần nào tôi cũng gặp Ngọc Linh. Ông làm thường trực trong ban biên tập, đồng thời viết cả truyện dài cho báo. Ông là một nhà văn có nhiều độc giả hâm mộ. Ông có truyện đã được đưa lên sân khấu cải lương và quay thành phim, như truyện “Ðôi Mắt Người Xưa”. Một hôm tôi ghé tòa soạn Chính Luận để đưa bài, một nhân viên tòa soạn hỏi tôi có biết Ngọc Linh là cộng sản nằm vùng không ? Tôi hơi ngạc nhiên vì quả thật tôi không bao giờ nghĩ rằng Ngọc Linh lại có thể là một cán bộ cộng sản. Ông có một cuộc sống rất sung túc và rất…tiểu tư sản. Ông đi xe hơi Nhật mới toanh, là chủ một phòng tập dưỡng sinh (không rõ là Tai chi hay Yoga ?)
Truyện ông viết rất ướt át đày tình cảm. Ông biết rõ lập trường chống cộng của tôi mà vẫn thân mật với tôi. Ông đã giới thiệu nhà xuất bản in sách của tôi.
Rồi chỉ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông mới tỏ ra thân cộng. Ông tích cực họat động cho hội Văn Nghệ Sĩ cộng sản. Một hôm, tôi tình cờ gặp ông giữa đường, lúc đó ông không còn lái xe hơi nữa mà đi xe đạp, tôi vui vẻ chào ông mà ông ngoảnh mặt làm ngơ như chưa từng biết tôi là ai. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng hiểu ra ngay. Tôi không buồn mà cũng chẳng giận ông. Ít lâu sau thì nghe tin ông bị tai biến mạch máu não và qua đời.
Trong giới văn nghệ Saigon, người ta cũng đồn nhà văn Sơn Nam nằm vùng. Tôi không thân với Sơn Nam, chỉ thỉnh thoảng gặp nhau ở tòa báo Chính Luận khi cung đến đưa bài. Chúng tôi lạnh nhạt chào nhau một cách xã giao. Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, tôi thấy ông cũng không có gì thay đổi.
Người cuối cùng nằm vùng trong làng báo Saigon mà tôi biết là Thái Bạch. Tôi chỉ gặp Thái Bạch có hai lần. Lần thứ nhất ở tòa báo Tự do vào năm 1955, rồi ông mất tích luôn. Sau 30 tháng 4 năm 1975, trong buổi họp các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ Ðại Hàn cũ, ông xuất hiện và có đeo súng lục bên hông với vẻ mặt vênh váo.
Tổng số những nhà văn nhà báo nằm vùng cho cộng sản hay thân cộng, tôi chỉ biết có thế thôi. Nhưng tôi thắc mắc về hai chữ “nằm vùng”. Theo tôi hiểu thì “nằm vùng” là có hoạt động cho cộng sản, chống lại chính quyền quốc gia miền Nam. Ngay cả Nguyễn Ngọc Lương là người được cộng sản gài theo dân Bắc di cư vào Nam và có cấp bậc thượng tá và là đảng viên đảng cộng sản, tôi cũng không thấy có hoạt động gì có lợi cho cộng sản. Không những thế, ông còn làm trong phòng bình luận của đài phát thanh Saigon. Nhân viên của phòng này có nhiệm vụ viết những bài ca tụng hoặc giải thích mọi việc làm của chính phủ. Một biên tập viên của chính phòng đó một hôm nói đùa với tôi rằng họ làm công việc “mẹ hát conkhen hay”. Lương cũng phải viết những bài theo lập trường đó, không thể viết ngược lại được. Người ta chỉ biết ông là cộng sản khi ông bị công an Saigon bắt mấy lần.


Ðối với những người “nằm vùng” hay thân cộng, tôi không được đọc một bài viết chống chính phủ quốc gia hay ca tụng cộng sản nào. Như vậy, có thật họ nằm vùng hay chỉ ngấm ngầm thân cộng thôi ? Nếu chỉ là thân cộng hay có cảm tình với cộng sản thì tôi dám nói rằng trước 30 tháng 4 năm 1975, đa số người Nam có cảm tình với cộng sản vì nhiều gia đình có thân nhân tập kết ra Bắc. Rồi chỉ sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm miền Nam và giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam họ mới vỡ mộng. Vào cuối năm 1975, một hôm nhà văn Phan Nghị đến thăm tôi. Khi tôi ra mở cửa, ông toe toét cười nói oang oang :
“Mày biết không ? Bây giờ miền Nam hết người mù rồi.”
Tôi chưa hiểu ý ông định nói gì thì ông đã tiếp :
“Chúng nó sáng mắt rồi, mày ạ.”

TQK

Sunday, July 8, 2012

ĐINH TỪ THỨC chuyển ngữ: Yêu Nước Kiểu Tầu


Lí Thành Bành (Li Chengpeng) là một nhà văn và blogger có tới trên năm triệu người theo dõi trên mạng Sina Weibo, giống như Twitter của Trung Quốc. Bài này được viết theo một bài dài hơn đã được post trên mạng vào đầu tháng Năm 2012, nhân dịp kỷ niệm năm thứ tư cuộc động đất Tứ Xuyên. Nó đã được Jane Weizhen Pan dịch từ Hoa ngữ sang Anh ngữ.

tranh họa sĩ Rừng

Bắc Kinh – Những cây cải dầu tại tỉnh Tứ Xuyên nở hoa muộn một tháng vào năm 2008. Dân chúng không quan tâm nhiều về điều đó. Vào thời ấy, dân chúng vẫn tin tưởng các chuyên viên, và các chuyên viên nói rằng nở hoa muộn là chuyện thường. Họ còn nói rằng việc hàng ngàn con ếch bỗng nhiên nhảy ra đường là chuyện thường.
Hôm ấy, tôi đang ngồi viết bài trong phòng làm việc ở Thành Đô. Khi sàn nhà bắt đầu rung chuyển, tôi tưởng đó chỉ là do con mèo quấy phá. Tôi chỉ biết là động đất khi sách trên kệ bắt đầu rớt xuống.
Nhà cửa bị lắc lư. Cột đèn lay chuyển. Một vầng sáng đáng sợ ở chân trời. Tôi chạy xuống cầu thang. Sàn nhà nhấp nhô như nước sôi. Cùng với láng giềng, cuối cùng tôi tới được nơi an toàn là một chỗ trống ở bên ngoài tòa nhà là nơi ở của chúng tôi.
Tin tức đến chậm. Nhiều người chết ở khu vực Dujiangyan là tâm điểm của động đất. Đường tới Beichuan, một huyện gần với trung tâm, bị cắt đứt. Máu dự trữ gần cạn.
Tôi tự nghĩ, “tổ quốc đang kêu gọi”. “Đây là lúc chúng tôi phải xây dựng một Trường Thành Mới bằng thịt và máu của chúng tôi”. Quốc ca vang lên trong đầu tôi. Sáng hôm sau tôi lên đường tới Beichuan với hai người bạn.
Lúc bấy giờ tôi không biết, nhưng đó chính là những ngày yêu nước kiểu Tầu cuối cùng của tôi.
Tôi đến thị trấn Beichuan và hoang mang khi đứng trước cảnh đổ nát của ngôi trường Trung Học Số 1 của Beichuan. Tôi không thể hiểu được tại sao gạch vữa đổ nát của ngôi trường năm tầng mới toanh bao phủ một khu rộng bằng nửa cái sân bóng rổ, trong khi những kiến trúc bên cạnh được xây nhiều thập niên trước vẫn còn đứng nguyên. Tôi không thể hiểu tại sao những tòa nhà mới có vẻ dễ vỡ như bánh đa. Tôi không thể hiểu tại sao ngay cả những học sinh ở tầng trệt của ngôi trường cũng có vẻ không thể chạy thoát đến nơi an toàn.
Tôi nhìn thấy một bà đang lần mò quanh một đống những mảnh vụn. Chỉ vào một chỗ, bà lẩm bẩm: “Nhìn kìa, đó là con tôi. Tay nó vẫn còn đang cử động. Nó vẫn còn sống nhưng tôi không thể kéo nó ra”. Tôi có thể nhìn thấy phía dưới cái áo hoa của một đứa bé gái, và cả những đứa khác nữa. Nhiều đứa trong đó vẫn còn cử động. Nhưng toán binh sĩ cứu hộ cấm chúng tôi tới gần nơi đổ nát, sợ sẽ đổ thêm. Chúng tôi đứng vô vọng. Cuối cùng, đám trẻ hết cử động.
Tôi là một người yêu nước kiểu mẫu trước năm 2008. Tôi tin rằng “những lực lượng thù địch” chịu trách nhiệm về hầu hết những điều bất hạnh của dân tộc tôi. Là một người tường thuật các trận túc cầu giữa Nhật Bản và Trung Quốc, tôi từng viết những câu như, “Chặt đầu bọn quỷ Nhật”. Tôi nhìn những đấu thủ túc cầu Nhật Bản như là hậu duệ của những người lính Nhật đã tàn sát dã man những thường dân Trung Hoa vào năm 1937 ở Nam Kinh. Tôi thường chửi CNN về những lời bình chống Trung Quốc. Tôi là một trong những người biểu tình đứng trước lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Thành Đô và giơ tay đả đảo sau vụ Hoa Kỳ ném bom trúng Đại Sứ Quán Trung Quốc ở Belgrade vào năm 1999.
Nhưng lòng yêu nước của tôi bắt đầu có vấn đề khi tôi đứng trước những đổ nát của trường Trung Học Beichuan. Tôi nhận thấy rõ ràng rằng “bọn đế quốc” đã không hề ăn cắp những thanh cốt sắt trong ruột khối bê tông để xây trường học cho chúng tôi. Các em học sinh của chúng tôi không hề bị giết bởi bọn ngoại nhân ma quỷ. Mà các em đã bị giết bởi những bàn tay nhơ bẩn của chính dân tộc tôi.
Tôi vẫn còn tin rằng chúng tôi nên “xây bức Trường Thành Mới bằng thịt và máu của chúng tôi” nhưng bây giờ tôi cũng tin rằng bức Trường Thành nên bảo vệ thịt và máu của chúng tôi.
Sau vụ động đất, tôi lang thang nhiều ngày trong khu vực rừng núi ở Beichuan với những người tình nguyện khác, và tìm cách cứu một số những người già và trẻ con. Một ngày nọ, chúng tôi đi qua một trường tiểu học được tài trợ bởi Project Hope (Dự án Hy vọng), một tổ chức an sinh nhằm mục đích mang trường học tới cho những vùng quê nghèo nàn của Trung Quốc.
Ngôi trường vẫn đứng vững và ngay cả những cửa sổ bằng kính vẫn còn nguyên vẹn. Tất cả học sinh của trường này đều thoát hiểm qua vụ động đất.
Sau đó tôi hỏi vị hiệu trưởng và các giáo viên về lý do của phép lạ này. Họ nói chúng tôi nên cảm ơn người đã trông coi việc xây cất ngôi trường. Người này, một thời từng là thành viên công binh của Quân đội Giải phóng Nhân dân, đã được mướn bởi công ty cho tiền xây trường. Họ nói với tôi người đó thường gõ vào tất cả những cột xi măng mới đúc bằng một cái búa nhỏ. Bằng cách nghe tiếng vọng, ông ta có thể nói xi măng đã được trộn có đúng phân lượng không. Toán xây cất được lệnh phải làm lại từ đầu nếu ông ta không bằng lòng với tiếng gõ.
Các giáo viên thêm rằng có hai loại tiếng vang thường vọng lại từ nơi xây cất trường học: tiếng động từ việc xây cất và tiếng la từ ông đó tranh cãi với người ta – hoặc là với những người xây cất về phẩm chất của công trình hoặc với giới chức thuộc chính quyền địa phương về việc chậm trễ trả tiền cho việc kiến thiết (tất cả các ngân khoản cho Project Hope để xây trường mới đều phải qua tay chính quyền địa phương, và tất cả các người xây cất đều phải do chính quyền địa phương chỉ định).
Tôi gặp người cai kiến thiết này và hỏi ông ta rằng ông có theo một chỉ dẫn đặc biệt nào trong việc xây trường không. “Không, chỉ dản dị là xây cất theo những tiêu chuẩn thông thường trên toàn quốc”, ông nói. Tôi còn được biết rằng ông đã trông nom việc xây dựng năm ngôi trường khác và tất cả đều đứng vững qua vụ động đất. Trong khi ấy, truyền thông luồng chính không được phép ca tụng con người này. Ngay cả tên tuổi ông ta họ cũng không được nhắc tới.
Vào một buổi chiều hai năm trước, tôi nhận được cú điện thoại của ông. Ông nói ông đã bị cưỡng bách phải chữa trị một thứ bệnh tâm thần giả tưởng và vợ ông đã bỏ ông. Ông nói muốn trốn khỏi Tứ Xuyên, nơi khiến ông bị rắc rối. Ông cầu xin tôi giúp ông ra đi và tìm một việc làm tại miền Bắc Trung Quốc. Rồi chúng tôi mất liên lạc.
Bốn năm sau vụ động đất ở Tứ Xuyên tôi vẫn còn hoang mang. Tại sao chúng tôi không thể phổ biến tên của những đứa trẻ đã thiệt mạng trong vụ động đất? Tên của tất cả các nạn nhân vụ 11 tháng 9 đã đựợc phổ biến và đọc lên nhiều lần. Và tại sao chúng tôi không thể nhắc đến tên của người đã xây cất những tòa nhà an toàn nhờ đó đã cứu được bao nhiêu mạng sống?
Bốn năm sau vụ động đất, bây giờ tôi tiết lộ tên ông ta: Guo Yandong (Quốc Yên Đông).
Quốc Yên Đông là một nhà ái quốc xuất sắc. Ông đã cứu được nhiều trẻ em Trung Quốc bằng cách xây những tòa nhà an toàn. Ông xứng đáng được tưởng thưởng.
Một tháng sau vụ động đất, tôi trở lại Bắc Kinh. Một ngày nọ, tôi đụng đầu một nhà báo đáng kính thuộc CCTV, kênh truyền hình tin tức của nhà nước. Chúng tôi nói chuyện về loại “kiến trúc đậu phụ” gian trá đã giết nhiều mạng người trong vụ động đất.
“Bọn quan chức tham nhũng đáng bị bắn bỏ”, tôi nói.
“Không”, con người khôn ngoan đáng kính trả lời trong khi nhìn trân vào tôi. “Giải quyết những vấn đề đó tại Trung Quốc cần phải tiến hành từ từ. Nếu không, sẽ lại bị hỗn loạn. Sau hết, chúng ta phải nhờ cậy vào những giới chức đó để tái thiết sau động đất”.
Tôi vốn rất kính trọng con người đó. Bây giờ, chúng tôi là những kẻ xa lạ.
Một số người bây giờ gọi tôi là kẻ phản bội. Một số người gọi tôi là tay sai của bọn ngoại bang ma quỷ. Nhưng làm sao tôi có thể là tay sai cho ngoại bang ma quỷ khi tôi không có ngay cả một tấm thẻ xanh, trong khi không giống hầu hết những người Trung Quốc chọn lọc, con tôi không lái xe Ferrari hay theo học tại một đại học ngoại quốc uy tín, trong khi tôi không làm chủ một bất động sản nào ở Hoa Kỳ hay châu Âu. Tôi yêu nước tôi, nhưng tôi không thể yêu một chính quyền chịu trách nhiệm về quá nhiều những “kiến trúc đậu phụ”.
Những ngày này, dân Trung Quốc thích nói về lòng ái quốc vì có chuyện tranh chấp với các nước láng giềng về những hòn đảo nhỏ và hải lộ. Thật ra, tôi cởi mở trong việc sử dụng quân sự để đòi chủ quyền tại đảo Hoàng Nham (Huangyan Island), hòn đảo tranh chấp giữa Trung Quốc và Phillippines. Nhưng tôi chống lại ý tưởng đánh kẻ thù nước ngoài trong khi để cho kẻ xấu trong nước thoát khỏi tội giết người. Nhiều nhà yêu nước nghĩ khác. Họ tin rằng việc đưa những phần tử xấu ra trước công lý có thể đợi được, nhưng không thể đợi trong việc đòi chủ quyền một hòn đảo nhỏ.
Sau khi chứng kiến nhiều sự việc vào năm 2008 – không phải chỉ có chuyện động đất mà cả chuyện Thế Vận Hội Olympic và vụ sữa pha melamine – định nghĩa về yêu nước của tôi đã thay đổi.
Yêu nước không phải là ăn cắp của dân mình trong khi la lối rằng người ngoài đang ăn cướp chúng ta. Yêu nước không phải là nạt nộ những người mẹ có con thiệt mạng trong vụ động đất, trong khi kêu gọi dân chúng đứng lên đương đầu với nước ngoài nạt nộ tổ quốc chúng ta.
Yêu nước là nhận ít hơn tiền “bôi trơn” và dùng các phương pháp kiến thiết đúng hơn khi xây các lớp học. Yêu nước là xây dựng ít hơn những văn phòng “hoành tráng” cho công quyền và xây thêm nhiều kiến trúc thực dụng cho nông trại. Yêu nước là uống ít hơn rượu mua bằng của công. Yêu nước là cho phép dân chúng được tự do di chuyển trong nước và để cho con chúng ta được học tại thị trấn chúng muốn được theo học. Yêu nước là nói sự thật nhiều hơn. Yêu nước là nhân phẩm cho người dân Trung Quốc.
Tôi là một người yêu nước. Tôi sẽ sung sướng được nhìn thấy một hòn đảo nhỏ thêm vào lãnh thổ của đất nước vĩ đại này. Nhưng điều tôi mong muốn nhiều hơn là được nhìn thấy tên của vô vàn những linh hồn quá vãng được ghi khắc vào những đài tưởng niệm khiêm nhượng trong đất nước tôi.


Nguồn: “Patriotism With Chinese Characteristics” của Li Chengpeng (The New York Times, 25 tháng 5, 2012)

Lý Thụy Ý * h o à i n i ệ m




 

  Người lính ấy không còn trẻ nữa
  Thời gian hằn những nét vô tình
  Nhưng ánh mắt vẫn còn nguyên chất lửa
  Của một thời lừng lẫy đao binh

  Người lính ấy không nói về cuộc chiến
  Chỉ nhắc nhiều đồng đội năm xưa
  Những khẩu pháo chưa một lần im tiếng
  Dưới đạn thù xối xả như mưa

  Người lính ấy lặng thầm và khắc khổ
  Ôm nỗi đau dù chưa bại bao giờ
  Năm tháng xa dần cơn bão tố
  Trong hồn chứng tích vẫn trơ trơ

  Người lính ấy không còn trẻ nữa
  Chiều nay hoài niệm chuyện ngày xưa
  Trong ánh mắt vẫn còn nguyên chất lửa
  Hạ Sài Gòn mà thoang thoáng  thu mưa

                          LÝ THỤY Ý


Saturday, July 7, 2012

thơ thòi sự Hà Thúc Sinh * Anh Hùng Chồm Hổm


Hành quân “chồm hổm” ở Tiên Lãng.

Chồm hổm hay là ngồi xổm mông
Kiểu này bệ rạc chỗ người đông
Quá tai đầu gối anh chờ sái
Trọn buổi sân quan chị tiếc quần