văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Friday, October 19, 2012

NGÔ NGUYÊN NGHIỄM * TRẦN YÊN THẢO, KHÚC NGÂM DU TỬ VỠ OÀ QUANH ĐÂY

Tiểu sử văn học: TRẦN YÊN THẢO

Tên thật Trần Ngọc Minh
Sinh năm Canh Thìn ( 1940 ) tại Hàm Tân – Bình Thuận
Có mặt trên văn đàn miền Nam những năm 60 thế kỷ 20
Sống tại Sài Gòn từ năm 1963.
Làm thơ viết văn ( từ năm 1959 ), dịch thuật ( từ 1982 )
Viết trên các tạp chí văn học nghệ thuật miền Nam trước
và sau 1975
Cộng tác trước 1975: Tuần báo Ngàn Khơi,
Tiểu thuyết tuần san, Bán nguyệt san Văn, Tạp chí Tiếng Nói, Tình Thương, Nghiên Cứu Văn Học.
Cộng tác sau 1975: Tạp chí Văn, đặc tuyển Thời Văn, báo Giác Ngộ.


Tác phẩm đã xuất bản:

·        Mắc Cạn ( tập truyện, NXB Từ Thức, 1970 )
·        Hát từ thơ Trần Yên Thảo ( tuyển tập lục bát do nhạc sỹ Trần Văn Bùi, Viết Chung, Nguyễn Tùng soạn thành ca khúc – NXB Hành Động, 1971 )
·        Quà Tặng Người Xưa ( thơ, NXB Trẻ 1997 )
·        Rừng Sơ Nguyên (thơ, NXB Trẻ 1999 )
·         
Hợp Tuyển (in chung):

·        Lục Bát Tình ( 501 tác giả, NXB Đồng Nai, 1997 )
·        Sắc Hương Hoa Bút ( 260 tác giả, NXB Văn Nghệ, 2003 )
·        Tuyển tập thơ 7 tác giả trong và ngoài nước ( Thư Ấn Quán, New Jersey, Hoa Kỳ, 2004 )
·        Bên Trời , tuyển tập thơ 14 tác giả ( Thư Ấn Quán, New Jersey, Hoa Kỳ, 2004  )

Dịch thuật:

·        Những Kiệt Nhân Của Nền Văn Minh Cổ Đại Trung Quốc ( NXB Văn Hoá Thông Tin, 2001 )
·        Lịch Sử Con Đường Tơ Lụa ( NXB Văn Hoá Thông Tin 2008 )
·        Văn Hoá Thần Bí Trong Tiết Nhật Của Nông Lịch .
·        Lịch Sử Nghệ Thuật Đời Đường.


Từ năm 1965 sống tại Vũng Tàu, gặp gỡ các hoạ sỹ Cù Nguyễn, Nguyễn Trung, Hồ Hữu Thủ, Nguyên Khai.
Từ năm 1969 trở lại Sài Gòn, gặp gỡ bằng hữu trong các nhóm văn học: Từ Thức ( qua Bùi Phổ, Khải Triều ), Ý Thức ( qua Đỗ Hồng Ngọc ), Văn Bút Việt Nam ( qua LM Thanh Lãng ). Tuy nhiên không có chân trong nhóm nào cả dù quan hệ rất thân tình.
Từ năm 2000, có viết cho các báo văn học nước ngoài: Thư Quán Bản Thảo ( New Jersey, Hoa Kỳ ), Trầm Hương ( Texas, Hoa Kỳ ), Tạp chí Văn học Tiếng Anh Wordbridge ( Florida, Hoa Kỳ )
Hiện sống tại Sài Gòn, nhưng có dựng lên một lều cỏ ở quê nhà ( nay là thị xã La Gi, Bình Thuận ) nên thường lui về đo kiếm và ngủ dưới bóng cây.
Trần Yên Thảo thích làm thơ hơn những thể loại văn học khác. Thơ anh chuyên thể 6 – 8, mặc dầu cũng rất thích thú những thể loại khác của thơ ( trừ thể Ly Tao và thể 4 chữ của Kinh Thi ).
Làm thơ theo ý riêng là “Dịch thuật tâm hồn”  ( ngôn ngữ của Tô Thuỳ Yên ). Phải bắt đầu từ đời thực, qua khẩu nghiệp, đi xuyên qua mê ngộ, đi vượt lên phàm thánh, đi khuất nẻo tục thanh. … Cái thanh đi ra từ tục nhưng phải nương ngã tục để trở về đời thực cũng qua khẩu nghiệp.
Theo Trần Yên Thảo, cứ để cho thơ va chạm mọi thứ, lăn lộn trên mọi địa hình như con Hạc tắm nước ao trong hoặc con Trâu lăn bùn. Bởi vì, không biết thỉ nên đâu dám nói tới chung. Thôi thì cứ mặc tình cho mọi thứ đối lập nhau, xung đột nhau…Tự khắc rồi nó cũng tự bổ sung nhau, nhập thể vào nhau. Tiểu ngã hoà đồng vào đại ngã, tự nhiên tự tại. Ở đó, dù không biết chỗ nào vẫn không còn giới tuyến giữa Hạc và Trâu, giữa bùn đen và nước cả.
Trần Yên Thảo thường quan niệm, làm thơ theo ý riêng là không có cõi riêng. Cũng nói về đất nước, con người nhưng đất nước không cần phải có hoặc không có trụ xứ. Con người cũng không cần phải có hoặc không có tên gọi. Thơ không nhắm vào cái gì nên bao hàm mọi cái. Thơ không có đích đến, nên đến mọi nơi. Dù cố cắm đầu đi tới cùng trời cuối đất cũng chỉ để thấy cảnh tượng không khác gì khởi điểm.
    Mạch nguồn hay biển khơi cũng vậy thôi
    Sở đắc hay vô sở đắc cũng vậy thôi

Làm thơ theo ý riêng là đẩy sự vật ra khỏi hình hài, để bảo tồn vóc dáng ngàn đời của nó. Tự nguyện chung chăn với kẻ lạ. Mặc tình cho kẻ lạ quậy phá trong ta. Cứ cùng y vui chơi thoả thích và nếu cần, cứ cùng y phá phách. Cứ thử yêu cái tình yêu của y. Cứ thử ghét cái lòng ghét của y. Nhưng có điều sinh tử này, trên tất cả mọi thoả hiệp không lúc nào ngưng thăm dò, khám phá hành tung của kẻ lạ trong ta. Vẽ cho kỳ được chân dung giả tạm của y để thấy lại gương mặt mình. Tội tình gì phải cài đặt quanh ta những nghi vấn: “Bồ đề hay kẻ chợ”, “Lầu xanh hay đạo tràng”…
Reo vui. Reo vui, khi gót ngựa gõ trên đường xưa.
Làm thơ theo ý riêng là ngay từ cửa nhà mình, đi từng bước chập chững của ca dao. Dạo quanh những cảnh giới thăng trầm của hư thực để quay về bằng những bước thuần thục tự tại ( chỉ dám hi vọng thôi ) của ca dao.



TRẦN YÊN THẢO,
KHÚC NGÂM DU TỬ VỠ OÀ QUANH ĐÂY

NGÔ NGUYÊN NGHIỄM

Cái hứng khởi của người làm văn nghệ là tìm được sự đồng điệu với tha nhân, tất cả những nỗi niềm đột ngộ được bùng vỡ một cách hạo nhiên, tự tại vô cùng giữa trời đất mang mang. Người tri kỷ phải chăng cũng được sắp đặt giữa định mệnh, chỉ cần một tiếng sét vô minh đánh vụt xuống sân tiềm thức, cho chợt vỡ oà trong bức màn đêm còn phủ dụ của cái riêng ta. Đó là lúc giao cảm sáp nhập vào tri ngộ, đưa đẩy khí thiêng trở về với bản lai…Trứng đá bỗng nhiên thoát thai cung nghênh cùng thiên địa bao la, một cái nhảy cũng vung vẩy pháp hoa ra tận tam thiên đại thiên thế giới, cho xanh ngát một lời thơ, như tiếng hét lạnh ngập thái hư…Có lúc , thi nhân cô độc ôm cái đạo phi thường, đứng lặng lẽ trên đỉnh núi cao, với tay chạm vào ngàn sao phiêu bạc, mây trời và gió núi là những tri âm bao phủ quanh một hồn thơ tiền định, giữa bao la của thương hải tang điền, ngơ ngẩn suốt mấy hướng thơ đi. Giờ đây, suốt hành trình với tâm thức, đằng đẵng hơn nửa thế kỷ du phương, hành giả vẫn lặng lẽ chống gậy vàng, trôi suốt dọc đường phong vũ, rải thơ như rải hoa vô ưu, rực rỡ bên cát bụi. Cát bụi thì vẫn vô tâm lăn lóc giữa trần gian đầy thay đổi biến thiên, nhưng hoa vô ưu đã sáng rực trong pháp âm vi diệu, hoá thân thành rừng cây già đầy trái tinh hoa, nặng trĩu giữa cuộc đời. Với tay mà hái cái hạo nhiên huyền diệu ấy , cắn vào răng ngà dòng sữa ngọt tụ đẫm thần khí hậu thiên, phải chăng người thơ vẫn ngơ ngác trước thành tựu ngàn năm vừa tụ lại trong đêm. Trăng thì vàng óng, hoa thì say sưa nở nhuỵ, nhưng trăng có soi xuống êm đềm cho hoa nở, và hoa có bừng nở lúc trăng soi? Mơ màng trong cái giao hoà của hư và thực, đã đẩy đưa tinh tuý được chắt lọc diệu kỳ cho thơ anh rực rỡ, và đẹp như chiếc ráng hoàng hôn nghiêng bên vùng cổ địa biên giới và núi cao…
Trần Yên Thảo nhập thể vào Thơ ca bằng suốt hơn 50 năm chìm đắm trong giấc mộng liêu trai, vừa gõ hồn mình từ những chiều vắng lặng, vừa chộp bắt từng mảnh tơ trời vươn vấn tinh thơ. Trải bao nhiêu năm tháng chợt bắt lấy dòng thơ anh xuyên suốt ở đoạn đường dài, biết bao thay đổi thăng trầm đã đưa dấu chân trần dần dần thoát khỏi nghịch chướng hoang phế của tư thức, thoát xác chan hoà bạch diện trong kẻ chợ ung dung bước đến tự tại khôn cùng.
Cái ngạc nhiên không phải bây giờ mới thể hiện, sự thanh thoát của vầng trăng nghiêng chiếu tơ vàng phủ trùm trên hướng đi, đã từ lâu xuyên sơn dịu vợi thoắt rải dài xuyên thấu từ đỉnh núi đông miên, dạo gót trên lộ trình sơn dã xuống tận bình nguyên, vàng ánh những ánh sáng lân tinh lấp loáng tận chân đồi. Cái hay của Trần Yên Thảo , ảo diệu trên từng ngôn ngữ sử dụng thần kỳ, mà dòng thơ đáng nói là lục bát chiêu hồn từ con chữ tinh hoa. Từ trước đến thời gian hiện tại, sự thành công trong ngôn ngữ thi ca Trần Yên Thảo đã bước đi trong cái tự nhiên thoát thai cho những gì tồn đọng thanh khí và chắt ngọc. Dấn bước thật sâu và thật xưa cũ, bao nhiêu ngày tháng trôi qua thơ anh vẫn điềm nhiên đi vào sự thế, như một lão đạo sĩ khuếch tán âm dương trời đất, vạch định rạch ròi giữa cái hạo nhiên, hanh thông cho thơ biến hoá hồn nhiên tuỳ cơ duyên ở mỗi cổ địa mà nở một loài hoa. Có chiêm nghiệm thơ Trần Yên Thảo thời trước và bước đến dòng thi ca ào ạt tuôn chảy hôm nay, mới thấy anh xem thơ là đạo, nghiêm túc vác túi thơ dưới âm quang vũ trụ mà kinh hành từng bước soi tâm. Đọc thơ Trần Yên Thảo ngày trước đã chợt hiểu có ngày thõng tay vào chợ, mà như biến hoá của thập mục ngưu đồ. Quả thật “khúc ngâm du tử vỡ oà quanh đây”, anh đã chia xớt rượu và hoa, khi bỗng chốc thoắt nhớ thoắt quên với cái khuynh khoái huyền vi của Lý Bạch. Anh hoà mình vào cái vô cùng say đắm và chìm ngất trong tuyệt dịu của hương hoa, chỉ động lòng từ thiên cổ về bên thềm đánh rơi mộng lớn, cung thỉnh “ta nghiêng vò rượu nằm cười với hoa” , và thi tiên Lý Bạch có hay ? Trần Yên Thảo đem tam muội đốt ngàn tâm sự, mà cõi cô miên vẫn cứ chập chờn. Còn tỉnh say, của rượu và thơ, cũng có lần Phạm Trích Tiên ngơ ngác phù du với lẽ sống. Tập Rượu Người Và Cảnh Vật của một lão trích tiên phàm trần này, đầy rẫy chiêu thức ru ngủ lòng người nhưng trong tận cùng cô độc của cái chìm đắm quạnh hiu giữa bao la cuộc đời, phủ xuống cho tửu thi Phạm Trích Tiên lăn lóc giữa tình bạn, tình người, phu thê, và cái tử sinh…Ngược lại, thi tập Quà Tặng Người Xưa của  Trần Yên Thảo lại chan hoà những cái tuyệt diệu từ những bài thơ khoáng đạt tự cổ chí kim với Mãn Giác Thiền Sư, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…Đến Lý Bạch, Vương Bột, Bạch Cư Dị, Đỗ Mục…Cũng dòng lệ phân kỳ sum họp ly tán, cũng gậy thiền xế bóng vầng trăng soi kề, cũng tóc trắng còn mơ mộng gì, tiếng tỳ bà đứt ruột cũng dấu người, bàng bạc chân mây, cũng rượu và thơ bát ngát…Quà Tặng Người Xưa có vẻ tiên phong đạo cốt và tuyệt diệu . Hôm tác phẩm ra mắt đồng điệu bạn hiền (1997), xem như hơn 20 năm Trần Yên Thảo mới tụ hình, lại một phen tháo dỡ thảo am tận đất trời Phan Thiết, lưu lạc lang thang trở lại phàm trần. Lành thay, nhà thơ lại một phen đoạ xuống nhân gian, tay xách gậy vàng, vuốt râu quang quả điềm nhiên giữa cõi đời ô trọc, như một Basho lướt thướt lượn theo cơn gió đẩy đưa, và thơ Hài Cú một phen rơi rớt cho đến tận hôm nay, làm kinh động cả những giây phút tịnh tâm nhập thất. Chiều hoàng hôn rơi nhẹ xuống con kênh thơ ấu sau hè, gió thoảng và mưa lang thang rớt xuống nỗi buồn nhè nhẹ trong tôi, choàng tay đọc rồi nghiền ngẫm tập thơ Quà Tặng Người Xưa,  như thể “ngàn sao thêm một chút tôi / góp dòng nước mắt gởi người ngàn xưa”. Cơn rúng động mười phương chợt đổ ập vào hồn, khuynh khoát và bao la quá, tôi thật sự choáng ngợp trong cái tình của thi nhân, gần 30 năm im bóng, lại chợt rộ nở như ngàn hoa hướng dương soi cánh theo ánh sáng bình minh. Tôi không bao giờ nghĩ rằng, sự trở lại của Trần Yên Thảo là một bước dậm chân để động thổ báo tin ngày trở lại của một thi nhân. Vì anh đã là một thi nhân đầy đủ tài hoa tụ hình rực rỡ từ bao nhiêu ngày tháng cũ, mà tôi chợt xúc động cái nghiệp chướng của người làm thơ là sự trung thành, thanh thoát và đầy sáng hoá ở mọi tình huống với bao lối rẽ của chân mây. Quả thật, như bao nhiêu bằng hữu khác, làm sao xoá bỏ con tim đã định phần của văn khúc. Một Lê Trúc Khanh vi diệu với thơ ngày trước, cũng nhiều phen ngẩn mặt đóng cửa thư trang, trầm mặc với bao nhiêu bể dâu thế sự. Một Trần Biên Thuỳ, tang thương với thời cuộc, vứt bỏ đèn sách và thi nghiệp vang dội ngày xưa, bước về biên giới cực Nam bên dòng kênh Vĩnh Tế, ẩn tích nơi hoang sơ. Nhưng làm sao chối bỏ nghiệp chướng, tất cả đều trở lại thôi, xuất hiện càng lúc càng rực rỡ phong quang đầy đủ như ngọn hải đăng giữa đại dương kỳ bí. Thi tập Quà Tặng Người Xưa, khiến tôi thanh thoát và sung sướng, nên không có gì khác hơn là nhờ giây nói trực hệ với nhà thơ, tập thơ hay quá, làm sao đây, ông qua tôi vui vài ly rượu nhạt. Trần Yên Thảo thật sự cũng cảm động hoà tâm chân thành của người bạn, dù hoàng hôn xuống đã lâu, cũng khăn gói cỡi gió bay qua tệ xá ,đàm đạo thâm giao. Từng ly rượu nồng chia xẻ cái vui tột cùng với thơ mà Trần Yên Thảo đã đặt tâm cảm xuyên thấu thời gian, trở về từ cõi không gian của Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Trần Tử Ngang …Mà nâng thơ ngang mày, bạch đàm cùng tiền nhân. Cai hay trong thơ Trần Yên Thảo là sử dụng nhuần nhuyễn ngôn từ thật sáng tạo mà tự nhiên như cái hữu hiệu phải có, không thừa không thiếu, tạo một chững chạc và linh hoạt trong thơ. “Yêu trăng từ độ sơ huyền / ấy mùa tao ngộ từ thiên cổ về”. Cái sơ huyền từ vi tế bẩm sinh của trời đất , đến thiên cổ bao la mênh mông kéo dài từ vô thỉ đến vô chung , đã tạo dấu ấn rộng lớn giữa toạ độ bốn chiều không gian-thời gian trùng điệp.
Cái tĩnh tại và bừng sáng ở thơ Trần Yên Thảo , hầu như được anh gói ghém vào một hồn quê hương xuyên suốt, vì vậy, anh trung thành với vần thơ lục bát như là một cỗ xe trầm hương dong ruỗi suốt nẻo sơn khê, chỉ mong nghe trong gang tấc một lời thiên thu.
Trần Yên Thảo bay nhảy với thơ dễ dàng như đã công phu nhập thất, với thất thập nhị huyền công, phủ đầy trên lối cũ bước qua, mà anh đã nhảy dồn từng bước chân phiêu dạt như một hành giả vạch lối cho huyền cơ ẩn hiện. Có lần, Nguyễn Đức Nhơn trong tuyển tập Bên Trời, một tập thơ gồm 14 tác giả thơ miền Nam, in tại Hoa Kỳ, anh có tặng Trần Yên Thảo bài thơ 3 câu suy nghĩ cũng thật cách điệu mà rất xích xao: “chân trời nào có bao xa / mà lão Tề lộn đến ba bốn vòng / mới hay mình lọt vào tròng”. Tôi không hiểu anh Nhơn có nghĩ như tôi chữ lọt vào tròng không? Nhưng cái danh hiệu lão Tề thì tôi vô cùng tâm đắc. Vì Trần Yên Thảo bay nhảy trên thơ rất đễ dàng như một cuộc đùa chơi, một cuộc du hành thoáng chốc đã ngàn năm mây bay. Lão Tề thực sự đã đính kim cô trên vầng trán nhà thơ, như một định kiếp vậy. Từ Quà Tặng Người Xưa, bước dập dồn đưa chiêu thức phiêu du trên Rừng Sơ Nguyên,  mà Nguyễn Bắc Sơn trong tâm đồng cảm rằng: “bây giờ quẫy cựa một mình đồng hoang”, với tiếng vọng rú ngàn tan loãng giữa cồn biển Đông. Còn Nguyễn Tôn Nhan tặng Rừng Sơ Nguyên bằng lục bát ba câu, một loại sấm thi tuyệt cú viết từ Ngu Cốc, “cõi này đâu có sơ nguyên? / rống lên một tiếng đỡ ghiền mai sau / lật tay cỏ mộ phai màu” . Lành thay, hành giả cũng loáng thoáng bay vụt ra khỏi thời gian, để từ không trung nhìn xuống tự thán và đóng tập thi phẩm vào dĩ vãng: “lìa rừng từ độ trai tơ / biển xanh thoắt đã còn trơ dâu cồn / quay về tính chuyện vuông tròn / thì ra rừng cũng đâu còn sơ nguyên”.
Trần Yên Thảo vẫn còn nghiệp chướng triền miên với thi ca, bao giờ buông thả thơ được, để như bầy ngựa hoang soãi vó vào nẻo quan sơn. Những bài thơ được tập san Trầm Hương tại Hoa Kỳ ấn hành, đã đăng tải nhiều bài thơ 7- 8 chữ của Trần Yên Thảo , với sắc thái mới, lạ tuyệt cùng. Chiêm nghiệm thử xem:

Mây đầu núi

Sáng dậy ta lên rừng đốn củi
Tình cờ gặp lại sáng hôm qua
Núi xanh cười ngất trên đầu núi
Nụ cười kiêu bạt tìm đâu xa

Búa sắt nhẹ khua thềm đá trắng
Bạc đầu, hỏi núi đã già chưa
Biết đâu ẩn khuất nơi hang động
Còn vài tiều lão ngàn năm xưa

Gối đá nhìn mây trắng trời xanh
Thần người xác bướm giấc trang sinh
 đâu là mộng đâu là thực
Mộng thực rồi, cũng một trống canh

Cũng đã từng mộng giấc kê vàng
Sực tỉnh ta lên nguồn đốt than
Mới biết chốn kinh kỳ nghẹt thở
Dập dìu kẻ sĩ chạy lăng xăng

Gánh củi đầu non rao cuối phố
Cũng sắm vai chen chúc chợ đời
Đi qua dâu bể cười khúc khích
Chợt biết mình chưa bỏ cuộc chơi

Người kẻ chợ thương ta không nhà
Quanh năm thơ thẩn trong rừng già
Đâu biết núi sông nào chở khắp
Thì lẽ nào ngược đãi riêng ta

Tựa gốc cây già khe suối vắng
Xem ra phú quý biết dường nào
Tiều lão ngàn xưa chừ, mây trắng
Chiều chiều qua núi hát nghêu ngao

Sực nhớ một thời đã lụi tàn

Sóng giạt chiều nay bãi xơ xác
Tro tàn bếp lạnh hờn xuân thu
Đã ngủ thiếp bên lề cô tịch
Còn nghe bứt rứt nợ giang hồ

Từ độ lăn thân vào thế sự
Giữa rừng gươm  phỉ chí reo hò
Đã dựng đời ta trên mộng lớn
Thì đừng ray rứt mộng bâng quơ

Ta quên hẳn chút tình nơi cố quận
Ngày xanh mê mải nghiệp cung đao
Chí lớn ngạo đời qua dâu bể
Chưa bao năm đã rách nát chiến bào

Cuộc cờ chưa tan gối đã quỵ
Đan thanh vùi dưới bóng nguyệt tà
Khi sực nhớ tấc lòng tri kỷ
Tình xưa khăn gói đã đi xa

Ta khập khiễng giữa hai bờ sinh tử
Quanh đây nhân ảnh hoá sương mù
Thế sự trôi dần xa cổ tích
Và ngàn đời son phấn cũng hoang vu

Trần Yên Thảo

Thoắt cái, Trần Yên Thảo bước sang lãnh vực nghiên cứu, được xuất bản nhiều tác phẩm sưu khảo nghiêng về nhân văn xã hội học, anh cũng bước thật dài như thơ và thành công trên những quyển như : Những Kiệt Nhân Của Nền Văn Minh Cổ Đại Trung Quốc (NXB Văn Hoá Thông Tin, 2001), Lịch Sử Con Đường Tơ Lụa (NXB Văn Hoá Thông Tin, 2008).
Sự thành công thật sự cũng không khó khăn gì, với một Trần Yên Thảo nghiêm túc, chững chạc và thâm sâu suốt hành trình sáng tạo như một nhà thơ học giả uyên bác, mà cả đời nghiên cứu đã tích luỹ cho anh một khí lực sung mãn trong dịch thuật, biên soạn...Tuy nhiên, với tôi dù bất cứ suy  ngẫm nào, dưới giọt sáng trăng soi đoá hoa tường vi vừa chợt nở, cũng thấm đẫm dòng thơ thanh thoát của nhà thơ Trần Yên Thảo ,mà gần nửa thế kỷ nay, lão hành giả bao giờ cũng vang một giọng cười trong sáng, hào sảng, hài nhi, ấm lạnh suốt quãng đường thơ vụt bay qua...

NGÔ NGUYÊN NGHIỄM

Trần Văn Lương * Tình Ơi Gắng Đợi



dinhcuong

  

  Người đi khuất ngõ xa bờ,
  Lối mòn thiên cổ có chờ đợi nhau ?

  Anh yêu hỡi, mai này Xuân trở lại,
  Đuổi xa dần cơn mưa dại dằng dai.
  Trên mộ em gió rỉ rả miệt mài,
  Quét sạch những vết u hoài năm tháng.

  Hoa núi thẳm nở òa trong nắng sáng,
  Hương rừng xanh nương ánh rạng đông về,
  Sẽ đưa anh tìm bến đỗ cơn mê.
  Anh hãy cố quên em đi mà sống !

  Em yêu dấu, gió Xuân nay lồng lộng,
  Cơn mưa dầm đã khuất bóng từ lâu,
  Nhưng mắt anh vẫn thăm thẳm mây sầu,
  Đau đớn đó biết kiếp nào phai nhạt.

  Em khuất bóng, anh giờ đây chẳng khác
  Con thú rừng hồn lẫn xác tả tơi,
  Kiếm tìm em khắp góc biển chân trời.
  Lối thiên cổ, tình ơi, xin gắng đợi !

  Trần Văn Lương - Cali, 10/2012
                    



  Amour, Attends-Moi

  Cher ami, bientôt  le printemps
  Reviendra. Se tarit la pluie,
  Seul le vent sur ma tombe essuie
  Les empreintes tristes du temps. 

  Fleuriront  les forêts pour toi,
  Suis la voie du parfum sauvage
  Pour sonder quelque autre rivage.
  Vis bien tes jours et oublie-moi !

  Chère amie, enfin le printemps
  Vient bellement chasser la pluie.
  Mais mes larmes en vain j'essuie,
  Cette peine défie le temps !

  Ma sombre vie n'est que, sans toi,
  Celle d'une bête sauvage
  Cherchant de rivage en rivage
  Ton image. Amour, attends-moi ! 

  Trần Văn Lương
  

Tuesday, October 16, 2012

Hà Thúc Sinh * Núi Đổ Trong Lòng

luongtruongtho


Ông Lộc là một nhà thơ đã ngoài sáu mươi, sống khá bình thản tuy cũng có lúc hơi chúi chúi xuống phía nỗi buồn. Giá như ông đang sống giữa một gia đình đông đủ mà có lúc buồn xa vắng cũng là chuyện thường, huống hồ ông sống có mỗi mình. Nghe nói ông đã có thơ đăng báo từ Hà Nội, Sài Gòn sang đến Mỹ, tính ra bốn mươi năm có thừa, thế mà tên tuổi ông xem ra không có quá nhiều người biết đến. Điều này có thể là mối quan tâm của ông hai mươi năm trước, chứ giờ thì chẳng còn nghĩa lý gì. Ra đời dính một sinh thú lắm khi tình cờ như dính một cái nghề, lâu dần nó bén rễ tựa cây cối, không dễ mà nhổ, dù có lúc người ta tự biết cái cây chẳng sinh hoa kết trái như ý. Nay thì thứ cảm giác khó chịu như thế cũng không còn, thành thói mất rồi, do đó chẳng tuần nào bưu điện không nuốt của ông vài đồng bạc tem. Vâng, ông thả thơ đi khắp thế giới - nơi đâu có báo tị nạn là có thơ ông tìm đến - những vần cổ thi toát lên cái thanh khí của một ngọn núi cao, nhìn xuống mà thương cho cõi thế gian nhầy nhụa những luỵ tình.

Nhưng sáng nay, một sáng cuối năm ngọn núi lòng ông cứ vi vu gió thổi một điệu nhớ nhung cái cõi đầm lầy xa như từ nhiều nghìn năm trước, chỗ mà ông còn là một ngọn đồi xoàng xĩnh lẩn khuất giữa muôn triệu ngọn đồi xoàng xĩnh khác.

Ông nhìn lên bàn thờ vợ. Nhanh quá, mới đó đã non mười bốn năm trời. Bất giác sự liên tưởng dẫn ông xa hơn. Mười bốn năm sau di cư 54 mình làm gì nhỉ? Hồn ông cộm lên nỗi bồi hồi. Lúc ấy ông sắp bốn mươi, thủ một ghế chủ sự phòng trong bộ Tư Pháp, vừa cưới được bà vợ thua ông gần chục tuổi, chưa kịp trăng mật thì trận Mậu Thân xảy ra. Thật là một mùa tao loạn rối ren, nhưng với riêng ông cái bóng tối ấy lại như tấm màn che lại nhiều dấu ấn lãng mạn khó quên. Hai người đã giấm giúi yêu nhau trong cả những phen chạy loạn, tá túc nơi các sân trường.
Ông châm thêm nước nóng, hy vọng tách trà giữ cho ông sự thận trọng dù ngay trong cơn hồi tưởng rộn ràng. Ông nghĩ ông nên đứng dậy dọn dẹp căn phòng.

*

Gia đình ông Lộc thuộc những nhóm thuyền nhân đầu tiên vượt biển và được định cư tại Mỹ. Ông đi cùng vợ hai con, nhưng một cơn bão đã loại khỏi tổ ấm người quan trọng nhất, vợ ông. Thật trời mà có vợ đã chắc gì đau nỗi đau giống ông nếu vợ trời không là người đàn bà đảm. Từ buổi chế độ mới biến ông thành kẻ vô dụng, vợ ông, một bà giáo mà lương tháng không đủ mua hai lon bia Nhật, đành bỏ trường hùng hổ lao ra lề đường, đầu tắt mặt tối kiếm cơm áo nuôi gia đình, rồi xoay xở đem được cả nhà ra đi trót lọt.

Cái chết của vợ như sợi thừng trói vo ông lại với lắm đam mê vốn có của người nghệ sĩ. Nghề giáo không có nghĩa là bà phải thận trọng cả trong cơn ghen. Vâng, xưa vợ ông ghen rùng rợn. Đã không thiếu phen bà xông cả vào sở thanh tra ông tại chỗ. Có lần ông đang đọc lá thư của một cô thư ký cũ gửi về thăm hỏi, chẳng có gì là tình ái trầm trọng, nhưng ông đã phải vo tròn bỏ miệng nuốt trửng. Gì chứ bà vớ được một nét chữ đàn bà trên tay ông thì đến khốn khổ cả phòng. Bà sẽ đóng ngay vai chánh án mà can phạm sẽ không chỉ riêng ông, cả chục nhân viên dưới quyền cầm chắc nguy cơ lãnh án tòng phạm tuốt luốt. Cái nghi của người đàn bà ghen to hơn khối óc là vậy. Có lần bà giận, mỉa mai: “Lấy anh thợ thuyền chân chất mà lại yên bụng hơn lấy anh khoá băm nhăm!”

Tự dưng ông cười ngặt nghẽo, không vì nhớ lại mà cười vợ, nhưng vì ông nghĩ nếu bà còn sống hẳn bà sẽ thấy lấy anh thợ thuyền đã chắc gì hạnh phúc. Vâng, đời sống mới đã đẫy ông vào một chương trình CETA, và cuộc đổi đời đã biến anh khoá thành anh thợ thuyền. Không thiếu lúc ông kinh ngạc tự hỏi động lực nào khiến được ông có thể kiên nhẫn cày nghề thợ tiện trong từng đó tháng ngày. Nhưng giờ đã hết. Đại hạn mười năm đã hết. Ông không còn là thợ thuyền nữa. Ông đã được trở về với con người cũ của ông. Cũng may, ông tự an ủi, rằng trời cho ông còn bàn tay phải để làm thơ, để lâu lâu pha mực Tàu viết vài chữ đại tự tặng những thân hữu còn sót cái tâm của lão ngục quan trong Chữ Người Tử Tù. Ông tự biết nét tài hoa trên bàn tay phải dù đã chịu nhiều thử thách gian nan nhưng còn đáng đồng tiền bát gạo lắm lắm.

Và như thế ông cố lấy những gì ông có mà đổ vào những hang động núi đá, chỗ không ít lúc bày ra lắm khoảng trống vắng bâng khuâng. Mà những thứ ông có cũng chẳng nhiều nhặn chi. Một căn nhà ba phòng ở phố Pasadena trong thung lũng San Gabriel. Nơi đây sau nhà thấy núi. Những chiều Thu mây trắng sà thấp, biến những đỉnh núi nhấp nhô ra lũ đầu bạc ngó xuống rừng phong rặt một màu quan san. Sang Đông núi biến thành những bệt đen dài huyền bí, cho đến một ngày tự dưng có mưa, những vầng mây ô nhiễm biến đi, núi như hiện ngay trước mặt, mở các hang động thả ra rừng hoa đào đỏ au trộn với rừng hoa lê trắng ngần. Có những chiều gió núi thổi tốc xuống rừng cây. Ôi chao, hoa lê bay trắng trời. Ông bước đi mà tưởng như chính ông không còn trông thấy ông nữa.

Hơn hai năm qua các con đi học xa ông luôn giữ cho ông hai phòng. Một phòng ngủ; một phòng được trang trí để vừa làm chỗ viết lách, luyện thiền, tập taichi, vừa đặt bàn thờ vợ; và phòng còn lại tính kiếm người cho thuê, nhưng chần chừ mãi vẫn để trống. Khi mua nhà ông cọc một số tiền khá lớn, mức trả hàng tháng nhờ đó không quá nặng. Nay với số cấp dưỡng tàn tật quả ông có cần thêm một khoản tiền nhỏ chi dụng.

*

Ông Lộc có vài người bạn trà rượu, đều chỗ quen biết cũ, không lối xóm cũng là người đồng sự từ quê nhà. Họ đi lại với ông đều, và ông cũng thích duy trì sự đều đặn đó. Trước nhất họ là những kẻ không thể phủ nhận sự nho nhã có truyền thống của gia đình ông, kế nữa hai thằng giặc nhà này đến lúc cũng phải kiếm vợ cho chúng nó chứ. Đám bạn người nào cũng có tí con gái. Ông đến chơi, thấy tính ăn nết ở lắm đứa được quá, chọn làm dâu con không lấy gì chênh lệch.

Riêng khoản ẩm thực ông Lộc là tay khá bảnh. Chẳng những biết ăn ông còn biết nấu. Thủa mới sang phải cày cuốc ông hay đi ăn tiệm, sau bị chứng máu cao, sợ bột ngọt ông bớt chuyện đi ăn tiệm. Từ tai nạn đến nay, nằm nhà, ông thừa thì giờ làm sống lại cái thú nấu ăn có từ trẻ. Vùng này gần nhiều nông trại. Gà tươi, vịt tươi, heo tươi, dê tươi... Gì chứ chuyện phanh ngưu tể dương muôn đời tạo sự gắn bó. Có tốn kém chút đỉnh, có vất vả chút đỉnh nhưng ông vui. Ít ra quanh ông còn có tiếng nói, tiếng cười thân mật của con người.

*

Một chiều Thu lạnh. Cây trên sườn núi liên miên trút phẩm đỏ xuống vườn nhà. Gió luồn lách như thổi vào lòng. Ông Lộc xốn xang nghe thiếu một điều gì không thể thiếu nữa. Nhưng giống ông lang không nghe mạch được cho chính mình, ông chịu, bỏ lửng ngọn núi lòng ông cho nỗi xốn xang hành hình.

Lại chén rượu thôi, ông nghĩ. Thế là ông sửa soạn một nồi giả cầy, mời ba ông bạn cố cựu tới phụ tay mà giết cái vạn cổ sầu. Ba ông bạn là ông Hoành trong Việt Mỹ Tin Lành Hội, ông Lâm hội Cao Niên và ông Tánh có chân trong ban cố vấn hội Cựu Quân Nhân.

Ông Lộc biết rõ ưu khuyết điểm từng người như biết hai bàn tay mất còn của mình. Nhưng điều ông biết rõ hơn là họ chịu tài nấu của ông. Chẳng món gì ông nấu mà lại không gợi hứng cho đám bạn hân hoan tán tụng. Ông biết họ thành thật. Do đâu? Trời, họ không đều là bọn đàn ông khốn khổ ráo trọi đấy sao? Họ làm chủ những người đàn bà đã ngoài sáu mươi cả, nhưng vì cái nhà, cái xe, cái tủ chè, bộ sa-lông... các bà vẫn phải ngày ngày tự giam mình trong những công tư xưởng, để bếp núc trở thành thứ trò chơi lúng túng cho lũ chồng tự âm thầm biết mình là kẻ bạc phước. Vậy thì ông tiếc chi tí công tí của để lâu lâu cả lũ bạc phước có được với nhau một buổi chiều ấm cúng?

Cứ xem, còn gì thú vị cho bằng chỉ với một nồi giả cầy đã đủ đẻ ra một bầy chó tơ bên quê nhà sủa vang ngõ nhỏ? Bầy chó sẽ đuổi cả đám chạy tứ tán khắp mọi ngả đường quê hương. Kẻ sẽ sa vào sức cám dỗ không thể chống cự của món đầu cá hấp Biên Hoà, kẻ ngã sấp ngã ngửa vào lòng mấy cô em bán nem Thủ Đức, kẻ trốn lủi vào rặng dừa Bến Tre có những đĩa đuông lăn bột chiên bơ béo ngậy, thậm chí có kẻ còn trượt chân rơi sâu xuống mấy tỉnh hạ phần thân thể đất nước. Chà, rùa rắn chuột miệt dưới! Ông không rõ mấy cái thứ đó đã biến bao nhiêu thế hệ sớm thành những tiên ông tiên cậu.

Bữa ăn vui vẻ diễn ra non hai tiếng mới tới màn trà đàm. Họ kéo nhau ra phòng khách. Ông Lộc lấy hộp trà móc câu mới nhận được từ Việt Nam pha đãi bạn, giữa khi giọng ông Tánh “lính” oang oang:
“Thú thật với các bác tôi loại lông nách một nạm trà Tàu một hơi, đến nay vẫn cứ tự hỏi vì đâu lại có cái thú uống trà!”

Ông Lộc thận trọng kê vòi ấm lên miệng chén tống. Ông không nhìn bạn mà nhìn vào dòng trà thơm xanh nhẹ chảy, giọng hài hoà:
“Người ta chỉ có thể om sòm khi uống rượu thôi bác ạ, còn bên khay trà mọi chuyện đều phải thu nhỏ lại cho vừa với không khí ấm cúng. Vung chân vung tay thế nào được nữa. Đấy bác xem, nâng cái chung téo tẹo nóng hổi thế này lên hỏi ai mà không phải thận trọng? Tôi thì tôi nghĩ con người luôn bị xâu xé giữa mộng và thực, nên người ta có méo mó đi, đôi khi bị trương nở, đôi khi bị teo tóp; tách trà nóng quân bình được hết!”

Ông Lâm “hội già” không hơn chủ nhà mấy tuổi, quãng sáu lăm sáu bảy chi đó, nhưng có lẽ cái mác bô lão buộc ông phải có những phù phép riêng. Ông nuôi râu dài trước ngực, ăn nói nhất nhất cái chi cũng đều trịnh trọng. Ông nhìn quanh, bắt gặp giữa những tấm liễn tấm hoành quen thuộc có treo mấy câu thơ Hán tự. Ông vui vui nghĩ mình đã tìm ra được cái cớ mà cảm tạ chủ nhà về bữa ăn ngon.

Ông nói:
“Thế ra uống trà là một ngụ ngôn thâm thuý các cụ để lại đấy!” Ông gật gù: “Có thể thế lắm... Ồ mà cái kia chắc là ông anh mới viết, chà, nét chữ!”
Ông Lộc nhìn lên vách chỗ treo một bài thơ viết thảo thật lớn. Ông nhỏ nhẹ:
“Không phải thơ tôi đâu. Chẳng là mấy hôm trước, nhân thấy cảnh Thu tàn tạ quá, buồn dở sách cũ đọc trúng ngay bài ‘Kim Lũ Y’ của Đỗ Thu Nương, cảm quá mà viết treo chơi đó thôi. Vâng, đó là hai câu cuối của bài tứ tuyệt:

Khuyến quân mạc tích kim lũ y,
khuyến quân tích thủ thiếu niên thì;
hoa khai kham chiết trực tu chiết,
mạc đãi vô hoa không chiết chi.

Đại khái nàng khuyên chàng giữ chi cái áo tơ vàng, có giữ là giữ lấy những ngày xanh; và giục chàng hoa đến mùa thì cứ việc hái, đừng chờ lúc hoa héo chỉ còn cành không.”

Thật thì ông Lộc có nói dối. Ông đã viết mấy câu thơ đó ra trong một phút nhớ người bạn đời của ông quá. Xưa bà là một giáo sư Việt văn. Hai người thương nhau vì cùng gặp nhau ở cái lòng ưu ái cổ thi. Của đáng tội xem ra bà thân với cổ nhân còn hơn cả ông; và há những ngày còn soan, bà đã không lãng mạn gửi cho ông bốn câu thơ khéo nhắc khéo giục ấy đấy sao? Mở sách gặp lại thơ xưa như gặp người cũ, ông ngậm ngùi viết treo trên vách dù chẳng hiểu rồi để làm gì.

Ông Tánh vốn máu lính, nổi tiếng ăn nói ba gai, chen vào:
“Ghê nhẩy, người xưa mà đã cấp tiến vậy đấy!”
Ông Hoành “tin lành” rất cừ Anh ngữ, thấy đã đến lúc cần tí đóng góp, ông nói:
“Tôi cũng dốt chữ lắm, thơ Tàu chỉ đọc bản dịch. Mới đây tôi có đọc một bài tựa là Lover - người tình - đăng trên một tạp chí Mỹ. Tác giả là một nữ sĩ vô danh nhưng bài thơ đã có đâu từ thế kỷ thứ mười. Nó thế này...” Ông hơi lúng túng biện bác: “Thôi thì xin các bác cứ cho phép tôi đọc nguyên văn bản Anh dịch đã nhá.

I know what it means, that damn dog barking
at a man half slumped against my door
A stockingless scamper down the stairs
to my worthless lover, drunk once more.

He needs to be helped to my silk hung bed
Can he get his clothes off on his own?
Of course he can’t. He’s as drunk as a badger,
but I guess it’s better than to sleep alone.”

Nhìn một vòng thấy các bạn đều bối rối, ông Hoành lại lúng túng. Ông bảo: “Xin tạm dịch hầu các bác luôn vậy:

Em biết chó em sủa cái gì
Sủa chàng lảo đảo trước hiên khuya
Thềm hoa lướt xuống chân không vớ
Em đỡ chàng lên say bét be

Đẩy giúp chàng lên giữa gấm sàng
Áo quần chàng tự cởi được chăng?
Vô phương! Chàng gục như con gấu,
Thà thế còn hơn phải ngủ không.”

Đọc xong ông Hoành tin lành nhìn ông Tánh lính:
“Xứ cụ Khổng, thế kỷ thứ mười, chưa là vợ chồng thế mà bác thấy. Trai gái ngày nay buông thả cũng đến thế thôi chứ!”
Bài thơ không ngờ gây kích thích giữa mấy ông đã vào tuổi cụ. Ông Lâm hội già có hao đi tí đạo mạo ngày thường. Ông cười:
“Thú đấy. Gớm, thật là cái câu! Áo quần chàng tự cởi được chăng.” Ông đột ngột nhìn chủ nhà, hỏi bâng quơ: “Mà hỏi thật từ sang đây bác Lộc đã say lần nào chưa nhỉ?”
“Tôi ạ?” Ông Lộc có vẻ chột dạ, gãi nhẹ một chân mày: “Mà sao bác lại hỏi chuyện say?”

Ông Lâm hội già càng hứng khởi hơn:
“Trong hội tôi lắm cụ ông vẫn tìm cớ say hoài đấy. Dĩ nhiên thế nào mà chả có lúc ta cần say, tôi biết. Này bác ạ, ý tôi không nên không phải bác bỏ qua cho, chứ tôi cứ thắc mắc cô quạnh như bác sao không sớm vào hội với chúng tôi. Có tí bác gái mới cũng vui đấy chứ. Đồng đất nước người, lỡ khi ta say còn có kẻ thương cảm, còn hỏi hộ cho mình ‘áo quần chàng tự cởi được chăng’ mà không lý thú sao?”
Ông Lộc cười nhỏ nhẹ:
“Tôi vốn nghĩ tuổi mình đi tới bước nữa là sự liều lĩnh tiêu sớm hơn những điều kỳ thú còn sót lại ở cuối đường, thành ra tôi dừng lại đấy bác ơi.”
Không ai trong bọn nghĩ họ tin ông Lộc!

Kệ họ, ông Lộc cứ điềm nhiên pha thêm một ấm trà. Không nhìn mà ông biết mấy ly rượu khởi ngấm trong người ông Tánh lính. Ông e ngại rồi ra thế nào ông ta cũng kết thúc tuần trà với một câu bậm trợn bất ngờ. Mà thế thật, ông ta đã đứng lên, cười hê hê:
“Mình gặp nhau nói cho ấm chân răng vậy thôi, hữu sự ly kỳ ấy có mà vái cả tơi lẫn nón. Tôi là thằng lính già, ẩu tả quá trời, bê bối quá trời còn phải chịu cái luật đào thải, chưa phải của trời đất chi, mà của ngay cái dục trong tâm can mình đây này; nói chi con người nho nhã, mực thước như cái nhà bác Lộc. Nói các bác bỏ qua cho, hăng như tôi mà giờ cả năm chầy cối trong nhà cũng chẳng còn dịp tưởng nhớ đến nhau, thay thảy cứ lạnh như đít bụt cả!”
Ông Hoành tin lành lướt vào, sợ rồi ra ông bạn nhà binh sẽ đi xa quá. Ông nói:
“À này, từ dạo hai cháu nó đi học xa, nhà trống, sao bác...”
“Vâng, của đáng tội tôi cũng đang có ý tìm một người cho trọ, miễn tử tế, đừng ồn ào...”
“Thôi thế này thì con cháu tôi đúng là buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Phải đấy, nhà thì rộng, cảnh lại đơn, tôi không bù khú đâu, nhưng nếu không có tí hơi người trong nhà, tôi sợ ngay cái tâm già ấm cúng của mình rồi ra cũng có ngày nó lạnh như đít bụt thật. Bác ưng, tôi báo tin cho cháu nó mừng.”
Ông Tánh lính cười hê hê:
“Nhưng nên xâu xấu một tí.”
Ông Lộc nghiêm trang:
“Cháu nó đi làm hay đi học?”
Ông Hoành tin lành đáp:
“Nó học năm đầu y khoa. USC. Khổ quá, nhập học đến nơi mà vẫn chưa tìm ra chỗ trọ gần trường.”
Ông Tánh lính ngả người ra ghế, lại cười:
“Thế là được. Bác Hoành bỏ lỗi cho. Gái y dược, hê hê, tôi tin cô cháu đã hội đủ điều kiện để không được đẹp lắm.”

*

Ông Lộc hài lòng về tính nết của Mai. Sự lặng lẽ ấy vừa đủ để không quấy rối ông một ý thơ dang dở, và sự cư xử cho thấy cô gái chắc đã có một bà mẹ nồng nàn.

Dù Mai không hẳn là đoá hoa tươi sắc cắm vào chiếc bình trống, nhưng trong dòng nhạc đời vốn đều đều của ông Lộc quả có nhờ đó mà trổi lên hơi hướm một cảm âm lạ, không đê mê, chỉ gần với chút rung động héo hon, bàng bạc chút mặc cảm không lời của một đoá hoa kém tươi. Một cái bớt đỏ như chiếc lá phong bám một bên má, chạy xuống tới cổ, xoá đi phân nửa vẻ đẹp một chân dung bình thường. Nền giải phẫu thẩm mỹ Hoa Kỳ liệu có khả năng trả lại cho cô gái chút vốn đời khiêm tốn? Ông Lộc không biết, nhưng điều ông biết chắc Mai có đôi mắt thật lạ, đôi mắt buồn xa vắng như bài thơ đẹp, thường bị những lọn tóc rối mỏng như khói xoà xuống che khuất phân nửa, khiến người ta chỉ còn cảm mà khó đọc ra được từng chữ từng lời.
Đôi mắt giống hệt đôi mắt vợ ông!

Dù đang chúi đầu vào chồng sách dưới đèn, nhưng cứ nghe thấy tiếng xe ông đậu trước nhà là cô gái đã nhanh chân ra mở cửa. Ánh sáng sau lưng như làm nảy ra khỏi tấm thân mảnh mai sự ân cần ấm như ý nghĩa gia đình. Thế nào Mai cũng nói câu quen thuộc:
“Sao bác về khuya vậy, bác dùng cơm chưa, cháu dọn nhá?”
Ông không tin lắm đó là hơi lửa nóng trong tình con thương cha, và thích thú tưởng tượng giữa trời đông giá có mớ tro ủ, chỉ chịu khó khơi lên một chút dư sức hâm lại một niêu cơm. Phong thái ấy chẳng khác chi vợ ông ngày nào, có thể hừng hực lửa giận chờ cơm đấy, nhưng thấy mặt rồi giận mất đâu cả.

Những bữa ông về khuya quá, lại có tí hơi men, phản ứng của Mai xem ra có chút trầm trọng. Bực trông thấy. Mai ghét ông uống rượu lái xe. Nhiều lần cô bé kể cái gương ông bố ở nhà cho ông nghe với giọng doạ dẫm. Ba ngàn tiền phạt; mỗi tuần một thứ bảy, chẵn chòi hai năm, cứ đến nơi toà chỉ định mà xem miết những cuốn phim chết người vì uống rượu lái xe.

Thật tai quái, lâu dần ông đâm nghiện cái dáng dấp giận dỗi đó!
Những ngày cuối tuần Mai hay bày ra làm những món ăn nho nhỏ, như bằng chứng hùng hồn trong nhà có một cô gái thì mọi sự phải khác, người đàn ông phải được hưởng một sự sung sướng khác: Một nồi riêu cua đòi nhiều tỉ mỉ, những cặp bánh dầy bánh giò, những đĩa bánh cuốn nóng... Nhìn cái lối ngồi đổ bánh cuốn, tấm lưng hơi gù vẻ nhẫn nhục, đôi bàn tay thành thạo quẹt thanh tre mỏng hớt bánh trên mặt vải bốc khói của cô gái, ký ức ông cứ như bị cái móng nhẹ cào sướt qua.

Ông Lộc quý Mai lắm, nhưng thành thật mà nói nếu chọn vợ cho con chắc ông sẽ có nhiều nghĩ ngợi.

Nhưng giả dụ đùng một cái căn nhà này thiếu đi sự hiện diện kia? Không thiếu lúc ông đã tự hỏi. Ông chắc ông không rối trí lắm đâu, nhưng sẽ bâng khuâng, sẽ buồn nhè nhẹ. Khối óc thi sĩ của ông hình dung ra một nữ tu, vì nhiệm vụ phải dấn thân vào đời vốn nồng nàn sướng khổ, lúc được triệu về nhìn lại những bức tường tu viện lạnh lẽo thế nào, thì chắc nỗi bâng khuâng của ông cũng đến như của chị thôi.

Nhưng ông Lộc đã lầm. Ông không bâng khuâng. Ông chết lặng. Ông không ngờ năm nay trời lạnh đến thế. Tuyết mấy năm trước chỉ lấm đầu núi, năm nay nhiều ngọn bị nhuộm trắng non nửa. Gió cuối năm như nhất quyết không muốn rừng đào rừng lê để dành được đoá nào tới lúc ra giêng. Thế mà ông có mỗi mình!

Cô gái đã về nghỉ lễ với gia đình mãi tận San Jose. Ông đinh ninh rồi cái hơi lạnh cuối năm sẽ khó có cơ tràn vào nhà ông vì hai thằng con cũng về nghỉ lễ kịp lúc. Chúng ồ ạt trám ngay vào tất cả mọi khoảng trống, nhưng chỉ được vài ngày, tưởng như hơi lạnh trong gia đình không đủ cho chúng bão hoà bầu nhiệt khí tuổi trẻ, hè nhau thuê xe đi chơi núi mãi tận vùng tuyết phủ Denver.

Hình như chúng quên trong nhà có một ông bố còn sống!

*

Tách trà cuối vẫn không làm cho ngọn núi lòng ông Lộc ấm hơn, bình tĩnh hơn, thận trọng hơn, nên ông quyết vùng dậy. Đã tới lúc ông phải dọn dẹp căn phòng. Ông lặng lẽ gom mớ ly tách, nhặt từng mẩu bánh vụn, cố nhón khỏi khe bệ cửa sổ một mẩu thuốc lá, một bã kẹo cao su, sửa lại mấy tấm tranh ảnh lệch lạc trên vách. Loay hoay chốc lát ông đã mệt nhừ. Ông ngồi bệt xuống thảm, ngao ngán hỉnh mũi, cảm nhận được sức tàn phá ghê gớm của lũ con trai. Mới mươi ngày trước thôi ông có thể phân biệt rành rẽ cái hương ngây ngây, cái thanh khí dịu dàng đến kỳ bí khi bước vào căn phòng xinh xắn, có cửa sổ liễu rủ, nhìn xuống con đường đầy những đào lê đương độ rực rỡ. Bây giờ đã nát bét cả. Căn phòng toàn mùi pizza, khói thuốc, vớ thối và xem ra còn lẫn lộn cả mùi cơm bánh lên mẻ đâu đây.

Bất giác ông nhìn thấy cái kẹp tóc còn dính vài sợi tóc đen mềm nổi trên mặt thảm trắng. Ông nhặt lên, rút sợi tóc, ngắm, lòng nảy bâng khuâng. Trong tủ áo lòi ra phần cuối chiếc giày nỉ màu xanh lam. Ông nhớ đến cái gót chân tròn trắng như quả trứng ngỗng và những bước đi loanh quanh êm ái. Ông bần thần đẩy cánh cửa tủ hé sang bên. Nơi góc tủ còn vắt lơ lửng chiếc áo lót mình trắng mỏng. Bóng tối như phả lên nó vài bệt mồ hôi sâm sẫm. Khi không ông đứng nhìn trân lúc lâu, rồi nửa hồi hộp, nửa dè dặt ông gỡ manh áo khỏi móc. Trong góc phòng bỗng như có một ma lực kéo ông ngồi xuống. Rõ ràng đã có đôi ba tiếng tim lỗi nhịp. Phải lúc lâu lắm ông mới có gan trải tấm áo trên hai đầu gối. Cổ tay cụt vuốt nhè nhẹ, thật nhẹ trên lớp vải mát mềm như da người ẩm. Rồi mắt ông sụp xuống, như ngấm thuốc ngủ, như đê mê. Ông nhớ có lúc ông đã cảm thấy từ một bệt mồ hôi khô thốt bốc hơi, thơm tho ngấm vào nhiều sợi gân nhạy cảm chỗ cổ tay, đến nỗi trong tiếng thở dài vô cớ sau đó như có phả ra cả cái kỳ hương ấy. Rồi ông không còn nhớ ông đang ở đâu, không nhớ đến căn nhà giá lạnh, đến núi, đến thơ, đến những gian nan đường đời.

Có cơn gió mạnh quất cành liễu vào cửa kính. Ông Lộc choàng dậy với cơn rùng mình sung sướng. Ông thấy gai ốc nổi đầy hai cánh tay. Đôi mắt đẹp buồn của cô gái từ tấm ảnh vừa trố lên. Ông cuống quýt như kẻ bị bắt quả tang đang làm một điều hết sức dị hợm, hay như người quá cao hứng đánh mất đi sự thận trọng, làm đổ toé tách trà nóng ở một chỗ trang nghiêm. Nhưng giờ thì còn gì nữa. Buông thả mất rồi. Ông lỳ lợm ôm riết tấm áo vào ngực, tiêng tiếc khép mắt tìm lại cái cảm giác mới trôi qua - ẩn mật, nôn nao, giục giã và tràn trề./.