văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Sunday, October 28, 2012

NGÔ NGUYÊN NGHIỄM * TRỊNH BỬU HOÀI, NHẶT SUỐT ĐỜI CHƯA HẾT MÙI HƯƠNG

trinhbuuhoai

Tiểu sử văn học: TRỊNH BỬU HOÀI
Sinh ngày: 16/05/1952
Quê quán: xã Mỹ Đức, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
Chỗ ở hiện nay: thành phố Long Xuyên, An Giang
Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh An Giang
Phó ban Liên lạc Hội Nhà văn Việt Nam tại Đồng bằng sông Cửu Long ,Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ,Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam ,Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam
Năm 1969, chủ biên tạp chí và cơ sở xuất bản Khai Phá.
Năm 1970, chủ trương tạp chí Khuynh Hướng.
Năm 1989 đến nay công tác tại Hội LHVHNT An Giang.
Từ năm 1966 đến nay có thơ, văn đăng trên các tạp chí:
Thời Đại, Sống Mới, Đối Thoại, Tân Dân, Tia Sáng, Tiếng Nói Dân Tộc, Văn Việt, Khai Phá, Văn, Văn Học, Phù Sa, Khuynh Hướng , Văn Nghệ, Thời Văn, Nghệ Thuật, Tiểu Thuyết Thứ bảy, Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Lao Động, Tác Phẩm Mới, Nguồn Sáng, Kiến Thức Ngày Nay, Mỹ Thuật Thời Nay, Tài Hoa Trẻ, Văn Nghệ Trẻ, Bông Sen…
Tác phẩm đã xuất bản riêng: hơn 50 tác phẩm thơ và tiểu thuyết.


TRỊNH BỬU HOÀI, NHẶT SUỐT ĐỜI CHƯA H
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM

Sau tết Mậu Thân, những đột biến của đất nước tiếp diễn ngày càng khốc liệt, tôi đằng đẵng trú ngụ tại Sài Gòn xem ra cũng non 4 năm tiếp bước sách đèn. Khác với những năm đầu khép mình nuôi mộng thư sinh, chuyện thành đạt trên bước đường lều chõng, vốn là một hướng tối ưu của kẻ sĩ. Tôi có gắng thu mình hòa mình vào nét sống phồn hoa, dù dặn lòng không rơi chân vào cám dỗ phù du, nhưng cũng hoá thân phong vũ cho trọn vẹn từng giai đoạn sống nhân sinh. Cái say mê văn nghệ cũng giúp tôi trang trải hồn xanh, trong những ngày tháng xa quê quạnh quẽ. Mỗi lần, có dịp rong xe ngang đường Petrus Ký ( nay là đường Lê Hồng Phong, bến xe lục tỉnh nằm trải dài yên vị trên khoảng đường dài hai cây số, là mỗi lần tôi không kiềm chế được nỗi nhớ nhà, nhớ núi, nôn nao kỳ lạ trong tâm hồn. Về thôi, tôi không thể cưỡng lại nỗi thôi thúc không rời, bắt buộc phải quầy quã thường xuyên trở lại nơi chôn rau cắt rốn, gần như mỗi nguyệt kỳ là một lần xuyên suốt bay về, với 300 km đường chim. Để thăm lại ngôi nhà phủ ấm suốt quãng đời ấu thơ, để nhìn lại những giọt mồ hôi tần tảo của song thân, suốt ngày quần quật trên cuộc sống, và để rong ruổi cùng bạn bè tỉnh lẻ, lướt thướt đi dưới trận mưa bay, mà uống café lý sự. Có bao giờ định mệnh trao cho một người một ước hẹn trước, để xuyên suốt chọn lựa cuộc hành trình. Nhưng ở không gian nghệ thuật, hình như có một điều kỳ bí, ngẫm nghĩ gần giống là tiền định. Cuối đông năm 1968, trong trí nhớ tôi, đêm Noel với cái lạnh rét lạnh khác lạ hơn mọi năm, phủ chụp xuống mọi ngã đường phố núi Thất Sơn. Đêm thì đen, trời giá rét, tôi cũng từ Sài Gòn hòn ngọc viễn đông, lướt thướt như con chim trốn tuyết, lặng lẽ hay về thăm lại tổ xưa. Hành trang vội vứt góc nhà, tôi khoát áo blouson trắng tạt ngang nhà Lưu Nhữ Thuỵ, đường Phan Văn Vàng chỉ cách tư gia kế cạnh Bồ Đề Đạo Tràng, khoảng hơn 500m. Đèn đường thì ngọn lu ngọn tỏ, gió run rẩy chạy dài, người nôn nao gặp gỡ, chờ đón 1 cái vỗ vai của phút giây hội ngộ vui buồn. Lưu Như Thụy ngồi bên bàn giấy, đang trò chuyện với hai khách lạ, sự thân mật khiến tôi hiểu ngay là những người bạn thân tình, tri diện tri tâm. Thụy giới thiệu anh chàng cao lỏng khỏng, mắt sáng như sao băng, da bách ích là Đinh Phan Văn Phương, và là một thư sinh có vẻ ít nói, hiền hậu trắng trẻo là nhà thơ Trịnh Bửu Hoài. Tôi đoán chừng, một chàng suýt soát khoảng 20 tuổi và nhà thơ nhỏ nhắn chắc cũng vừa 16 tuổi học trò. Bâng quơ vài chuyện xã giao, tôi và Lưu Nhữ Thuỵ hẹn hò, sáng mai mời anh em có mặt, một chầu điểm tâm và café văn nghệ. Bước ra thư trang của Lưu Nhữ Thuỵ, tôi dự định chào đêm sương mù Giáng Sinh, bằng một chầu bác phố cô đơn, mà tôi thường thích thú trầm ngâm độc lộ độc hành như sở thích. Chàng thư sinh nhà thơ cũng bước lẹ, sau lưng, ngỏ ý cùng tôi đàm đạo làm quen tại một trà quán ven sông. Sự đam mê văn nghệ của tuổi trẻ, có khác gì những giây phút cuồng điên thơ thẩn của ta đâu. Tôi nhìn Trịnh Bửu Hoài, bằng một sự cảm thông vô bờ bến, mà chiếc áo trắng tinh khôi của nhà thơ còn mang đậm phù hiệu của học trò, hồn hậu và chân thành. Bỗng nhiên, tôi khoác vội vai chàng trai, xem như một người em nhỏ đang đồng hành với từng bước tôi đi. Hơn 2 tiếng vắng lặng trước dòng nhạc Trịnh Công Sơn ru nhẹ qua giọng hát liêu trai của Khánh Ly, Trịnh Bửu Hoài bày tỏ muốn tham gia vào dự tính tập hợp bằng hữu văn nghệ ra mắt tờ tạp chí Khai Phá, dựng luồng sinh khí nghệ thuật mới sắp tới. Chuyện tờ tạp chí,có lẽ thổ lộ lúc đàm luận với Lưu Nhữ Thuỵ, nhưng với Trịnh Bửu Hoài áo trắngcòn nguyên khai, tôi chưa rõ sức vóc thơ văn của chàng ra sao, nên chỉ mỉm cười chưa bàn luận, Lúc nầy, dù tờ báo chưa chính thức ra mắt, nhưng thật ra bài vở, chủ đề suốt 3 số đầu tiên đã có sẵn trong hộc tủ, với thành phần anh em hùng hậu nổi tiếng hiện thời. Trước nhiệt tình tha thiết với lý tưởng nghệ thuật, tôi hiểu Trịnh Bửu Hoài rất thực tâm và cương quyết bước tới. Thành quả sẽ đột biến hay tiệm tiến theo thời gian, nhưng ý chí và hy sinh mới chính là yếu tố vươn cánh bay vào không gian cao rộng. Nghĩ vậy, tôi hẹn sẽ bàn luận với Trịnh Bửu Hoài dài hạn sau nầy, nhưng trước mắt có buổi điểm tâm giao kết tại thư trang Lưu Nhữ Thuỵ, tôi muốn được Hoài cho đọc một số thơ sáng tác. Chắc chỉ chờ có vậy, chàng trai trẻ thi ca mới chịu bước vội ra về, sau cái chào nhiệt tình thanh thản. Hỏi ra, chàng phải cắm cuối đạp xe về một đoạn đường dài từ Châu Đốc về Kinh Đào hằng bao nhiêu cây số, dưới khoảng trời nửa đêm Giáng Sinh đầy tinh tú, đâu đây vang vọng bài thánh ca chào đón thánh nhân ra đời.
Suốt một đoạn đường dài gần 300 cây số, lại đằng đẵng suốt đêm với anh em, nên buổi sáng tinh sương đầu tiên trên phố núi không cho tôi cái diễm phúc được nhìn bóng núi mờ ảo, như dự tính lúc quy cố hương. Gần 9 giờ sáng, tôi mới choàng dậy, hoảng hốt vì cái hẹn chợt nhớ lảng vãng trong đầu. Vội vã xin lỗi Lưu Nhữ Thụy Trịnh Bửu Hoài đang ngồi chờ trước tệ xá, chúng tôi cùng rảo bước đi tìm một ngày mới. Giọt café đắng hoà quyện cùng cùng khói hương thuốc Bastos của Lưu Nhữ Thuỵ, khiến tôi và Trịnh Bửu Hoài xoay mắt vào nhau. Hoài vội chuyền tay cho tôi, vài bài thơ chép tay trên những trang giấy Pelure mới tinh khôi, với một sự cẩn trọng tế nhị. Chữ viết của Trịnh Bửu Hoài khá đẹp và lãng mạn, khiến tôi cảm tình ngay với một ý thức tin tưởng tuyệt diệu. Xấp thơ, phần đông là những bài tự do, chỉ duy lẻ loi một bài lục bát. Càng đọc, thơ của chàng trai 16 tuổi, khiến tôi càng ngạc nhiên và thích thú kỳ lạ. Thơ thật hay, và Trịnh Bửu Hoài tỏ ra nhiều sáng tạo, thừa công lực kêu mây gọi gió, nắm bắt kỹ thuật như một nghệ sĩ xiếc, tinh tế từng chi tiết trên chiếc đu bay ngôn ngữ. Lúc đó, cũng như bao anh em làm thơ khác, hiện trạng đất nước còn quá nhiều loạn lạc chiến tranh, nên thơ Trịnh Bửu Hoài cũng bay nhảy tất nhiên, trên ý thức xót xa quê hương và chủng tộc. Trịnh Bửu Hoài bày tỏ thích thú với thể loại thơ tự do như một cuộc phiêu lưu thi vị của tuổi trẻ. Thời đó thơ Tự do như một biểu hiệu thơ vua với những thi nhân muốn làm mới thơ, muốn sáng hoá một loại văn hoá văn nghệ thời thượng. Trịnh Bửu Hoài sử dụng nhiều bút danh trong quá trình sáng tác thơ từ năm 12 tuổi, nhưng đến ngày nầy, chàng bày tỏ bút hiệu Trịnh Bửu Hoài là một thực danh duy nhất, định hình một hồn thơ trong suốt 40 năm nghiệp dĩ. Lòng tin của tôi, đã được khẳng định vững chắc, trước một tài hoa đang dần dần hiện rõ, như hoa phải nở và trăng phải soi.
Tờ tạp chí Khai Phá được xấp xếp hoàn thành, sau nhiều lần bàn luận và định hình một ban chủ biên, trong đó có Trịnh Bửu Hoài tài không đợi tuổi, và là một chàng trai trẻ nhất trong đám kỵ binh. Sự say mê văn nghệ, khiến chàng sáng tác hăng say, góp mặt thấu hết trên các tạp chí trang tân hay các tạp chí tỉnh lẻ. Tuổi tác không là trở ngại, nên ngọn bút Trịnh Bửu Hoài loang loáng ẩn hiện trên khắp nẻo đường vừa bước vội qua. Sau khi rời Trường trung học Thủ Khoa Nghĩa, Hoài theo học ở một trường đạo Hoà Bình một thời gian ngắn lại vội vả xuyên lướt về trường Phụng Sự, Long Xuyên như là nhà thơ muốn bước qua các tư tưởng, như một tò mò phiêu du lý thú. Những lúc có dịp, tôi ghé thăm Trịnh Bửu Hoài lúc ở trọ Long Xuyên, với nhà thơ Đoàn Công Án, Đoàn Công Án như một trí thức nông dân, hay có xu hướng thích thú thiền học với hướng đi là áo lam đạm bạc, bất chấp thế sự. Sự nhẹ nhàng, cư xử bao nhiêu chân tình văn nghệ, khiến Trịnh Bửu Hoài quy tông sâu lắng hơn trong thi ca. Thơ Hoài, có những chuyển hướng ngoạn mục, nhất là ở môi trường mới giúp Trịnh Bửu Hoài giao tiếp sâu rộng với nhiều bằng hữu nổi tiếng chung quanh. Đó là giai đoạn đỉnh cao cho một dòng thơ định hình, là lúc Trịnh Bửu Hoài thấy rõ phải đi đến quyết định đình bản tờ tạp chí Khuynh Hướng, đã gây cho nhà thơ mất quá nhiều công sức và thời gian lo toan cho tờ báo. Nói rõ hơn, sự say mê điên cuồng, khiến có lúc người ta ôm đồm thế sự, không cân nhắc được hiệu quả và sự việc. Tờ Khuynh Hướng do Trịnh Bửu Hoài chủ trương ra được hai số, thì phải chọn lựa một trong hai, làm báo hay chỉ sáng tác. Rảnh tay, nhà thơ hoàn thành được nhiều tác phẩm, có tầm vóc khá đồ sộ. Trong đó, những năm trước 1975, Trịnh Bửu Hoài giao cho NXB Khai Phá in hai tập thơ thật bề thế : Thơ tình Trịnh Bửu HoàiNgười hành hương tình yêu. Giai đoạn thật thi vị, khi đó hai tập thơ khá nổi tiếng, khiến các đồ lưu niệm khắc trên gỗ, đều trích dẫn vài câu thơ tình của Trịnh Bửu Hoài, từ miền Tây sông nước, đến tận xứ sở sương mù Đà Lạt bày bán nhan nhản, làm tôi ngạc nhiên một cách kỳ thú. Chính nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên khi về Sài Gòn thăm tôi, cũng đưa tôi xem một bản gỗ hình Ovale kích thước khoảng 30cm x 10cm có khắc hai câu thơ : Trời sinh ra để nhớ để thương – Em không nhớ là đời em phạm lỗi. Thật kỳ diệu cho sức hút của Thơ, nhất là thơ tình lãng mạn với những tài hoa tuyệt tác của thi nhân.
Thơ Trịnh Bửu Hoài đi vào lòng người một cách say sưa, dấu ấn có lẽ hằn sâu trong tâm khảm người yêu thơ, có một thời để nhớ để thương, nên thơ Trịnh Bửu Hoài đáp ứng cho những cánh chim bay mỏi mê, muốn tìm về sự an bình trong đôi cánh tình yêu tổ ấm. Vẫn làm thơ như ngày nào, Trịnh Bửu Hoài bộc bạch chỉ thích là nhà thơ hơn, dù khi anh chuyển hướng tạo một sự ào ạt xuất bản hằng mấy chục tác phẩm truyện dài, ăn khách kỳ lạ. Vẫn là tình yêu, nhưng Trịnh Bửu Hoài bày tỏ bằng ngôn ngữ văn, khiến thị trường văn chương một phen xông xáo chào đón từng tập truyện của anh như một trận mưa rào thấm đất. Anh trả lời sự thành công nầy, có lẽ do sự trăn trở lớn nhất trong lĩnh vực tình cảm của tuổi trẻ hiện nay, là sự cao thượng, lòng chung thuỷ, nên có sự đồng cảm với những nhân vật gần gũi với khát vọng của mình. Dù chuyện tình ấy cũng mang ít nhiều tính bi đát cổ điển, nhưng có tính tích cực để các nhân vật tìm ra lối thoát, là bản lãnh, là cái đẹp, cái thiện, là vị tha để chiến thắng sự yếu hèn, cái xấu, cái ác, ích kỷ, dù có khi họ cũng bị nhấn chìm giữa bi kịch và định mệnh.
Khi được hỏi, thi ca đóng vai trò gì trong sự nghiệp sáng tác cũng như trong đời sống, Trịnh Bửu Hoài thẳng thắn bày tỏ, làm thơ bằng cảm xúc, nên trước hết thơ là của riêng anh và của những ai có sự gặp gỡ với nỗi niềm nhà thơ. Mỗi người làm thơ đều cô độc riêng mình, không thể làm thơ bằng trái tim tập thể để cầu mong có một số lượng đọc giả là mọi người. Thơ đã ở cạnh anh bao nhiêu ngày tháng cuộc đời, giúp hạnh phúc hơn hạnh phúc mình đạt được, nên cuối đời mình vẫn ước mong là người làm thơ. Quả thật vậy, đằng đẵng một thời gian ở thập niên cuối của thế kỷ trước , Trịnh Bửu Hoài ào ạt ra mắt khá nhiều tiểu thuyết, và được chào đón như một hiện tượng khiến có người bức xúc, hỏi anh thơ bạc bẽo hay anh bạc bẽo, mà thời gian gần đây anh xoay qua in tiểu thuyết ?. Người hỏi dù khắc nghiệt, nhưng đó cũng là một tấm lòng ray rứt, một sự tin yêu dành cho nhà thơ Trịnh Bửu Hoài, mà chính bản thân tôi có lúc cũng thầm tiếc hối, nếu Hoài lạc lối mê cung khi rẽ qua hướng đi của một trận đồ phiêu lưu khác. Không ai bạc bẽo ai cả, Trịnh Bửu Hoài khẳng định một tính cách nghiêm túc, vì đến hôm nay anh vẫn làm thơ, vì không phải không có thể, nhưng không có chỗ nào chịu xuất bản. Thơ gắn bó với anh từ ngày cầm bút, và có lẽ đến cuối đời, thơ vẫn là người bạn đồng hành với anh.
Mới đây, cuối năm 2006, NXB Đồng Nai, in tập thơ Trịnh Bửu Hoài dày gần 200 trang, là tập tuyển thơ suốt quá trình một đời sáng tác, dù với gia sản mấy nghìn bài thơ chỉ lựa chọn chưa tới 100 bài, nhưng cũng minh chứng điều mơ ước là thi nhân của anh là chân thật và cảm động. Trịnh Bửu Hoài đã mang trọn hành trang thơ như một người giữ vườn nhặt suốt đời chưa hết mùi hương.
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
     









Bạn tôi
nhớ Lộc Vũ

Bạn dừng chân phiêu bạt
Về bên bến quê buồn
Quanh năm nghề hạ bạc
Neo đời một khúc sông

Bạn mang hồn phương đông
Quay lưng ra phố chợ
Áo cơm không là nợ
Hồn phơi phới ngàn lau

Ai vào cuộc bể dâu
Bạn đùa trăng dọc nước
Ai bon chen xuôi ngược
Bạn lênh đênh mái chèo

Quanh quẩn bến quê nghèo
Gió mưa mòn chí lớn
Xem đời như giấc mộng
Bạn thả hồn trong veo.

Đêm Kiên Giang

Đêm Kiên Giang gió biển thành men rượu
Thổi qua hồn trong suốt trăng sao
Hương con gái bên thềm hoa cũ
Chợt bay về thơm ngát chiêm bao

Đêm Kiên Giang người quên hay nhớ
Vạt áo gần bỗng hoá tình xa
Ta gói cả trăm năm vào một thuở
Khi chia tay biển gác bóng trăng tà

Đêm Kiên Giang mặt trời trong mắt
Chợt sáng đời nhau phút ngậm ngùi
Ta vấp ngã trên quầng mi khao khát
Rơi xuống bờ ảo vọng của đêm vui

Đêm Kiên Giang nồng thắm chưa nguôi
Mà mưa gió oằn đau hồn ngọn cỏ
Hai trái tim có chia dòng máu đỏ
Khi một người ở lại một người đi

Đêm Kiên Giang chẳng nói câu gì
Gió khuya tạc nỗi buồn lên trán ngọc
Sương rơi rơi lạnh dần vào mái tóc
Người bên trời áo lộng một màu trăng

Đêm Kiên Giang, xa Kiên Giang
Xa cả bàn tay ấm lạnh
Ta ra đi chuyến xe đời hiu quạnh
Ở cuối trời có ánh mắt buồn trông?.

Đêm ngủ dưới chân Ngự Bình
Tặng anh chị Ngàn Thương

Nhà bạn chìm trong xóm nhỏ
Chiều phai mái bạc gió lùa
Rào thưa biết đâu là ngõ
Vách vàng ố vết rong mưa

Nền gạch làm nơi tiếp khách
Quanh năm bóng một khoảng tròn
Giường vạc đầu kề gối sách
Chúc bạn xa về ngủ ngon

Nhưng ta làm sao ngủ được
Huế thơ mà bạn ta nghèo
Quá đêm còn nằm thao thức
Ngậm ngùi một mảnh trăng treo

Ngoài kia sương bay như mộng
Nghe hương Huế ấm lòng mình
Trải hồn trong gian nhà trống
Bạn ta tiếp khách bằng tình

Bạn ta hồn nhiên say ngũ
Đâu hay dằng dặc đêm dài
Ta thấy sông Hương núi Ngự
Mênh mông nhà bạn đêm nay.

Đưa bạn về Bắc Đuông
Nhớ Phạm Hữu Quang

Bạn trở về. Về với Bắc Đuông
Nơi dòng sông chảy qua lời ru của mẹ
Nơi câu thơ xanh màu lá trẻ
Ngọn đèn dầu soi sáng những trang văn
Quyển vở vàng thơm mùi rạ đồng bằng
Tiếng dế gáy theo vào giấc ngủ
Cha mất sớm mẹ lìa quê lam lũ
Chị theo chồng thui thủi bóng ven sông

Về Long Xuyên xa tiếng ếch đồng
Bạn đi giữa phố người lầm lũi
Thân bé nhỏ chí cao như núi
Qua sông sâu hồn khẳm chuyến phà
Bàng bạc xứ người một ánh trăng xa
Chiều sông Hậu làm thơ ngẫu hứng
Ngước mặt về tây Thất Sơn sừng sững
Áo giang hồ cuồn cuộn gió phương đông

Bạn đã về. Về với mênh mông
Bỏ lại sau lưng cõi đời bẩn chật
Bỏ lại nhân gian những điều được mất
Suốt một đời lẩn quẩn thực hư
Cuộc chơi rồi cũng hóa phù du
Đi trăm nơi vẫn quay về chốn cũ
Cánh chim xa rừng thương nhớ tổ
Cội cành xưa còn đó dấu chào đời

Xa Long Xuyên. Bạn đã xa rồi
Còn đâu những chiều say ngất ngưỡng
Quán bên đường ngửi mùi khô nướng
Uống cạn bình chưa rõ mặt cơn say
Có những đêm nhân thế thật dài
Vườn ký ức hồn lang thang cô độc
Bạn nuốt khói nghe bạc từng chân tóc
Nặng hai vai gánh nợ tang bồng

Bạn đã về. Mãi mãi Bắc Đuông
Dòng sông xưa hát lời ru của mẹ
Những câu thơ bây giờ lặng lẽ
Kết thành sao soi một kiếp người
Dừng bước giang hồ. Bạn đã thảnh thơi.
Chuyện áo cơm cũng thành sương khói
Cồn Nguyễn Du gió mùa vẫn thổi
Không còn ai bên máy chữ gọi thơ về.

Uống rượu bên hồ Trúc Giang
Tặng Tô Nhược Châu

Không có hoa đăng đêm hội ngộ
Chỉ một vầng trăng ngất ng­ưởng trên đầu
Không gái đẹp bia vàng máy lạnh
Rư­ợu đế nồng sủi bọt suốt đêm thâu
Không tiếng nhạc mùi thơm h­ương phấn
Chút gió ngàn vi vút mặt hồ sâu
Ta vẫn uống bình say nghiêng ngả
Trúc giang chẳng có sóng bạc đầu

Bạn mừng ta tay run rót rư­ợu
Ta mở lòng hớp ngụm tình xưa
Bão thời gian chẳng mòn ký ức
Há chi trời đất có sang mùa
Ta cứ rót bóng mình trong đáy cốc
Trần gian là một cuộc vui đùa
Khói thuốc bay t­ưởng mây trời đáp xuống
Như­ớng mắt nhìn thế cuộc có say ch­ưa

Tiếng chạm cốc rớt vào đêm tĩnh mịch
Mà ấm hồn nhau khúc ngân dài
Bạn gánh nghiệp đời như­ gánh mộng
Thế mà s­ương khói nặng đôi vai
Ta lên núi để rồi xuống núi
Đạo s­ư buồn trắng cả hai tay
Chí lớn phù hoa như­ bọt n­ước
Phú quí cơ hồ như­ mây bay

Hồ rộng mênh mông ta bé nhỏ
Hai thằng say hóa đá tri âm
Rư­ợu chảy mặt hồ trăng rải bạc
Vẳng trong mắt bạn tiếng nguyệt cầm
Có phải nghìn thu vừa thức dậy
Một hồn hoa cúc của ngàn năm
Ta đứng bên hồ nghe gió thổi
Vai vẫn kề vai giữa thăng trầm.

Trịnh Bửu Hoài

Saturday, October 27, 2012

PHAN * Hạt Dẻ Mùa Ngâu


Trên cái băng ghế gỗ ngoài công viên, tôi nhặt được trái tim màu tím, bằng nhựa trong như pha lê của cô bé nào bỏ quên. Làm tôi nhớ đến trái tim mà nàng Rose đã hơn trăm tuổi, thả xuống biển cho chàng Jack hôm trước thì hôm sau nàng cũng vĩnh biệt cõi đời. Hôm đó, ngồi trong rạp tôi chỉ hiểu nàng Rose đã sống đến trăm tuổi để làm mỗi một việc ấp ủ trong tim cả đời người. Hình ảnh bà cụ Rose trong phim Titanic, thả kỷ vật trăm năm xuống biển sâu cứ như một vết sẹo không còn đau nhưng còn đó, và trăm năm sau người đời hãy còn mang những ý nghĩ khác nhau về một chuyện tình đã đi vào lịch sử…


Ngày ấy, chàng hoạ sĩ nghèo đã gặp nàng tiểu thơ đài các trên chuyến tàu định mệnh; cái định mệnh nhỏ nhoi của tình yêu nghiệt ngã muôn đời giữa giàu và nghèo. Nhưng người đi qua đời nhau trăm năm trước, chàng buông tay nàng giữa biển đêm để người yêu được sống. Nếu chỉ vì nàng Rose mới 17 tuổi, thì còn bao nhiêu trẻ em khác trên tàu cũng cần được sống hơn nàng. Điều khác biệt của nàng trong mắt chàng hoạ sĩ Jack là một tình yêu chân thành mà chàng cần đáp lại khi tấm ván hộ mệnh chỉ cưu mang được một người.

Họ đi qua đời nhau ngắn ngủi nhưng đậm sâu, không như người đi qua đời nhau trăm năm sau, cả hai chỉ biết giữ lấy tấm check cho riêng mình trong hoàn cảnh kinh tế ngoài kia vẫn lao đao, việc làm vẫn bấp bênh; hàng quán vẫn đóng cửa âm thầm; vật giá leo thang… Trong cuộc mưu sinh nghiệt ngã từng ngày, những chiếc bóng lẻ loi vẫn đi-về; người đi qua đời nhau hôm nay chỉ khắc vào tim nhau gian dối một chữ tình, tính toán một chữ tham. Sự hy sinh trong tình yêu không còn làm người ta thổn thức; những giá trị vật chất để sử dụng đã đổi vị trí với con người để yêu thương thì người ta sử dụng con người và yêu thương tài sản trong đời hôm nay.

Trái tim ngoài công viên như bao trái tim đã bỏ nhau, khi chân tình chỉ còn lời gió thoảng trong tình người mây bay, ngày đi trong tuyệt vọng, cõi buồn làm cho tâm hồn nhiều vướng bận, trách khứ cuộc đời khi mỗi người đều tự tạo ra cái vòng luẩn quẩn của mình bởi được- mất, rồi đi qua đời nhau để thương tích cả đời. Sự nghiệt ngã làm cuộc sống hết thanh cao là do con người hơn do cuộc đời, không bởi thời gian… tạo nên vòng trầm luân vô biên vì không còn ai giữ được nồng nàn của tình yêu như chàng Jack và nàng Rose .

Một trăm năm nhìn lại cuộc tình Titanic, ở một góc độ nào đó, có thể nói là trái tim nàng Rose đã chết theo người tình ngay trong đêm định mệnh, bởi cho dù Jack có nhường cho nàng tấm vám cứu mạng, một cái còi để thổi lên bằng hơi tàn lực kiệt khi thấy tàu cứu cấp; thì từ đó tới hết đời nàng, những vui-buồn nhân thế đều thoáng hiện bóng dáng một người; như vậy Jack không chết, lúc nào chàng cũng bất tử trong tình yêu thầm kín của nàng. Rose tuy còn sống sót nhưng làm sao Rose có thể yêu ai bằng hết trái tim khi hình bóng Jack đã thành kỷ niệm.

Tôi máng trái tim đồ chơi lên nhánh cây, có thể cô bé con nào đó còn nhớ, đi tìm, hay bỏ quên vĩnh viễn để trưởng thành trong thời đại người đi qua đời nhau như gió thoảng mây bay; con người cần quên đi để sống! Mong là cô bé con trở lại và nghĩ suy vì sao người nhặt được không bỏ túi, hay vứt đi; hoặc giả một người lớn thấy được, cũng đặt câu hỏi, để hàn gắn lại, trân qúy hơn cuộc tình đã lỡ; có thể những con sóc thấy lạ nên tha về ổ, làm hạt dẻ mùa ngâu…

Văn Quang * “Văn hóa không tên” tạo nên linh hồn của Sài Gòn xưa

 
 
 
Nghe bùi tai, tôi đồng ý ngay. Dù biết rằng ra đó ngồi sẽ rất ngậm ngùi nhớ bạn, nhờ tình, nhớ thời trai trẻ, nhớ đủ thứ… trong cái không gian ấy.
Văn Quang

Buổi sáng Thứ Sáu tuần vừa qua, tôi được một ông bạn điện thoại đến rủ ra Givral uống cà phê. Tôi rất ngạc nhiên vì từ hơn 2 năm nay Givral nằm trong thương xá Eden đã bị đập phá tan tành để… làm một cái gì đó, chắc cũng “vĩ đại” như tòa nhà Vincom chiếm trọn khu vườn hoa trước mặt. Mỗi lần đi ngang qua đường Đồng Khởi, tôi không thể nào quên đó là đường Tự Do xưa kia… của chúng tôi. Nhìn toàn bộ khu tứ giác Eden chỉ còn là đống gạch vụn với những hàng rào kiên cố xung quanh cứ như nhìn thấy… cái gọi là “trại cải tạo”. Thì ra, sau hơn 12 năm, cái “trại cải tạo” ấy vẫn còn ám ảnh tôi ngay cả trong vô thức, đôi khi ngay cả trong giấc mơ. Thế nên mỗi khi đi qua khu Eden bị tàn phá đó, tôi bỗng cúi đầu, chẳng muốn nhìn lâu và cũng chẳng muốn tìm hiểu xem trong thời gian tới, nó sẽ mọc lên cái gì. Tôi cứ nghĩ Givral đã thuộc hẳn về quá khứ, như những người bạn tôi ra lò hỏa thiêu, không bao giờ gặp lại.
Ông bạn thấy tôi khựng lại, ông giải thích:
– Nó mở lại Givral hôm qua (10-10-2012) ở chỗ cũ rồi ông ạ. Cũng điểm tâm, cà phê như xưa. Ra ngồi xem cho biết, nhớ lại chút kỷ niệm xưa.
Nghe bùi tai, tôi đồng ý ngay. Dù biết rằng ra đó ngồi sẽ rất ngậm ngùi nhớ bạn, nhờ tình, nhớ thời trai trẻ, nhớ đủ thứ… trong cái không gian ấy.

Cái “trục văn hóa không tên”
Nói đến Givral là nhớ đến La Pagode, Brodard… chắc chắn những người đã từng sống, từng ghé qua Sài Gòn chưa ai quên. Nhất là những văn nghệ sĩ, nhà báo, dân biểu, thường ngồi ở đấy làm nơi trao đổi tin tức nghề nghiệp. Còn một số lớn khách du lịch, sĩ quan, quân nhân, công tư chức làm việc tại “thủ đô miền Nam” và các bạn trẻ Sài Gòn thập niên 60-75 cũng hay lui tới nơi này. Một địa điểm trung tâm thành phố, rất thuận tiện cho mọi việc, từ hẹn hò, mua sắm vài thứ, đợi giờ vào rạp chiếu phim, hoặc chỉ đi “bát phố” mà hồi đó chúng tôi gọi là đi “hittuking”, tức là đi “hít tủ kính” chứ không mua bán gì. Hơn thế, thương hiệu bánh ngọt Givral rất nổi tiếng, thu hút nhiều khách sành ăn. Mấy bà đi ngang qua Lê Lợi - Tự Do ghé vào mua vài cái bánh mang về cho chồng con là chuyện bình thường.
Givral, La Pagode, Brodard đã trở thành một cái “trục văn hóa không tên” phảng phất mà rất sâu đậm trong cái hồn của Sài Gòn.
Sau năm 1975, Givral vẫn còn sống sót cho đến khi khu này bị “giải tỏa”, nhưng khách không còn “chọn lọc” như thời xưa. Khách hàng đủ mọi loại, ông Tây bà Đầm, ông Hàn Quốc bà Đài Loan, chân dài đẹp, chân dài xấu, nghệ sĩ thập cẩm ra vô thong thả và giá cả cũng váo loại trung bình, không “mềm” cũng không “cắt cổ”.

Givral ngày ấy… bây giờ

Trong khi ông bạn tôi tìm chỗ gửi xe, tôi đứng trên đường Lê Lợi nhìn qua khung kính vào nhà hàng Givral mới. Nó vẫn ở cái góc Lê Lợi – Đồng Khởi, mấy cái cửa kính lớn vẫn cho khách có thể nhìn ngắm hai mặt đường phố và tất nhiên khách đường phố cũng có thể chiêm ngưỡng những khách hàng “đẳng cấp” ngồi bên trong.
Điếu đáng tiếc nhất là cái cột to tướng đúng vào góc đẹp nhất che lấp mất tầm nhìn nơi cửa chính trước kia, làm cho không gian có vẻ như chật chội hơn, không thể nhìn thẳng ra nhà hát lớn, khách sạn Continental với phong cách rất Tây và khách sạn Caravelle cùng cái vòng xoay và những con đường chảy vào giữa lòng thành phố.
Chúng tôi bước vào nhà hàng với một vẻ lạ lẫm. Những chiếc bàn ghế mới toanh, những bộ salon kê hai bên góc khá đẹp. Tất cả đều mang dáng vẻ sang trọng như bất cứ một nhà hàng cà phê, điểm tâm “có hạng” nào ở những thành phố lớn.
Khoảng 9 giờ sáng, khách đã chiếm hết số bàn trong tiệm. Số còn lại ngồi rải rác quanh chiếc comptoir hình móng ngựa. Những người hoàn toàn xa lạ ngồi riêng biệt, chẳng ai nhìn ai. Cái không khí ấy khiến tôi không thể quên những ngày xưa. Tuy ngồi khác bàn nhưng chúng tôi vẫn có thể biết xung quanh mình có những ai.
Bàn bên kia là bốn năm anh ký giả chuyên làm tin hành lang Quốc Hội, bàn góc trái là mấy ông dân biểu Hạ Nghị Viện thời Đệ Nhị Cộng Hòa đang say sưa bàn về những “ý kiến” đã và đang chuẩn bị lên diễn đàn. Bàn giữa nhà là mấy “dân chơi” quen mặt, có lẽ ngồi đợi người đẹp… Thỉnh thoảng một cái gật đầu, một cái vẫy tay, một ánh mắt thân thiện. Sự gần gụi, quen thuộc ấy chính là cái linh hồn của Givral trước 1975. Bây giờ không tìm lại được nữa.

Cái “trục văn hóa” từ La Pagode, Givral đến Brodard khác nhau thế nào?
Nằm chung trên đường Tự Do xưa, có ba quán café cùng nổi tiếng như nhau. Bắt đầu từ nhà hàng La Pagode ở góc Lê Thánh Tôn – Tự Do, qua vài nhà hàng đến tiệm sách Xuân Thu, đến hành lang Eden, trong đó có rạp Ciné Eden từ hồi… cựu hoàng Bảo Đại mới lên ngôi. Đến góc đường này là Givral nằm đối diện với khách sạn Continental, sát bên trụ sở Hạ Nghị Viện (nhà hát lớn TP cũ), nhìn chéo sang phải là khách sạn Caravelle sinh sau đẻ muộn. Đi quá chút nữa là nhà hàng Brodard.
Ba tiệm cùng nằm trên một con đường rất gần nhau, chỉ cách khoảng trên dưới 100m và gần như có kiểu kinh doanh giống nhau. Nhưng thật ra, nếu để ý kỹ, khách hàng thường chia làm 3 loại khác nhau. Ở đây tôi chỉ kể riêng về mặt “sinh hoạt văn hóa”.
Trước hết phải kể đến nhà hàng La Pagode, tôi cho là “cổ kính” nhất. Ngay từ những năm 1953, khi tôi mới biết taxi là “cái giống gì” (bởi ở miền Bắc hồi đó chưa có taxi), tôi đã biết La Pagode. Hồi đó Pagode còn bày hàng ghế salon bọc da ra ngoài hành lang, theo lời ông Nguyên Sa thì nó giống hệt nhiều nhà hàng ở Paris. Ngồi ở đây thoáng đãng. Khách đến thường chỉ dùng một ly cà phê, ngồi từ chiều đến tối mịt. Phía trong có một bàn đánh “tin” dành cho khách giải trí chứ không có mục đích cờ bạc kiếm tiền. Ông Hoàng Hải, anh ruột của cố Chuẩn Tướng Lưu Kim Cương, có thể kể là một “nhà vô địch” về môn giải trí này. Chúng tôi chỉ cần mua một chục cái jeton, như đồng xu, bỏ vào khe là chơi triền miên. Cứ sắp hết lại kêu ông Hoàng Hải “cứu giá”, bonus lại đổ xuống hàng đống jeton tha hồ chơi.

Từ đâu có “Radio Catinat”
Khách hàng của La Pagode hầu hết là nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ. Cứ vào buổi chiều, sau giờ tan sở là tụ tập lại đây. Tất nhiên cũng ngồi thành nhóm. Những ngày đầu tôi thường đi cùng Thanh Nam, Thái Thủy, Hoàng Thư và đến đây thường gặp các anh Nguyên Sa, Trần Thanh Hiệp, Mặc Thu, Cung Trầm Tưởng, Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Tạ Quang Khôi, Viên Linh, Nguyễn Đạt Thịnh, Phạm Huấn, Anh Ngọc, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Nguyễn Đình Toàn… Quá nhiều, tôi không thể nhớ hết. Thật sự cái nhu cầu chính là đến đây gặp nhau, để… nói dóc, “bình loạn” vài cái tin văn nghệ, thời sự chính trị cho vui thôi. Cả ba nhà hàng này với những cái “loa ngầm, loa không ai kiểm chứng” nên có thời người ta gọi những tin tức ấy là “radio Catinat” (bởi con đường Tự Do, thời Pháp được đặt tên là đường Catinat). Tuy nhiên cũng có những nguồn tin “bí mật quốc gia” rất chính xác bên cạnh những nguồn tin chẳng bao giờ là sự thật. Nó cứ nhập nhằng như thế nên “radio Catinat” chưa chắc đã là “láo toét” như nhiều người kết tội nó.
Vậy tạm gọi Pagode dành cho giới viết lách gặp nhau, xả stress.

Quyền lợi hỗ tương giữa phóng viên và các ông “nghị”

Còn Givral đông nhất và đáng kể nhất vào mỗi buổi sáng. Phóng viên trẻ thường tụ tập ở nhà hàng này vì nó ở ngay trước trụ sở Hạ Nghị Viện, các ông dân biểu thường ra ngồi giải lao tại đây và “thảo luận” đủ thứ chuyện bên lề. Và chuyện bên lề bao giờ cũng hấp dẫn hơn chuyện trong nghị trường. Chuyện “bí mật quốc gia”, chuyện phe nhóm, “gia nô” và không “gia nô”, chuyện tình bà nghị ông nghị… cứ nghe mấy ông này là có đủ tin “giật gân” trong ngày. Cánh phóng viên thường bắt mối rất chặt chẽ với các ông bà dân biểu và nghị sĩ thượng hạ nghị viện. Thật ra họ có quyền lợi “hỗ tương”, anh cho tôi tin, báo tôi yểm trợ lập trường của anh. Trong số những phóng viên Việt Nam còn có một số phóng viên người Mỹ, Pháp từ khách sạn Continental trước mặt ghé sang. Hoặc cũng có một số phóng viên người Việt làm cho các đài truyền hình, truyền thanh nước ngoài săn tin tại đây.

Nhà thơ hàng đầu Việt Nam thường hẹn hò ở Givral

Có một nhà thơ hàng đầu Việt Nam thời đó là thi sĩ Đinh Hùng, bình thường ông hay ngồi ở La Pagode, nhưng khi “hữu sự” ông lại ngồi ở Givral. Dáng người “thanh thoát” nhỏ nhắn rất thư sinh. Lúc nào ông cũng chải chuốt, complet, cravate, đầu chải mượt gọn gàng, tay luôn xách chiếc cặp da, ông còn giữ nguyên vẻ đỏm dáng, lịch lãm của “công tử Hà Nội” những năm 50. Ông thường hẹn gặp những người ái mộ ở đây. Tôi để ý thấy hầu hết là những nữ độc giả rất trẻ, đẹp. Khi ông ngồi cùng 3-4 cô, khi ông lại rù rì với một người đẹp duy nhất. Đúng là ông có số đào hoa và dù đã ngoại ngũ tuần nhưng trái tim vẫn còn rất trẻ. Những lúc nhìn ông “say” như thế, tôi có cảm tưởng như ông cũng giống như những cậu trai 20 ngồi bên cô gái 18. Ông sống thật với rung cảm của mình. Có lẽ vì vậy thơ ông bao giờ cũng mang cái óng mượt, thần thoại rất đặc trưng. Có thể, Givral chính là nơi bắt ngưồn cho những cánh thơ thăng hoa của cảm xúc này.
Hôm nay ngồi ở Givral, hình bóng anh Đinh Hùng vẫn quanh quẩn đâu đây. Nhớ lại, khi tôi viết truyện dài “Đời Chưa Trang Điểm”, tiêu đề này chính là đã mượn trong câu thơ “đời chưa trang điểm mà xuân đã về” của anh. Lúc gặp nhau, anh Đinh Hùng nói với tôi: “Ừ, cái tít ấy có vẻ tiểu thuyết lắm, cứ lấy xài đi, đóng thuế cho tớ một cuốn thôi”. Mới đây mà đã hơn nửa thế kỷ rồi anh Đinh Hùng ơi!

Brodard với những “dân chơi”
Còn nhà hàng Brodard nằm ở góc Tự Do – Nguyễn Thiệp, nhìn sang bên kia là vũ trường Tự Do của ông Cường lùn và chị “tài pán” Nhựt, bà chị này hành nghề cai quản các em “ca nhe” từ vũ trường Ritz Hà Nội vào Nam. Ở đây lại đông vui vào những buổi sáng muộn và buổi tối khi “gà lên chuồng”. Nơi lui tới của những “dân đi chơi đêm” Sài Thành. Những anh hùng “hảo hớn” như Khê - Thăng Long Xích Thố, anh em ông Kim đầu bạc, Kính tennis, Chương Marine cũng lui tới ngồi tán chuyện giang hồ. Các “đại gia, tiểu gia” thời đó không nhiều, chỉ vỏn vẹn một số ông dược sĩ, tu bíp, doanh nhân có “xế bốn bánh” đủ để chở các em đi ăn đêm. Thỉnh thoảng một vài em vũ nữ, thường là loại có hạng như Lệ Hằng, Thủy Điên, Mỹ Khùng… ở mấy cái vũ trường gần đó như Tự Do, Mỹ Phụng, Olympia cũng la cà vào đây tán dóc.
Ba nhà hàng ấy là 3 sắc thái riêng biệt làm nên cái trục “văn hóa không tên”, cái linh hồn của Sài Gòn, khó phai mờ trong ký ức của những người Sài Gòn.
Còn một địa chỉ nữa ở gần chợ Bến Thành là nhà hàng Thanh Thế, nơi này là chỗ gặp nhau của những ký giả thể thao như đàn anh Huyền Vũ, Thiệu Võ và một số những nhà báo miền Nam.

Tai nạn nghề nghiệp tại Givral, chuyện bây giờ và chuyện ngày xưa
Nhắc đến Givral và gần đây có câu chuyện về tin “siêu hot” trên nhiều tờ báo ở Việt Nam, tôi chợt nhớ đến câu chuyện cũng gần giống như thế xảy ra giữa mấy anh phóng viên với nhau ngay tại nhà hàng Givral hồi xưa. Xin ghi lại chuyện vừa xảy ra trước.
Hẳn bạn đọc còn nhớ câu chuyện “tin không nổi” mới xảy ra vài tuần trước. Ngày 18-9, VOV online, một trang thông tin trên mạng của Việt Nam, đã đăng tải thông tin với nội dung rất kỳ cục về “quan hệ” bố chồng nàng dâu. Sau khi VOV online đăng thông tin này, rất nhiều báo, trang thông tin điện tử ở Việt Nam đã trích nguồn tin này, có báo còn vẽ rắn thêm chân cho tình tiết thêm phần “thật” và tăng độ “gay cấn” lên cao. Xin nhắc lại câu chuyện có thể kể là chuyện ly kỳ quái đản nhất thế kỷ tại Việt Nam. Trang mạng này đưa tin nguyên văn như sau:
“Bố chồng yêu con dâu, cùng phải đi cấp cứu
Ông A (58 tuổi) có quan hệ tình dục với cô con dâu (36 tuổi). Trong khi thực hiện hành vi vô đạo đức này, người con dâu bị chứng co thắt âm đạo làm cho bố chồng không tách rời ra được.
Chiều 18-9, Phó Giáo sư, tiến sĩ Tạ Văn Trầm - Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa trung tâm tỉnh Tiền Giang xác nhận, vừa quyết định chuyển 2 bệnh nhân (cư ngụ ở xã Tân Trung, thị xã Gò Công) lên tuyến trên điều trị trong tình trạng dính nhau. Điều đáng nói là 2 bệnh nhân này là bố chồng và con dâu.
Trước đó, trong lúc người con trai đi làm ở TP., ông A (58 tuổi) có quan hệ tình dục với cô con dâu (36 tuổi).
Trong khi thực hiện hành vi vô đạo đức này, người con dâu bị chứng co thắt âm đạo làm cho bố chồng không tách rời ra được, được đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện Đa khoa trung tâm tỉnh”.
Thật ra đây chỉ là nguồi tin do BS. Tạ Văn Trầm - phó giám đốc bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh Tiền Giang nói vui với bạn bè thôi. Hoàn toàn không có thật. Sau đó vài ngày, sáng 22-9 trang báoVOVonline đã phải xin lỗi:
“Ngày 18-9, VOV online đã đăng tải thông tin với nội dung về quan hệ bố chồng nàng dâu. Tuy nhiên qua xác minh, phóng viên viết tin này đã có sai sót khi chỉ dựa trên một nguồn tin không chính xác, thiếu thẩm định lại, dẫn đến tin đưa không đúng sự thật. VOV online chân thành cáo lỗi cùng bạn đọc”.

Chuyện ở Givral thời xưa
Thưa bạn, chuyện này làm tôi nhớ đến câu chuyện có thật ở Givral hồi xưa, do anh Hồng Dương kể lại. Khi đó anh là phóng viên của Đài Phát Thanh Quân Đội phụ trách tin tức nghị trường. Hầu như ngày nào anh cũng ngồi với cánh phóng viên ở Givral. Trong số những phóng viên đi săn tin có một ông, lớn hơn vài tuổi. Ông này thích “mần văn nghệ đủ thứ”, làm thơ, viết văn, nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học kiêm luôn nghề săn tin. Ông lại thích tỏ ra hiểu biết hơn người, coi mình là cái rốn của vũ trụ nên anh em không ưa. Ông nói và viết nhiều hơn những gì ông biết. Ông chỉ đọc chừng 10 cuốn sách nhưng phê bình đến cả trăm văn nghệ sĩ. Chứng tỏ ông chỉ nghe lỏm chứ không biết đâu là đúng đâu là sai.
Một lần anh em đang ngồi tán dóc, thấy ông (xin giấu tên, tạm gọi là ông X.Y) đi tới. Mọi người đều im bặt. Ông X.Y đoán chắc có tin gì hay, tụi nó giấu mình. Ông hỏi, nhưng anh em không ai nói câu nào, ông càng nghi. Sau cùng ông lựa một anh có vẻ “thật thà” nhất gặng hỏi cho được cái tin “bí mật” kia. Anh phóng viên “thật thà” bèn bịa ngay ra một “tình sử” tiết lộ cho đàn anh X.Y. Tôi không nhớ rõ là chuyện gì, nhưng đại khái là thứ tin tức động trời như kiểu tin “bố chồng dính lẹo với nàng dâu”.
Ông X.Y tức khắc viết bản tin đăng trên báo hàng ngày. Ông chủ nhiệm bị thiên hạ gọi đến tòa soạn hỏi tới tấp và có nhiều phản ứng rất gay gắt. Ông chủ nhiệm báo này cũng giống như ông chủ nhiệm VOV phải đi xác minh. Cánh phóng viên nói hoàn toàn không có tin này. Chủ nhiệm đành đăng lời “cáo lỗi cùng bạn đọc” và chỉ còn cách cho anh phóng viên nằm nhà làm việc vặt.

Cái bẫy của mấy ông bác sĩ
Trở lại chuyện ngày nay trên VOV, tôi thấy có dư luận chê trách BS Tạ Văn Trầm - phó giám đốc bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh Tiền Giang nói bậy. Nhưng suy luận cho cùng, tôi nghĩ đây cũng chỉ là chuyện ông BS Trầm thấy anh phóng viên kia hay nghe lóm, viết văng mạng nên ông ta cùng bạn bè ghét mặt, bèn giăng cái bẫy, bịa chuyện “bố chồng nàng dâu”, cho anh ta nghe lỏm, cũng giống như cái bẫy của mấy anh bạn phóng viên ngồi ở Givral hồi xưa thôi. Chẳng có lý do gì một bác sĩ phó giám đốc bệnh viện lại nói một chuyện không hề có như vậy. Thiếu gì chuyện để mấy ông tu bíp nói giỡn với nhau, sao lại nhè lúc anh phóng viên có mặt mà “khui” ra chuyện kỳ quái kia, phải không bạn? Bài học này quả là đắt giá cho những người cầm bút chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp.
Tôi kể lại chuyện cũ, chuyện mới để bạn đọc dễ dàng so sánh hai chuyện có cùng một nguyên nhân không.

Không thể tìm lại dĩ vãng
Tóm lại, trong bài này, tôi chỉ muốn thông tin đến bạn đọc một nét “văn hóa xưa” vừa được khơi gợi lại giữa Sài Gòn. Nhưng với tôi, nó chỉ còn cái tên Givral của thời xa xưa thôi. Tất cả đều khác trước, giá cả lại quá cao không phù hợp chút nào với cánh phóng viên Việt Nam. Nó sẽ chỉ còn thích hợp với khách du lịch ghé ngang qua thành phố này.
Dù sao cũng xin gửi đến bạn đọc nặng lòng với những hoài niệm cũ, với Sài Gòn xưa, một cái gì đã mất đi không thể tìm lại được. - (VQ)

Friday, October 26, 2012

Trần Vấn Lệ * Tùy Bút Mùa Thu


danggiao


Mùa Thu, trời ngộ thiệt:  nắng nửa chiều rưng rưng, làm như mưa không chừng, chờ hoài mưa không tới…

Mùa Thu lá chới với / dù gió nhẹ nhàng qua. 
Gió heo may xót xa / không riêng lòng chiếc lá… 

Mùa Thu những con quạ / ít kêu, mà kêu buồn.  Tiếng kêu như tiếng chuông / khàn khàn và vỡ nát…

Ơ hay những bài hát / vang vang cũng nghe buồn!  Cô ca sĩ dễ thương / mặt dường như sương khói…

Mùa Thu trời vời vợi, thấp mà sao như sâu; dòng nước chảy qua cầu, xanh mà sao xanh ngắt? 

Tôi thắp nhang bàn Phật / cầu xin cho người yêu / có được những buổi chiều, lạnh, lòng nghe vẫn ấm…

Tôi vẫn còn xa lắm / chưa về kịp với ai.  Tôi ráng giữ vòng tay / chỉ cho riêng người ấy…

Người yêu tôi, người Huế, chiều Vỹ Dạ bâng khuâng…

Trần Vấn Lệ

Wednesday, October 24, 2012

Du Tử Lê * Pho tượng

nguyenthanhthu


Cô bé hỏi người lính :
- Tết năm nay nữa, ông bao nhiêu tuổi?
Hình như người đàn ông không chờ đợi câu hỏi bất ngờ đó nơi cô gái. Ông gỡ điếu thuốc khỏi môi. Điếu thuốc bị ngậm chết ở một vị trí khá lâu/có lẽ thế/cho nên khi được gỡ ra, một lớp giấy mỏng còn dính lại nơi môi. Người đàn ông gỡ bỏ lớp giấy mỏng trước khi trả lời cô gái :
- Tôi già rồi.
- Bao nhiêu và thế nào mà ông cho là già?
Người đàn ông nâng tách cà phê lên nhưng không uống ngay, trong lúc cô gái nghịch cái thìa trong tay và mắt chờ đợi:
Nghĩ một lát, mỉm cười, đặt tách cà phê xuống, ông nói :
- Như cô và tôi, chúng ta đã ở hai đầu dây ngăn cách. Chúng ta như hai cực của một ngày. Tôi đã xế chiều và cô mới bình minh. Khi cô thực sự bình minh, thì đó là lúc tôi vào sâu bóng tối.
Người lính nhìn qua khung kính lớn, dãy thung lũng trải dài với thảm cỏ mướt xanh uốn lượn như con sóng lớn. Một vài cây phong đổi mầu lá ối đỏ, trang điểm nó. Dáng chiều từ chân đồi hắt ngược lên càng khiến những chiếc lá phong bầm đỏ và tối hơn. Người lính chỉ tay vào thung lũng :
- Cô thấy gì ngoài khung kính này?
- Buổi chiều vàng, một buổi chiều vàng trong nhạc của Nguyễn văn Khánh. Ông biết bài đó? Người con gái đáp như trúng tủ trong một cuộc thi vấn đáp?
- Phải... “trên đồi thông chiều đã xuống dần mặt trời lấp ló sau đồi, chiều vàng...”
- Ông có biết là tôi yêu bản nhạc đó, như yêu một cảnh đời mình đã... khuất.
- Cô nói như một bà già năm mươi!
- Vâng! Khi tôi chửa được một nửa của tuổi đó.
Người con gái không che giấu tự tin và chút gì giống như hãnh diện trong câu trả lời của mình.
Người lính lắng tâm hồn và cảm xúc ông vào đôi mắt mở lớn, trong veo, không một gợn đục. Từ đôi mắt thơ ngây ấy, những lời nhạc như tiếp tục vẳng lên: “Chiều nay viếng thăm hồn cố nhân, ta nên đau thương gắng bước hoài, đời chỉ có riêng em mà thôi”.
Những hình ảnh xưa cũ, như một trận bão bất ngờ trút xuống trong thần trí ông.
- Tôi bốn mươi rồi. Tết này nữa, tôi đúng bốn mươi.
Người con gái như không hề ngạc nhiên về tuổi tác của người lính. Làm như cô đã biết trước tuổi ông. Cô nói :
- Vì thế, ông cho rằng ông đã già, quá già rồi.
Người lính gật đầu. Ông di di mẩu thuốc lá trong chiếc gạt tàn;
- Đúng thế. Nếu cô biết rằng các cụ mình có câu: “Tam thập nhi lập, từ thập nhi bất hoặc...” Tôi đã mười năm bước qua tuổi ba mươi mà chưa “lập”, thì nói gì... Người lính ngập ngừng trước khi tiếp:
- Tôi không còn tuổi trẻ nữa.
- Ông nói thế nghĩa là sao?
Người lính nén tiếng thở dài :
- Nghĩa là tôi không còn cơ hội. Tôi không còn những yếu tố căn bản là tuổi trẻ, lòng hăng say, để bắt đầu hay để làm lại.
Cô gái múc một thìa kem. Nàng hé môi hàm răng trắng đều và cặp môi đỏ tự nhiên. Cô ngậm như cắn thìa kem. Cô khép đôi mắt, như để tận hưởng cảm giác mát lạnh và hương vị ngọt ngào của thìa kem chảy tan trong cơ thể?
Bất ngờ, cô hỏi:
- Ông biết tôi bao nhiêu không?
- Tôi không hề để ý tới tuổi cô. Chỉ biết cô còn bé lắm.
Người con gái hin hin mũi, tinh nghịch :
- Bé cỡ nào, ông?
Người lính lúng túng :
- À... À... Bé lắm. Bé như là bé... tý hon.
Cô gái đưa tay che miệng cười. Tiếng cười cô ròn rã, vang ấm một góc quán.
- Tôi mười tám. Tết này, tính theo tuổi ta, tôi mười chín. Cô đăm đăm nhìn những giọt nước đang tạo hình trên ly kem khi nói. Như một tiếng thở dài lúc cô thêm:
- Mười chín mà tôi thấy mình như đã ngoài ba mươi!
- Tại sao?
- Không phải tại tôi cảm thấy tôi già trước tuổi. Rất thường, tôi tự thấy, tôi còn nhỏ lắm. Còn trẻ con lắm trong cả ý nghĩ, tư tưởng của mình. Nhưng đôi khi, đôi khi thôi, ông biết không, tôi tự hỏi, rồi tôi sẽ ra sao? như thế nào? làm được những gì ở năm hăm chín, bốn mươi? Tôi luôn thấy tôi lạc lõng trong tất cả mọi “pạc ty” của bạn bè. Tôi cũng không một chút ham muốn trước phấn son, không một chút rạo rực trước quần áo hôm nay, quần áo mà người ta gọi là quần áo “disco” đó ông. Không phải tôi làm bộ. Không phải tôi giả cách. Ba mẹ tôi tuy không khuyến khích nhưng cũng chẳng cấm cản tôi. Tôi biết rõ điều đó. Vấn đề là tự thâm tâm, tự một chỗ nào đó trong tâm hồn tôi, tôi không thấy thích, tôi không thấy ham muốn những thứ đó. Bạn tôi có đứa bảo tôi bị bệnh. Bệnh lãng cảm. Tôi không hiểu rõ lắm bệnh này và, thực sự cũng chẳng mấy quan tâm...
Có thể người lính không chờ đợi những lời đối thoại như vậy. Ông lúng túng:
- Cô không sợ bạn chê là nhà quê sao?
Cô gái lắc đầu: tự tin :
- Không. Cho đến hôm nay, tôi không hề có một mặc cảm nào khi đứng trước mặt bạn bè. Tôi có lố bịch không ông /?/ Nếu tôi nói với ông rằng tôi biết những gì tôi hơn bạn bè tôi.
- Cô làm tôi nhớ em gái tôi. Nó cũng bướng, cũng “lý sự” như vậy!
Cô gái mỉm cười. Nụ cười nhiều phần miễn cưỡng:
- Tôi có nói nhiều quá không ông?
Người lính lắc đầu :
- Có bao giờ cả một ngày cô không được nghe một tiếng nói nào chưa? Tiếng mẹ đẻ! Tôi đã nhiều lần trải qua cảm giác đó. Cảm giác thèm khát muốn phát điên vì thiếu tiếng nói. Nhưng lúc ấy, thì ngay cả tiếng lảm nhảm, vô nghĩa với tôi cũng cần thiết. Chưa kể, càng nói cô càng cho tôi cảm tưởng khoảng cách giữa cô và tôi được ngắn lại phần nào.
Người con gái không giấu hân hoan.
- Ông nói thật? Thật phải không ông?
- Tôi có thể nói dối với tất cả mọi người, trừ... cô.
Người con gái dướn gương mặt hạnh phúc, rực rỡ về phía người đàn ông. Tuy nhiên, như chưa tin hẳn, cô gái hỏi thêm :
- Tại sao lại trừ tôi?
- Tại cô là cô bé. Bé tý hon.
Cô gái như không còn kìm giữ được lòng sung sướng, rất nhanh và rất tự nhiên, cô đặt tay cô lên bàn tay người lính.
Ông xoay ngược bàn tay, nắm lấy bàn tay nhỏ, mềm như được làm bằng bột của cô gái. Từ từ, những ngón tay xạm nắng bóp xiết những ngón tay chỉ còn là một màu trắng sữa. Cô bé thốt kêu :
- Ông... ông Lãm.
Người lính như đang bơi trong cơn mơ sảng :
- Học...
Ông buông tay cô. Bàn tay người con gái trơ vơ trên mặt bàn nhung màu huyết dụ, rung động như phần cánh bị thương của một con chim sâu.
Vài giây sau, người con gái mới rút tay về...
Bóng tối như từ đáy thung lũng dâng lên mỗi lúc một cao, cùng lúc với sương mù bám vào cửa kính, làm thành một lớp vải voan mỏng.
Tự lòng quán nhìn ra, người ta chỉ còn thấy được những cây phong gần nhất. Lúc này, chúng giống những ông già mặc áo bành to, đang rộng đôi tay, ngửa mặt, lặng im khấn nguyện một điều gì đó với trời đất.
Người kính châm điếu thuốc mới. Cô bé đã trả hai bàn tay xuống gầm bàn như lúc ban đầu. Cô day mặt về phía cửa kính.
Người đàn ông cố gắng (sự cố gắng thấy rõ trong giọng nói ngượng ngùng của anh) :
- Tôi thật đáng trách... Tôi không định thế...
Cô bé quay lại. Đôi mắt đỏ, nhưng miệng nàng cười :
- Đâu có. Ông.
Giọng nói của người con gái lúc đầu còn đượm nhiều xúc động, trước khi bớt dần:
- Học... ồ tôi không hiểu... ừ mà tôi cũng không hiểu tại sao nữa? Là người lớn, ông...
Người lính lắc đầu!
- Học tưởng người lớn biết tất cả mọi thứ.
Người lính cười, thở ra như vừa trút đi khỏi lồng ngực một sức nén ép khủng khiếp:
- Không phải người lớn thì cái gì cũng biết. Có khi còn ngược lại, như tôi.
- Ngược lại? Ông Lãm? Học không hiểu!
- Tôi muốn nói có nhiều điều trẻ con biết mà, người lớn thì không...
Cô buột miệng:
- Xì! Ông Lãm “xạo”. Học không tin.
Người lính nghiêm mặt :
- Thật đó.
Cô bé cong môi :
- Chẳng hạn?
- Chẳng hạn trẻ con biết làm cho người già trẻ lại. Trong khi người già bất lực. Họ không không biết cách nào để làm cho trẻ con trở nên trẻ con hơn nữa.
- Nhưng người già biết cách làm cho trẻ con già thêm phải không?
Người lính mỉm cười :
- Chính thế. Sự nguy hại của trẻ con chơi với người lớn ở chỗ đó.
- Học không còn là bé nữa. Học đã bước vào tuổi mười tám. Học lớn rồi. Phải không ông Lãm?
Người lính dùng một câu hỏi thay cho câu trả lời:
- Cô định làm gì ở những ngày tháng đầu tiên của tuổi mười tám?
Cô gái ngẫm nghĩ :
- Học không biết nữa. Ơ mà Học thấy có nhiều điều trước đây, Học không thể làm được, nhưng bây giờ thì đã...
- Thí dụ một vài điều?
Cô gái mím môi để khỏi cười. Đôi má nàng au đỏ. Nàng lắc đầu :
- Không. Học chẳng thể nói ra với ông.
- Sao vậy?
- Học mắc cở. Với lại...
- Với lại?
- Kỳ lắm. Mà thôi, Học không nói đâu. Học sẽ không bao giờ nói ra đâu. Ông Lãm đừng bao giờ hỏi nữa...
Càng nói, người con gái càng rơi sâu trong sự mắc cỡ của chính nàng. Hình như người lính cảm biết được một điều gì đấy. Ông dọa:
- Lỡ...
Người con gái cướp lời :
- Không. Không nha. Ông Lãm.
Cô bé ngước mắt nhìn người lính vẻ khẩn khoản. Người lính cười. Nụ cười khoan hòa, như nụ cười của một người cha chiều lòng một đứa con gái nũng nịu.
- Ừ! Tôi sẽ chẳng bao giờ tôi hỏi Học điều đó.
Làm như hai người cùng ngầm hiểu điều họ có thể... không hiểu hay hiểu sai!
Tuy nhiên, phần cô gái vẫn là nụ cười. Nụ cười mang theo hương thơm ngọt ngào của thìa kem chảy tan một lần nữa trong cô..
Người lính trả tiền và đưa cô gái ra khỏi ngôi quán. Đêm thẳm sâu và lạnh. Cô giấu đôi bàn tay vào túi áo vest, trong khi người lính thọc hai tay vào túi quần sau khi cài nốt những khuy áo còn lại của chiếc bành tô.
Họ sóng bước. Trong lúc người lính trở nên trầm ngâm thì cô gái ngược lại, liến thoắng hơn. Cô nói :
- Ở đây không có chợ Tết!
- Ừ không có chợ Tết.
- Cũng không có cả ciné giống như ở quê nhà nữa.
- Cũng không cả ciné...
- Ông Lãm...
- Gì Học?
- Tết ông Lãm làm gì?
- Ngủ. Tôi ngủ cho qua Tết.
- Tết ai lại ngủ?
- Nhưng tôi ngủ. Và uống rượu...
- Thế ông không định đi thăm Học sao?
- Ừ nhỉ! Phải đi thăm Học.
Cô gái không thể biết người lính nói sẽ đi thăm Học hay đó là câu hỏi? Cô dám ngước mặt lên nhìn mặt người đàn ông. Cô sợ ông phật ý. Nàng chợt nhận thấy từ lúc bước ra khỏi quán, người đàn ông như rơi vào một thế giới khác! Nhưng cô không quan tâm.
Niềm vui, hay hạnh phúc nếu có thể nói được như vậy, khiến cô chỉ muốn nói bất cứ điều gì chợt đến. Đây là lần đầu tiên, cô được đi chơi khuya với người lính. Cũng lần đầu tiên, cô cho rằng người đàn ông không còn nhìn cô như một đứa con nít.
Ta đã lớn. Ta đã mười tám. Ta đã... Ta đã... Cô muốn thét to, muốn la lớn cho vỡ trong lồng ngực, cho tất cả thành phố đều phải biết rằng cô đã mười tám. Cô đã bắt đầu một tình yêu!
Họ chậm bước rồi dừng lại ở một ngã tư có đèn. Người lính đưa tay ấn nút. Họ chờ băng ngang đường.
Người con gái nói :
- Ông Lãm.
- Gì Học?
- Sắp Giao Thừa chưa?
Người lính vén tay áo, nhìn đồng hồ.
- Còn hai tiếng nữa.
Dấu hiệu cho phép băng ngang đường chuyển từ màu đỏ sang xanh.
Người con gái không có vẻ gì muốn bước đi :
- Ông Lãm.
- Sao Học?
Người con gái im lặng giây lát, rồi nói giọng thật nhỏ :
- Học chưa muốn về.
Những nếp nhăn xếp hàng trên trán người lính. Ông đặt tay lên vai cô :
- Phải về chứ. Muộn rồi.
Cô gái cúi mặt như che giấu thất vọng và xấu hổ của mình.
Người đàn ông lại đưa tay bấm nút đèn. Người con gái lại nói :
- Ông Lãm.
- Gì Học?
- Sao ông không nói gì với Học?
Lần này cô bạo dạn ngước nhìn người lính. Ông hỏi :
- Học muốn điều gì?
- Gì cũng được.
Dấu hiệu băng ngang đường lại chuyển từ đỏ sang xanh. Ánh sáng xanh của ngọn đèn đường, không làm mất đi màu đỏ gấc trên gương mặt cô gái. Đôi cánh mũi của cô phập phồng như nhịp theo hơi thở gấp rút trong cô.
Người lính nắm chặt bàn tay. Bất giác, như không kìm giữ được nữa, ông vòng tay qua vai cô:
- Học
- Dạ.
Người lính im lặng. Ông không biết nên hay phải nói điều gì trong? Sự im lặng kéo dài cho đến lúc người con gái lên phải cất tiếng :
- Ông Lãm.
- Gì Học?
- Sáng mai mồng một, Học đến nhà ông Lãm.
Vừa nói dứt câu, người con gái không để người lính kịp trả lời, đã vùng thoát khỏi vòng tay người lính. Cô chạy băng qua bên kia đường, giữa lúc đèn xanh đã trở lại màu đỏ.
Người lính trở về nhà đúng giao thừa. Ông đặt tay lên đùi. Nhắm mắt. Mơ hồ thấy mình trong dáng ngồi của pho tượng “tiếc thương”, ở nghĩa trang quân đội ở Biên Hòa. Nhưng cùng lúc, ông cũng nhớ lại rằng, pho tượng ấy không còn nữa. Nó đã bị giật đổ.