văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Friday, November 2, 2012

thơ hồ chí bữu


hochibuu

KÍNH THƯA EM

           Tặng Minh Dung

Mẹ của mấy thằng con trai quậy
Nuôi lớn lên để thiên hạ nhờ
Con gái thì gả về miền tây xa lắc
Không có đứa nào giống bố làm thơ

Kính thưa em – người đàn bà đẹp
Ghen cở hàng mệnh phụ Hoạn Thư
Người đàn bà nỡ nào bắt ta xách dép
Chẳng chịu căn cơ nên mới mệt nhừ

Kính thưa em – người đàn bà Bắc
Ở Hà Nam sao chạy tuốt vô Saigon
Hận thù nhau nên tối ngày làm giặc
Đánh đấm tưng bừng ra bốn chú lon ton

Kính thưa em- kính thưa quỷ sứ
Cảm ơn em bốn chúc năm ròng
Bốn nươi năm mà như chưa đủ
Của cuộc đời vốn có như không

Cảm ơn em – cảm ơn bà xã
Đẹp não nùng như mới hai mươi
Cứ e thẹn như còn xa lạ
Làm ta nhìn muốn nổ con ngươi.




THÁP NGÀ

Sáng ra ta hét : Ta còn sống !
Còn thở cho không khí của trời
Mới biết đêm qua ta nằm mộng
Sống, chết là điều dễ hiểu thôi

Kinh Kha cà chớn qua sông Dịch
Còn ta cà khịa mới yêu em
Khuất Nguyên ôm đá gieo dòng Mịch
Còn ta ôm rượu ngủ say mèm

Người ta mộng lớn làm danh tướng
Ta chẳng công hầu với đỉnh chung
Cuộc sống hẳn là điều vay mượn
Nên ta chẳng dám luận anh hùng

Thì thôi – ta cứ tên hàn sĩ
Quanh quẩn sân nhà nghe gió ru
Bên ta còn có người tri kỷ
Ngồi đếm lá vàng nghe chớm thu.

Thơ Trần Tuấn Kiệt



trantuankiet

 * Tượng


Em đi chân bước lạc đà
Suốt miền ải hạn giữa sa mạc người
Phượng hoàng xuống đậu hai vai
Ngậm hoa quỳ nhớ thiên thai không về
Ngàn năm mây trắng trôi đi
Với hồn xưa động bốn bề không gian

* Lời Thi Sĩ Gởi Cho Nàng Thơ


tranh luongtruongtho

Người đi mất hay vẫn còn đứng ngóng
Màu chiều bay cánh mỏng dặm băng đồi
Người đứng lại giữa cây tàn bóng xế
Trần gian nào thả mặc địa cầu trôi

Trên bóng trăng cao hay lòng đất mát
Giữa đại dương ôm ấp mãi tình người
Bàn tay bỏ hay bàn tay buông bắt
Dặm tình xưa thần thoại đã lên ngôi

Hỡi thi sĩ của trần gian khô héo
Cỏ hoa kia sao chẳng thấy nô cười
Ngày biền biệt lơ thơ làn tóc nhỏ
Tự thuở nào em đã đứng bên tôi

Tôi hát khúc trân gian đầy ân ái
Em dạo cung hồ cầm đó ngày xưa
Cơn gió xuân xa, lưng trời thổi lại
Mông bình yên thôi đã mất bao giờ

Bước mải miết trên cỏ đồi có mỏi
Làn hơi xanh môi má đã mơn hồng
Em ngồi đó bàn tay đầy hoa lá
Chắn buổi chiều dùm em nhé bão giông

Người thi sĩ đã một ngày gặp gỡ
Thì ngàn năm bóng sáng vẫn chưa tan
Hỡi đôi mắt của nàng tôn nữ đó
Chớp nhanh chi hay ngại ánh xuân tàn

Em cứ bỏ về non xanh dặm biển
Ta cứ xa vời xa thẳm hoài mong
Rồi phút chốc bút sầu ta hiển hiện
Cánh tay em thành một áng cầu vồng

Em hãy khóc để lá vàng rơi rụng
Chuỗi sầu mơ kết lại trái hoa đời
Mai trần thế phai mờ như chiếc bóng
Ta và em dựng lại chút tình người

Wednesday, October 31, 2012

TÔ THÙY YÊN * Chim kêu bãi quạnh





Dưới lũng, trên triền, nắng xếp nhỏ.
Nước ròng sâu, sông lảng lảng xa.

Khắc khoải chim kêu ngày tận tuyệt.
Ai trầm luân đó có về qua?
Mông quạnh bãi phơi vũng vướng mắc,
Con cò lặng ngẩng lắng hơi thu.

Xác cây gục hỗn mang cành rễ.
Rừng đứng quanh đây, rừng tận đâu?
Gió thấp thoáng, xa xôi hiện ẩn.
Đêm nay, mây đậu nghỉ phương nào?

Khắc khoải chim kêu hồn khuất giạt
Cảnh nổi trôi giờ đã lặng chưa?
Ngấn nước đục khoen lem cỏ sậy,
Lưu mà chi chỉ dấu phù hư?

Xương cốt vẫn là xương cốt cũ,
Đành rêm nhức mãi trở trời xưa.
Linh chăng những vàng tiền mẹ đốt?
Cửa để, con đi chơi về khuya.

Khắc khoải chim kêu đời khổ nạn.
Còn ai ngồi rạng cội cây già?
Chim vút lên như hòn đá ném,
Rồi thôi, cái có chỉ là qua.

Chiều nay, trên bãi sông dun rủi,
Mường tượng dòng sông trôi tro ta.
Một mai, ngoài cõi gió hao đuối,
Ai hỏi ai về ai trước kia?

Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải.
Hành nhân về bên giếng quê nhà.
Ngõ trúc chiều ngát cơm gạo mới.
Ngọn đèn thắp đợi đã rền hoa,

Cởi đôi giày vẹt, tấm áo tả,
Xót xa như lột một lần da.
Chiêm bao, âu cũng chiêm bao cả.
Mưa lớn, chừng mưa rợp hải hà.

Chiều bóc, bóc dần những rớt nắng
Loi ngoi nắm níu lũng triền xa.

Nguyễn Mạnh Trinh * Nguyễn Đình Toàn: Tình Yêu Và Tuổi Trẻ Trong Thơ Văn

nguyendinhtoan



Nói đến Nguyễn Đình Toàn, là phải đề cập đến ba chân dung nghệ sĩ: Văn sĩ, thi sĩ và nhạc sĩ. Ba chân dung này có nhiều khi ở ba lãnh vực khác nhau nhưng lại có những quan hệ mật thiết với nhau. Một điều rõ ràng là bất cứ trong lãnh vực nghệ thuật nào, cũng đều thấy một con đường khác lạ với mọi người.

Thơ, văn, hay nhạc, cũng đều là một cách thế để suy tư, để sống bằng cảm quan của mình. Đời sống như dệt ra bằng những nỗi buồn và ở nơi ông =, với một sức khỏe mong manh lại làm cho cuộc nhân sinh như bị u ám thêm. Suốt từ lúc còn trẻ tuổi, đi vào văn chương với cái bút hiệu Tô Hà Vân của thời Hà Nội xa xưa đến lúc vào Sài Gòn, viết tác phẩm đầu tay là Chị Em Hải đăng từng kỳ trên nhật báo Tự Do, rồi đến các tác phẩm sau này, cũng đều là những tác phẩm về tình yêu & tuổi trẻ, tuy hình thức có khác đi, vẫn là biểu hiện của một cách thế sống, một suy nghiệm sống.

Nguyễn Đình Toàn được kể như một người viết chịu ảnh hưởng nhất của phong trào Tân Tiểu Thuyết, một phong trào viết tiều thuyết mà còn được gọi là anti-roman, với chủ trương mới lạ đi ngược lại cách viết tiểu thuyết cổ điển như đã hiện hữu trong văn chương từ trước. Chủ trương của những nhà văn như Alan Robble Grillet, Claude Simon, Nathalie Sarraute... là nhà văn phải xóa bỏ chủ quan khi cầm bút. Cách viết phải rất khách quan, như ống kính của người chụp ảnh, ghi chép lại nguyên vẹn sự việc và không có xúc cảm hoặc nhận định chủ quan chen vào. Tân tiểu thuyết ( nouveau roman) còn có tên mệnh danh khác là trường phái của cái nhìn, nghĩa là y hệt một cặp mắt, nhìn, quan sát trung thực sự vật không bị biến tướng biến dạng bởi sự cảm nhận cá nhân.

Nhưng khi được hỏi về phong trào tân tiểu thuyết ở Việt Nam trong thời kỳ thập niên 60 thì Nguyễn Đình Toàn trả lời rằng ông nghĩ sao thì viết vậy mà thôi. Câu hỏi tiếp là liệu có chính xác không khi nói ông và một số bạn đồng hành chịu ảnh hưởng của tân tiểu thuyết như Huỳnh Phan Anh, Hoàng Ngọc Biên, Đặng Phùng Quân,…? Thì Nguyễn Đình Toàn trả lời là đó là những nhóm bạn viết trẻ hơn ông thường gặp nhau ở quán cà phê La Pagode chứ không phải là cố tình tạo ra một phong trào văn học mới lạ ở Miền Nam lúc ấy.

Có một điều khi ông là một trong ba người lựa chọn bài vở cho tạp chí Văn thời mà Trần Phong Giao làm chủ biên, thì bài vở được lựa chọn nhất là ở bộ môn văn đã có nhiều khám phá và các người cầm bút trẻ đã có bước khởi đầu tốt đẹp. Cũng như các trào lưu văn học cũng như các tác giả nổi tiếng trên thế giới được viết thành những chủ đề như những cánh cửa mở ra nền văn chương quốc tế.

Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Toàn có cách tạo dựng nhân vật khá độc đáo. Những nhân vật ấy sống ơ hờ trong một không gian, thời gian mỏng mảnh, của bàng bạc những suy tư và nội tâm là những rối rắm phức tạp. Ông mang tuổi trẻ đi vào tình yêu và mỗi một nhân vật là mang theo một định mệnh mà ở đó con người bị lôi cuốn đi trong những mê thức chập chùng mà cuộc sống đã sẵn dành.

Đọc trong các tiểu thuyết của ông như Con Đường, như Ngày Tháng, như Không Một Ai, như Đồng Cỏ, .. hoặc một số truyện ngắn như trong tập Đêm lãng Quên chẳng hạn, thì thấy rõ cung cách của một người viết tạo ra một chỗ đứng cho tác phẩm của mình. Cùng với những cây bút khác, quả thực ông có tạo ra thành một phong trào mà nhà văn Mai Thảo gọi là có một chút thành công và thất bại.Thành công là phong trào này đã đem lại cho văn chương tiểu thuyết một chân trời mới mà kỹ thuật và ngôn ngữ là những khai phá bất ngờ đầy hứng thú. Nhưng thất bại vì không thể làm thay đổi được cảm quan của người đọc về tiểu thuyết truyền thống. Trước sau, tiểu thuyết vẫn là biểu hiện của đời sống qua ý nghĩ chủ quan người viết.

Nguyễn Đình Toàn có lẽ sáng tác cũng không hề để ý đến những thành tựu hay mất mát thua được của tân tiểu thuyết mà ông chỉ viết theo ý thích của mình. ông có niềm tin vào công việc mình làm và xác tín một thái độ rất trí thức nên tiểu thuyết của ông được kể đến như những thành tựu và rõ ràng ông đã có địa vị của một nhà văn đáng kể trong hai mươi năm văn học miền Nam…

Đọc Con Đường, để thấy được định mệnh của một người đàn bà sẵn dành riêng một góc tối đau khổ.Nhân vật ấy có một cuộc đời bị bủa vây bời tất cả những điều khốn khó nhất mà lại bất thường với khuôn mặt có vết chàm khó coi. Cha mất sớm, mẹ bỏ đi lấy chồng, thân thể thì dị dạng nên con người sống gần với bản năng hơn là lý trí. Cô ta không có một chọn lựa nào khác là đầu hàng nghịch cảnh và sau chuyến đi thăm người mẹ trở về đã dễ dàng ngả vào bàn tay của một người đàn ông xa lạ và trở thành đàn bà từ đêm dọc đường ấy cùng với sự khám phá về nỗi sung sướng vô biên của nhục cảm. Nhân vật xưng tôi trong Con Đường đã bị trôi vào một bi kịch cũng như người mẹ mười năm trước cũng đã lang chạ ngoại tình và rút cuộc chỉ là một dòng lệ rớt trên mi khi đưa tiễn đứa con trở về từ bến xe.

Nhân vật xưng tôi trong truyện và nhân vật “người viết kịch” đã đóng một vai kịch của những cuộc đời mà ở đó đã sẵn mầm chứa của những điều tối tăm ẩn sâu trong nội tâm con người. Thêm một nhân vật “bà ở chung” đã làm thành một vở kịch tay ba mà ở đó người đàn ông đã giương một cái bẫy để cho hai người phái nữ vào sụp hố. Và sâu khấu kịch không là chỗ nào khác hơn là cái giường, nơi tình yêu có khi là hỗn hợp của sự ngu ngốc khờ dại và lòng đam mê nhục dục cao độ.

Con đường với cô bé xấu xí bây giờ giống như con đường mà mẹ cô đã đi xa vĩnh viễn đứa con gái của mình. Một con đường định mệnh mà sự gian truân là hành trang mang theo. Trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Toàn, đầy dẫy những nghịch cảnh và con người luôn luôn thủ vai người thua bại. Họ đi trên những con đường mù mịt mà không cưỡng lại được những cảnh trớ trêu bày sẵn…

Trong Con Đường, tác gỉa bắt nhân vật phải xuôi theo định mệnh và chầp nhận tất cả những hậu quả bi đát dù có phi lý đến đâu chăng nữa. Cuộc đời sẵn dành cho mỗi con người một phận số và sẽ chẳng thể phản kháng được mà phải giơ tay đầu hàng trước những trớ trêu nghiệt ngã của cuộc đời…

Đọc một tác phẩm khác, Ngày Tháng, lại thấy được một số phận của người đàn bà bị lôi vào những mảnh sống đầy khúc mắc mà sự bó tay bất lực đã làm đời sống tưởng như bị triệt hủy thối rữa. Tiểu thuyết của ông là ray rứt nôi tâm, là những cảnh ngộ bị lôi cuốn vào, là sự tranh đấu giữa dục vọng và thánh thiện để rồi bản năng đã dẫn dắt con người .Nhân vật nữ tên Hà sống trong nỗi mòn mỏi cuộc sống, không dám liều bước sợ bị vấp ngã, nên cứ đành trôi theo cuộc đời. Nhân vật ấy như được treo lơ lửng bằng những chán chường và người đàn ông chỉ có giá trị như là một sự kềm hãm, một sự cho phép ngấm ngầm kể cả chuyện làm tình. Thân phận của một người đàn bà 30 tuổi góa chồng sống một mình cô đơn thảm thiết dầy vò kể cả việc tự sờ mó thân thể mình trong cơn dục vọng.Người chồng đã chết vẫn ám ảnh nàng với hình ảnh của bộ đồ bay phi công và những ngày tháng sống ở thành phố biển đã là một ám ảnh không nguôi.

Hà gặp Vinh, một phóng viên chiến tranh và một mối tình bắt đầu với đam mê nhưng lại kéo theo những khúc mắc của đời sống, Hà sợ cô đơn nhưng cô đơn lại như một ám ảnh khiến đời sống như cứ dài ra nỗi khắc khoải.. Hai người yêu nhau nhưng tự biết khó thể gần nhau vì mỗi người đều có cuộc sống riêng, có phận đời riêng. Nhưng dục vọng và sự ân ái cứ như sợi dây trói buộc và con người như không thoát ra được. Cuộc sống như một chọn lựa bắt buộc. Có lúc Hà muốn bắt cặp với một người Mỹ say mê nàng nhưng rồi vẫn chỉ là những nửa vời của mê đồ không ngõ thoát.

Ở Nguyễn Đình Toàn và tiểu thuyết Ngày Tháng, nhân vật như lúc nào cũng ở trong trạng thái chiếu đấu khốc liệt giữa bản năng và sự hướng thiện. Khi nằm ôm người tình để ngày mai đi vào quân trường, sự cô đơn như nỗi chết cứ chập choạng vây quanh đời sống.

Nhân vật của Con Đường và Ngày Tháng là đàn bà thì trong tiểu thuyết Không Một Ai thì nhân vật lại là một người thanh niên bị thương trong một cuộc hành quân giải ngũ trở về thành phố làm một công việc văn phòng. Vết thương về thể xác vẫn còn trong khi về tâm não thì cũng bị khủng hoảng theo. Nhân vật ở đại danh từ ngôi thứ nhất xưng tôi là một người có ý hướng muốn thay đổi cuộc sống mình, quên và bỏ đi những ký ức cũ, và cả hiện tại cũng đầy vết thương. Nhưng tất cả chỉ ở trong ý nghĩ thôi, và đời sống cứ như thế một mực chán chường của những vết thương không lành miệng.

Tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn thường xuất hiện rất ít nhân vật và những nhân vật thường hay độc thoại, ít fối thoại và thường là những khám phá đi sâu vào nội tâm con người. Ở trong tiểu thuyết Không Một Ai, cũng chỉ có bốn nhân vật, gồm chàng thanh niên xưng tôi, người nư õlúc bỏ đi lúc trở lại tên Ph., Trang , người đàn bà đau khổ có số phận không may và Kế , người đàn ông đứng tuổi nhưng lại có đam mê của thời mới lớn. Những nhân vật ấy chia xẻ với nhau những định mệnh , mà sự bất hạnh dường như lúc nào cũng lẩn khuất và hạnh phúc là những giây phút chen lẫn ngắn ngủi. Chàng trai xưng tôi trong truyện thì người tình vừa bỏ đi, đời sống thì đầy những cơn đau về thể xác lẫn lộn về những ảo tưởng của tâm trí nêncuộc sống ấy như phủ đấy những bóng tối. Trang , người đàn bà làm chung sở cũng chẳng may mắn hơn , cũng chuyện tình cảm gãy đổ, sống với bà mẹ và hai đứa con và trong lòng luôn khao khát một cuộc tình , để lấp cho đầy khoảng trống. Chàng trai thì lại nhìn Trang để nghĩ tới người tình đã bỏ đi , ân ái với Trang để tưởng tới những thỏa mãn nhục dục từ Ph., người tình lang chạ.

Tình yêu trong phần đông tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn phần đông đều có những gãy đổ và thường là những nửa vời trong cuộc sống họ. Có y chỉ là ý nghĩ, rất mong manh và thoảng qua. Nó phác họa một thế giới khác, một không gian thời gian khác mà rất ít chất cụ thể. Nó gần như của một con người khác luc 1nào cũng tự đi kiến mình và đời sống mình dù con người ấy, ngày tháng ấy, khung cảnh ấy vẫn sờ sờ trướcc mặt. Họ vong thân trong chính cuộc sống của họ. Trong Không Một Ai, nhân vật nào cũng đều có một thế giới riêng . Ngay cả Kế, một người lớn tuổi cũng làm việc chung với nhân vật xưng tôi và Trang cũng là một nhân vật lạ lùng. Khi nghe người con là trung úy Quân y bị chết ở chiến trường, cũng là lúc vừa được lên chức, Kế như người bị phân đôi và chẳng biết làm gì nên rủ người bạn trẻ đi hút. Chiến tranh, hiện hữu với vết thương của nhân vật xưng tôi, hay cái chết của con trai Kế, chỉ là một nhắc nhở về cơn dông bão mà thôi.

Rồi những phức tạp, những xếp đặt của định mệng để Trang ngủ với Kế, rồi tính phá thai rồi nhân vật tôi lại muốn cứu vớt, rồi Ph. Người tình trở về , rồi trang chết. Tất cả những diễn tiến ấy là đoạn kết của Không Một Ai. Một câu truyện rất hiện sinh , của những người hiện hữu trong cái phút giây hững hờ của cuộc sống. Mà, tiểu thuyết ấy cũng chính là một hành trình của những cuộc viễn du vào thế giới nội tâm, mà những con đường hình như đầy ngõ rẽ và nhiều bóng tối, của chính cuộc sống và những cảm nghĩ về cuộc sống.

Trong văn chương, Nguyễn Đình Toàn đã có định kiến về cõi sống, một định kiến mà chiều sâu của sự u ám bi quan đã làm khuất lấp đi bề mặt của cuộc sống hiện hưũ. Ông muốn đi sâu vào ý thức, để từ đó soi rọi thêm những nhận định, nhìn rõ thêm chân dung con người và đôi khi cả mặt sau của chân dung ấy. Ông viết như một cách thế để “kể về “hoặc “nói về” mà không phải là “viết về”. Và cách nói hay kể cũng đềutrầm lắng , mà cảm quan thì được dấu đi những phẫn nộ hay phản kháng, thành ra tiểu thuyết của ông có nét riêng của một sự chấp nhận. Chấp nhận cã những hữu lý và vô lý của cuộc đời. Những nhân vật ấy, tuy đầy dẫy trong thế giới chúng ta nhưng lại được nhìn và tả khác đi thnah những nhân vật của riêng Nguyễn Đình Toàn với tất cả cá tính của một cuộc sống bề trên thì có vẻ tĩnh lặng nhưng bề sâu là đầy những cuộc sóng lớn. Và, dù ở trong một đất nước hciến tranh, cuộc chiến vẫn là những bề sau khuất lấp, tuy nhiều ảnh hưởng nhưng lại có mặt như một nỗi tình cờ…

Đọc văn Nguyễn Đình Toàn, thấy thấp thoáng những khuôn trời thơ mộng. Và với Aùo Mơ Phai, xuất bản năm 1973 đã đoạt giải thưởng văn học toàn quốc.

Sống ở hải ngoại, ông viết mục phác họa chân dung tác giả cho các báo và sau đó ông chọn lại và in Bông Hồng Tạ Ơn.

Suốt một hành trình văn chương dài hơn nửa thế kỷ, tác giả “ Bông Hồng Tạ Ơn” đã có thật nhiều dịp tiếp xúc, làm việc, hoặc thân tình với nhiều nghệ sĩ trong nhiều bộ môn nghệ thuật. Thành ra những cảm nhận của ông về người, về thơ, về văn, về nhạc .. đều có nét chính xác cũng như sâu sắc và khiến người đọc hình tượng được những cá tính của những khuôn dáng nghệ sĩ ấy. Với 190 tác giả Việt Nam được phác họa trong bộ sách 2 tâp, độc giả có thể mường tượng được một thời kỳ văn học nghệ thuật có nhiều khai phá, Với cách viết ngắn gọn nhưng cô đọng và khá đầy đủ, từng tác giả và từng tác phẩm được biểu hiện trung thực. Đây có lẽ là một công trình làm phong phú hơn sinh hoạt văn học ở hải ngoại và là những tài liệu cho những người còn yêu ngôn ngữ Việt và văn chương Việt. Có nhiều tác giả khá lạ với người đọc cũng như có nhiều bài nhạc bài thơ tưởng đã quên lãng thì với cái trí nhớ gần như xuất thần , tác giả ghi chép lại khá chính xác và đó chính là điểm rất đặc biệt của tác phẩm “ Bông hồng Tạ Ơn”…

Hình như, những chân dung nghệ sĩ được đề cập đến được chọn lựa tùy cảm hứng và không có một tiêu chuẩn nào. Và tác giả cũng không muốn làm công việc chọn lọc những vóc dáng nghệ sĩ tiêu biểu trong tập sách này. Ông yêu thích và nhớ được tác giả và tác phẩm rồi viết ra với cảm tình của mình.

Nguyễn Đình Toàn cũng là một nhà thơ nổi tiếng. Những tập kịch thơ như Phạm Thái Trương Quỳnh Như hay tập thơ Hồi Sinh, hoặc tập thơ đầu Mật Đắng tạo cho ông có một vóc dáng hti sĩ mà về sau này ông đã mang ngôn ngữ của thi ca hòa hợp cùng với cung bậc của âm nhạc thành những ca khác có sức lôi cuốn thính giả.

Ở trong những tập sách bìa dầy chép thơ của các cô cậu học trò thường có nhiều bài thơ được chép với sự nâng niu trìu mến. Khi tuổi đã lớn, đọc lại những bài thơ ấy, như có một chút vọng động nào ngân nga. Có thể là bước đi về của thuở hoa niên ngày cũ..

Thơ Nguyễn Đình Toàn, nhẹ nhàng như bài thơ Khi Em Về:

Khi em về trời xanh và gió mát
Con đường mòn thơm lá mục quê hương
Vườn cải ngồng rủ ong bướm về sân
Anh nằm đây buổi trưa và tiếng nắng
Mặt đất mềm bước chân em chợt nhẹ
Lá tre vàng dồn thổi mùa thu đi
Luống huệ ấy xòe những vầng hoa trắng
Và dầy thêm lá rụng lớp phên che
Quê mẹ đấy ưu phiền nhiều qua 1lắm
Hàng cau già mo thương bẹ quắt queo
Anh nằm đếm những ngày rồi những tháng
Đi qua dần khi nước mắt buông theo..”

Có khi là thơ buồn, thơ của những lời ru từ xa xưa vọng lại, từ hiện tai thổi về, Thơ của lời ru cuối cùng cho một cuộc tình xa cách:

Ru em lần cuối cùng này
Bằng hơi mát của một ngày sắp xa
Bằng giờ phút sắp chia xa
Rồi thôi rồi chẳng bao giờ nữa đâu
Giòng kinh năm ngón son cầu
Với môi mặn với hồn trao nghẹn lời
Với sầu xưa ngút trên vai
Tóc xanh non với khuy cài áo thơm
Hàm răng mát tuổi má tròn
Đường thêu chỉ đã hao mòn đây em
Gió trời xin ngủ bình yên
Coi như giấc mộng ưu phiền đấy thôi
Mây cao với mắt trông vời
Soi gương trán bỏng quên người tôi đi”

Có khi thơ lại là những bước đi về. THƠ Nguyễn Đình Toàn đấy nhữngchỗ đi và nơi về, nơi chốn mà không gian thời gian ngưng đọng từ nỗi buồn chia xa của sẵn thiên cổ riêng dành:

Khi em trở về
trời mùa đông đen
căn nhà không người
và mùi ẩm mốc
Khi em trở về
Tay đầy nước mắt
Trên thành cửa bụi
Tuổi thơ đi qua
Khi em trở về
Mộ người yêu đó
Hoa trên phiến đá
Cỏ buồn ngón chân
Và cơn gió rét
Que diêm bật lên
Que diêm bật lên
Những mơ ước cũ
Sáng lên một lần
Những hình ảnh cũ
Tắt đi một lần
Khi em trở về
Bàn tay khói hương
Buồn xưa sắp hết
Nói gì đi em!”

Viết về văn sĩ và thi sĩ Nguyễn Đình Toàn như vậy vẫn chưa đủ.tôi muốn viết nhiều hơn về nghà nghệ sĩ của tình yêu tuổi trẻ một thời. Nhưng xin hẹn một bài khác. Để tiếp tục, tôi viết về phần tới sẽ đăng tiếp ở kỳ tới. Chân dung nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn và chương trình Nhạc Chủ Đề lẫy lừng ngày xưa, một chương trình của những người trẻ thời ấy. Bây giờ, đã thành những người muôn năm cũ hướng vọng về một thuở nào sống mãi trong ký ức của đời người

Tuesday, October 30, 2012

TRẦN HOÀI THƯ * MÙA CỎ MAY






Bông cỏ đã dính đầy quần trận khi chàng bước đi giữa lối ngập đầy cỏ dại. Buổi chiều như một cơn mộng thật êm. Không có một tiếng động, dù là tiếng gió ru hay tiếng chim ríu rít. Chàng đang nghe niềm rung động dịu dàng len nhẹ vào tâm hồn chàng. Hàng muồng với những chùm hoa muồng màu vàng đã trở nên sậm hơn dưới màu nắng quái. Những cây bông sứ với mùa hoa đã qua, để còn lại trên cành lơ thơ vài chiếc bông trắng lẻ loi. Những thân cây cổ thụ mà chàng không biết tên vươn lên trên cao, in trên một nền trời bàng bạc mây xám. Trước mặt chàng, bãi cỏ phủ một mầu tim tím của bông cỏ may. Bông cỏ may. Tự nhiên chàng nhớ đến cô. Chàng cúi đầu xuống gỡ những chiếc bông bé xíu bám dính trên vải. Chàng lại ngỡ như bắt gặp lại những kỷ niệm ngọc ngà cũ.
Vâng, cũng nơi này, một lần nào đó

..Buổi sáng đã đầy nắng. Các học sinh đã lũ lượt vào nhà thờ. Chàng thấy cô vẫn đứng ở ngoài sân. Hình như cô đang lưỡng lự. Chợt cô chạy xuống bậc tam cấp thoát ra khỏi khuôn viên nhà thờ. Lập tức chàng cũng hăm hở đuổi theo. Hành động bí mật của cô làm chàng thú vị. Chàng đuổi đến đầu rạp chiếu bóng thì gặp cô. Cô đang ngước đôi mắt say mê nhìn tấm quảng cáo sặc sỡ in hình Khương Đại Vệ đá một cú song phi và Lý Thanh mù hai con mắt. Chàng đứng bên cạnh, thốt lên vẩn vơ:
“Ghê thiệt. Trốn lễ, trốn nhà thờ, trốn soeur, tội ghê gớm lắm”.
Cô quay lại, mắt mở lớn, ngạc nhiên:
“Ê, cái ông này”
Giọng cô lơ lớ. Bây giờ chàng mới nhận ra cô không phải là người Kinh mà là người thiểu số. Ở cô, có lẽ là sự pha trộn của hai dòng máu, đúng hơn. Thật vậy, ở chiếc mũi dọc dừa  hơi cao, ở dáng dấp Tây phương trên cử chỉ, cách ăn mặc… Chàng lại hỏi:
“Có phải cô bé trốn lễ để đi chơi phố không?”
“Việc gì đến ông mà ông hỏi?”
“Để tôi về mách soeur”.
Đôi mắt của cô lại một lần nữa nhìn chăm như dò xét chàng. Đôi mắt ấy toả ra cái gì vừa ranh nghịch vừa man dại. Chàng lại hỏi vu vơ:
“Cô bé thích Vương Vũ hay Khương Đại Vệ?”
“Khương Đại Vệ!”
Cô trả lời dửng dưng rồi tiếp tục nhìn Khương Đại Vệ đang múa kiếm phi thân.
“Vương Vũ đánh ác lắm chứ?”
“Nhưng không đẹp trai bằng Khương Đại Vệ”.
“Còn Lý Thanh?”
“Không. Trương Cương Thanh mới là tài tử đóng ác”.
“Cô bé là một cây si  xi nê có cỡ đấy nhé”.
Cô lại bĩu môi. Đôi môi cô lúc nào cũng ươn ướt.
“Tôi si thì kệ tôi, mắc mớ chi ông ?”
“Chữ ông già lắm. Tôi mới hai mươi mấy tuổi”.
“Hứ. Trông ông già như sáu mươi”.

Bây giờ cô mới thật tình cười. Đôi mắt cô long lanh rực rỡ. Nắng làm tươi thắm những mái ngói đỏ và những bờ vách, con đường. Chàng đề nghị:
“Cô bé coi xi nê không? Tôi đãi"
“Ông mời tôi?”
“Thôi đừng gọi là ông nữa. Tôi cảm thấy mình già lắm”.
“Thôi. Chú hén. Chú mời cháu?”
“Vâng. Chú mời cháu”.
Nhưng cô lại la lên khe khẽ:
“Mấy soeur đi chợ kia. Bọn mình vào ngay đi"
Cô cầm lấy tay chàng kéo vào  giữa đám đông. Trông cô như một con sóc, con chồn tinh quái.

Bắt đầu từ đấy chàng có dịp gặp cô bé Ê Đê nhiều hơn. Nhà chàng trọ một mình, nên mỗi lần trốn ra khỏi nội trú, cô lại tìm nhà chàng. Hoặc xin tiền coi chiếu bóng. Hoặc ở lại nấu cơm nấu nước giùm chàng. Đôi khi cô còn bắt chàng dạy giùm mấy câu tiếng Pháp. Chàng viết lên giấy: H’Pery, je t’aime. Khi đọc xong cô lắc đầu nguây nguẩy:
Non, non. Parce que vous êtes mon oncle”. Trời ơi. Hélas ! Chàng kêu lên. Cô bé này quá ranh. Chàng không thể qua mặt cô được đâu.

Sự có mặt của người con gái thiểu số đã làm căn phòng trọ của chàng trở nên sinh khí. Cô đến cùng với những nhánh hoa để cắm vào trong bình thủy tinh. Khi thì hoa hồng, khi thì cúc vàng, khi thì lay-ơn hay thược dược. Cô  đã hái trộm trong vườn hoa của trường. Cô khoe:
“Chú ơi. Hú hồn. Sáng nay ma soeur bắt gặp cháu trong vườn hoa. Ma soeur kêu lại, thấy áo cháu bám đầy phấn hoa”.
Cô nói với một trái tim thơ ngây và trong sáng. Như máu huyết chảy trong người cô.
Nhưng chàng tha thiết được nhìn cô trong một con người khác, trong chiếc yien đen tuyền, và trong chiếc áo cánh trắng, cùng với những vòng bạc hay đồng sáng long lanh. Chàng nói:
“H’Pery ơi, chú muốn cháu một lần đến đây với cái yien của dân tộc cháu”.
“Tại sao vậy, chú ?”
“Chú muốn thấy một cô gái Ê Đê xinh đẹp".
“Bộ chú muốn lắm sao?”
“Vâng. Chú muốn lắm”.

Cô đã chiều niềm mong uớc của chàng. Một đêm trăng cô xuất hiện với chiếc yien đen, chiếc áo cánh trắng, chiếc thắt lưng xanh, và những vòng đồng mang đầy trên đôi cánh tay. Chàng cầm tay cô cùng chạy ra bãi cỏ may. Cô tinh nghịch như một con sóc nhỏ chạy nhảy tung tăng. Cỏ may đã nở bông, một màu cà phê sữa, loang loáng dưới ánh trăng. Trên cao hằng hà tinh tú đan kết nhau như trên một tấm áo đầy ngập kim cương.
Bỗng nhiên cô cất tiếng hát:
Mlam mlam mngac hlăm adie Mtu ti năn mơh guhbi  blir. Ciăng duah kă bit kkiêng lăn kâo yơr kngan knuă kâo yanh hruê ble. Anăn yơh jin ngo.
(Ban đêm trăng sáng quắc ở trên trời. Tinh tú nhấp nháy ở đấy nữa. Muốn tìm bốn phương tôi giang tay phải về phía Mặt trời mọc. Đó là phương Đông).

Dưới ánh trăng, người con gái như một chiếc bóng mờ ảo. Cô không còn là một cô gái của thị thành nữa. Cô đã trở lại con người thật của cô. Máu huyết sơn dã đã chảy trở lại. Cô đi đôi chân trần trên bãi cỏ may. Ánh trăng soi sáng gương mặt cô, làm lung linh đôi mắt, mái tóc và những vòng kim khí. Tiếng hát lạ, nhưng chàng có cảm giác là lời ca đang cuống quít cùng trăng sao tinh tú, cùng rừng núi bạt ngàn, cùng thần linh, ma quỉ. Cô tiếp tục cất tiếng hát. Từ bài này qua bài khác. Có lẽ cô đang hát lại bài ca mà mẹ cô đã một thời cất lên bên bờ suối hay trên những rẫy nương giữa bao la núi rừng vây phủ.

Cuối cùng, cô không còn hát nữa. Cô đến ngồi bên chàng. Nhỏ bé làm sao. Và cũng thật hiền từ làm sao. Chàng cầm lấy hai bàn tay cô, nhìn chăm vào hai vì sao nhỏ, rồi nói H’Pery đã cho chú một đêm tuyệt vời. Cháu đã giúp chú càng yêu mến một bài hát mà chú hằng ưa thích. Để chú hát tặng cho cháu nhé. Rồi chàng bắt đầu ca: Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi mây mờ buông xuống núi đồi và trong lòng buồn hơn ngoài trời…Ai về sau dãy núi Kim Bôi nhắn dùm tim tôi chưa phai mờ hình dung một chiếc thắt lưng xanh, một chiếc khăn màu trắng trong, một chiếc đồng sáng long lanh với nụ cười nàng quá xinh.

Đến một lúc nào đó, cô dựa đầu vào vai chàng. Và chàng vẫn để yên. Chàng vẫn tiếp tục thêm một bài hát khác. Một đêm trong rừng vắng, ánh trăng chênh chếch đầu ghềnh. Chàng nghĩ chàng đang ru cô ngủ.
Một lát sau, cô choàng dậy, đòi về. Cô sợ trường nội trú đóng cửa. Đến cột đèn sáng, cô thấy những bông cỏ may dính đầy trên quần. Cô la lên hốt hoảng:
“Chú ơi, chú gỡ dùm cháu. Cháu sợ ma soeur biết”
Chàng quỳ xuống, cố gắng gỡ ra từng ngọn bông li ti như những hạt thóc trên chiếc quần của cô. Chàng chậm rãi gỡ. Như thể mỗi chiếc bông cỏ may là mỗi hạnh phúc ngọc ngà mà chàng đã bắt gặp trên dòng đời lênh đênh của mình.

Monday, October 29, 2012

Trần Vấn Lệ * Bão Sơn Tinh 2012



 
Cuối tháng Mười buồn quá:  bão Sơn Tinh lộng hành.  Philippines, Việt Nam, Tàu Lục Địa tan tành. 

Bão đi qua, càn quét cái thương và cái ghét, để lại cái hoang sơ… Bão không phải Giấc Mơ mà là Cơn Ác Mộng! 

Bão làm đau người sống, người chết bão không tha!
Trên đường bão đi qua, Huế còng lưng chịu đựng.

Mạ Ba chắc lạnh cóng.  Mưa trên trời, mưa sa…
Trời đất thì bao la.  Lòng tôi rơi về Huế. 

Con sông Hương, dòng lệ đang cuộn trong lòng tôi!  Tôi và Huế xa xôi, em và tôi thăm thẳm. 

Mạ Ba thì không ấm dẫu giữa lòng Quê Hương!
Nhớ tới Huế là Thương!  Nhớ tới em là Nhớ! 

Tại sao tôi cứ lỡ sống giữa thời ngửa nghiêng?  Tôi chắc bây chừ em đang vòng tay ôm Huế. 

Tôi xa xôi trời bể.  Mình xa xôi hoài nhau… Hỡi Vỹ Dạ vườn cau, Ngoại ơi đừng rụng nữa. 

Bão hãy đi cùng gió, bão hãy đi cùng mây!  Bão Sơn Tinh hãy bay, bay về Everest! 

Bão đang qua, càn quét.  Bão đang qua, Trời ơi…
Tôi đang ở cuối trời, ngó về quê cuối biển. 

Những con hải âu liệng, ở đây đời bình yên!

Trần Vấn Lệ

Minh Nguyễn * Mù Căng Chải, Sóng Sánh Mùa Vàng

minhnguyen

Từ lâu, không chỉ có giới văn nghệ sĩ mới yêu mùa thu nên, chọn lấy đề tài này để sáng tác các tác phẩm nghệ thuật độc đáo cho riêng mình; không ngờ, khi làm cuộc phỏng vấn với nhiều người, hỏi: “mùa nào đẹp nhất trong năm - Mùa thu - Mùa thu đi đâu - Người có tiền nói sẽ đi ra nước ngoài, ngắm cánh rừng phong đổi màu xanh sang vàng rồi đỏ bên từng chiếc lá tượng hình dấu chân chim. Người it tiền hơn, chọn cung đường đi lên Tây Bắc hít hà hương thơm mùa lúa chín hoặc để được đắm chìm trong sắc màu vàng rộm dậy lên từ những cánh đồng trãi dài tới tận chân núi, trước khi leo từng bậc ruộng thang lên tới đỉnh trời, cảm nhận ra chút cảm giác như đang lạc vào chốn thiên thai”?

Hóa ra, có một mùa thu Tây Bắc, đẹp tuyệt vời trên vùng cao địa đầu đầu tổ quốc bị lãng quên. Trong khi không ít người hướng ngoại lại thuộc nằm lòng các đia danh xa lạ, với đầy mẫu tự tiếng nước ngoài. Thôi thì, để thấy quê hương là chùm khế ngọt (sic), tôi buồn hiu chọn lấy cung đường quê hương, ghé lên Tây Bắc khám phá cùng trải nghiệm mùa thu đang về, gợi nhớ sắc màu lộng lẫy vàng ươm qua bức tranh Golden Autumn của Levitan cho đở tủi thân.

Để chắc ăn, tôi gọi cho Mây hỏi xem cô đang làm gì ở đâu? Tức thì một giọng nữ trẻ mừng rỡ trả lời: “Em bận hướng dẩn một đoàn khách du lịch đi từ Sapa sang Nghĩa Lộ thăm ruộng bậc thang Mù Căng Chải. - Cung đường có đẹp và hùng vĩ hơn bên Trung Chải không? - Anh muốn biết cứ lên đây, em sẽ đưa anh đi ngược đường Nghĩa Lộ về Sapa. Cam đoan, anh không bị hút hồn và choáng ngợp trước vẻ đẹp kỳ bí của vùng sơn cước với hàng ngàn thửa ruộng bậc thang đang chín vàng trên tầng tầng, lớp lớp núi đồi Mù Căng Chải, anh bắt đền gì em cũng chịu”. Chỉ nghe Mây nói thôi cũng đủ làm cho tôi cảm thấy bị mê hoặc rồi, nói chi tới lúc được tận mắt chứng kiến bao điểu kỳ diệu xảy ra trên đường đi. Tôi hỏi tiếp: “ vậy mình hẹn gặp nhau ở đâu? - Trưa mai em kết thúc hợp đồng khi đưa đoàn về đến thị xã Nghĩa Lộ. Anh có thể đón em ở đó để cùng quay về thành phố lặng lẽ sương mù Sapa, nếu thích”?    

Thích quá đi chứ. Qua dịch vụ SMS Mây hướng dẩn cho tôi đường tới Yên Bái rồi, thuê lấy chiếc Mink tốt chạy theo hướng tây tới thị xã Nghĩa Lộ. Đọc tin nhắn của Mây tôi cứ phải cười thầm trong bụng. Bởi, vào thời buổi @ xe tay ga phân khối lớn đầy rẩy, ai dại gì cõng theo loại xe “thời thổ tả” làm chi cho phiền, nếu không muốn đương đầu với sự cố dọc đường. Nói vậy, chứ thật tình tôi cũng muốn làm vừa lòng thổ công, bởi đi trên cung đường này chắc chắn Mây có nhiều kinh nghiệm hơn tôi nên mới dặn dò kỷ như vậy. Mừng quá, đây là cơ hội giúp tôi gặp Mây bằng xương bằng thịt, sau hơn năm năm dài toàn phải nói chuyện “trời mưa trời nắng” qua mạng điện thoại hoặc chít chat vớ vẩn trên internet.

Mùa thu. Thời gian từ tháng chín đến tháng mười, khi mùa hè chỉ còn đủ sức le lói vài tia nắng yếu ớt trên bầu trời, cũng là lúc sau vườn nhà ai len lén rộ nở một mùa hoa cúc vàng giữa tiết trời se lạnh, làm say đắm không biết bao nhiêu tâm hồn lãng mạn.  

Đến Yên Bái, tôi thuê một chiếc Mink chạy lên Nghĩa Lộ, cách xa bảy mươi cây số đường phẳng lì. Đây là thị xã nhỏ, nằm lọt thỏm giữa một lòng chảo tuyệt đẹp, nhờ cánh đồng Mường Lò mà trong dân gian truyền khẩu “nhất Thanh, nhì Lò, tam Than (Than Uyên), tứ Tấc (Mường Tấc - Phù Yên)”. Đây là cánh đồng lớn thứ nhì ở miền núi Tây bắc, chỉ sau Mường Thanh bên Điện Biên. Vào mùa thu, không nơi nào phong cảnh đẹp bằng cung đường trên đậy, nhiều du khách nhận xét . Đến đây, người ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp mùa màng đang chín vàng với cơ man nào lúa với lúa mà; còn khám phá kho tàng văn hóa miền cao qua những câu ca, điệu xòe, trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc H’ Mông, Thái, Dao  trên các cánh đồng trĩu nặng bông lúa vàng.

Xế trưa, tôi cũng kịp chạy về đến trung tâm thị xã Nghĩa Lộ. Một thị xã tương đối nhỏ nhưng không hiểu sao đường giao thông ở đây lại rất bề thế và hoành tráng. Đang dõi mắt tìm Mây, bỗng tôi thấy cô gái trẻ ăn mặc theo lối truyền thống người Mông đang vẩy tay bên đường làm hiệu. Tôi chạy ào xe đến. Trời ơi! Mây của năm năm rồi không gặp đây sao? Thấy tôi đứng ngây người ra nhìn cô, Mây thẹn thùng hỏi: “bộ em  khác lắm sao? - Ừ! Nhờ có hẹn trước, chứ gặp em bất ngờ ở đâu đó chắc anh không nhận ra em thật. Ôi! Cô bé bẻ gảy sừng trâu ngày nào. Đi chơi chợ tình bao phen có gặp anh chàng thổi kèn môi nào chinh phục trái tim chưa? - Xí! Em chờ lời hẹn hò của gã con trai miền ngược, nhưng anh ấy chỉ gửi gió cho mây ngàn bay nên đến giờ em vẫn chưa có ai”. Mây cũng biết bông đùa lắm chứ. Cô cố ý trêu ghẹo tôi nhưng sao trên hai má cô lại đỏ bừng lên như lần hai đứa ngồi uống rượu táo mèo bên nhà thờ đá ở Sapa?

Ăn trưa xong, tôi lái xe chở Mây đi thăm vườn chè cổ thụ Suối Giàng, uống trà Shan, đi tắm suối khoáng bản Bon, định tối trở về Nghĩa Lộ giao lưu văn hóa, thưởng thức những điệu múa “xòe” ở khu nhà sàn do dân tộc Mường Lò trình diễn. Thế nhưng, trong lúc ngồi uống trà với anh bạn vừa quen, tôi được anh ta khuyên nên đi thẳng tới Tú Lệ, sau đó chạy một mạch lên Mù Căng Chải nghỉ ngơi để, sáng hôm sau thức dậy sớm đi khám phá vẻ đẹp kỳ vĩ của hơn 700 hecta ruộng bậc thang đang mùa giáp hạt, vắt vẻo, quanh co trên các đoạn đường gấp khúc vàng rộm ở các xã La Pán Tẩn, Chế Cu Nha, Dế Xù Phình; thay vì mất công quay về nghỉ đêm ở Nghĩa Lộ. Nghe có lý, tôi nói khéo để Mây đi tiếp qua cánh đồng Mường Lò để chạy sang Tú Lệ. Trên đường đi, cô hào hứng kể về hai mươi năm trước, đi trên quốc lộ 32 vào mùa hoa anh túc trổ bông, hai bên đường bắt gặp toàn hoa phù dung khoe sắc trắng đồng đến đỏ đồi, nom thật quyến rũ và đẹp đẽ đến mê hồn. Ngược lại, bên cạnh sự sững sờ đó đã để lại không ít cái chết buồn thảm cho số đông gia đình nghiện nghập nơi này. Ngày nay, nhờ có các chương trình chặt bỏ cây thuốc phiện trên toàn thế giới, nàng phù dung xinh đẹp đầy sức quyến rũ kia đã được thay bằng “nếp Tú Lệ tẻ Mường Lò” nên, chạy suốt đường từ Nghĩa Lộ lên Mù Căng Chải chỉ thấy một biển lúa vàng cao ngất ngưởng lên tận trời trông thật hùng vĩ.

Sau khi ghé Tú Lệ thưởng thức món xôi chấm vừng, tôi chạy xe lên đỉnh dốc “hai bà cháu” dừng lại ngắm thung lũng xinh xinh, nằm ẩn mình sâu bên dưới. Thì ra, Tú Lệ từ trên cao nhìn xuống đẹp tuyệt vời bên từng mảnh ruộng hình vuông chiếu, xếp cạnh nhau trãi màu vàng ươm, ôm ấp lấy những ngôi nhà bằng gỗ pơ-mu nằm lẻ loi nơi thôn bản, thoáng ẩn thoáng hiện trong gió thu thổi về nghe lành lạnh. Mây cho biết, cái lạnh do hơi núi phả ra từ ba ngọn Khau Phạ, Khau Song, Khau Phán vây bọc xung quanh. Có lẽ nhờ vậy mà thời tiết nơi này thích hợp cho việc gieo trồng cây lúa nước. Theo lời khuyên của Mây, hãy giữ gìn sức khỏe để lát nữa còn chinh phục con đèo Khau Phạ dài bốn mươi cây số với đầy sự vất vả lẫn hiểm nguy trước mắt. Bù lại, bên sự thay đổi cảnh quang liên tục dễ khiến người ta bị choáng ngợp trước vẻ đẹp của núi rừng vùng Tây Bắc. Quả thật, tới khi chạy xe trên đèo Khau Phạ tôi phải dán mắt trên đường, chạy qua hết dãy núi này sang dãy núi khác, hết chui trong mây lại đi dưới sương mù lạnh căm. Và, càng chạy lên cao phong cảnh càng trở nên hấp dẩ do, bắt gặp một bên là vách núi thấy bên trên mọc chen nhau những thửa ruộng bậc thang vàng óng dẩn tới tận trời, một bên là thung lũng sâu tít tắp cũng óng vàng màu lúa chin, dẩn xuống tận lòng suối. Ôi! Thứ màu vàng sóng sánh mật ong đẹp như mơ, biến cung đường thường khi bị chìm trong mây mù, bỗng trở nên hấp dẩn đến lạ lùng. Hơn thế, đây không chỉ là cung đường đèo đẹp, hiểm trở nhất do thường có lũ ống lũ quét xảy ra gây cảnh lở đất lở đá vào mùa mưa mà, còn dài nhất trên quốc lộ 32 so với Ô Qui Hồ - Lào Cai.

Mãi mê nhìn phong cảnh tuyệt vời từ hai bên đường, tôi bất ngờ phát hiện ra tấm biển chỉ đường chào mừng quí khách đến với huyện Mù Căng Chải được cách điệu qua hình dáng chiếc khèn của dân tộc người Mông. Mây xác nhận với tôi sắp vào đến thị trấn Mù Căng Chải. Nơi có ba địa danh được xem là ba viên ngọc, bởi những thửa ruộng bậc thang không chỉ được công nhận là danh thắng quốc gia mà còn đẹp nhất nước. Điều đáng ngạc nhiên, khi tôi chạy xe quanh thị trấn một vòng để ngắm thử, mới hay thị trấn tuy nhỏ nhưng lại duyên dáng, xinh đẹp như một cô gái dậy thì. Vẻ đẹp được toát lên từ những cây hoa chuông trồng trước mỗi ngôi nhà tường, trên đó mọc chi chit hoa màu trắng ngà to, dài, xòe ra ở đầu; treo lủng lẳng trên cây. Hỏi ra, mới hay chủ nhân những ngôi nhà đầy đủ tiện nghi ấy, đều là người kinh từ miền xuôi lên đây kinh doanh, làm thầy cô giáo hoặc làm công ăn lương nhà nước.

Do có lợi thế là người hướng dẩn “tua” đi - đến Mù Căng Chải thường xuyên. Mây được nhiều khách sạn mời chào, sẵn sàng dành cho nhiều đãi ngộ tương xứng. Nhờ vậy, tôi được dành cho một phòng bên cạnh phòng Mây, có cửa  sổ bằng kính trong suốt nhìn thẳng ra  những ngọn đồi vàng óng ruộng bậc thang, nằm phơi mình trong buổi chiều vàng nhạt bên ngoài. Tôi nghĩ, giả sử nếu không có nhiều thời gian đi khắp Mù Căng Chải, tôi chỉ việc mở cửa bước ra ngoài hành lang, sẽ dễ dàng bắt gặp mùi hương lúa chin, uốn lượn quanh những thửa ruộng bậc thang ở ngay trước tầm mắt.

Đợi Mây sữa soạn xong, tôi hỏi cô xem nên đi ăn ở đâu, trước khi lang thang xuống phố khám phá thị trấn về đêm. Mây cười, cho biết trung tâm thị trấn nhỏ như cái nắm tay, thanh niên nam nữ mỗi tối thường tụ tâp nhau ở trước cơ quan huyện và tán gái ở cầu Kim Nọi gần đó xong, ai có hẹn thì dắt nhau đi tâm sự ở nơi khác. Riêng, ngôi chợ bán hàng ăn và nông cụ đã đóng cửa từ sớm, chỉ còn mấy cửa hàng điện thoại di động sáng đèn là nhờ cánh thanh niên thích xài “dế” xịn, trong khi tôi lại kè kè chiếc “cùi bắp”, tín hiểu lúc có lúc không thấy mà thẹn. Bù lại, Mây úp - mở hứa sẽ dẩn tôi đi ăn ở quán đặc sản, uống loại rượu có một không hai trên toàn quốc. Chà! Loại rượu đặc biệt đến cở nào mà Mây dám xác quyết với tôi một cách hấp dẩn, ly kỳ đến vậy? Tôi im lặng đi bên cô mà lòng nghe nóng ran vì hồi hộp, mong sớm được thưởng thức qua thứ rượu độc nhất vô nhị ấy. Cuối cùng, Mây cũng đưa tôi tới cái quán nằm trên lưng một con dốc. Chủ quán là người đàn ông Mông sống lâu đời trên mảnh đất hoang dã này. Trông thấy Mây ông bước ra tận sân đón tiếp. Sau khi gọi món thịt trâu treo gác bếp, lợn cắp nách, dê nướng, cải mèo luộc, tôi hồi hộp chờ loại rượu đặc biệt mang ra. Nhưng than ôi! Sau khi uống qua vài chung rượu mừng tái ngộ, tôi nhận ra đây chỉ là loại rượu bình thường được nấu bằng gạo nương thôi. Đoán tôi phát hiện ra loại rượu gạo, Mây gọi chủ quán tới nói nhỏ mấy câu gì đó, lúc sau thấy ông ta cẩn thận mang đến một bình thủy tinh, bên trong chứa rượu có màu hơi vàng. Nhìn thoáng qua, thấy trong bình ngâm loại cây, trái, rể cây gì đó thấy quen quen. Không cần giới thiệu, lập tức ông chủ quán cầm lấy hai chiếc ly thủy tinh, vục mạnh vào bình múc ra cho mỗi người một ly rượu nhỏ. Tôi dán chặt mắt vào bình rượu, phát hiện ra những quả anh túc ngâm trong đó, vội kêu lên: “đây chẳng phải là rượu ngâm với cây anh túc sao? - Thì anh cứ uống thử đi rồi phát biểu, Đặc biệt, chỉ khách quí mới được chủ nhà mang rượu ra mời”. Tôi thử nhắp một hớp rượu nhỏ vào miệng, nhưng với hình ảnh nghiện ngập do thuốc phiện gây ra, khiến tôi cảm thấy không mấy hứng thú lắm. Tôi cảnh giác chính mình không nên thử ba cái thứ “ngoài luồng” này làm gì, ngộ nhỡ dây dưa vào con đường nghiện ngập chỉ làm khổ gia đình, làm khổ bản thân chứ chẳng sướng ích gì. Tuy nhiên, vì sự lịch thiệp bắt tôi phải cắn răng uống cạn ly rượu mời. Tôi nghĩ, uống một chút rượu độc hại chắc cũng không đến nỗi nào. Cảm giác của việc uống rượu ngâm bằng hoa quả, mỗi thứ đều có một mùi vị đặc trưng của nó. Có lẽ, do bị tâm lý hay sao nên, ngay sau khi nuốt trôi ly rượu qua khỏi cổ họng, tôi thấy trong cơ thể dậy lên ít nhiều sự phấn chấn. Tôi dấu kín chuyện này khi Mây hỏi tôi có ý kiến gì về loại rượu vừa uống. Tôi phát biểu một cách chung chung: “rượu ngon thật nhưng uống nhiều dễ bị phê”. Hiểu ý tôi, Mây cười chế diểu: “anh yên trí đi, rượu này không có nhiều để mời ai tới ly thứ hai đâu. Anh có muốn uống thêm hay mua vào trong Nam khoe khoang với bạn bè, chưa chắc đã có người chịu bán. Hàng quốc cấm đấy”.

Sáng ra, không biết có phải do uống rượu ngâm với cây anh túc từ đêm qua hay không, đầu óc tôi thấy lay bay, thấy mơ hồ như đang nằm giữa chòi canh lúa, nhìn ra bốn bề nghe tiếng gió thổi rào rạt vỗ về cơn mộng mị. Bỗng, chuông điện thoại réo vang làm tôi giật mình ngồi nhổm dậy. Bên kia đầu dây, tiếng Mây hối thúc tôi mau thức dậy đi ăn sáng để còn tiếp tục khám phá Mù Căng Chải. Dù rất muốn nằm nướng thêm một chút nữa, nhưng sợ làm phiền Mây, tôi ba chân bốn cẳng vắt giò lên cổ phóng xuống nhà dưới, ăn uống qua loa rồi nhảy tót lên xe cùng Mây chạy đi.         

Mặt trời đã lên, nhưng mây mù vẫn còn giăng giăng trên khắp các ngọn đồi mà chiều qua đến đây tôi vẫn còn thấy rõ màu nắng vàng đổ xuống cánh đồng vàng mơ màu lúa chín, làm sóng sánh cả một góc trời Mù Căng Chải. Vừa chạy qua khỏi khu dân cư, tôi chạm mặt với rất nhiều tay nhiếp ảnh không chuyên cũng như chuyên nghiệp, mang vát lỉnh kỉnh dụng cụ nghề nghiệp, đổ xô lên lên Mù Căng Chải nằm mai phục, rình rập ở xó xỉnh nào đó chờ chụp cho được những tấm ảnh nghệ thuật ưng ý nhất. Phải thừa nhận, do Mây thông thạo đường đi nước bước, chỉ sau vài giờ đồng hồ ghìm chặt tay lái trên các con đường dốc ngược hay vừa đủ cho một chiếc xe lách qua, tôi đã có mặt ở hầu hết các thửa ruộng bậc thang ở Dế Xù Phình, Chế Cù Nha, La Pán Tẩn. Nhờ vậy, tôi tha hồ ngắm nhìn đến no mắt vẻ đẹp qua từng thửa ruộng bậc thang xếp chồng lên nhau thành tầng tầng, lớp lớp bên thứ màu vàng lộng lẫy kẻ ngang, kẻ dọc hết ngọn núi này tiếp sang ngọn núi khác, hết ngọn đồi này tiếp sang ngọn đồi khác, hết thung lũng này tiếp sang thung lũng khác . . . đâu đâu cũng dậy lên quanh tôi thứ màu vàng đậm - nhạt, lúc như sắc vàng của nghệ, lúc sóng sánh màu mật ong, chen chúc nhau trong cảnh bạt ngàn vụ lúa đang chín tới một cách hài hòa đến khó tin. Có lẽ, nhờ vào địa hình, nhờ vào bàn tay khối óc cùng lao động tài hoa của nông dân cũng là nghệ nhân người Mông ở ba xã Chế Cu Nha, Dế Xù Phình, La Pán Tẩn khéo léo đục đẽo vào sườn đồi-núi, tạo nên tác phẩm điêu khắc nghệ thuật trên các thửa ruộng bậc thang mềm mại, uốn lượn quanh co với các đường viền, viền từ dưới thung lũng leo dần lên tới đỉnh trời, hóa thành một tuyệt tác nghệ thuật nơi thiên nhiên. Do đó, người dân ở ba xã thừa hưởng cảnh những thửa ruộng bậc thang đẹp nhất nước vẫn thường tư hào khoe rằng: “cho dù có đi khắp hai ngàn hai trăm hécta ruộng bậc thang trãi dài khắp Mù Căng Chải, cũng không đâu sánh bằng một lần đứng ngắm ruộng bậc thang ở Chế Cu Nha, Dế Xù Phình, La Pán Tẩn”. Riêng La Pán Tẩn còn được giới săn ảnh chọn làm tâm điểm để thi thố hoặc chụp nên nhiếu bức ảnh đoạt giải ảnh nghệ thuật quốc tế, bởi những nơi này hầu như vẫn còn giữ nguyên vẹn tính hoang sơ của thôn bản vùng cao so với ruộng bậc thang ở Trung Chải – Sapa, ít nhiều đã bị chi phối bởi kinh tế thị trường, cho dù có được tạp chí du lịch Travel and Leisure bình chọn là một trong bảy ruộng bậc thang đẹp nhất thế giới.

Khám phá chán chê ruộng bậc thang Dế Xù Phình, La Pán Tẩn tôi ghé về Chế Cu Nha trước khi chạy lên Than Uyên. Đường đi về bản lúc rộng lúc hẹp, đôi lúc tưởng sắp lao xuống vực sâu khiến tôi hãi quá, nhưng để giữ thể diện trước Mây, tôi bấm bụng rồ ga vượt qua con dốc cao dựng đứng với mặt đường toàn đá to đá nhỏ chặn lối, thầm cầu mong cho xe đừng bị chết máy. Chưa kịp mừng, tôi phải đối điện ngay với đám bùn đất trơn nhão đổ xuống trên mặt đường, do đêm trước có cơn mưa to làm sạt lở đất đá trên núi gây ra nhiều sự nguy hiểm. Nhờ trải nghiệm, kinh qua thử thách trên đường đi đã, giúp tôi phần nào nhận ra sự khó khăn của người dân vùng cao, chủ yếu sống dựa vào đồi núi, nương rẩy phải hứng chịu nhiều thiệt thòi, nhưng không bao giờ đánh mất tinh thần lạc quan vốn có, sẳn sàng mời bạn về nhà đải đằng rượu thịt đến khi say túy lúy mới thôi. Đổi lại, bên cạnh sự hiểm nguy luôn phải đối phó, hình ảnh từng gian nhà gỗ bám hờ hững trên lưng chừng núi, nhỏ như vật trang trí nổi lên giữa tấm thảm vàng mềm mại, trãi dài giữa chốn đại ngàn nom thật kỳ vĩ, đáng yêu biết bao qua hình ảnh từng bước chân cô gái Mông, cô gái Dao gùi từng gùi nước từng gùi đất, bước đi thoăn thoắc trên con đường vắt vẻo, chênh vênh nơi đỉnh núi hoặc dẩm lên các mõm đá tai mèo, chỉ bằng đôi chân trần, đẹp không thua gì những bức ảnh chụp với kỹ thuật panoramio.

Bên khung cảnh yên bình giữa đất trời, tôi chợt nhận ra tiếng lốc cốc từ chiếc mõ trâu vang lên nghe rất vui tai.Tôi nhìn về phía Mây như hỏi xem tiếng mõ phát ra từ đâu, trong khi cô bận vẹt đám ruộng bước đi giữa mùi hương lúa thơm ngào ngạt ùa lên cánh mũi. Tôi bước vội theo Mây, phát hiện ra vài em bé gái mặc áo váy hoa xòe, cưởi người trên lưng trâu đùa giởn bên các chị người Mông ngồi nhẩn nha trò chuyện, nhẩn nha thêu thùa, mặc kệ các hoat động ngày mùa đang diễn ra một cách âm thầm nơi cánh đồng bên dưới. Lúa sau khi gặt, được mang đến đập trong một chiếc thùng gỗ, sau đó vận chuyển về nhà phơi cho khô, lúc cần sẽ mang ra giã trong cối đá và sàng sẩy trước hiên nhà. Tuy nhiên, tục lệ người Mông không cho phép sử dụng thóc của vụ mùa vừa thu hoạch ngay mà, phải chờ tổ chức buổi lễ mừng cơm mới đã. Mây nói “Việc mừng cơm mới được xem là một trong những bữa tiệc lớn nhất, chỉ đứng sau tiệc ăn Tết của người Mông.Trước hết, đích thân chủ nhân sẽ cắt một vạt lúa trong số những thửa ruộng bậc thang của mình để làm sản vật cho buổi lễ mừng cơm mới. Tiếp đến, gia chủ mời tất cả thân bằng quyến thuộc, con cháu ở khắp nơi về tham dự. Theo nghi thức, người lớn tuổi nhất sẽ đứng ra thực hiện buổi lễ nhằm tỏ lòng cám ơn trời đất, ông bà tổ tiên đã phù độ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, con cháu khỏe mạnh . . . dĩ nhiên sẽ có rượu ngô, thịt heo cắp nách, gà đen, rau rừng, măng chấm muối vừng, nấm rừng xào với lục phủ ngủ tạng. . . ”.
Rời Chế Cu Nha, Mây hối tôi chạy nhanh ra quốc lộ 32 để lên Than Uyên cho kịp giờ ăn trưa. Được biết đây là một huyện nghèo nhất của tỉnh Lai Châu nên, việc nấu nướng không được chế biến ngon miệng như nhiều nơi khác; ngược lại, địa hình Than Uyên đủ sức làm ngẩn ngơ hồn phách của bất kỳ ai bởi những ngọn núi thấp đến trung bình, nối tiếp nhau xuất hiện mờ ảo trong mây. Ngoài ra, còn có thung lũng Nậm Na chạy dọc theo con sông cùng tên, mang lại nguồn nước tưới tiêu cho cánh đồng Mường Than lúc nào cũng được xanh tốt. Đổi lại, Than Uyên thường hay có những cơn gió lốc cực mạnh, vì vậy trong dân gian mới có câu “ruồi vàng, bọ chó, gió Than Uyên”, ý nói ba thứ đó đều khó chịu như nhau. Đặc biệt, gió Than Uyên thổi xuống cánh đồng Mường Than vào mùa hè mang lại cái nóng rát cháy da người. Trong ngôn ngữ khí tượng học, từ chuyên môn gọi gió vượt đèo kiểu này là gió Fơn (Foehn), còn ở Việt Nam gọi với tên gió Lào. Nghĩa là, gió sau khi thổi qua lảnh thổ Campuchia, Lào làm mất đi một phần hơi ẩm, bị đẩy lên cao hợp cùng không khí lạnh ở dãy Trường Sơn, ngưng tụ lại thành mưa trút xuống phía tây dãy Trường Sơn; ngược lại, sườn núi bên đông Trường Sơn thuộc về phía nước ta, gió Lào mang lại khô hanh và đầy sự nóng bức .     

Rời Than Uyên sau bữa ăn trưa, tôi lái xe chạy qua địa phận Tam Đường, trước khi đặt chân lên đèo Ô Qui Hồ. Một cung đường đèo ngoằn ngoèo dài hơn năm mươi cây số và cũng là cung đường đèo cao nhất nước, có độ cao chóng mặt, độ nguy hiểm không thua gì Phạ Đin - Lai Châu, Khau Phạ - giữa Phú Thọ và Yên Bái, Mã Pí Lèng – Hà Giang. Theo Mây, ngoài tên Ô Qui Hồ, đèo này còn gọi là đèo Hoàng Liên Sơn, bởi nó vượt qua dãy núi và khu bảo tồn thiên nhiên cùng tên. Hoặc gọi nôm na theo cách  dân gian là: “đèo mây”, vì trên đỉnh đèo mây trắng bao phủ quanh năm, có khi còn xuất hiện cả băng tuyết vào mùa đông nên du khách đổ xô lên đây xem rất đông.  

Nghe có vẻ hấp dẩn, tôi cố ghìm tay lái cùng Mây bò lên con đường dốc cao với nhiều khúc quanh nguy hiểm đến thót tim. Sau cùng, nhờ chút tài mọn tôi cũng cố  vượt qua được mọi trở ngại để lên đến Trạm Tôn hay còn gọi Cổng Trời. Là nơi có con đường quốc lộ liên tỉnh chạy qua, ở độ cao 2047 mét so với mực nước biển, đẹp đến mê hồn. Có lẽ, thấy tôi nhìn say  mê trước cảnh vật thiên nhiên mang đầy vẻ bí ẩn, Mây khuyên tôi nên dừng xe giữa đỉnh đèo để còn chiêm ngưởng, khám phá vẻ đẹp đầy kỳ thú nơi này. Tôi cho xe đậu xe sát vào lề đường, trong khi gió thổi vù vù bên tai làm rối tung mái tóc. Mây nhanh nhẹn giữ chặt cánh tay tôi, dẩn đến một nơi có thể phóng tầm mắt nhìn xuống bên dưới, chứng kiến khi là con đường vừa chạy qua, mỏng manh như một dãi lụa mềm mại được bàn tay các nghệ nhân phá núi, mở ra từng con đường nhựa uốn lượn quanh co giữa chập chùng núi non bao phủ, khi là cảnh một biển mây trắng xóa đang nhấn chìm mọi vật vào lòng; ngoại trừ vài ba đỉnh núi có màu xanh  xám nhô lên khỏi tầng mây, như một vệt nâu bẩn để lại trên khung vải. Mây kể bên tai tôi: “vào những hôm trời quang mây tạnh, đứng từ đây có thể nhìn thấy đỉnh ngọn Fanxipăng cùng với phong cảnh kỳ vĩ đầy hoang sơ của núi rừng Hoàng Liên Sơn, nơi từng được vinh danh là “vườn di sản Asian”.     
Cuối cùng, để kết thúc chuyến đi Mù Căng Chải, Mây nói sẽ vô cùng thiếu sót nếu cô không đưa tôi đi thăm một nơi chốn hữu tình mà, bất kỳ ai ghé lên Sapa đều muốn đặt chân đến thăm một lần. Có thật không, sao năm năm trước Mây không đưa tôi đến thăm mà đợi tới lần nầy? Định hỏi, nhưng đã thấy cô chỉ một lối rẽ vào con đường mòn đất đỏ gần bên. Tôi lái xe chạy theo con đường rợp mát giữa rừng trúc bạt ngàn cùng các khóm hoa đỗ quyên thắm đỏ lập lòe. Chợt, vẳng đến bên tai tôi tiếng động nghe rạt rào, phát ra từ quanh đây. Nhìn kỷ, tôi phát hiện ra một con thác từ độ cao hơn trăm mét đổ xuống bên dưới ầm ào. Tôi nhớ tới hai câu thơ của nhà thơ Lý Bạch “Thác bay thẳng xuống ba ngàn thước / Tưởng dãi Ngân Hà tuột khỏi mây” (*). Xuống xe, tôi đứng nhìn ngẩn ngơ màn sương mỏng giăng giăng như muốn che khuất cả cánh rừng. Mây đứng cạnh tôi từ lúc nào không hay. Cô giới thiệu đây là thác “tình yêu”. Còn tại sao gọi tình yêu thì phải chờ nghe kể về truyền thuyết đã.

Chuyện kể . . .
Ngày xửa ngày xưa, tại ngọn thác xinh đẹp và đầy nét quyến rũ này, các tiên nữ thường bay từ trời xuống đây tắm mát. Trong số các nàng tiên xuống trần tắm tiên, nàng tiên thứ bảy tình cờ phát hiện bên dòng suối có một chàng tiều phu đốt lửa nấu cơm. Nhân lúc rổi rảnh, chàng mang sáo trúc ra thổi. Do mãi mê nghe tiếng sáo du dương - trầm bổng của chàng, nàng đã quên mất chuyện trở về. Đêm xuống, nàng bị rét run trong gió lạnh, buột phải tìm đến nhờ được sưởi ấm bên đống lửa của chàng. Qua chuyện trò, nàng biết chàng là con trai của thần núi tên Ô Qui Hồ. Vì quá mê loài trúc ở đây nên chàng sao lãng việc tu luyện để gánh vác công việc thay cha sau này. Giận con, cha chàng hóa phép biến chàng thành một gã tiều phu, chuyên lo việc gieo trồng, chăm sóc khu rừng trúc quanh năm tràn ngập mây mù và gió lạnh. Nghe chuyện, nàng thật sự cảm động, nài nĩ chàng thổi cho nghe những âm thanh mê hoặc từ cây sáo trúc của chàng. Suốt đêm hai người quấn quít bên nhau cho đến khi trời sáng bảnh, nàng mới giật mình từ biệt chàng bay trở về trời. Chuyện hẹn hò giữa chàng và nàng lâu ngày cũng bị gia đình phát hiện. Cha mẹ nàng rất giận, nhất định không cho nàng theo các chị xuống thác tắm nữa. Vì nhớ chàng, chiều nào nàng cũng ra cổng trời nhìn xuống thác với hy vọng nghe thấy tiếng sáo của chàng. Lâu ngày, do phải sống trong sự buồn phiền vì luôn nhớ thương chàng, nàng đâm ra tương tư bệnh chết đi rồi, biến thành một loài chim lạ suốt ngày bay quanh đỉnh núi kêu quang quác “Ô Qui Hồ! Ô Qui Hồ” nghe buồn da diết.

Nghe qua truyền thuyết do Mây kể, tôi cười hỏi cô một câu trước khi thẳng đường về Sapa kết thúc chuyến đi khám phá ruộng bậc thang vào mùa thu trên Mù Căng Chải: “nếu gã con trai miền xuôi yêu cô con gái miền ngược, liệu em có thuận tình làm mây bay trên đỉnh núi chờ kia không? - Anh hỏi lạ, năm năm trước em nhớ đã trả lời anh, con trai miền xuôi chỉ nói cho vui vậy thôi, chứ yêu người ta sao không đến chợ tình chơi một lần”?.

Không biết Mây nói ra điều này có thật không nữa, nhưng theo bạn, tôi có nên cùng Mây đi về bản Các Các thăm gia đình cô một lần không?



giới thiệu sách * Người Đồng Hành Quanh Tôi, Tập IV


NXB Thanh Niên vừa giới thiệu bộ sách nghiên cứu phê bình TÁC GIẢ TÁC PHẨM NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI, tập IV của nhà thơ NGÔ NGUYÊN NGHIỄM.

Sách dày 1000 trang giới thiệu 32 văn nghệ sĩ trong và ngoài nước: LÂM ANH- PHẠM TƯỜNG BÁ - HỒNG BĂNG - NGUYỄN TĂNG BÌNH - LÂM HẢO DŨNG - PHẠM NHÃ DỰ - THẾ ĐỆ - NGUYỄN VĂN HẦU - DƯƠNG TRỮ LA - NGUYỄN TÔN NHAN - NGUYỄN NHI - TRỌNG NGHĨA - TRUNG NGUYÊN - JACQUESPOTIER - VŨ TRỌNG QUANG - NGUYỄN LANG QUÂN - NGUYỄN LÊ LA SƠN - TRẦN VĂN SƠN - HOÀNG ANH TÂM - SA VŨ - PHẠM YẾN ANH - PHẠM THƯỜNG GIA - NGUYỄN BÁ KHANH - HỒ VIỆT KHUÊ - UYÊN LINH - HỒ DUY NGỮ - JOSEPH HUỲNH VĂN - TÔ NHƯỢC CHÂU - LÊ QUANG ĐÔNG - LÊ THANH MY - TRẦN YÊN THẢO - KINH DƯƠNG VƯƠNG.

Tác phẩm được sự chung tay của các nghệ sĩ, điêu khắc gia, nhiếp ảnh gia, họa sĩ như: HỒ HỮU THỦ, CAO BÁ MINH, RỪNG, LÊ TRIỀU ĐIỂN, TRƯƠNG THANH VÂN, HÀ CẨM TÂM, LƯU NHỮ THỤY, TRẦN ĐẠI, CHÓE, NGUYỄN TRỌNG KHÔI, VŨ UYÊN GIANG, CÙ NGUYỄN, ƯU ĐÀM, PHÚ THẢO, THÁI VĂN SƠN, NGUYỄN TÍN TRUNG, NGUYỄN BẠCH DƯƠNG....

Bộ sách TÁC GIẢ TÁC PHẨM NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI đã ra mắt được 4 quyển dày trên 1000 trang với sự cật lực của tác giả và sự liên tay chân tình của anh em văn nghệ đồng hành. Gây được nhiều dư luận đồng tình trong giới văn nghệ.

Trân trọng giới thiệu với đọc giả yêu thích văn học nghệ thuật.

MINH NGUYỄN VÀ BẰNG HỮU