Đang
tháp tùng cùng nhóm họa sĩ Mê-Kông Art đi thực tế
tại làng gốm đỏ Vĩnh Long .Bất ngờ,tôi nhận được
tin nhắn của Mây trên mạng “ – Anh rảnh không ? Lên
Sapa đi.Mùa thu nơi đây có hàng trăm thửa ruộng bậc
thang đang vào mùa giáp hạt.Lúa chín vàng ươm, đẹp
không thua gì Flowering Garden của Van Gogh “. Ôi!
Cái tin nhắn có bấy nhiêu chữ, vậy mà nó thật sự
lôi cuốn máu đi giang hồ vặt trong tôi, bởi từng chữ
từng chữ hàm chứa biết bao sự lãng mạng trông chờ.
Ừ
! Thì lên Sapa – Lào Cai xem mùa thu của Mây dát vàng
nương rẩy núi đồi và từng bước dẩn lên tới trời
với ngàn thửa ruộng bậc thang, xem ra cũng thú vị,hơn
là cứ ngồi ở Sàigòn hứng chịu cái nóng kinh người.
Cơ
hội không đến với ai hai lần. Câu nói mang tính triết
lý của ai đó đã giúp tôi quyết định cắt ngang
chuyến đi “ vọoc “đất cùng với nhóm bạn hoạ
sĩ.Bay một mạch về nhà sửa soạn cho chuyến đi liền
kề ngay trong ngày hôm sau.
Hà
Nội mùa thu đón tôi bằng lá cây sấu,cây cơm
nguội,cây xà cừ rơi đầy trên hè phố cùng với mùi
hoa sữa nồng nàn cuốn theo hương cốm vòng gói trong
lá sen, làm nhớ quay quắc giọng nữ “ Có bóng mùa
thu thức ta lòng son muộn.Một ngày về xuôi chân ghé
Thăng Long buồn.Có phải em là mùa thu Hà Nội.Ngày sang
thu anh lót lá em nằm.Bên trời xa suơng tóc bay “. (* )
Mây
đón tôi ngay cửa ga Lào Cai.Trông cô đẹp hơn,thiếu
nữ hơn so với lần gặp trước.Nhưng nụ cười thì
chẳng lẫn vào đâu bởi hai chiếc răng vàng hé lộ
nét duyên con gái H ‘ Mông, dễ làm cháy lòng bất kỳ
chàng trai nào,trong đó có tôi.” – Anh đi tàu có mệt
lắm không ? – Nếu mệt, em sẽ đền cho anh
được gì nào ? – Những ngày ở Sapa em dành tất cả
thời gian đưa anh đi ngắm ruộng bậc thang – Không có
gì hơn à ? – Mời ăn cơm “ lam “ với “ thắng cố
“ – Còn chợ tình? – Eo ơi ! Anh tham lam quá.”
Hai
má Mây tự dưng ửng hồng lên với vẽ thẹn thùng khi
nghe điều tôi nói.Chẳng lẽ tới từng tuổi này Mây
chưa lần ghé mắt qua chợ tình ? Tôi chợt nhớ Mây
mới 16 tuổi. Cái tuổi ngày xưa các cụ ví von “ bẻ
gảy sừng trâu “.Còn Mây thì có thể làm hơn gì
trong cái dáng con cò bé bé ? Có lẽ do đóan được ý
nghĩ trong tôi nên Mây bẻn lẻn hỏi : “ Con trai miền
xuôi có dám lên đây ở rể không ? Của hồi môn chỉ
vài con trâu và một ít thổ cẩm “.Tôi cười đáp
lại : “ Con trai miền xuôi, dám yêu dám liều không ai
bằng “.
Con
đường 4 D từ Lào Cai lên Sapa vào mùa thu mây
màu biên biếc.Gió heo may bãng lãng, hôn nhẹ trên từng
khóm hoa cúc dại mọc ven đường, đang dậy lên sắc
vàng hoang dã.Mây ngồi nép sát người bên cửa xe.Mắt
cô hướng nhìn lên dãy Hòang Liên Sơn trong veo màu núi.
Vô tình,những sợi tóc mai lùa trong gió, hững hờ đậu
trên cánh mũi tôi,để lại một mùi hương ngai ngái
Sapa.Cái mùi thơm đặc trưng chỉ có ở người con gái
miền cao Tây Bắc.Tôi vờ nhắm mắt,căn phồng lồng
ngực hít hà thật sâu hương vị núi rừng. Tưởng tôi
ngủ say bên cạnh.Mây lay gọi tôi thức tỉnh để chỉ
cho thấy những mảng màu sắc ruộng bậc thang do bàn
tay những “ nghệ sĩ nông dân “ sắp đặt.Cảm xúc
thật sự òa vỡ khi tôi kịp nhìn thấy hình ảnh từng
thửa ruộng rực lên trong nắng .Những thửa
ruộng đan xen với nhau giữa màu xanh lúa non,màu vàng
lúa chín mọc ra từ khe đá, phủ lên các sườn đồi,để
rồi thóang chốc mất hút trong làn mây. Hình ảnh ruộng
bậc thang là hiện thực.Là những cung đường ngoằn
ngòeo mơ màng ngái ngủ trong mây.Là đồi núi trong mùa
lúa chín, ruộng nương cứ tròn đầy dâng mãi lên tận
mây xanh những mâm xôi vàng hực.Là từng bậc chân
thang phối màu hình họa cho ruộng lúa thêm
lung linh,kỳ ảo bước chân Từ Thức lên trời.Ôi !
Làm sao kể cho thật đủ đầy những đường nét đặc
trưng phong phú khi nói về ruộng bậc thang. Không chỉ
riêng ở Sapa – Lào Cai mà còn phải kể tới ruộng
bậc thang Banaue – Philippines ,Yuangyang – Vân Nam , Ubad
– Indonesia , Annapuma – Népal , Mea Rim – Chiang Mai, Long
Ji – Quế Lâm . . . mà đọc giả tạp chí du lịch
Travel and Leisure bình chon là đẹp nhất châu Á và thế
giới.
Không
thấy tôi có ý kiến gì. Mây thắc mắc hỏi :”
Chắc,mới bao nhiêu đó hình ảnh chưa đủ chinh phục
trọn vẹn tình cảm của anh đối với những thửa
ruộng bậc thang nơi đây ? Điều này cũng dễ hiểu
thôi.Rồi ngày một ngày hai,sau khi đã mục thị sở
tại, hẳn anh sẽ kềm lòng không đậu trước vẽ đẹp
vô cùng lộng lẩy do thiên nhiên ban tặng cho vùng đất
này mà xem. Tới lúc đó chưa biết ai phải lụy ai à
nghe ? “. Tôi cười. Không vội trả lời Mây,bởi tôi
đang muốn tự hỏi xem hình ảnh ruộng bậc thang Sapa –
Lào Cai có gì đặc biệt so với hình ảnh ruộng bậc
thang ở Banaue mà tôi đã xem trên Youtube ? Tôi hòan tòan
thất vọng khi kịp nhận ra sự so sánh khập khiểng
của mình.Bởi không có sự so sánh nào giống
với sự so sánh nào.May mà tôi chưa đem chuyện này ra
nói với Mây,nếu không cô sẽ có được trận cười
no bụng.Hơn nữa, ruộng bậc thang Banaue tuy có khỏang
2000 năm tuổi tại vùng núi Lflugao – Philippines, được
tổ tiên người Batad tạo dựng.Nhưng xem ra đời sống
cư dân lẫn cảnh quang thiên nhiên đã bị thời gian
bào mòn ,làm mất đi ít nhiều vẽ đẹp hoang sơ vốn
quyến rũ trước đó, dù có được Unesco công nhận.Và
nếu chỉ cần bầu chọn giữa hai ruộng bậc
thang Banaue và Sapa – Lào Cai thôi ( trong số bảy cảnh
quan thiên nhiên đẹp nhất được đề cử ) tôi sẽ
không do dự chọn ruộng bậc thang Sapa – Lào Cai. Điều
này không hẳn chỉ có riêng nơi tôi mà ,hầu như các
nghệ sĩ nhiếp ảnh nào cũng say mê và tốn nhiều phim
ảnh để mang về cho mình nhiều tấm huy chương giá
trị khi chụp các thửa ruộng bậc thang quê hương
Tuy
nhiên,ít ai hiểu được “ đằng sau vẻ đẹp “ của
những dải lụa vắt lên trời.Những mảng màu không
chủ đích do nông dân tạo nên.Thì ruộng bậc thang kia
là cả một nền văn minh ruộng rẩy lúa nước.Là cả
một triết lý nhân sinh mà bao đời nay bà con người
Mông,người Dao,Tày,Giáy . . .khó khăn khai khẩn, canh
tác trong điều kiện khắc nghiệt của khí hậu cùng
với sự kiến tạo địa hình nhiều núi non, nên phải
canh tác trên các sườn núi có dộ dốc cao,dễ gặp
nhiều bất trắc.Hành vi đó không chỉ là sự ứng xử
mà còn là thành tựu cả về mặt văn hóa lẫn tri thức
dân gian.Qua đó đã phát huy tác dụng, tạo ra năng xuất
lúa nước cao hơn sản xuất lúa nương rẩy. Và từ
những thách thức của thiên nhiên. Muốn hạn chế
những rủi ro cho con người và trong sản xuất người
xưa hình thành ra các nghi thức tín ngưởng.Bởi họ
quan niệm động thực vật xung quanh con người đều có
phần hồn lẫn phần xác.Cho nên để ổn định tâm lý
cũng cần tới sự cúng kiến như ; lễ cầu mưa,lễ
mừng cơm mới,lễ cúng ma,lễ cúng các dụng cụ nông
nghiệp . . .
Mây
giải thích : “ đó không phải là hủ tục mà là nét
văn hóa đặc trưng của dân tộc vùng cao Tây Bắc, cần
được phát huy nhiều hơn nữa trong các buổi hội hè,
nếu muốn lôi kéo du khách đến với Sapa “.
Thực
tế. Đến Sapa – Lào Cai đi du lịch. Ngoài việc được
thưởng thức khí hậu trong lành,tham quan phong cảnh
đẹp,leo núi,ăn các món ăn đặc sản;mà không biết
chút gì về phong tục tập quán của người dân bản
địa,quả thật thiếu xót .Mây nói đúng. Tiếc rằng
tôi không có nhiều thời gian đi tham quan hết các điểm
danh lam thắng cảnh trong cùng một dịp. Nhưng việc
chia nhỏ mỗi chuyến đi cũng có cái hay của nó. Vì ít
ra tôi còn được gặp lại sơn nữ “ thành phố trong
mây thành phố trong sương “ của tôi nhiều lần. Mây
cũng đồng tình với tôi về điều này .Cho dù cô một
mực ta thán “ đàn ông con trai miền xuôi chỉ nói cho
vui vậy thôi “.
Đến
ki-lô-mét 24 xe dừng lại. Mây cho biết nơi đây thuộc
xã Trung Chải, có ruộng bậc thang cao 121 bậc nằm ở
thôn Vù Lùng Sung, được đọc giả báo du lich Mỹ đề
cử là một trong bảy ruộng bậc thang đẹp nhất.Nghe
giới thiệu không thôi chưa đủ.Phải thực tế tận
nơi mới thấy hết sự vất vả,nhọc nhằn do sức
người biến núi cao,đất dốc bạc màu thành những “
bồ thóc di động “; đồng thời cũng tạo ra cảnh
quan xinh đẹp để mọi người thưởng lãm.
Từ
đường 4D tôi theo Mây rẻ phải. Đi bộ trong khỏang
thời gian khá lâu về hướng núi Fanxipăng. Dọc hai bên
đường, ngoài dốc cao dựng đứng, là hàng ngàn cái
thang lúa vàng đua chiều cao, vút lê tận trời. Phải
thừa nhận nông dân ở đây hẳn phải là nghệ nhân
đẽo ruộng,đẽo đá chuyên nghiệp, đã tạo ra hình
thù ruộng bậc thang không thửa nào giống thửa nào.Cái
hình chóp, cái hình mâm xôi,hình da hổ,hình cái thang .
. . trông thật quyến rũ. Có lẽ,do thấy tôi
bị mê hoặc bởi màu sắc nửa vàng óng,nửa vàng sậm
giữa mùa lúa đang vừa chín tới. Mây cười nói : “
ở trên này có hai mùa tuyệt đẹp để ngắm nhìn sự
kỳ thú từ ruộng bậc thang – mùa nước đổ ( tháng
5-6 ) – và mùa thu. Mùa nước đổ là mùa nước từ
trên trời rơi xuống. Lúc đó nước từ đỉnh núi hay
đầu nguồn chảy đầy suối rồi dẩn qua hệ thống
mương mán thô sơ, chia nước ra đều khắp các thửa
ruộng.Sao cho nước ngập chân lúa không sâu để không
bị úng khi mưa,không bị hạn khi nắng lớn. Điều đó
gọi là gì nếu không phải là nghệ thuật ? Tiếc rằng
anh không đến đây sau mùa gặt. Lúc đó đất ở sườn
đồi, sườn núi được san ủi thành thửa ,có cùng độ
dốc, hé lộ ra từng vạt đất đỏ chói chưa kịp bừa
ngấu bên từng bậc, từng bậc thang đất xếp từ
chân lên tận đỉnh núi trông đẹp đến mê hồn “.
Nghe
Mây tả ruộng bậc thang vào mùa hè làm tôi nghe bắt
thèm.Ừ ! Nếu muốn thì lần sau lại lên đây. Vừa
được xem ruộng bậc thang trong mùa đổ nước cấy,
vừa được ngắm Mây. Có mất mát gì đâu.
Mệt.Tôi
ngồi xuống cạnh đường.Trên đầu mây di chuyển rất
nhanh,mới đó đã phủ che cả bầu trời,che luôn cả
những thửa ruộng thơm lừng hương lúa, khiến tôi có
cảm giác như chỉ cần đưa tay ra là có thể tóm gọn
được những phiến mây nhẹ như bông.
Thấy
cũng vừa đủ cho một ngày đi ngắm các thửa ruộng
bậc thang ở Trung Chải.Tôi đề nghị Mây đón
xe đi tiếp lên Sapa để còn ăn uống, nghỉ ngơi.Bởi
lẽ từ sáng tới giờ tôi chưa có chút gì trong
bụng;ngoại trừ ổ bánh mì ba-ghét và chai nước tinh
khiết do nhà tàu cung cấp đêm qua.
Tội
nghiệp,khi biết được điều này, Mây luôn miệng xin
lỗi tôi về sự vô ý của mình. Mây hứa ngày mai sẽ
bắt đền cho tôi một chuyến ghé xuống thung lũng
Mường Hoa của người Giáy ở xã Tả Van. Xem các nghệ
sĩ nông dân triển lãm sắp đặt ruộng bậc thang từ
các sườn đồi một cách tài tình, lãng mạn ở hai
bên bờ suối.Tới lúc đó tôi sẽ có cái nhìn chân
thật hơn về sự kiên cường và phóng khóang của con
người; thông qua việc cày cấy,gieo trồng lúa nước
trên vùng đồi núi cao khắc nghiệt. Để có sự cảm
thông,chia xẻ nỗi khó khăn vất vả trong việc dùng
sức người để thắng thiên nhiên,nhằm tạo ra
của cải vật chất cho đời sống phong phú sau này.
Dĩ
nhiên. Tôi không có gì phải bàn thêm về lời hứa hẹn
xem ra khá quyến rũ của Mây, trước việc đi xem ruộng
bậc thang ở thung lũng Mường Hoa. Một địa danh không
chỉ nổi tiếng đẹp nhất trên bản đồ du
lịch Sapa; mà còn có nhiều thửa ruộng lung linh, huyền
ảo không thua gi ruộng bậc thang ở Trung Chải./.
(*)
Nhớ mùa thu Hà Nội – TQL & TNC
|
Wednesday, January 2, 2013
Minh Nguyễn * Những bước lên trời với ruộng bậc thang
Văn Quang * Cả nước bị điện giật
Đúng ngày tận thế, chiều 21-12-2012, ông Điện Lực Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietnam Electricity, viết tắt làEVN) thông báo tăng giá điện, tính cả năm 2 lần tăng là 10%. Nụ cười của người Việt vừa thoát khỏi ngày tận thế chưa rời khỏi khóe môi đã héo lại vì bị “tận thu”. Cái số người dân Việt bây giờ vì thế ít khi nào có nụ cười trên môi. Xin đừng đặt câu hỏi vì sao một số người Việt bây giờ lại “vô cảm” đến thế. Lý do giản dị bởi còn chạy gạo hộc xì dầu, không có tiền thì vợ con đói, bố mẹ không có thuốc, chưa biết chết lúc nào, nên đành phải “mắc bệnh vô cảm” vậy, dù lương tâm có bị cắn rứt cũng phải chịu. Công việc nhà chúng em còn nhiều lắm, ông thông cảm hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì tới “cơm gạo áo tiền” nhà chúng em. Nhưng còn một ông lớn mắc bệnh vô cảm nặng hơn, công khai thách thức dư luận.
Ông Điện Lực Việt Nam mắc bệnh vô cảm nặng
Cái thời buổi này nó thế, nhất là dịp năm hết Tết đến này, người dân có hàng chục thứ phải lo. Công nhân đi làm xa, lo lấy cái vé tàu về quê cũng ăn chực nằm chờ suốt đêm vẫn chưa mua được, lại phải nhờ đến cò chợ đen. Nỗi lo lương thưởng Tết không có, lấy gì mua bánh cúng ông bà, lấy gì mua cho con manh áo mới. Chưa nói đến một số doanh nghiệp nợ lương từ tháng này qua tháng khác, tháng này không biết còn nợ nữa không. Rồi vẫn lo cái xe gắn máy cà tàng sắp phải đóng thuế “phí sử dụng đường bộ”. Ông ngân hàng nhà nước cũng “nhân dịp cuối năm” này ép hạ lãi suất gửi ngân hàng xuống thêm 1% nữa. Nỗi lo hơn nữa là thất nghiệp. Mấy cô cậu làm trong ngân hàng đang nơm nớp lo bị “cắt giảm nhân sự”. Nói cho đúng, làm ở sở càng lớn, lương càng cao, càng lo. Công nhân các công ty xí nghiệp càng nhỏ, lương cành “hẻo”, càng lo, chưa biết năm sau công ty sẽ đi về đâu, nỗi lo thất nghiệp vẫn canh cánh bên lòng. Ấy thế mà vẫn tăng giá điện gấp gáp, bất ngờ, có ông ví von như một cú gí điện vào lưng nhân dân. Như thế ông điện lực còn mắc bệnh vô cảm nặng hơn nhiều!
Người lao động và đại gia cũng cùng bị điện giật
Thế cho nên khi được tin tăng giá điện, cả nước nhảy nhỏm y chang bị điện giật. Có hàng ngàn câu nói cửa miệng của người lao động thốt ra. Mấy cái doanh nghiệp cũng thất thần, hãng nào cũng phải sử dụng điện trong khi hàng ế ẩm, bán giá cũ chưa ai mua, nay lại tăng giá nữa, làm sao bán hàng? Cho thợ nghỉ hàng loạt hay cho thợ làm 3 ngày một tuần, vẫn chưa giải quyết được vấn đề. Chỉ còn nước đóng cửa. Đóng kiểu nào còn tùy theo tình hình. Đóng theo kiểu bán hết máy móc thiết bị, ông chủ bỏ nhà không vườn trống, chạy mất tiêu là gọn nhất. Tha hồ cho mấy anh thợ đứng chờ như hòn vọng phu. Kiểu đó không thiếu gì ông chủ đã và đang áp dụng có hiệu quả tại Việt Nam.
Nhưng tình trạng của người lao động còn thê thảm hơn nhiều. Vậy xin chứng minh cụ thể tiếng nói của người dân trước. Trong số hàng ngàn ý kiến trên hầu hết các trang báo cho người dân “xì hơi”, đa số ý kiến đều cho rằng EVN làm ăn thua lỗ những năm trước không phải do lỗi của người tiêu thụ nên không thể bắt họ phải chịu trách nhiệm. Mời bạn đọc những tâm sự rất ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa:
Thà tận thế cho khỏe
- Bạn Lao Đao thất vọng quá đến mức phải thốt lên: Vừa vượt qua được cái tận thế lại đụng ngay cái tận thu của anh Điện, tuần sau anh Giao Thông cũng sẽ tận vét với cái phí giao thông cho các loại xe! Thà tận thế thiệt cho khỏe!!!
- Bạn Phạm Văn Lâm than bóp đã xẹp: Những ngày cuối cùng của năm 2012 giá điện tăng “hốt hụi chót”... Bóp của dân thực sự đã xẹp lép, làm gì còn tiền để đóng “phí bảo trì đường bộ” ngay đầu năm đây hỡi những ông Quan ơi?...
- Bạn Tiếng xưa nhìn nồi cơm nhà mình: Người dân đã oằn mình với bao thứ thuế, Sở Điện lực cũng ráo riết ra tay. Nồi cơm lại vơi đi rồi, Sở Điện lực ơi!
- Bác Bảy Đại Ca hỏi thăm các nhà làm kinh tế vĩ mô và “siêu tiến sĩ” Việt Nam: Đây là kinh tế vĩ mô và người dân sẽ ngộp thở, là nhờ các siêu tiến sĩ làm luận án, tăng lãi để bù lỗ và người dân ngóc đầu lên không nổi.
- Bạn Năm Khang sâu sắc hơn: Cái mất nhiều hơn: Hết biết, hết biết, hết biết! Trong khi, Chính phủ mới có chỉ đạo trong phiên họp tháng 11 là phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô; kềm chế lạm phát. Và tại sao phải tăng giá để bù lỗ do tự mình kinh doanh yếu kém. Thật sự không còn biết tin vào cái gì nữa. Dân phải ép mình mà trả thêm tiền điện, trả thêm phí bảo trì đường bộ mà tâm không phục, khẩu không phục. Có thêm tiền, nhưng cái mất là nhiều hơn!
- Bạn TBDKN nói đến nguyên tắc ngược đời trong kinh doanh: Theo nguyên tắc cung cầu của thị trường thì mua càng nhiều, giá càng giảm nhưng EVN thì không! Mua càng nhiều càng bị “chém”. Một mình một chợ muốn làm gì thì làm. Chẳng có ngành nghề nào kinh doanh sướng như EVN, thua lỗ thì nhà nước cứu, còn lợi nhuận thì đem chia nhau xài. Bó tay.
- Bạn Hiep, email hiep63@mail.vn lại tỏ ra khôi hài: Đúng là 5 anh em trên 1 chiếc xe tăng: xăng tăng - điện tăng - nước tăng - gaz tăng - vàng tăng mà lương… chậm tăng!
- Bạn có địa chỉ email tuanhonglac@... đặt câu hỏi: Tăng giá điện là điệp khúc được lặp đi lặp lại nhiều năm. EVN độc quyền bán điện rồi độc quyền tăng giá, lại còn nói “Không tác động lớn”. Cơ sở nào để các ông nói là không tác động lớn? Thử làm dân nghèo xem có tác động hay không khi mà người dân đã cắt giảm rất nhiều khoản chi tiêu, nay giá điện lại tăng thì lấy khoản nào bù vô? Đó là chưa kể giá điện tăng sẽ làm giá hàng hóa tăng theo. Tại sao làm ăn lỗ lại bắt khách hàng gánh cho mình?
- Cụ Lão Nạp kết luận: Người dân không bị tận thế thì cũng bị tận... số với các ông: Điện, giao thông, xăng dầu!
Chỉ nghe bằng ấy lời “tả oán” của người dân, bạn đọc đã có thể nhìn rõ được tâm trạng của người dân Việt hiện nay “mười phân vẹn mười” như thế nào, khỏi cần bình luận thêm, phải không bạn?
Không chỉ người dân nghèo than khổ, các đại gia chủ doanh nghiệp cũng than khổ.
Tiếng kêu của các đại gia trong các doanh nghiệp
-Ông Đỗ Phước Tống (giám đốc Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh): Quá ngán giá điện: Phải nói là quá bất ngờ. Trước đó, hầu như tôi chưa nắm được thông tin nào về việc tăng giá điện bắt đầu từ hôm nay (22-12). Thú thật, tôi đã quá ngao ngán về vấn đề này. Doanh nghiệp, người tiêu dùng than quá nhiều về giá điện nhưng Bộ Công thương có bao giờ nghe.
Từ đầu năm đến nay, nhiều loại chi phí đầu vào tăng giá mạnh, nhưng sản phẩm bán ra không thể tăng giá. Trong ngành cơ khí chúng tôi, phần điện rất nặng. Hầu hết các khâu sản xuất đều phải dùng điện.
Tại Công ty Duy Khanh, chi phí tiền điện chiếm khoảng 4% trong tổng chi phí sản xuất. Việc tăng giá điện có tác động rất lớn đến hoạt động của công ty. Trong khi đó ở thời điểm này không thể tăng giá đầu ra vì còn phụ thuộc vào sức mua, doanh nghiệp phải tự gánh khoản tăng giá điện lần này.
Thời gian thông báo tăng giá điện chỉ trong vòng 01 ngày. Đúng là chỉ có công ty điện lực được nhà nước bao cấp mới có khả năng làm như vậy để ép dân chúng tôi. Tôi chỉ vừa nghe tin tăng giá điện hôm qua, vậy mà hôm nay nhân viên điện lực đã đến cơ sở sản xuất của tôi đễ chốt giá điện báo tăng giá.
Dân chúng tôi xài điện, đóng tiền điện - cũng xem như là khách hàng của công ty điện, nhưng liệu chúng tôi có được sự tôn trọng như là khách hàng?
Thử hỏi nếu là một doanh nghiệp muốn báo tăng giá sản phẩm thì cũng phải thông qua một thời gian thông báo trước để khách hàng có tâm lý chuẩn bị và tính toán lại. Đằng này thấy ép chúng tôi quá. Dường như ngành điện giờ trở nên quá độc đoán nên chỉ trong 01 ngày thông báo tăng giá là ngày mai áp dụng ngay, để dân chúng không kịp có tiếng nói gì.
Chính phủ có thẩm quyền thì chỉ yêu cầu EVN bù lỗ nhưng không yêu cầu rõ chính sách bù lỗ hay biện pháp hạn chế sự độc đoán của EVN, thay vì bằng việc cải tổ lại bộ máy hoạt động sao cho hiệu quả tránh thất thoát hơn thì EVN chỉ đơn giản nhất là móc túi dân, bắt người dân như chúng tôi - những người làm ăn cực khổ ngày đêm thiếu ăn thiếu ngủ để tính toán sao cầm cự được vì không thể tăng giá đầu ra nhưng phải đủ sức nuôi thợ có công ăn việc làm ổn định, phải gồng gánh hết thuế này thuế nọ. Rồi lại phí này phí kia, rồi hết điện tăng rồi có ngày xăng, nước lại tăng, giá nguyên liệu tăng theo... Mỗi thứ tăng một ít 5%, 3%, 4% thì chúng tôi chỉ còn biết dẹp tiệm...
Tìm mọi lý do để móc túi dân
Bây giờ bạn đã hiểu tại sao doanh nghiệp Việt Nam đóng cửa lu bù, công nhân thất nghiệp, nạn trộm cướp hoành hành dữ dội, mại dâm từ chân dài thành thị đến con gái nhà quê mọc lên như cỏ hoang… và còn nhiều những hệ lụy khác làm băng hoại xã hội phát sinh từ những quy định thiếu thực tế, chỉ lo đến cái ngân sách của ngành mình, của cơ quan mình hơn là đời sống của dân. Các ông làm kinh tế vĩ mô, các nhà “siêu tiến sĩ” như bác Bảy Đại Ca đã “xưng tụng” bỏ quên mất đời sống của người dân sẽ chịu ảnh hưởng như thế nào. Hoặc là cố bám víu lấy một chỉ thị của cấp trên để thi hành máy móc theo kiểu “cố tình hiểu sai, hiểu lầm” nhanh chóng đưa ra những quyết định “bảo hoàng hơn vua”. Viện ra đủ lý do để móc túi dân cho nhanh.
Thí dụ “EVN công nhận năm 2012 lãi khoảng 3.500-4.000 tỉ đồng, nhưng vẫn phải tăng giá điện để bù các khoản lỗ trước đây”. Lỗ vì ngành điện lực sẵn tiền trong tay, mang đầu tư ngoài lãnh vực chuyên môn của mình như bất động sản, viễn thông, chứng khoán... để lỗ hơn 20.000 tỉ, lỗi này hoàn toàn do sự quản lý yếu kém của EVN. Đầu tư không đúng chức năng, làm thất thoát tài sản của nhà nước thì trách nhiệm trước hết thuộc về lãnh đạo EVN, phải bỏ tiền túi ra mà đền. Không thể bù các khoản lỗ bằng cách tăng giá điện, đánh vào người tiêu thụ, họ không có tội.
Theo một chuyên gia, giá điện đã có thể không gánh nhiều áp lực tăng như thế, nếu EVN quản lý tốt hơn, tiết giảm nhiều chi phí đầu vào cấu thành giá điện. Đặc biệt là tổn thất điện năng nhiều năm qua dù đã có yêu cầu phải giảm nhưng vẫn đứng ở mức cao (trên 9%). Theo vị này, chỉ cần giảm 1% tổn thất điện năng thì mỗi năm ngành điện đã tiết kiệm thêm được cả ngàn tỉ đồng. Đỡ khổ cho dân biết mấy.
Lại đến những chuyện bất hợp lý từ ngân hàng
Và cũng nhân “dịp đặc biệt” này, chỉ sau 1 ngày giá điện tăng, ông Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN), bèn ra ngay cái quyết định giảm lãi suất, trước hết là giảm đầu vào tức là giảm tiền lời của dân, bù đắp cho ngân hàng để giảm lãi suất cho doanh nghiệp vay. Cơ quan này thừa nhận tình hình doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, do sức mua của thị trường vẫn ở mức thấp, hàng tồn kho ở mức cao, khả năng hấp thụ vốn tín dụng ngân hàng hạn chế.
Việc giá tiêu dùng được kiềm chế ở mức thấp cũng là điều kiện để lãi suất tiếp tục giảm. Dự kiến cả năm nay, lạm phát chỉ tăng khoảng 7% so với năm ngoái.
Như vậy, đây là lần thứ 4 liên tiếp trần lãi suất tiền gửi VNĐ giảm, từ mốc 14% vào đầu năm. Các loại lãi suất điều hành khác còn được điều chỉnh với tần suất dày đặc hơn, mặc dù suốt 25 tháng qua, NHNN giữ nguyên lãi suất cơ bản 9% một năm.
Dự báo của các ông có tính đến việc tăng giá điện, mọi thứ sẽ tăng theo, lạm phát và tiêu dùng có còn giữ được mức đó không? Cho nên ông NHNH mới vội đưa ra quyết định giảm lãi suất cho “hợp thời trang”. Nếu để vài hôm, giá tăng đùng đùng mới đưa quyết định ra sẽ là bất hợp lý. Đúng là một quyết định khôn ngoan của các ngài làm kinh tế vĩ mô! Khôn hơn dân là cái chắc. Nhưng vẫn có những bất hợp lý không che giấu được.
Quýt làm cam chịu
Một bất hợp lý dễ thấy là những doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, làm ăn thua lỗ, sao lại bắt dân chịu? Thí dụ những doanh nghiệp, từ hàng chục năm trước đây, vay vốn ngân hàng kiểu “tay không bắt giặc”, mua 1m2 đất chỉ có vài trăm ngàn đồng, khi bán cả triệu đồng, lời hàng ngàn tỉ, dân được hưởng cái gì? Đến khi xây nhà, xây siêu thị, lại lời thêm một lần nữa, xây vài trăm triệu, bán cả chục tỉ, ai ăn? Dân được cái gì?
Thế mà khi nhà đất xây ra rồi để đó định kiếm lời vái trăm tỉ nữa, nhưng gặp lúc “đóng băng”, ế dài. Dân lại chịu đủ kiểu để “tháo gỡ” cho các “vua nhà đất”, nói chung là những “doanh nghiệp đang gặp khó khăn”. Khi ăn thì đại gia ăn hết, khi thua thì lấy tiền dân bù vào có hợp tình hợp lý không?
Còn ngân hàng khi cho các doanh nghiệp vay nặng lãi trên 20%, khi đó doanh nghiệp có ăn, trả lãi đầy đủ cho ngân hàng. Ai ăn? Khi vỡ lở ra, ngân hàng không định giá kỹ hoặc móc ngoặc với doanh nghiệp, cho doanh nghiệp không vốn hoặc ít vốn vay, bây giờ không đòi được nợ thành “nợ xấu”. Lỗi này hoàn toàn thuộc về ngân hàng, dân có tội gì? Ngân hàng có bổn phận phải tự cứu mình. Mang tiền dân ra “cứu nguy” lại là điều bất hợp lý khác nữa. Chung quy quýt làm cam chịu, người dân có tí tiền gửi tiết kiệm, thơm như quả cam đỏ hồng, bị “gí” mà không nói năng gì được.
Phần khác, khi viện dẫn lạm phát bao nhiêu phần trăm là tự các ông nói thôi, người dân hoàn toàn mù tịt, không thể biết lạm phát lên xuống ra sao. Theo suy luận giản dị của người dân, chỉ căn cứ vào giá cả cứ tăng, đời sống ngày một khó khăn hơn hay dễ thở hơn, đó là lạm phát tăng hay giảm. Cho nên người dân không khỏi bất bình về cách “áp đặt”này của NHNN. Ông NHNN đã căn cứ vào chỉ thị của chính phủ là phải hạ lãi suất, đó là điều ai cũng mong cho giá cả hạ nhiệt. Nhưng cách làm của NHNN là cứ cái gì “đè” được thì “đè” cho nó nhanh gọn, không có sáng kiến tìm ra giải pháp khác và không có lý lẽ thuyết phục.
Lúc này mọi việc đầu tư đều khó khăn, người dân chỉ có lựa chọn là gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Thôi thì nay hạ, mai hạ lãi suất, không kiếm được tí tiền lời như trước cũng gỡ được cái vốn không bị hao mòn vì đồng tiền mất giá. Ăn tiêu vào tiền lời gửi ngân hàng tức là ăn vào vốn của mình hay nói theo cách của người bình dân là mình cắn vào tay mình.
Ngay cả việc gửi tiền vào ngân hàng, có người cho rằng như thế cũng là “liều” vì chưa biết lúc nào ngân hàng có thể vỡ nợ. Họ tin vào sẽ không có ngân hàng nào vỡ nợ trong thời gian này cả vì nếu một ngân hàng vỡ nợ thì các ngân hàng khác cũng vỡ theo, nên ngân hàng phải cứu nhau. Nhưng đấy chỉ là niềm tin mỏng manh trong từng thời điểm mà thôi, ngày mai có thể khác, đó là nhận định của một chuyên gia kinh tế.
Bạn Van viết trên báo Thanh Niên ngày 23-12-2012: “Muốn nói gì thì nói, lạm pháp quá cao, cái gì cũng tăng. Từ điện, gas, nước, xăng, thực phẩm, thu phí cầu đường v.v. Tất cả đều tăng như ngựa phi, tiền đang mất giá. Ngân hàng trả lãi suất tiết kiệm quá thấp, người dân phải rút tiền tiết kiệm ra mua vàng, ngoại tệ để phòng thủ. Chứ biết làm sao bây giờ! Doanh nghiệp than, nhưng kiếm tiền rất bộn. Muốn mượn tiền với lãi suất thấp nhưng làm giàu rất mau. Chuyện kinh doanh là chuyện của họ, có dính dáng gì đến người dân mà phải hy sinh cho các đại gia này làm giàu. Cứ nghèo hoài cho họ giàu à!!!!”.
Nếu có một bất cứ một “kênh” nào gửi tiền có lời hơn 8%, họ sẽ rút tiền ra ngay. Thí dụ nhà đất ấm lên, có lời, người ta lập tức đầu tư vào chỗ khác, hơn là gửi ngân hàng nay ép mai ép. Lúc đó sợ ngân hàng không phản ứng kịp, tình hình sẽ ra sao?
Trong khi đó chẳng biết NHNN có kiểm soát được triệt để các ngân hàng cho doanh nghiệp vay đúng như quy định không và ngân hàng có “đi đêm”, lách lãi suất không? Điều này ông Thống Đốc NHNN biết hay không biết?
Còn một số quy định sẽ được áp dụng từ đầu năm 2013 đang làm người dân đau đầu. Tôi xin bàn đến vào những ngày đầu năm.
Xin chúc bạn đọc cùng gia quyến năm mới 2013 An Khang – Thịnh Vượng.
VQ–
Viết từ Sài Gòn
---------Kỳ này không có hình, xin gửi đến bạn đọc một chuyện vui cuối năm. Một chuyện rất Việt Nam, cam đoan không có ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
Muốn sống được phải liều con ạ
---------Kỳ này không có hình, xin gửi đến bạn đọc một chuyện vui cuối năm. Một chuyện rất Việt Nam, cam đoan không có ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
Muốn sống được phải liều con ạ
Gia đình nọ có hai đứa con trai lớn, đều sắp lấy vợ. Ông bố chỉ có một căn nhà mới mua, không biết cho con nào, bèn gọi hai đứa lại, bảo mỗi đứa kể một câu chuyện thật buồn cười. Đứa nào có chuyện kể hay nhất, sẽ được căn nhà đó.
Người con cả kể: Có một cán bộ kiểm tra chất lượng sản phẩm của nhà máy gạch lớn, mỗi ngày xuất xưởng hàng vạn viên, công việc nhiều, làm không xuể. May sao một hôm đang đi kiểm tra chất lượng một mẻ gạch xây tường mới ra lò, bị một viên gạch rơi trúng đầu. Anh ta sửng sốt khi thấy đầu anh ta không bị vỡ mà viên gạch bị vỡ tan. Từ đó, anh ta không dùng máy nữa mà dùng ngay đầu mình để kiểm tra chất lượng sản phẩm từng mẻ gạch cho nhanh. Nghe nói chất lượng sản phẩm của nhà máy gạch này kém hoài, nên đã một năm anh ta dùng đầu mình để kiểm tra chất lượng gạch, các viên gạch sản xuất ra đều bị vỡ mà đầu anh ta vẫn vô sự.
Nghe xong, ông bố cười hi hi.
Còn người con thứ hai kể: Mộtđập thủy điện có vốn đầu tư hơn hai trăm tỉ đồng đang được xây dựng ở Kon Tum dài tám mươi mét, thành bức tường bê tông của đập dày hơn một mét rưỡi. Để xây một con đập như vậy, lõi đập phải dùng xếp đá hộc, bơm vữa xi măng, đổ bê tông liên tục với mác 150 để chịu được tác động lực ngoại lai của công trình, đến xe tăng húc cũng không đổ. Nào ngờ, sau gần bốn năm xây dựng, sắp đưa vào sử dụng, có chiếc xe Ben chỉ tình cờ va quệt vào thành tường bê tông của đập đã làm cho sáu mươi mét thân đập bị đổ sập, vỡ vụn, nằm ngổn ngang dưới suối. Lạ hơn nữa là tường của đập bịsụp đổ hoàn toànmà chiếc xe Ben gây nên tai nạn chỉ bị "xây xát" nhẹ ở phần kính,tương tự như chuyện viên gạch rơi trúng đầu cán bộ kiểm tra chất lượng sản phẩm của nhà máy gạch thì vỡ tan, còn đầu người cán bộ ấy lại không việc gì mà anh con vừa kể. Kiểm tra hiện trường, hóa ra lõi thân đập bê tông họ làm đâu có như yêu cầu thiết kế mà chỉ được làm bằng đất, cát và đá cùng “lơ thơ” những khung sắt “gầy nhom”.
Nghe xong, ông bố ôm bụng cười sặc sụa, phán rằng:
- Câu chuyện thằng cả kể hay, nhưng là chuyện bịa như thật. Còn câu chuyện thằng út kể hay hơn vì đó là chuyện thật mà như bịa. Vì vậy, thằng hai được bố cho căn nhà mới mua. Đó là một căn nhà dành cho những người thu nhập thấp, nhưng bố cũng phải bỏ ra tất cả số tiền dành dụm bao năm mới có được đấy.
Nghe vậy, cậu con trai thứ hai sợ tái mặt, chắp tay vái bố không chịu nhận căn nhà bố vừa cho. Anh ta nói: Thưa bố, nhà của bố cho là quý, nhưng bố bạn con cũng vừa mua một căn nhà dành cho những người thu nhập thấp. Nhà vừa trao tay đã xuống cấp, tường bị ngấm nước ẩm ướt, bẩn thỉu. Lan can thì chắp nối sơ sài, mối hàn xiêu vẹo, sống mà luôn cảm thấy bất an. Gia đình của một anh bạn khác ở quê cũng được chính quyền đưa vào diện cấp cho một trong số hàng trăm căn nhà “vượt lũ” dành cho các gai đình dân nghèo tại địa phương nhưng không dám nhận, vì quá sợ khi thấy chỉ một cơn dông, đã có 24 căn nhà vừa làm xong và 5 căn nhà chưa lợp mái bị sập, do những kẻ xây dựng đã rút ruột công trình để tham nhũng. Vì vậy, bố có ép, con cũng chả nhận nhà bố cho đâu, nguy hiểm lắm, bố ạ!
Ông bố cau mặt, mắng:
- Không ngờ con tôi lại hèn thế. Thế bố hỏi con, báo chí luôn đăng đường này, đường kia vừa làm xong đã hỏng, có cầu vừa xây xong đã sập, nếu con sợ thì chả lẽ ru rú ở nhà không dám đi đâu sao? Báo chí cũng đưa tin trường học này, trường học nọ vừa xây xong đã hỏng, nếu con sợ không cho con của các con vào học thì đành để chúng thất học à? Thời nay, muốn sống được phải liều, con ạ.
(Chuyện kể của bạn Nguyễn Đoàn)
Monday, December 31, 2012
Linh Phương * Cuối Năm Suy Gẫm Chuyện Đời
Chuyện đời đôi khi suy gẫm cười ra nước mắt , nhất là những chuyện trong chốn giang hồ văn nghệ.Giang hồ luôn hiểm ác, tránh được cạm bẫy kẻ lòng lang dạ thú là một điều nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy thôi, thấy chuyện đời để răn mình sống sao cho tử tế mới là phải đạo. Nhân đây, tôi kể một câu chuyện để ai đang lầm lẫn, ai sẽ lầm lẫn nên khai tử một người đội lớp văn nghệ sĩ gạt gẫm đàn bà. Hãy vạch mặt chỉ tên anh ta trong câu chuyện dưới đây.
Sunday, December 30, 2012
Bùi Giáng * Bây Giờ
Trương Thìn * Ngôi làng xa xưa của tôi
Cha mẹ tôi nói nguồn cội của tôi ở núi Bạch Mã. Hai ông bà đi chơi núi về, mẹ có bầu và sinh ra tôi. Tôi cũng thích ý tưởng tôi có nguồn gốc Bạch Mã, tôi là con ngựa hoang màu mây trắng lang thang trên núi rừng nguyên sinh. Bạch Mã có suối đẹp, có nhiều loài chim tiếng hót vui tai, có nhiều loài hoa và có nhiều cây thuốc quý. Phải đến năm 16 tuổi tôi mới đạp xe cùng mấy bạn lên thăm Bạch Mã. Tôi đứng trên đỉnh cao. Phía sau lưng là trường sơn trùng điệp chờ mây, chờ những cơn mưa rừng. Phía trước mặt là biển đông sóng bạc đầu chờ nắng để bay lên. Phía trong lòng tôi thì không đơn giản như thế. Bạch Mã là con ngựa bay! Từ đỉnh núi bí ẩn này nó đang bay khắp mấy phương trời như một kẻ phiêu bạt. Bí ẩn gì nhỉ? Phiêu bạt về đâu? Tôi không thể trả lời được nên cứ đi mãi đi hoài.
Làng Bao Vinh của tôi là một ngôi làng nhỏ xíu bằng sải tay của tôi nhưng cả thế giới hội tụ trong đó. Tôi được ở bên dòng sông Hương, dòng sông này là dòng sông thời thơ ấu của tôi. Hàng ngày, cậu bé bốn năm tuổi đã biết ngắm dòng sông lấp lánh nắng trưa và nghe tiếng gõ chèo đuổi cá của những thuyền chài. Đêm đến nó ngắm trăng trên các đọt dừa rồi trăng tắm nước sông Hương làm sóng nước nhấp nhô vàng óng. Nó thích dòng Hương êm đềm trôi, nó càng thích hơn khi mưa đổ lớn, nước sông Hương đục màu, con đường làng ngập lụt để nó có dịp ngắm bèo trôi và lội nước!
Làng tôi là một bến cảng, thời đó nhiều ghe tàu rất lớn từ trong Quảng Nam, Quảng Ngãi chở muối ra bán. Thằng bé bốn năm tuổi rất thích leo lên mấy chiếc ghe đó, chạy nhảy từ đầu này đến đầu kia và luôn tưởng tượng những chuyến đi xa. Cậu bé không thể quên được hơi muối mặn trong các khoang thuyền. Cậu bé không thể quên được thú vui được lắc thúng làm dậy sóng và thúng lướt nhanh về phía trước.
Trước đó từ lâu đã có những con thuyền tới đây và vĩnh viễn thả neo ở đây, nên bên cạnh làng tôi có làng Minh Hương. Những người gốc Hoa từ lâu đã trở thành người Việt. Trong làng Minh Hương có dòng họ Trần nổi tiếng Trần Tiễn Thành là quan đại thần nhà Nguyễn và có thầy châm cứu nổi tiếng Trần Tiễn Hy. Cậu bé bốn năm tuổi đó đã nghe người lớn nói nhiều lần về cụ Trần Tiễn Hy châm cứu. Chữ châm cứu đã gieo vào đầu nó một cách mơ hồ. Mãi đến hai mươi năm sau tôi mới gặp vị thầy vốn thân thương đó và đến trên sáu mươi năm sau tôi mới biết tôi đã được gieo mầm châm cứu từ ngôi làng xa xưa của tôi.
Trong làng tôi lại có một tiệm thuốc bắc. Cậu bé bốn năm tuổi đó rong chơi từ đầu làng đến cuối làng và dường như ngày nào cậu cũng ghé qua tiệm thuốc bắc để ngồi xem bào chế thuốc. Ông cụ chủ tiệm là một người Hoa qua đây lâu đời. Ông cụ rất hiền lành, rất dễ thương. Cái làm cho cậu bé thích nhất, suốt đời còn nhớ là hai bàn tay của cụ bào thuốc. Cụ chăm chút ngâm thuốc, cụ cầm từng củ thuốc một cách trân trọng và những ngón tay rất nhẹ nhàng, rất lả lướt trên bàn thái. Cụ đã gieo cho thằng nhỏ một ấn tượng rất đẹp về ông thầy Đông y. Dĩ nhiên, tôi chẳng bao giờ quên những lát cam thảo, những quả táo cụ dành cho. Phải chăng vị ấy là người thầy đông y đầu tiên của tôi? Ngoài là một bác sĩ tây y tôi còn là một đông y sĩ. Tôi học đông y như để về nguồn của thời thơ ấu. Tôi đi mãi, đi hoài trên 60 năm vẫn chưa tới nguồn xưa, vẫn chưa thấy bàn tay nào đẹp bằng bàn tay của ông cụ ngày ấy!
Gần bên cạnh nhà tôi lại có một nhà bán vải của người Ấn Độ. Những người Ấn này từ đất nước xa lắm qua đây buôn bán làm ăn. Họ có lối sống rất lặng lẽ, rất ít nói. Nhưng thằng bé nhìn y phục đặc biệt của họ, nhìn đôi mắt hiền lành mà bí ẩn của họ đã có ấn tượng sâu sắc về người Ấn.
Mấy mươi năm sau này, ở Bangkok, tôi có thấy một người đàn bà Ấn Độ trong một công viên nước. Cô ta đẹp một cách lạ lùng, đẹp làm cho tôi bủn rủn tay chân, làm cho tôi mê mẩn nhìn, làm cho tôi biết sự quyến rũ mãnh liệt của sắc đẹp là như thế nào!
Tôi lại có dịp qua Ấn độ. Tôi lại có dịp hiểu chiều sâu tâm linh của họ mà tôi đã cảm nhận mơ hồ từ thời thơ ấu. Có người lại dặn dò tôi đừng có say mê sắc đẹp. Đó là ông Phật. A! Ông Phật là người Ấn Độ! Từ thời thơ ấu, tôi đã thấy ông Phật hàng ngày. Ông Phật chỉ lặng lẽ mỉm cười bởi ông chỉ có thể như thế thôi đối với đứa bé bốn năm tuổi! Năm sáu mươi năm sau tôi vẫn chỉ thấy như thế thôi. Vẫn lặng lẽ mỉm cười.
Rồi người Pháp cũng tới làng tôi. Tôi thấy họ cầm súng dài uy hiếp những người trên ghe đò trước chợ Bao Vinh. Tôi lại nghe lính tây hãm hiếp phụ nữ ở các làng quê. Thằng bé bốn năm tuổi ấy đã biết đau lòng, đã biết bất mãn. Đau lòng hơn nữa, bất mãn hơn nữa khi anh cả của tôi bị mật thám bắt bớ đánh đập. Mẹ tôi khóc không biết bao nhiêu mà kể. Bà tìm mọi cách để xin con về. Hôm anh cả tôi được tha về, tôi thấy dây thép trói siết vào tay anh nay còn dấu hằn sâu. Năm tôi bảy tuổi, anh tôi bỏ nhà đi vào chiến khu. Khi đó, anh tôi trở thành thần tượng của tôi. Anh tôi đi làm cách mạng! Anh tôi đã tham gia cái gì đó rất tốt, rất hay, chống lại những người gây bao đau thương! Vậy là tôi theo phe anh tôi. Thằng bé bảy tám tuổi bắt đầu làm cách mạng! Tôi tưởng tượng thế nào là cách mạng và tôi lớn lên, tôi hành động theo sự tưởng tượng đó cho đến 30 năm sau. Vâng, tôi tưởng tượng anh tôi là thế này thế này, cách mạng là thế này thế này, tôi say sưa sống như thế ấy và khi đất nước thống nhất, tôi ngồi ráp hình ảnh thật của anh tôi với hình ảnh tưởng tượng của tôi sao không giống nhau! Hình ảnh cách mạng thật và cách mạng tưởng tượng của tôi sao không giống nhau!
Anh cả của tôi là người học rộng. Khi đi, anh để lại một khối sách tiếng Pháp mà tôi chỉ biết coi hình mà thôi. Cuốn nào cuốn nấy đều rất dày và có lẽ hay lắm. Cuốn sách nào cũng có chữ ký của anh và tên người yêu. Sau này tôi đem một cuốn cho thầy giáo Cao Hữu Triêm, thầy vui quá, thầy mừng quá, thầy cho tôi ngay mười điểm! Suốt đời tôi, đó lần duy nhất tôi được mười điểm!
Anh tôi để lại nhà một cây accordeon, một chiếc harmonica. Anh tôi để lại một tâm hồn lãng tử. Từ đó tôi mày mò thổi kèn và kéo lung tung cây phong cầm và lắng nghe tiếng nhạc bất ngờ nổi lên. Cây kèn, cây đàn dường như chỉ là cái cớ còn âm nhạc là tự trong sự mơ mộng là tự trong sự tưởng tượng của tôi. Đến tuổi sáu mươi, bảy mươi tôi vẫn chơi nhạc như thời trẻ con ở ngôi làng xa xưa đó. Tôi ít thích hát nhạc của bất cứ nhạc sĩ nào bởi một lý do, đó không phải là nhạc từ trong tôi.
Chị tôi thường dẫn tôi lên phố, tôi có dịp thưởng thức tiếng nhạc của đội kèn đồng và có khi tôi lén nhìn qua bức rèm để thấy các ông tây đang ôm các cô gái ẻo lả xoay tít trong tiếng nhạc khiêu vũ. Khi về nhà thằng bé bắt chước cả đội kèn đồng, nó làm nhạc trưởng vung cây gậy tọ tè ti ti rất oai vệ. Rồi nó tưởng tượng ôm eo các cô gái ẻo lả nhảy xoay tít theo điệu luân vũ. Tạ tà ta ta. Tạ tạ tà ta ta …
Tôi có hai chị, chị Mão thường bế bồng tôi. Mẹ tôi đi buôn ngoài chợ. Chị thay mẹ cho tôi ăn uống, cho tôi đi chơi. Đến chiều tối mẹ về, mẹ cho thằng Đá em bú sữa. Mẹ cười nói đã trên hai tuổi rồi mà vẫn còn đeo vú mẹ. Dường như mẹ thương em hơn thương tôi vì mẹ thường đánh đập tôi mà chẳng hề đánh đập thằng út. Chị Mão và chị Hợi đều rất dễ thương. Sau này cả thời tiểu học, trung học, đại học của tôi đều có bàn tay nuôi dạy của vợ chồng anh chị tôi. Thậm chí khi tôi đã có gia đình rồi, chúng tôi vẫn có duyên được ở nơi ngôi nhà của anh chị.
Ông nội chú của tôi là bác sĩ Trương Xuớng. Đôi khi tôi lên bệnh viện ở trong thành nội để thăm ông. Ông tôi hiền khô với nụ cười hiền khô! Sau này tôi có nghe nói ông muốn tôi kế nghiệp ông. Ông để lại cho tôi ấn tượng gia đình mình thuộc giới có học thức và có truyền thống tu hành. Ông tôi thanh cao lắm, cho đến khi tôi là một bác sĩ già mà vẫn chưa đạt đến phong thái như vậy!
Rồi lính Nhật đổ về ngôi làng của tôi! Họ để lại rất nhiều đồ sành sứ rất đẹp. Rồi bỗng họ tan biến! Tôi nghe Nhật đầu hàng!
Rồi lính Tàu ô lại đổ về ngôi làng của tôi. Họ để lại cho tôi ấn tượng của một đoàn quân ô tạp tới xâm chiếm sự bình an của làng tôi. Rồi bỗng nhiên họ biến đâu mất.
Đó là lúc tôi mới được năm tuổi. Tôi sinh năm 1940, ngày độc lập là 1945. Vậy là lúc đó tôi mới năm tuổi! Một hôm cậu bé năm tuổi đó đi theo đoàn người lên phố, vào thành nội, tới cột cờ trước cổng ngọ môn. Cậu bé len lỏi một mình về phía trước ngàn người để xem vua Bảo Đại thoái vị! Tôi quá nhỏ để biết vua Bảo Đại oai nghiêm như thế nào mà theo mẹ tôi kể thì cha mẹ tôi cũng như mọi người khác phải cúi rạp xuống đất không dám nhìn lên! Sự kiện đó đã gây cho thằng bé năm tuổi một căn bệnh rất lạ kéo dài suốt cả cuộc đời. Đó là không muốn gặp người có địa vị xã hội cao hơn tôi, đặc biệt không bao giờ tôi muốn gặp các ông lớn bà lớn. Cái mầm bệnh khúm núm di truyền từ cha mẹ tôi sẽ tái phát, sẽ làm cho tôi cúi rạp đầu xuống đất không dám nhìn lên! Thằng bé năm tuổi đã có ý muốn đi tìm một cõi khác. Và suốt đời nó đã sống trong cõi riêng của nó dù là đã năm mươi, sáu mươi, bảy mươi …
Dường như ít lâu sau tôi được đi học ở trường tiểu học Hương Trà. Tôi còn nhớ lần đầu tiên tôi dự lễ chào cờ. Tôi nắm bàn tay để ngang tai, nghiêm trang nhìn lá cờ đỏ sao vàng từ từ được kéo lên trong tiếng quốc ca. Chỉ mấy ngày sau, sân trường không còn lá cờ đỏ sao vàng ấy nữa! Nhưng chừng đó cũng dể lại trong tôi nhiều ấn tượng lạ thường. Lẽ ra khi nghe quốc ca, thằng bé năm tuổi đó hân hoan vui sướng thì nó lại sờ sợ thế nào ấy vì bài hát đầy máu, đầy hận thù. Suốt đời tôi không thuộc và không thích hát quốc ca đó, thậm chí bốn năm mươi năm sau tôi có cơ hội gặp gỡ nhạc sĩ Văn Cao tôi vẫn sợ và không muốn gặp!
Trước tôi, mẹ tôi sinh hai con trai, cả hai đều chết vì bệnh tật. Mẹ tôi sợ quá nên đặt tên tôi là Đá. Tôi là Đá anh còn em tôi là Đá em. Đá là sỏi đá tầm thường để ma quỷ không đặt ý tới! Mẹ tôi bảo tôi gọi cha tôi bằng chú làm như thằng bé nầy không có cha. Chưa đủ! Mẹ tôi còn bán tôi cho ông thợ rèn ở đâu dưới biển, tôi gọi ông bằng bọ một cách ngượng ngùng! Đó là cách cứu con của mẹ tôi!
Thằng bé bốn năm tuổi của tôi thích lang thang một mình trong ngôi làng nhỏ bé đó. Nó mơ mộng nhìn mây trời vẽ hình, khi thì con chim, khi thì con chó, khi thì con rồng bay. Nó ngạc nhiên thích thú cách trời vẽ tranh. Nó đã bắt đầu học vẽ tranh từ đó!
Câu chuyện tôi kể như thế là cách đây trên sáu mươi lăm năm! Trong chừng ấy năm tôi đi tìm lại thời thơ ấu thơ mộng xa xưa của tôi. Tôi đã lang thang nhiều cảng để tìm lại bến ghe đò ngày xưa! Tôi đã vẽ tranh ngẫu hứng bừng cảm như mây trời ngày xưa! Tôi thổi saxophone, harmonica để được phiêu lãng như ngày xưa! Tôi lặng lẽ mỉm cười như ông Phật ngày xưa! Tôi làm bác sĩ như ông tôi ngày xưa! Tôi làm lương y bốc thuốc như lão y bào chế thuốc ngày xưa! Hành trình của tôi là quay trở về ngôi làng kỷ niệm xa xưa đó. Tôi đã đi mãi đi hoài suốt đời chưa tới nơi!
Nhưng không phải đơn giản như thế! Cũng từ cái thời thơ ấu ở ngôi làng xa xôi đó, sau này tôi có khát vọng rất dị thường. Đó là muốn có những cô gái ở nhiều nước tỏ lòng kính mến tôi, yêu tôi, khổ vì tôi. Đó là một bí mật! Bởi tôi không phải là người ham mê sắc đẹp thậm chí sợ sắc đẹp, dị ứng với sắc đẹp, vậy thì tại sao? Những người yêu đó đã chữa lành những vết thương của tôi thời thơ ấu nơi ngôi làng xa xôi ấy. Đó là những người yêu rất đáng yêu, rất đáng thương. Có người dường như không phải yêu tôi mà yêu tuổi thơ của tôi, không tìm tôi mà cứ mãi một mình đi tìm dấu chân tôi khắp thành phố cổ, dọc theo dòng Hương, trên những đỉnh núi, dưới những cơn mưa tầm tã, hay ở đâu đó nơi ngôi làng xa xưa của tôi và có khi nàng khóc như mưa vì tìm đâu chẳng thấy! Một ngày nào đó, nhà tôi và các con cháu, nhờ đã đọc những trang ngôi làng xa xưa này, sẽ gặp sẽ nhìn những người từng yêu tôi như những người thân yêu.
Mà dường như tôi không kể hết được dấu chân của con ngựa trắng từ đỉnh núi Bạch Mã lướt quanh ngôi làng xa xưa đó rồi bay qua bao nhiêu cõi trong đời. Mà dường như ngôi làng xa xưa ấy là tôi. Mà dường như biết ngôi làng xa xưa ấy là có thể biết tôi thế nào. Cách đây trên bốn mươi năm tôi đã từng kể cho người tôi yêu về ngôi làng xa xưa đó. Tôi tỏ tình bằng cách tặng nàng cả một thời thơ ấu của tôi. Bỗng dưng nàng khóc, khóc nhiều lắm, khóc một cách sung sướng rồi quyết định theo tôi suốt đời! Tôi là ngựa trắng, còn nàng là ngựa hồng, bay trên đỉnh núi Bạch Mã, bay lên trời cao nhìn khắp bốn phương trời, xa xa có ngôi làng xa xưa thân yêu của tôi!
Trương Thìn
Trần Vấn Lệ * Ước Chi Ngoài Nội
|
2012
Trần Hoài Thư * Diều hâu bỏ núi
Tiếng nổ cạch cạch dội vào vách đá vọng lại như những tiếng báo động dây chuyền. Máy đã bắt được liên lạc với các đứa con bên kia phần đất chết. Giọng nói của người đại đội trưởng địa phương quân nghẹn ngào:”Các đứa con tôi chỉ chờ ngày này. Hôm nay đúng mười ngày”.
Từ bên này nhìn sang bên kia, chúng tôi chỉ còn nhận ra một bãi chiến địa hoang tàn. Mùi thúi bay về đến lợm mửa. Ngôi giáo đường cao nhất thị trấn giờ chỉ còn trơ vơ tháp chuông đen sậm lở loét. Chỉ còn cái căn cứ trên ngọn đồi thấp mới còn thấy thấp thoáng lá cờ vàng. Cô độc và heo hút. Từ xa, chúng tôi đã thấy nó như chạm phải mây, thách thức ngạo nghễ.
Suốt cả tuần, trận đánh vẫn chưa ngã ngũ. Hết đơn vị này tiếp đến đơn vị khác bị khựng lại khi tìm cách tiến qua mặc dù trước đó bom pháo dọn đường đã trút xuống như mưa thác. Những hang đá chằng chịt và kiên cố ở sườn đồi, nhìn xuống con lộ dẫn vào sâu trong rừng đã khiến những cơn mưa bom, và đạn pháo binh phải chịu thua. Và đơn vị đã phải quay lui. Cuối cùng cấp trên điều động đơn vị chúng tôi đến mặt trận. Họ đã hiểu chiến thuật trận địa chiến phải bó tay trước những tên địch ngoan cố, xâm mình. Không dễ gì phải tấn công một cao điểm khi phải bò lên giữa một triền núi trống trải trước những họng súng đại liên đã chực sẵn. Và chỉ còn cách là dùng chiến thuật dạ kích. Chỉ có cách đó mới may ra làm câm họng những ổ súng tàn bạo. Người lính bây giờ là người lính cảm tử. Trước hết hắn phải cố làm sao để nhận rõ nơi trú ẩn của địch, phải gắng định hướng chổ đặt khẩu súng nặng bằng cách nghe tràng nổ cũng như nhìn tia đạn lửa đến từ đâu, sau đó dùng máy hồng ngoại tuyến, tìm mọi cách bò đến, lao vào, quăng lựu đạn tiêu diệt…
Đêm nay chúng tôi lại thêm một lần nữa, mặc đồ đen, ngậm dao găm, bọc đầy lựu đạn loại lân tinh. Tổ trưởng còn mang theo ống nhắm hồng ngoại tuyến. Giờ G là 3 giờ sáng. Theo kinh nghiệm chiến trường, khoảng thời gian này là khoảng lý tưởng nhất cho cuộc làm ăn đêm. Bởi lẽ bất cứ thằng lính nào cũng đã thấm mệt hay cũng đang mơ màng giấc ngủ. Và mật lệnh cho chúng tôi là hỏi Thần điểu đáp Kình Ngư.
Dĩ nhiên tôi để trung sĩ Thành làm tổ trưởng tiền sát gồm hạ sĩ Nga, hạ sĩ Y Mông và hạ sĩ Phát. Hắn gan lỳ và dữ tợn. Càng nguy hiểm chừng nào, hắn lại càng say mê, phấn khích chừng nấy.
Tôi xiết chặt tay hắn, và hắn cũng xiết chặt tay tôi như chuyền cho nhau sức mạnh. Hắn thầm thì, giọng ngạt mùi rượu đế: Có gì thì nhờ ông thầy giúp đỡ con vợ tôi. Tôi cảm động đến rưng nước mắt. Tôi biết phải an ủi làm sao để hắn cảm thấy tự tin hơn. Mục tiêu không phải dễ gì thanh toán khi kẻ địch có lợi điểm hơn chúng tôi, và nhất là họ đang cố sức bảo vệ cây súng nặng. Tôi nói nhỏ: Đừng nói bậy không nên…
Tôi dẫn một tiểu đội bò lên hướng trái, và trung sĩ nhất Tông, trung đội phó, lãnh một tiểu đội bò lên hướng phải. Chúng tôi không gặp trở ngại nào khi bò qua bãi đất trống trước khi lên đồi. Chúng tôi phải dồn cục nhau. Hạ sĩ nhất Bảy bò đầu. Tôi bò theo hắn, vừa bò vừa quan sát bằng ống nhắm hồng ngoại tuyến. Trên lưng áo mỗi đứa có dấu hiệu lân tinh rất nhỏ để chúng tôi có thể dễ dàng nhận ra nhau. Qua máy nhắm, tôi có thể nhìn thấy mấy bóng đen của toán tiền sát đang lom khom vừa bò vừa chạy.
Bỗng nhiên, một tiếng nổ long trời lở đất nổi dậy, và sau đó là những tràng đạn tiểu liên, đại liên cắt xé màn đêm. Rõ ràng địch đã phát hiện chúng tôi. Tuy nhiên họ dường như không thể biết chúng tôi ở đâu. Chỉ có kẻ lợi là chúng tôi. Bởi vì chúng tôi có thể biết hang đá nào địch đang trú ẩn. Chúng tôi chỉ việc bò đến và quăng lựu đạn xuống hang đá.
Địch không mạnh như chúng tôi tưởng. Chúng tôi đã dễ dàng làm câm ổ súng nặng ngay đêm hôm ấy. Để đổi lại, trung đội phải chịu thiệt trung sĩ Thành, người hạ sĩ quan gan dạ nhất của đại đội. May mắn, hắn vẫn không chết, dù cả người hắn bị banh tơi tả do từ những trái lựu đạn mà địch đã gài trên lối dẫn đến hang đá. Hắn đã dọn đường cho những người lính cảm tử khác tiến lên để tiêu diệt ổ súng.
Đến xế trưa, các đơn vị hành quân mới thật sự giải cứu được căn cứ. Những người lính địa phương quân từ những công sự ào ra ôm lấy chúng tôi mà mừng tủi. Họ như những người tiền sử, tóc râu che phủ cả mặt, chừa lộ đôi mắt trủng sâu. Họ xin chúng tôi lương khô và nước. Họ vồ chụp từng bao gạo sấy. Có người đi không vững. Có người vừa hút thuốc chúng tôi mời vừa kể lại chuyện chiến trường. Tôi không thể hiểu sức mạnh nào đã khiến họ đứng vững giữa trùng vây như thế, trong khi bộ binh chúng tôi phải khó khăn lắm mới chiếm được mục tiêu mặc dù được phi pháo yểm trợ hết mình.
Giữa lúc ấy tín hiệu bay đến. Nó đến sau khi chúng tôi được tin Mặt Trời sẽ bay đến thị sát chiến trường và gắn huy chương. Cái lệnh được ban từ một trung tâm hành quân nào đó ở rất xa, nghẹn ngào và hối hả xen giữa muôn ngàn âm thanh đàm thoại hổn loạn trong máy khuếch đại, đầy tiếng chửi thề, những lời phẫn uất, những câu hỏi mà không có câu trả lời, những tuyệt vọng nghẹn ngào…Thật sự không ai có thể hiểu. Có lẽ chỉ trừ ông đại đội trưởng. Bởi vì ông bỏ máy ngồi yên như một pho tượng. Đầu bên kia, giọng nói uất nghẹn: Tôi là thiếu úy Minh, sĩ quan trực trung tâm hành quân. Tôi cũng như thẩm quyền, không còn biết ai để xin lệnh nữa. Người ta đã bỏ chạy hết cả rồi. Trong khi ấy ở dưới chân đồi, trên con lộ đã xuất hiện đoàn xe cộ di tản. Tin cho biết Sài Gòn đã ra lệnh bỏ cao nguyên.
Thôi còn gì để mà đánh đấm. Chỉ còn những khẩu súng M16, M60, và lưa thưa những trái lựa đạn còn sót lại. Tôi đợi ông đại đội trưởng để nhận chỉ thị. Chỉ thị gì. Người ta đã bỏ chạy hết cả rồi. Ông nói. Mặt ông đầy những vết sước rịn máu. Sợi dây ba chạc vẫn còn lủng lẳng bi đông nước và khẩu súng colt. Tôi hiểu là lòng ông cũng đứt đoạn. Vợ con ông vẫn còn kẹt ở trong thành phố. Ông họp đại đội còn lại. Trung úy đại đội phó đã tử trận trong một trận đánh cách đây không lâu, nên thiếu úy Hà thay quyền xử lý, trình diện hàng quân trước mặt ông. Giọng nói của thiếu úy Hà như nghẹn trong cổ họng. Đại đội đã tập họp xong, trình diện đại úy. Rồi anh ôm lấy mặt, nức nở. Ông đại đội trưởng chào tay lại. Cả hàng quân đứng im phăng phắc. Những võng mô mất hết màu sinh khí. Những chiếc mũ rừng chụp lên những đầu tóc rối bù. Những chiếc quần trận mà bụi và đất đã lấy đi hết cả màu xanh, rách toạc lộ cả vãi quần lót…Trời đã trở chiều. Nắng còn sót lại làm thắm vàng cả cánh rừng bên cạnh. Ông nói kể từ giờ phút này anh em có quyền ra đi. Trước khi chia tay, xin anh em hãy cùng tôi đứng nghiêm một phút mặc niệm cho những người bạn của chúng ta đã bỏ mình. Rồi ông hô nghiêm, buồn bã. Chúng tôi cùng cúi đầu. Có những giọt nước mắt lăn trên má khô cằn, hóp sâu, bơ phờ của người lính già. Có những giọt lệ vẫn còn long lanh trên tròng con ngươi thất thần, đục lờ vì những đêm ngày căng thẳng trong lòng hỏa ngục. Có giọt lệ chưa kịp lăn, lại thêm những giọt lệ khác trào ra. Có thằng lính trẻ khóc tức tưởi khiến người lính già phải la lên: Mày làm như con nít lên ba. Làm sao tao gả con gái tao cho mày được.
Chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy buồn đến độ tê tái, héo úa cả ruột gan như lúc này. Súng vẫn nổ. Tiếng pháo vẫn vang dội ì ầm từ xa… Những cuộn khói vẫn còn bốc lên trên căn cứ. Những người bị thương vẫn rên rĩ. Mắt ai quay lại nhìn về hướng xa, mờ lệ. Lần đầu tiên tôi mới hiểu thế nào là nỗi mất mát. Chắc là không bao giờ tôi được cơ hội trở lại thành phố ấy nữa. Chắc là không bao giờ tôi còn trở về để ngồi trong quán cà phê có cô nàng đôi mắt rờn rợn liêu trai nữa. Mất rồi. Sự thật đến độ thật kỳ cục. Mới ngày nào, chừng như tuần trước, chúng tôi còn lái xe díp trở về, tôi còn ghé vào một động giang hồ, còn ngồi bỏ chân trên bàn cà phê nhìn thiên hạ, còn đêm say rượu trở về hậu cứ nhìn mấy thằng lính nhậu thịt nai với rượu đế, để chúng bắt cóc thêm một lần nữa. Bây giờ, thầy trò thi nhau mà chạy. Tướng cũng cuốn cờ, mà quân cũng cuốn vó. Lúc này là lúc tôi muốn bỏ tất cả. Tôi đã không còn đủ sức để gánh thêm cái trách nhiệm này nữa. Tội này ai gây nên. Lịch sử này ai gánh chịu. Những người lính của tôi, họ ít học, người gốc nông dân, người gốc Thượng, gốc Nùng, người bị bắt đi quân dịch, họ đâu có tội gì để gánh cái khối đá tảng của lịch sử. Những người có trách nhiệm bây giờ ở đâu, sao máy thì bặt tăm không một lời thăm hỏi. Hay họ đã chạy trốn rồi.
Sau đó chúng tôi vất súng cởi bỏ bộ đồng
phục và mạnh ai nấy tan hàng. Riêng tôi thì không biết đi đâu nữa. Mặt
trời cũng sắp lặn.
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH - Lần Theo Mộng Ảo Mà Về...
Tranh Đinh Cường |
Về, là về lại một nơi mình đã chia xa, một chốn cũ, nơi mình được ngồi yên lặng để bầu thân thuộc chuyền lại cho mình những dưỡng chất đã tiêu hao theo những dặm dài, để được nhìn thấy mình cùng không khí ấy mới mẻ thế nào, cũ kỹ ra sao. Hẳn sẽ là bước về nôn nao hối hả.
Về, là về cõi thời gian, một dòng chảy mơ không bờ bến, nếu không dành tâm tới lui với nó, khuấy lên hiện tiền một tiếng gọi, vén chút mù sương của ký ức, dợm một bước những phút giây sẽ tới, thì dòng chảy ấy sẽ hư vô. Nên bước về như thước phim quay chậm.
Và sẽ chập chùng trên đó những bước chân của xác phàm lẫn bước chân của cảm xúc.
Nơi chốn ấy là Sài Gòn, thời gian ấy là Sài Gòn. Vâng, Sài Gòn.
Dạo tôi còn học lớp ESL tại Santa Ana College, thầy Lewis cho viết một bài luận văn tự do, tôi đã viết về Sài Gòn, với những quán ăn khuya và mưa đêm, nhân lúc nói chuyện ngoài giờ học, thầy nói một ngày nào ông sẽ đi Sài Gòn để thưởng thức trời mưa trong không khí ăn đêm. Tôi đã phải nói rõ thêm với ông rằng, Sài Gòn đã là tên xưa, và tại sao nó trở thành tên xưa. Điều này làm tôi xót như động phải vết thương, vì cái tên ấy nó đã là một phần của thân thể ký ức tôi, là một dòng chảy cảm xúc trong huyết quản tôi.
Những nốt nhạc ký ức tôi gảy lên hôm nay, ước sao là một tiếng đàn hòa trong bản giao hưởng hồi ức của những tâm hồn đồng điệu, một thời, như tôi, lớn lên từ lòng con phố mang một tên đã thành xưa này. Đó là âm những con chữ cho tôi lần về, và bạn thân ơi, dường như tôi chỉ đang quyến luyến nơi này qua đường tơ kỷ niệm.
…Tôi bước lên những bậc thềm mịn rêu, bước chậm, sợ mình sẽ bị trượt ra sau, cái ngã ngửa chẳng khác nào cái rớt xuống trần gian đầy ngỡ ngàng của hai chàng Lưu Nguyễn. Tôi chưa muốn thế, tôi đang muốn sống cõi phi thực kia với từng rung động e dè chậm chậm, để nghe chạm vào cánh cổng đã hoen rỉ tháng năm, và dù nhẹ nhàng đến thế nào cũng sẽ ghê răng bởi tiếng rít của một cánh cửa lâu ngày không mở. Hồi hộp, nên tim tôi đập khác thường.
Ngôi nhà ba mẹ tôi ngày trước, có hàng tràm bông vàng bên vệ đường, tới mùa hoa gieo phấn thì bụi vàng xác hoa li ti đầy trước ngõ, nếu tôi bắt chước thiền sư Cảnh Sầm theo cánh hoa rụng mà về (Hựu trục lạc hoa hồi) thì hẳn không thể nào tới được nhà, vì hàng cây giờ đã không còn. Đây là nơi tôi đã mong mỏi bao năm để trở về. Thật ra, tôi đã biết ngôi nhà đã khác hẳn ngày xưa lúc còn là biệt thự nhỏ, tường sần sùi màu tím hồng ẩn hiện sau rặng trúc, tàng mận và hoa hồng tầm xuân lòa xòa trước cổng, nhưng sao lòng vẫn nhói lên khi nhìn nó bây giờ, lồ lộ phô những cửa kiếng ra mặt đường, và cũng chỉ còn non một nửa căn. Tôi đứng yên trước cổng, nếu có bấm chuông thì cũng sẽ không còn ai mở cửa, tần ngần cầm chiếc chìa khóa, tôi mở, tiếng lách cách nghe lạ như lâu lắm chưa từng. Từ ngày ba tôi mất, từ ngày mẹ tôi rời khỏi đây, nhà không ai ở, tôi nhìn những đốm sáng chập chờn trên chiếc ghế dài, lòng bỗng như một vạt nắng xa vắng, cũng may là Hương, cô em dâu, đã qua lau chùi trước chứ nếu bây giờ tôi nhìn thấy lớp bụi đóng trên bàn ghế nữa thì chắc tâm hồn tôi sẽ bị niêm phong luôn với nỗi cô quạnh. Tôi đi thẳng lên lầu hai nơi có bàn thờ ba tôi, mùi gỗ của cầu thang như có mùi mưa, tôi nhìn ba tôi, một chút sờ sợ, không biết vì sao, có lẽ tại âm dương nghìn trùng trong căn phòng thờ im lặng, tôi đặt tay lên hình ba tôi, ba ơi, con về với ba đây. Anh Khải dặn tôi phải thắp nhang, nhưng chắc gì đường đi của khói lay động được ba tôi hơn hơi ấm của bàn tay?
Phất phơ màu áo lụa mỡ gà bộ bà ba xô dạt tôi, A, tôi biết rồi, tôi đã theo màu áo này mà về.
Màu áo tôi không quên ba tôi mặc tối hôm ấy. Buổi tối, như vậy thôi, đừng nhớ thêm gì nữa về thời gian, một toán lính xông vào nhà tôi như một trận bão, túa lên những phòng và dồn 8 người gia đình tôi xuống phòng khách. Một tờ giấy được dơ lên, một lời được đọc, đêm đóng lại theo từng bước chân của mỗi người được gọi lên phòng của mình. Tôi không biết ba mẹ và các em của tôi ra sao, riêng tôi khi lên phòng mình, có hai người lính, tôi thấy sách vở, đồ đạc, những lá thư của người yêu tôi trộn nháo nhào trên sàn. Tội tôi bị buộc nơi phòng mình những là Tagore, Mozart, Khánh Ly, Lệ Thu… tất cả bị tóm lại trong một cái bao lớn, cùng với những lời rất lạ tai, phản động, đồi trụy… Tôi phản xạ giựt lại băng nhạc Mozart, vì tôi chợt nghĩ sao Mozart lại là điều có thể bị tịch thu, người lính hất tôi ra, mất thăng bằng tôi ngã đập vào thành giường, cú đau điếng khiến tôi biết rằng phải im lặng.Tất cả phòng đều bị niêm phong, tôi đã vội lấy được một lá thư của người yêu nhét vào ngực áo như muốn tìm một sức mạnh, nhưng nó lại làm tôi ứa lệ. Có ai nghe tiếng một chùm chìa khóa quăng mạnh xuống mặt bàn gỗ như thế nào không, có thể không là gì nhưng đêm đó âm thanh ấy đã làm cả nhà tôi giật nẩy người. Đó là chùm khóa nhà. Và sau đó là tiếng cách cách của những chiếc còng tay. Ba tôi đi, hai em trai tôi đi, bước lên một cái xe bít bùng. Họ đang bước vào bóng tối. Cùng đi là tất cả sách vở trong nhà. Còn lại mẹ và chị em tôi, 5 người, co cụm nơi phòng khách, nơi có để hai cái chiếu và một cái màn. Ở ngoài cổng có hai người lính gác. Mẹ và tôi nắm tay nhau, tôi còn nhớ rất đậm cái run lẩy bẩy, bần bật của hai bàn tay nắm lại với nhau, vai mẹ rung nhưng mắt mẹ khô lạnh, cô em nhỏ thút thít khóc, cậu em kế thì đanh mặt lại ngồi cúi đầu, cậu bé út thì giương hai con mắt trẻ thơ rất buồn, ngơ ngác, nó không khóc, chỉ nhìn mẹ và chị rồi nằm xuống cong cả người lại. Mẹ tôi nói thầm, Khánh ạ, mẹ con mình phải chết thôi. Nhà mình còn hai bình gaz. Tôi giật thót mình, nhưng má ơi, hai bình có đủ chết không hay là chỉ làm mình ngắc ngoải thì có nước chết với họ - Mình sẽ vào bếp đóng kín cửa lại. Mẹ bỗng quay sang em gái tôi, 17 tuổi, giọng bà nhỏ, quyết liệt, Chết không con, Khanh- Chết! con bé gật phăng cái đầu dập dềnh mái tóc mây. Mẹ lại hỏi cậu em 16 tuổi, giọng có vẻ như bà đã quyết định, Chết nhé Khiết- Dạ, Chết! Thằng bé nói với vẻ lì cố hữu của nó. Rồi tới cậu em út,11 tuổi, giọng mẹ nhẹ nhàng, Chết không con, Khiêm?- Chết! Tôi rúng động cả hồn phách, nó nói chết nhanh như thể mẹ hỏi ăn không con- Ăn! Mẹ không hỏi tôi, vì bà biết tôi sẽ là đứa nói không. Tôi kéo mẹ nằm xuống chiếu, thì thầm, má không nghĩ là sẽ làm vậy, đúng không. Mình phải sống má ạ, anh Khải còn mất tích, 3 người vừa bị bắt đi, mình còn những 5 người, mình dư sức sống mà, má. Chúng tôi đã dư sức sống để lội qua những tháng ngày nước ngược ấy, có cả những tiễn đưa âm thầm trong tâm trạng một đi là có thể vĩnh viễn không gặp lại. Ba tôi trở về sau đó 7 năm, gầy guộc, ốm đau, ngày qua ngày, lặng lẽ làm tiếp cuốn tự điển đang làm dở. Lần sau ba tôi lại rời nhà ra đi một lần nữa, lần này thì không có ngày trở lại để làm tiếp cuốn sách vẫn chưa xong. Tôi quên chưa hỏi mẹ lúc mất ba có đang mặc bộ bà ba lụa màu mỡ gà không.Tôi nhìn những cây viết và sách để trên bàn thờ mà thấy cô liêu quá, cuộc sống, tôi nhớ ba tôi còn lở dở một vở kịch có tên là Cây Cô Độc, ông đúng là một cây cô độc trên con đường ông đi. Hình ba tôi mờ như có hơi nước, dường như vừa sóng sánh trên vô chung thời gian, tôi tin thêm một lần này, dòng chảy buồn ấy sẽ không gợn sóng nữa, nó sẽ yên, chảy tận lòng sâu.
Tắp vào bến nhà ba mẹ tôi chuyến này còn có vợ chồng cậu em út ở Úc về, cậu em năm nào gật đầu đồng ý chết một cách vô tư bây giờ đã là một người đàn ông đang mon men tới gần cái tuổi tri thiên mệnh. Về cùng là một anh bạn thân của em, Quỳnh, người đã nấu những bữa cơm rất ngon cho 6 người, và mỗi sáng vẫn làm cho tôi một ly cà phê thật đậm tình bè bạn. Còn có vợ chồng con trai lớn của tôi cùng bé gái 8 tháng tuổi nữa. Khánh Chi. A, tôi biết rồi, tiếng gọi tôi về chính là âm thanh ban sơ của tiếng khóc con người những năm tháng đầu đời, là mùi sữa thơm từ khóe miệng bé cháu, và khanh khách tiếng cười đang rù quến mọi cảm xúc tôi. Nếu tôi không về để mà hít hà cái mùi da thịt thơm non này thì hẳn là tôi cứ ngồi đó mà nói về mùi lavender…
Buổi sáng, tôi đón ly cà phê từ tay Quỳnh, lòng thấy ấm áp, ra cổng lại thấy một gói na treo toòng teng, chắc chị Liên đã đến đây từ sớm, cắn một miếng na như thấy tan trong miệng chút lòng chắt chiu. Tôi đứng trước hiên phòng nhỏ bé của mẹ, nắng sáng mà nóng ướt da, đang tưới cây, bỗng nghe vọng lên từ cổng dưới nhà, “có thư đây”, trái tim tôi như nhảy ra ngoài, cây sứ như có con gió nào tới khua tàng lá và hương hoa tan ra,…tôi nhẹ như mây, hóa thành cô gái nhỏ lướt qua những bậc thang gỗ mầu nhiệm,… lung linh cổng nhà cũ, người đưa thư năm xưa, con gái có thư con đây, tôi thì vội vàng, không mở cửa, thò tay qua cổng, rối rít, đưa con mau lên, và khi những lá thư với những sọc xanh đỏ trắng viền quanh phong bì nằm gọn trong tay thì tôi lại thưởng cho bác ít tiền, bác đi chiếc xe Honda Dame màu xanh lá chuối, hằng tuần đem đến cho tôi những lá thư thơm mùi biển xa, nỗi nhớ nhung theo nửa vòng trái đất buộc thành lời hò hẹn dài, sẽ một đời người, hay hơn, hỡi người yêu dấu?
A, tôi biết rồi, chính sợi tơ hẹn ước lênh đênh trên đường mộng ảo này dẫn tôi về, thành phố mang tên Sài Gòn, nơi tôi đã lớn lên, chỉ nơi này tôi mới lọt được vào nếp gấp xô lệch của thời gian, trở lại mọi thứ, như cũ, thời hai mươi vàng mười, lời tình tự mưa đêm thơm mùi hoa sứ, mùa hạ nồng những cơn mưa mà cho dù bao nhiêu lần được làm người nữa, nếu còn là mình, tôi còn nghe tiếng rất trong của nó rơi trước hiên nhà che chắn cho tôi một giấc mơ. Một nhịp chẩy diễm ảo đang đồng hóa tôi, tôi có đang trôi đi hay mãi mộng mơ đứng bên cổng cổ tích nhìn cánh bồ câu ngậm thư đưa tin yêu về?
Một buổi sáng, tôi gọi một chiếc taxi lên phố. Cô đi đâu? – Cho tôi tới trường Luật, đường Duy Tân- Dạ đâu cô? Tôi mỉm cười thích thú, vậy là mình đã nói ra được câu như lúc nào đó trong quá khứ. À quên, cho tôi tới trường Kinh Tế đường Phạm Ngọc Thạch. Đấy vật đổi sao dời như thế đấy. Tới đây thì tôi tự thắc mắc, Duy Tân là tên một vì vua yêu nước, tại sao phải bị thay tên, mà hẳn ông bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nơi cõi trên chắc cũng chẳng lấy làm vui khi tên mình thay tên vua Duy Tân. Cái tên quen thuộc đến nỗi chỉ cần nói Duy Tân là mặc nhiên động đậy đến kỷ niệm thời sinh viên Luật (và Kiến Trúc của ai nữa chăng, dù trường này có cổng ở đường khác nhưng sát hông trường Luật nên kỷ niệm chắc cũng có chút bà con). Một thời sinh viên chúi đầu vào sách vở, cho đến một ngày đến trường bỗng ngỡ ngàng, bọn con gái chúng tôi hỏi nhau với giọng thảng thốt, sao lớp vắng thế này, bọn con trai đâu cả? ra năm đó nếu tôi nhớ đúng,1972, vừa có một luật động viên đôn quân (tôi có thể kiểm chứng xem mình có nhớ đúng không, nhưng thấy không cần thiết), tôi lúc đó như bị va đầu vào tường, cú đập choáng người. Đã từ bao lâu? sinh viên Sài Gòn như tôi lúc đó đi bên lề cuộc chiến. Đã bao lâu rồi? dân Sài Gòn có một niềm tin chắc rằng Sài Gòn là một ốc đảo mà con sóng của chiến tranh không thể đổ vào bờ. Đã bao nhiêu người trong lớp sinh viên như tôi tin rằng Sài Gòn là biên giới dừng lại của đường đi súng đạn? Tôi mắc cỡ và cảm thấy có tội, cũng như không hiểu nổi hệ thống dân vận lúc ấy đã để cho con lũ phong trào phản chiến lợi dụng kẽ hở của bờ đê dân chủ tự do ngập lụt hết ý thức về một cuộc chiến, của mình, cạnh mình, ý cũ: mở toang cửa cho ngập những phong trào phản chiến, đến nỗi không ý thức cái cuộc chiến đang xảy ra, là của mình, ở cạnh mình, đe dọa sự sống còn của mảnh đất có Hòn Ngọc Viễn Đông lấp lánh. Chúng tôi như những viên gạch lát ngô nghê. Nghêu ngao những bài hát phản chiến trên những ra đi vĩnh viễn của cha, anh, bạn bè mình ngoài chiến trường. Bây giờ tôi đang đứng đây, nơi ngày trước là lối cổng nhỏ khiêm cung trầm lắng màu gỗ hai cánh cửa nhỏ, trên là bảng Luật Khoa Đại Học Đường, tôi như nghe được hơi lạnh tiếng gió thổi vào lớp học khua buồn những hàng ghế trống buổi chiều xưa, có bao nhiêu bạn bè từ chỗ ngồi ấy ra đi không về nữa? Tôi thấy qua nắng muộn ánh mắt của những cô gái hai mươi, Châu Tỷ, Liêm, Liên, Gấm, Hoa, Xuân…và tôi, nhìn nhau, biết rằng, từ hôm ấy, tin chiến sự là vết mực đen phết trên từng trang sách học.
Tôi đi bộ bên vệ đường, đường Duy Tân, đã mất rồi lối đi đất nhỏ với hàng cây, nơi tôi lộng gió tà áo vàng trong tấm hình gửi người vạn dặm, thôi hãy dùng ký ức mà đi để lọt vào không khí Saigon thời yêu người thiết tha…, Hồ Con Rùa, cây đa cổ thụ trước Viện Đại Học Saigon có tôi, Huệ,Thôi “Oanh Oanh” thấp thoáng những tà áo dài trong nắng … Chập chờn những cánh bướm trên con đường rộng thênh thang băng qua ngôi rừng nhỏ trước Dinh Độc Lập, nhà thờ Đức Bà, và một con bướm vàng bay vội vã qua những bậc cấp Bưu Điện rồi chui vào thùng thư, ngày mai người ta sẽ lấy thư… A, tôi lần về theo dòng máu đẩy của nhịp đập, tươi mươi lại nơi nương náu của kỷ niệm, trái tim Sài Gòn ưng ức hoài nơi ngực trái…
Nơi ấy bây giờ, người đông hơn nên đường chật đi, nhà nhiều hơn, cao hơn, nên đất trời trong tầm mắt bị nhỏ lại. Tôi như cái bóng câm đi giữa muôn âm thanh hình ảnh ồn ào của một thế giới khác. Có phải đã muôn trùng thời gian đi qua nơi này, và tôi thấy mình buồn tẻ, lạc lõng, cũ xưa. Tôi đã nói với Nguyễn Lương Vỵ như thế, trong một quán cà phê, dưới bóng một cây trứng cá, có một trái nhỏ rụng đúng vào ly cà phê của tôi. Tôi cũng đang rơi một cách lạc điệu, như thế chăng. Vỵ đọc cho tôi nghe …những gương mặt lặng lẽ/ treo trên hai sợi dây điện song song/ vắt ngang cành trứng cá … tôi hỏi, thơ ai mà lọt hẳn vào tàng cây trứng cá này vậy. Vỵ đưa cho tôi tập thơ nhỏ. thơ Đoàn Minh Châu. Tôi dở ra ngẫu nhiên, những câu thơ, kỷ niệm vẹn nguyên mỗi năm…/ em vẫn là người hoài cổ/ sống bằng nhớ nhung ngày sắp tới…
Tôi đang được sống thực một nỗi nhớ không rời. Nó đang dắt tôi về.
Rồi cũng được nghe lại tiếng biển. Ngôi nhà Hoa Sứ của anh chị Khoa Geneviève, trong một xóm chài, nằm gần góc cong của bờ biển kéo ra Long Hải. Chị nói chị sẽ đổi tên nhà là Sao Biển. Buổi sáng tôi xuống bãi xem ghe đánh cá về, cá đánh bắt ven bờ chỉ toàn là cá nhỏ. Xóm chài rất nghèo. Chiều chiều trẻ con đi đầy trên bãi để cào nghêu. Bờ biển ứ rác và phế thải của người. Nước biển đục ngầu. Nhưng nhạc sóng vẫn trong. Gió biển thổi mặn môi. Cát biển bay xót mắt. Đêm ở đó tôi ngủ trong tiếng mưa, tiếng mưa rơi tong tong trước thềm gạch tàu, tiếng sóng rì rầm xa xa gần gần, đêm nay nó không còn là tiếng u u mường tượng trong vỏ ốc, tôi choàng dậy để nhìn ra ngoài của sổ, nhìn và nghe, biển kia, mưa kia, thân thiết lắm với mùi hương ký ức. Bao giờ nữa anh em mình lại được quây quần bên một bàn ăn dài, ăn những món hải sản thơm mùi biển của chúng ta kết với rượu vang quê hương chị Geneviève? Những cánh hoa giấy đỏ buông xuống vẫy tiễn tôi, ánh mắt nâu hạt dẻ của chị nhìn theo, nụ cười hiền của anh Khoa như cánh thuyền rất nhỏ, bập bềnh trên sóng. Tôi khép mắt để nghe rưng một hạt lệ, tiếng rơi trong trên mặt hồ thời gian để hiện ra những ảnh hình tưởng đã quên dưới dòng phẳng lặng…
Lại một buổi cả nhà leo lên xe, lòng ai cũng vui vì nơi tới là Đà Lạt. Ôi Đà Lạt một thời là ước mơ của tôi, đi Đà Lạt hồi đó bao giờ cũng là một phần thưởng khi học hành có kết quả tốt, không, phải xuất sắc mới được, vì thế ngày đó tôi đi Đà Lạt không quá ba lần. Tôi không về ký ức mà đi đến một nơi giấc mơ chưa viên thành.
Đến Đà Lạt vào tối, trời mưa. Tôi ngồi co trong chiếc ghế cạnh chỗ người lái, nhìn mưa Đà Lạt rơi hối hả rồi tan trên mặt kính xe, tôi thoát ra cơn mỏi mắt buồn ngủ vì nhìn mãi vào chiếc cần gạt nước, quay ra phía cửa sổ. Phố lóa xóa mặt gương, đèn xe xanh đỏ lập lòa như những ánh lân tinh ở một phố âm, cậu em ngồi hàng ghế sau vừa nói, không biết đêm Đà Lạt còn chợ âm phủ không, tối nay tụi mình đi nhen. Giọng cậu không có vẻ chi là phấn khởi mà rù rì như nói trong lúc đang ngủ, tôi cười, nếu hết mưa Khiêm à, giọng tôi cũng nhỏ, tại không khí dào dạt mưa chăng. Tôi chợt bấm kính cửa xe xuống, mưa hắt lạnh, và tôi giật mình vì tiếng còi xe quá lớn, vội bấm kính lên. Hình như có cả âm thanh tiếng nói nữa, không phải âm của Đà Lạt, hồi trước, khi tới đây, tôi gặp rất nhiều tiếng Huế… Nhưng mà cảm giác lúc chạm vào gió vào mưa Đà Lạt thế nào nhỉ, giật mình vì tiếng còi xe, bỡ ngỡ vì âm một giọng nói quá lạ, chỉ vậy thôi. Khi đi ngang khách sạn Anh Đào, tôi mơ màng thấy mình cùng các bạn đang đứng dán những tờ cổ động cho liên danh ứng cử dân biểu của ba tôi năm nào, đó là lần thứ hai tôi lên Đà Lạt. Lần đầu, vừa xong năm thứ nhất Luật, ba thưởng cho một chuyến đi, thật đáng nhớ, lên tới nơi ba mẹ cùng mấy người bạn tập trung ngồi nhà đánh bài, để ba con nhỏ, là chị em tôi và Bích, con bác Chi, ngồi chèo queo nơi phòng khách có ngọn lửa bập bùng trong lò sưởi, tôi thì không sao, vì tôi có một nỗi nhớ đầy ắp trong người, ở đâu đi nữa thì cũng đâu có một mình. Kỳ đó Đà Lạt chỉ là Hồ Xuân Hương và quán cơm Như Ý. Hết. A quên, còn có một con dốc nằm thơ dại đẫm ánh trăng cùng Bích và một chàng sinh viên trường Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt nữa. Lần thứ hai vui hơn vì đông bạn bè, lại được đi chơi thoải mái, nhớ những hạt mưa bay trên đỉnh LangBiang, có Hà cầm đàn ngồi hát cho một cô gái Đà Lạt đẹp như mơ…Đưa em về dưới mưa nói năng chi cũng thừa…(Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Duy) trời lạnh giọng chàng run hay tại người đẹp? có Tiến với giọng Bắc trầm, vừa hát ta nghe nghìn sợi nhỏ rớt xuống đời…(TCS) vừa bấm máy chụp hình, có Khương điều động việc dán bích chương, kỳ đó liên danh ba tôi thất cử nhưng chúng tôi được no nê Đà Lạt gần một tuần, có Thanh giọng như tiếng gió thổi qua những tua lá thông, có Tính đọc thơ giọng Bắc nũng nịu, kéo đêm Đà Lạt chùng xuống nỗi buồn nhẹ như khúc nhạc dạo đầu, vạt áo em xưa, anh giữ trong tay, lời tình chợt ngỏ, em khóc bất ngờ, đêm run bóng lá, nho nhỏ trời mưa…thơ ai vậy Tính?
Có người ở xa nhờ tôi chuyển lời chào đến quỳ vàng, nhưng sáng hôm sau đi trên đường không thấy một mắt quỳ nào dòm ngó, quỳ ơi, rất tiếc, tôi muốn nhìn lại để xem cảm xúc mình có khác ngày xưa không, sau khi đã thấy được màu vàng lộng lẫy buồn trong văn Nguyễn Xuân Thiệp, người đã muốn có một cây quỳ vàng trên mộ cỏ mốt mai, lãng mạn quá tình yêu dã quỳ, nhà văn ơi. Và cũng chẳng có một cánh én nào dưới mái lầu Hotel du Parc như người kể để tôi có thể gửi cho người một chút xuân hồi tưởng, chỉ chênh vênh con gà trên đỉnh nhà thờ có lẽ là chứng nhân chung thủy của thời gian và gìn giữ kỷ niệm của người dân Đà Lạt, của người yêu Đà Lạt nay đã tản mạn những phương trời. Đến tối, đi dạo Đà lạt đêm, thì tôi thật sự thất vọng, không còn một Đà Lạt trong trầm lặng rét nữa, những người trẻ đi thành nhóm đông la hét ồn ào, đứng trên bậc thềm cao ngó xuống khu chợ Hòa Bình thì chỉ thấy người và người nườm nượp bát nháo. Bên lề thì la liệt những đống quần áo cũ bán mua tấp nập. Ôi, muốn lãng mạn một chút với Đà Lạt cũng không xong rồi. Tôi nhớ đến tiếc con đường dốc trong đêm bập bùng ánh lửa của người dân tộc bán ngo và thổ sản của họ. Ánh lửa khơi động một ấm áp tràn ngập thổi Đà Lạt hun hút vào ký ức. Đâu rồi, đâu rồi cái khí hiu hắt lạnh thơ mộng ấy? Đà Lạt như cô gái thức dậy, cắt phăng mớ tóc dài mơ, mặc quần jean áo thun nhún nhẩy vào nhịp dồn dập sống còn của khúc ca hiện đại. Thúy Anh nói, chắc dưới kia là chợ Âm Phủ. Khiêm cười, lúc nhúc ồn như kia chỉ có chợ dương phủ thôi em, quả thật là tôi cũng không đủ can đảm để bước xuống những bậc thang đi tìm chợ âm phủ trong biển người dương thế kia, cho dù rất nhớ ly sữa đậu phộng bên hông chợ. Quỳnh thì sau đó nhất định phải đến “quán chè khép một bên cửa”, không biết nghe ở đâu, cửa quán chỉ mở già nửa, không phải để ngăn ngừa cái huyên náo bên ngoài mà là nhét vào những lộn xộn nhất có thể của một quán chè đêm…Tôi cùng các em vội vã ăn và vội vã quay về. Thế là không sữa đậu nành nóng, không hạt dẻ ấm trong túi áo, và tiếc thay tôi cũng không có kỷ niệm nhiều với Đà Lạt để mang mình đi đến với Đà Lạt sang trọng trầm lặng ngày cũ. Cứ thế mà phơi mình đi giữa một không khí Đà Lạt bị cày xới thô bạo bởi những mỹ quan kiểu mới. Muốn nhắn nhủ với những ai yêu Đà Lạt, có về hãy trang bị cho đủ đầy nỗi nhớ và chiếc áo giáp của kỷ niệm để chống đỡ với những bất ngờ của Đà Lạt. Hôm rời Đà Lạt khi đi qua đèo Bảo Lộc, tự nhiên nhớ lời dặn dò cột tóc của nhạc sĩ họ Trịnh với hồng nhan tri kỷ…Trong tôi không có một lời hẹn nào để trở lại Đà Lạt. Và coi như vẫn còn đó, một giấc mơ chưa thành.
Một đêm, tôi nói, mai mẹ về lại Mỹ rồi (nhớ hôm ở Mỹ, cũng nói, mai mẹ về Sài Gòn rồi, hai nơi đều là về cả, là sao), con trai Khánh Chương ôm vai, ngập ngừng, bây giờ cho mẹ bịnh đi, cũng được để mẹ ở lại thêm nữa nhen mẹ… Hạnh nói, con trai nhớ mẹ rồi đấy mẹ ơi. Hình như đêm đang ngừng trôi, phải không, những giọt đêm khẽ khàng ru tôi từng nhịp ấm của hạt lệ. A, tôi biết rồi tôi đã lần theo nhịp đập trái tim hai đứa con yêu dấu này để về. Về đây, và đang nằm ngủ trên chiếc giường ba tôi đã ngủ năm nào. Nghe dòng sông thế hệ nhịp nhàng từ ba mẹ tôi đến tôi, rồi các con tôi, và kia bùng reo, cô cháu nhỏ. Hôm rời Sài Gòn, đang kéo hành lý ra cổng, chị Liên nhắc, thắp nhang ba chưa? Tôi vội chạy lên lầu, là để cho chị vui thôi, chứ ngày nào tôi chẳng lên nhìn và nói với ba đôi lời. Nhưng ba tôi đâu riêng ở đây, nơi nào mà trái tim các con ông còn đập, thì ông ở đó.
Và Sài Gòn, mãi mãi là một hơi thở, của tôi. Những kỷ niệm thuộc về Sài Gòn như một tấm khiên che chắn cho tôi bớt hụt hẫng về những đổi thay, hóa ra tôi chẳng phút giây nào nhìn thành phố này bằng con mắt xác phàm, chẳng thấy gì cả ngoài một Sài Gòn đầm đìa kỷ niệm. A, tôi lần theo hoa rụng tuổi thanh xuân mộng ảo mà về đấy thôi.
Chỉ một nơi ở Sài Gòn bây giờ tôi bước đi không bằng ký ức. Con đường bờ kè kênh Nhiêu Lộc. Tôi bước dọc theo con đường mới mẻ, cái nhìn mở ra vui như nắng đang xiên qua những hàng liễu rủ, gió thổi thốc từ phía ngôi chùa xa cạnh Viện Đại Học Vạn Hạnh xưa làm tóc tôi bay, tôi không thể tưởng là mình đang đứng bên dòng kênh khẳm đen nhếch nhác khi xưa, có lẽ lần sau Khánh về thì nước kênh sẽ trong. Giọng anh tôi nhỏ nhưng có vẻ như anh đang nói về một công trình của mình. Điều ấy làm tôi vui. Tôi nói, nếu nước kênh trong, nhớ nói để Khánh về. Tôi đang nghĩ đến chuyện cổ tích, soi xuống dòng trong để tỏ mặt mày… tất cả sẽ đổi thay như kênh Nhiêu Lộc này, những vẩn đục sẽ lắng xuống để dòng trong.
Nhớ nói cho em biết khi nước kênh Nhiêu Lộc trong nhé, anh Khải.
Vậy là tôi có một lời hẹn với Sài Gòn rồi. Và, nếu có, thì tôi cũng sẽ về vào mùa mưa để tiếng mưa trả lại cho tôi những lời tình tự.
Nguyễn Thị Khánh Minh
Subscribe to:
Posts (Atom)