văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Saturday, January 19, 2013

Hà Thúc Sinh * Núi Đổ Trong Lòng





Ông Lộc là một nhà thơ đã ngoài sáu mươi, sống khá bình thản tuy cũng có lúc hơi chúi chúi xuống phía nỗi buồn. Giá như ông đang sống giữa một gia đình đông đủ mà có lúc buồn xa vắng cũng là chuyện thường, huống hồ ông sống có mỗi mình. Nghe nói ông đã có thơ đăng báo từ Hà Nội, Sài Gòn sang đến Mỹ, tính ra bốn mươi năm có thừa, thế mà tên tuổi ông xem ra không có quá nhiều người biết đến. Điều này có thể là mối quan tâm của ông hai mươi năm trước, chứ giờ thì chẳng còn nghĩa lý gì. Ra đời dính một sinh thú lắm khi tình cờ như dính một cái nghề, lâu dần nó bén rễ tựa cây cối, không dễ mà nhổ, dù có lúc người ta tự biết cái cây chẳng sinh hoa kết trái như ý. Nay thì thứ cảm giác khó chịu như thế cũng không còn, thành thói mất rồi, do đó chẳng tuần nào bưu điện không nuốt của ông vài đồng bạc tem. Vâng, ông thả thơ đi khắp thế giới - nơi đâu có báo tị nạn là có thơ ông tìm đến - những vần cổ thi toát lên cái thanh khí của một ngọn núi cao, nhìn xuống mà thương cho cõi thế gian nhầy nhụa những luỵ tình.

Nhưng sáng nay, một sáng cuối năm ngọn núi lòng ông cứ vi vu gió thổi một điệu nhớ nhung cái cõi đầm lầy xa như từ nhiều nghìn năm trước, chỗ mà ông còn là một ngọn đồi xoàng xĩnh lẩn khuất giữa muôn triệu ngọn đồi xoàng xĩnh khác.

Ông nhìn lên bàn thờ vợ. Nhanh quá, mới đó đã non mười bốn năm trời. Bất giác sự liên tưởng dẫn ông xa hơn. Mười bốn năm sau di cư 54 mình làm gì nhỉ? Hồn ông cộm lên nỗi bồi hồi. Lúc ấy ông sắp bốn mươi, thủ một ghế chủ sự phòng trong bộ Tư Pháp, vừa cưới được bà vợ thua ông gần chục tuổi, chưa kịp trăng mật thì trận Mậu Thân xảy ra. Thật là một mùa tao loạn rối ren, nhưng với riêng ông cái bóng tối ấy lại như tấm màn che lại nhiều dấu ấn lãng mạn khó quên. Hai người đã giấm giúi yêu nhau trong cả những phen chạy loạn, tá túc nơi các sân trường.
Ông châm thêm nước nóng, hy vọng tách trà giữ cho ông sự thận trọng dù ngay trong cơn hồi tưởng rộn ràng. Ông nghĩ ông nên đứng dậy dọn dẹp căn phòng.

*

Gia đình ông Lộc thuộc những nhóm thuyền nhân đầu tiên vượt biển và được định cư tại Mỹ. Ông đi cùng vợ hai con, nhưng một cơn bão đã loại khỏi tổ ấm người quan trọng nhất, vợ ông. Thật trời mà có vợ đã chắc gì đau nỗi đau giống ông nếu vợ trời không là người đàn bà đảm. Từ buổi chế độ mới biến ông thành kẻ vô dụng, vợ ông, một bà giáo mà lương tháng không đủ mua hai lon bia Nhật, đành bỏ trường hùng hổ lao ra lề đường, đầu tắt mặt tối kiếm cơm áo nuôi gia đình, rồi xoay xở đem được cả nhà ra đi trót lọt.

Cái chết của vợ như sợi thừng trói vo ông lại với lắm đam mê vốn có của người nghệ sĩ. Nghề giáo không có nghĩa là bà phải thận trọng cả trong cơn ghen. Vâng, xưa vợ ông ghen rùng rợn. Đã không thiếu phen bà xông cả vào sở thanh tra ông tại chỗ. Có lần ông đang đọc lá thư của một cô thư ký cũ gửi về thăm hỏi, chẳng có gì là tình ái trầm trọng, nhưng ông đã phải vo tròn bỏ miệng nuốt trửng. Gì chứ bà vớ được một nét chữ đàn bà trên tay ông thì đến khốn khổ cả phòng. Bà sẽ đóng ngay vai chánh án mà can phạm sẽ không chỉ riêng ông, cả chục nhân viên dưới quyền cầm chắc nguy cơ lãnh án tòng phạm tuốt luốt. Cái nghi của người đàn bà ghen to hơn khối óc là vậy. Có lần bà giận, mỉa mai: “Lấy anh thợ thuyền chân chất mà lại yên bụng hơn lấy anh khoá băm nhăm!”

Tự dưng ông cười ngặt nghẽo, không vì nhớ lại mà cười vợ, nhưng vì ông nghĩ nếu bà còn sống hẳn bà sẽ thấy lấy anh thợ thuyền đã chắc gì hạnh phúc. Vâng, đời sống mới đã đẫy ông vào một chương trình CETA, và cuộc đổi đời đã biến anh khoá thành anh thợ thuyền. Không thiếu lúc ông kinh ngạc tự hỏi động lực nào khiến được ông có thể kiên nhẫn cày nghề thợ tiện trong từng đó tháng ngày. Nhưng giờ đã hết. Đại hạn mười năm đã hết. Ông không còn là thợ thuyền nữa. Ông đã được trở về với con người cũ của ông. Cũng may, ông tự an ủi, rằng trời cho ông còn bàn tay phải để làm thơ, để lâu lâu pha mực Tàu viết vài chữ đại tự tặng những thân hữu còn sót cái tâm của lão ngục quan trong Chữ Người Tử Tù. Ông tự biết nét tài hoa trên bàn tay phải dù đã chịu nhiều thử thách gian nan nhưng còn đáng đồng tiền bát gạo lắm lắm.

Và như thế ông cố lấy những gì ông có mà đổ vào những hang động núi đá, chỗ không ít lúc bày ra lắm khoảng trống vắng bâng khuâng. Mà những thứ ông có cũng chẳng nhiều nhặn chi. Một căn nhà ba phòng ở phố Pasadena trong thung lũng San Gabriel. Nơi đây sau nhà thấy núi. Những chiều Thu mây trắng sà thấp, biến những đỉnh núi nhấp nhô ra lũ đầu bạc ngó xuống rừng phong rặt một màu quan san. Sang Đông núi biến thành những bệt đen dài huyền bí, cho đến một ngày tự dưng có mưa, những vầng mây ô nhiễm biến đi, núi như hiện ngay trước mặt, mở các hang động thả ra rừng hoa đào đỏ au trộn với rừng hoa lê trắng ngần. Có những chiều gió núi thổi tốc xuống rừng cây. Ôi chao, hoa lê bay trắng trời. Ông bước đi mà tưởng như chính ông không còn trông thấy ông nữa.

Hơn hai năm qua các con đi học xa ông luôn giữ cho ông hai phòng. Một phòng ngủ; một phòng được trang trí để vừa làm chỗ viết lách, luyện thiền, tập taichi, vừa đặt bàn thờ vợ; và phòng còn lại tính kiếm người cho thuê, nhưng chần chừ mãi vẫn để trống. Khi mua nhà ông cọc một số tiền khá lớn, mức trả hàng tháng nhờ đó không quá nặng. Nay với số cấp dưỡng tàn tật quả ông có cần thêm một khoản tiền nhỏ chi dụng.

*

Ông Lộc có vài người bạn trà rượu, đều chỗ quen biết cũ, không lối xóm cũng là người đồng sự từ quê nhà. Họ đi lại với ông đều, và ông cũng thích duy trì sự đều đặn đó. Trước nhất họ là những kẻ không thể phủ nhận sự nho nhã có truyền thống của gia đình ông, kế nữa hai thằng giặc nhà này đến lúc cũng phải kiếm vợ cho chúng nó chứ. Đám bạn người nào cũng có tí con gái. Ông đến chơi, thấy tính ăn nết ở lắm đứa được quá, chọn làm dâu con không lấy gì chênh lệch.

Riêng khoản ẩm thực ông Lộc là tay khá bảnh. Chẳng những biết ăn ông còn biết nấu. Thủa mới sang phải cày cuốc ông hay đi ăn tiệm, sau bị chứng máu cao, sợ bột ngọt ông bớt chuyện đi ăn tiệm. Từ tai nạn đến nay, nằm nhà, ông thừa thì giờ làm sống lại cái thú nấu ăn có từ trẻ. Vùng này gần nhiều nông trại. Gà tươi, vịt tươi, heo tươi, dê tươi... Gì chứ chuyện phanh ngưu tể dương muôn đời tạo sự gắn bó. Có tốn kém chút đỉnh, có vất vả chút đỉnh nhưng ông vui. Ít ra quanh ông còn có tiếng nói, tiếng cười thân mật của con người.

*

Một chiều Thu lạnh. Cây trên sườn núi liên miên trút phẩm đỏ xuống vườn nhà. Gió luồn lách như thổi vào lòng. Ông Lộc xốn xang nghe thiếu một điều gì không thể thiếu nữa. Nhưng giống ông lang không nghe mạch được cho chính mình, ông chịu, bỏ lửng ngọn núi lòng ông cho nỗi xốn xang hành hình.

Lại chén rượu thôi, ông nghĩ. Thế là ông sửa soạn một nồi giả cầy, mời ba ông bạn cố cựu tới phụ tay mà giết cái vạn cổ sầu. Ba ông bạn là ông Hoành trong Việt Mỹ Tin Lành Hội, ông Lâm hội Cao Niên và ông Tánh có chân trong ban cố vấn hội Cựu Quân Nhân.

Ông Lộc biết rõ ưu khuyết điểm từng người như biết hai bàn tay mất còn của mình. Nhưng điều ông biết rõ hơn là họ chịu tài nấu của ông. Chẳng món gì ông nấu mà lại không gợi hứng cho đám bạn hân hoan tán tụng. Ông biết họ thành thật. Do đâu? Trời, họ không đều là bọn đàn ông khốn khổ ráo trọi đấy sao? Họ làm chủ những người đàn bà đã ngoài sáu mươi cả, nhưng vì cái nhà, cái xe, cái tủ chè, bộ sa-lông... các bà vẫn phải ngày ngày tự giam mình trong những công tư xưởng, để bếp núc trở thành thứ trò chơi lúng túng cho lũ chồng tự âm thầm biết mình là kẻ bạc phước. Vậy thì ông tiếc chi tí công tí của để lâu lâu cả lũ bạc phước có được với nhau một buổi chiều ấm cúng?

Cứ xem, còn gì thú vị cho bằng chỉ với một nồi giả cầy đã đủ đẻ ra một bầy chó tơ bên quê nhà sủa vang ngõ nhỏ? Bầy chó sẽ đuổi cả đám chạy tứ tán khắp mọi ngả đường quê hương. Kẻ sẽ sa vào sức cám dỗ không thể chống cự của món đầu cá hấp Biên Hoà, kẻ ngã sấp ngã ngửa vào lòng mấy cô em bán nem Thủ Đức, kẻ trốn lủi vào rặng dừa Bến Tre có những đĩa đuông lăn bột chiên bơ béo ngậy, thậm chí có kẻ còn trượt chân rơi sâu xuống mấy tỉnh hạ phần thân thể đất nước. Chà, rùa rắn chuột miệt dưới! Ông không rõ mấy cái thứ đó đã biến bao nhiêu thế hệ sớm thành những tiên ông tiên cậu.

Bữa ăn vui vẻ diễn ra non hai tiếng mới tới màn trà đàm. Họ kéo nhau ra phòng khách. Ông Lộc lấy hộp trà móc câu mới nhận được từ Việt Nam pha đãi bạn, giữa khi giọng ông Tánh “lính” oang oang:
“Thú thật với các bác tôi loại lông nách một nạm trà Tàu một hơi, đến nay vẫn cứ tự hỏi vì đâu lại có cái thú uống trà!”

Ông Lộc thận trọng kê vòi ấm lên miệng chén tống. Ông không nhìn bạn mà nhìn vào dòng trà thơm xanh nhẹ chảy, giọng hài hoà:
“Người ta chỉ có thể om sòm khi uống rượu thôi bác ạ, còn bên khay trà mọi chuyện đều phải thu nhỏ lại cho vừa với không khí ấm cúng. Vung chân vung tay thế nào được nữa. Đấy bác xem, nâng cái chung téo tẹo nóng hổi thế này lên hỏi ai mà không phải thận trọng? Tôi thì tôi nghĩ con người luôn bị xâu xé giữa mộng và thực, nên người ta có méo mó đi, đôi khi bị trương nở, đôi khi bị teo tóp; tách trà nóng quân bình được hết!”

Ông Lâm “hội già” không hơn chủ nhà mấy tuổi, quãng sáu lăm sáu bảy chi đó, nhưng có lẽ cái mác bô lão buộc ông phải có những phù phép riêng. Ông nuôi râu dài trước ngực, ăn nói nhất nhất cái chi cũng đều trịnh trọng. Ông nhìn quanh, bắt gặp giữa những tấm liễn tấm hoành quen thuộc có treo mấy câu thơ Hán tự. Ông vui vui nghĩ mình đã tìm ra được cái cớ mà cảm tạ chủ nhà về bữa ăn ngon.

Ông nói:
“Thế ra uống trà là một ngụ ngôn thâm thuý các cụ để lại đấy!” Ông gật gù: “Có thể thế lắm... Ồ mà cái kia chắc là ông anh mới viết, chà, nét chữ!”
Ông Lộc nhìn lên vách chỗ treo một bài thơ viết thảo thật lớn. Ông nhỏ nhẹ:
“Không phải thơ tôi đâu. Chẳng là mấy hôm trước, nhân thấy cảnh Thu tàn tạ quá, buồn dở sách cũ đọc trúng ngay bài ‘Kim Lũ Y’ của Đỗ Thu Nương, cảm quá mà viết treo chơi đó thôi. Vâng, đó là hai câu cuối của bài tứ tuyệt:

Khuyến quân mạc tích kim lũ y,
khuyến quân tích thủ thiếu niên thì;
hoa khai kham chiết trực tu chiết,
mạc đãi vô hoa không chiết chi.

Đại khái nàng khuyên chàng giữ chi cái áo tơ vàng, có giữ là giữ lấy những ngày xanh; và giục chàng hoa đến mùa thì cứ việc hái, đừng chờ lúc hoa héo chỉ còn cành không.”

Thật thì ông Lộc có nói dối. Ông đã viết mấy câu thơ đó ra trong một phút nhớ người bạn đời của ông quá. Xưa bà là một giáo sư Việt văn. Hai người thương nhau vì cùng gặp nhau ở cái lòng ưu ái cổ thi. Của đáng tội xem ra bà thân với cổ nhân còn hơn cả ông; và há những ngày còn soan, bà đã không lãng mạn gửi cho ông bốn câu thơ khéo nhắc khéo giục ấy đấy sao? Mở sách gặp lại thơ xưa như gặp người cũ, ông ngậm ngùi viết treo trên vách dù chẳng hiểu rồi để làm gì.

Ông Tánh vốn máu lính, nổi tiếng ăn nói ba gai, chen vào:
“Ghê nhẩy, người xưa mà đã cấp tiến vậy đấy!”
Ông Hoành “tin lành” rất cừ Anh ngữ, thấy đã đến lúc cần tí đóng góp, ông nói:
“Tôi cũng dốt chữ lắm, thơ Tàu chỉ đọc bản dịch. Mới đây tôi có đọc một bài tựa là Lover - người tình - đăng trên một tạp chí Mỹ. Tác giả là một nữ sĩ vô danh nhưng bài thơ đã có đâu từ thế kỷ thứ mười. Nó thế này...” Ông hơi lúng túng biện bác: “Thôi thì xin các bác cứ cho phép tôi đọc nguyên văn bản Anh dịch đã nhá.

I know what it means, that damn dog barking
at a man half slumped against my door
A stockingless scamper down the stairs
to my worthless lover, drunk once more.

He needs to be helped to my silk hung bed
Can he get his clothes off on his own?
Of course he can’t. He’s as drunk as a badger,
but I guess it’s better than to sleep alone.”

Nhìn một vòng thấy các bạn đều bối rối, ông Hoành lại lúng túng. Ông bảo: “Xin tạm dịch hầu các bác luôn vậy:

Em biết chó em sủa cái gì
Sủa chàng lảo đảo trước hiên khuya
Thềm hoa lướt xuống chân không vớ
Em đỡ chàng lên say bét be

Đẩy giúp chàng lên giữa gấm sàng
Áo quần chàng tự cởi được chăng?
Vô phương! Chàng gục như con gấu,
Thà thế còn hơn phải ngủ không.”

Đọc xong ông Hoành tin lành nhìn ông Tánh lính:
“Xứ cụ Khổng, thế kỷ thứ mười, chưa là vợ chồng thế mà bác thấy. Trai gái ngày nay buông thả cũng đến thế thôi chứ!”
Bài thơ không ngờ gây kích thích giữa mấy ông đã vào tuổi cụ. Ông Lâm hội già có hao đi tí đạo mạo ngày thường. Ông cười:
“Thú đấy. Gớm, thật là cái câu! Áo quần chàng tự cởi được chăng.” Ông đột ngột nhìn chủ nhà, hỏi bâng quơ: “Mà hỏi thật từ sang đây bác Lộc đã say lần nào chưa nhỉ?”
“Tôi ạ?” Ông Lộc có vẻ chột dạ, gãi nhẹ một chân mày: “Mà sao bác lại hỏi chuyện say?”

Ông Lâm hội già càng hứng khởi hơn:
“Trong hội tôi lắm cụ ông vẫn tìm cớ say hoài đấy. Dĩ nhiên thế nào mà chả có lúc ta cần say, tôi biết. Này bác ạ, ý tôi không nên không phải bác bỏ qua cho, chứ tôi cứ thắc mắc cô quạnh như bác sao không sớm vào hội với chúng tôi. Có tí bác gái mới cũng vui đấy chứ. Đồng đất nước người, lỡ khi ta say còn có kẻ thương cảm, còn hỏi hộ cho mình ‘áo quần chàng tự cởi được chăng’ mà không lý thú sao?”
Ông Lộc cười nhỏ nhẹ:
“Tôi vốn nghĩ tuổi mình đi tới bước nữa là sự liều lĩnh tiêu sớm hơn những điều kỳ thú còn sót lại ở cuối đường, thành ra tôi dừng lại đấy bác ơi.”
Không ai trong bọn nghĩ họ tin ông Lộc!

Kệ họ, ông Lộc cứ điềm nhiên pha thêm một ấm trà. Không nhìn mà ông biết mấy ly rượu khởi ngấm trong người ông Tánh lính. Ông e ngại rồi ra thế nào ông ta cũng kết thúc tuần trà với một câu bậm trợn bất ngờ. Mà thế thật, ông ta đã đứng lên, cười hê hê:
“Mình gặp nhau nói cho ấm chân răng vậy thôi, hữu sự ly kỳ ấy có mà vái cả tơi lẫn nón. Tôi là thằng lính già, ẩu tả quá trời, bê bối quá trời còn phải chịu cái luật đào thải, chưa phải của trời đất chi, mà của ngay cái dục trong tâm can mình đây này; nói chi con người nho nhã, mực thước như cái nhà bác Lộc. Nói các bác bỏ qua cho, hăng như tôi mà giờ cả năm chầy cối trong nhà cũng chẳng còn dịp tưởng nhớ đến nhau, thay thảy cứ lạnh như đít bụt cả!”
Ông Hoành tin lành lướt vào, sợ rồi ra ông bạn nhà binh sẽ đi xa quá. Ông nói:
“À này, từ dạo hai cháu nó đi học xa, nhà trống, sao bác...”
“Vâng, của đáng tội tôi cũng đang có ý tìm một người cho trọ, miễn tử tế, đừng ồn ào...”
“Thôi thế này thì con cháu tôi đúng là buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Phải đấy, nhà thì rộng, cảnh lại đơn, tôi không bù khú đâu, nhưng nếu không có tí hơi người trong nhà, tôi sợ ngay cái tâm già ấm cúng của mình rồi ra cũng có ngày nó lạnh như đít bụt thật. Bác ưng, tôi báo tin cho cháu nó mừng.”
Ông Tánh lính cười hê hê:
“Nhưng nên xâu xấu một tí.”
Ông Lộc nghiêm trang:
“Cháu nó đi làm hay đi học?”
Ông Hoành tin lành đáp:
“Nó học năm đầu y khoa. USC. Khổ quá, nhập học đến nơi mà vẫn chưa tìm ra chỗ trọ gần trường.”
Ông Tánh lính ngả người ra ghế, lại cười:
“Thế là được. Bác Hoành bỏ lỗi cho. Gái y dược, hê hê, tôi tin cô cháu đã hội đủ điều kiện để không được đẹp lắm.”

*

Ông Lộc hài lòng về tính nết của Mai. Sự lặng lẽ ấy vừa đủ để không quấy rối ông một ý thơ dang dở, và sự cư xử cho thấy cô gái chắc đã có một bà mẹ nồng nàn.

Dù Mai không hẳn là đoá hoa tươi sắc cắm vào chiếc bình trống, nhưng trong dòng nhạc đời vốn đều đều của ông Lộc quả có nhờ đó mà trổi lên hơi hướm một cảm âm lạ, không đê mê, chỉ gần với chút rung động héo hon, bàng bạc chút mặc cảm không lời của một đoá hoa kém tươi. Một cái bớt đỏ như chiếc lá phong bám một bên má, chạy xuống tới cổ, xoá đi phân nửa vẻ đẹp một chân dung bình thường. Nền giải phẫu thẩm mỹ Hoa Kỳ liệu có khả năng trả lại cho cô gái chút vốn đời khiêm tốn? Ông Lộc không biết, nhưng điều ông biết chắc Mai có đôi mắt thật lạ, đôi mắt buồn xa vắng như bài thơ đẹp, thường bị những lọn tóc rối mỏng như khói xoà xuống che khuất phân nửa, khiến người ta chỉ còn cảm mà khó đọc ra được từng chữ từng lời.
Đôi mắt giống hệt đôi mắt vợ ông!

Dù đang chúi đầu vào chồng sách dưới đèn, nhưng cứ nghe thấy tiếng xe ông đậu trước nhà là cô gái đã nhanh chân ra mở cửa. Ánh sáng sau lưng như làm nảy ra khỏi tấm thân mảnh mai sự ân cần ấm như ý nghĩa gia đình. Thế nào Mai cũng nói câu quen thuộc:
“Sao bác về khuya vậy, bác dùng cơm chưa, cháu dọn nhá?”
Ông không tin lắm đó là hơi lửa nóng trong tình con thương cha, và thích thú tưởng tượng giữa trời đông giá có mớ tro ủ, chỉ chịu khó khơi lên một chút dư sức hâm lại một niêu cơm. Phong thái ấy chẳng khác chi vợ ông ngày nào, có thể hừng hực lửa giận chờ cơm đấy, nhưng thấy mặt rồi giận mất đâu cả.

Những bữa ông về khuya quá, lại có tí hơi men, phản ứng của Mai xem ra có chút trầm trọng. Bực trông thấy. Mai ghét ông uống rượu lái xe. Nhiều lần cô bé kể cái gương ông bố ở nhà cho ông nghe với giọng doạ dẫm. Ba ngàn tiền phạt; mỗi tuần một thứ bảy, chẵn chòi hai năm, cứ đến nơi toà chỉ định mà xem miết những cuốn phim chết người vì uống rượu lái xe.

Thật tai quái, lâu dần ông đâm nghiện cái dáng dấp giận dỗi đó!
Những ngày cuối tuần Mai hay bày ra làm những món ăn nho nhỏ, như bằng chứng hùng hồn trong nhà có một cô gái thì mọi sự phải khác, người đàn ông phải được hưởng một sự sung sướng khác: Một nồi riêu cua đòi nhiều tỉ mỉ, những cặp bánh dầy bánh giò, những đĩa bánh cuốn nóng... Nhìn cái lối ngồi đổ bánh cuốn, tấm lưng hơi gù vẻ nhẫn nhục, đôi bàn tay thành thạo quẹt thanh tre mỏng hớt bánh trên mặt vải bốc khói của cô gái, ký ức ông cứ như bị cái móng nhẹ cào sướt qua.

Ông Lộc quý Mai lắm, nhưng thành thật mà nói nếu chọn vợ cho con chắc ông sẽ có nhiều nghĩ ngợi.

Nhưng giả dụ đùng một cái căn nhà này thiếu đi sự hiện diện kia? Không thiếu lúc ông đã tự hỏi. Ông chắc ông không rối trí lắm đâu, nhưng sẽ bâng khuâng, sẽ buồn nhè nhẹ. Khối óc thi sĩ của ông hình dung ra một nữ tu, vì nhiệm vụ phải dấn thân vào đời vốn nồng nàn sướng khổ, lúc được triệu về nhìn lại những bức tường tu viện lạnh lẽo thế nào, thì chắc nỗi bâng khuâng của ông cũng đến như của chị thôi.

Nhưng ông Lộc đã lầm. Ông không bâng khuâng. Ông chết lặng. Ông không ngờ năm nay trời lạnh đến thế. Tuyết mấy năm trước chỉ lấm đầu núi, năm nay nhiều ngọn bị nhuộm trắng non nửa. Gió cuối năm như nhất quyết không muốn rừng đào rừng lê để dành được đoá nào tới lúc ra giêng. Thế mà ông có mỗi mình!

Cô gái đã về nghỉ lễ với gia đình mãi tận San Jose. Ông đinh ninh rồi cái hơi lạnh cuối năm sẽ khó có cơ tràn vào nhà ông vì hai thằng con cũng về nghỉ lễ kịp lúc. Chúng ồ ạt trám ngay vào tất cả mọi khoảng trống, nhưng chỉ được vài ngày, tưởng như hơi lạnh trong gia đình không đủ cho chúng bão hoà bầu nhiệt khí tuổi trẻ, hè nhau thuê xe đi chơi núi mãi tận vùng tuyết phủ Denver.

Hình như chúng quên trong nhà có một ông bố còn sống!

*

Tách trà cuối vẫn không làm cho ngọn núi lòng ông Lộc ấm hơn, bình tĩnh hơn, thận trọng hơn, nên ông quyết vùng dậy. Đã tới lúc ông phải dọn dẹp căn phòng. Ông lặng lẽ gom mớ ly tách, nhặt từng mẩu bánh vụn, cố nhón khỏi khe bệ cửa sổ một mẩu thuốc lá, một bã kẹo cao su, sửa lại mấy tấm tranh ảnh lệch lạc trên vách. Loay hoay chốc lát ông đã mệt nhừ. Ông ngồi bệt xuống thảm, ngao ngán hỉnh mũi, cảm nhận được sức tàn phá ghê gớm của lũ con trai. Mới mươi ngày trước thôi ông có thể phân biệt rành rẽ cái hương ngây ngây, cái thanh khí dịu dàng đến kỳ bí khi bước vào căn phòng xinh xắn, có cửa sổ liễu rủ, nhìn xuống con đường đầy những đào lê đương độ rực rỡ. Bây giờ đã nát bét cả. Căn phòng toàn mùi pizza, khói thuốc, vớ thối và xem ra còn lẫn lộn cả mùi cơm bánh lên mẻ đâu đây.

Bất giác ông nhìn thấy cái kẹp tóc còn dính vài sợi tóc đen mềm nổi trên mặt thảm trắng. Ông nhặt lên, rút sợi tóc, ngắm, lòng nảy bâng khuâng. Trong tủ áo lòi ra phần cuối chiếc giày nỉ màu xanh lam. Ông nhớ đến cái gót chân tròn trắng như quả trứng ngỗng và những bước đi loanh quanh êm ái. Ông bần thần đẩy cánh cửa tủ hé sang bên. Nơi góc tủ còn vắt lơ lửng chiếc áo lót mình trắng mỏng. Bóng tối như phả lên nó vài bệt mồ hôi sâm sẫm. Khi không ông đứng nhìn trân lúc lâu, rồi nửa hồi hộp, nửa dè dặt ông gỡ manh áo khỏi móc. Trong góc phòng bỗng như có một ma lực kéo ông ngồi xuống. Rõ ràng đã có đôi ba tiếng tim lỗi nhịp. Phải lúc lâu lắm ông mới có gan trải tấm áo trên hai đầu gối. Cổ tay cụt vuốt nhè nhẹ, thật nhẹ trên lớp vải mát mềm như da người ẩm. Rồi mắt ông sụp xuống, như ngấm thuốc ngủ, như đê mê. Ông nhớ có lúc ông đã cảm thấy từ một bệt mồ hôi khô thốt bốc hơi, thơm tho ngấm vào nhiều sợi gân nhạy cảm chỗ cổ tay, đến nỗi trong tiếng thở dài vô cớ sau đó như có phả ra cả cái kỳ hương ấy. Rồi ông không còn nhớ ông đang ở đâu, không nhớ đến căn nhà giá lạnh, đến núi, đến thơ, đến những gian nan đường đời.

Có cơn gió mạnh quất cành liễu vào cửa kính. Ông Lộc choàng dậy với cơn rùng mình sung sướng. Ông thấy gai ốc nổi đầy hai cánh tay. Đôi mắt đẹp buồn của cô gái từ tấm ảnh vừa trố lên. Ông cuống quýt như kẻ bị bắt quả tang đang làm một điều hết sức dị hợm, hay như người quá cao hứng đánh mất đi sự thận trọng, làm đổ toé tách trà nóng ở một chỗ trang nghiêm. Nhưng giờ thì còn gì nữa. Buông thả mất rồi. Ông lỳ lợm ôm riết tấm áo vào ngực, tiêng tiếc khép mắt tìm lại cái cảm giác mới trôi qua - ẩn mật, nôn nao, giục giã và tràn trề./.

Sơn Nam * Cây Huê Xà



Cây huê xà là thứ cây gì ? Hình dáng ra sao ? Có thiệt hay là bịa đặt ? Nó có lợi hay là có hại cho loài người ? Bao nhiêu câu hỏi ấy dồn dập, lẩn quẩn trong trí thằng Lợi hằng năm nay mà nó không tài nào trả lời nổi.
Cây huê xà vốn là vị thuốc chánh trong toa thuốc ngừa rắn của ba nó. Nhờ đó mà đi đến đâu người ta đều khâm phục; ba nó nổi danh là thầy Hai Rắn. Ðược nổi danh là một chuyện khó vì lẽ ở vùng Rạch Giá, Cà Mau, thầy rắn xưa nay cũng nhiều người tài. Họ có thể cứu sống nạn nhơn, bảo đảm trăm phần trăm, nếu người bị cắn không để lâu quá hai giờ đồng hồ. Họ dùng toàn thuốc Nam dễ kiếm như gừng, cỏ ống, vôi, trầu, nhựa ống điếu, trứng rệp... Họ lại còn dám nuôi trong nhà vài con rắn để bắt chuột. Lúc họ uống nước trà, rắn nằm vắt vẻo trên đòn dông nhà, nhìn xuống gục gặc đầu. Ðêm nào có trăng thì rắn đi ngao du, lên tận trên đọt lá dừa để bắt chim trong ổ hoặc rình mổ mấy con dơi rượt muỗi bay qua chớp nhoáng.
Ba thằng Lợi nổi danh hơn các thầy rắn vừa nói trên. Thuốc của ba nó vò viên sẵn, khỏi tốn thời giờ tìm kiếm. Thuốc ấy mạnh lắm, trừ tuyệt nọc, nghĩa là một hai năm sau đi nữa bịnh nhơn không cảm thấy nhức xương sống mỗi khi lập đông trở về. Phi thường nhứt là có toa thuốc khi thoa vào tay, rắn không bao giờ dám mổ.

Hồi mới xuống rạch Thuồng Luồng này, ba nó đã có lần thí nghiệm cho các thầy rắn trong xóm coi thử.
Ba nó - thầy Hai Rắn - loan tin :
- Tôi có bùa bắt rắn. Bùa này của Phật Thầy Tây An ở núi Sam truyền lại.
Ai nấy phản đối :
- Nói dóc ! Chân ướt chân ráo mới tới xứ này mà không để cho người ta thương ! Phật Thầy Tây An xưa kia bao giờ làm bùa bắt rắn. Ngài lo giữ mối giềng đạo lý, sao cho ai nấy ăn ngay ở phải, đừng vì tiền tài mà nói dóc với chúng sinh.
Mỉm cười, thầy Hai Rắn mời bà con đúng giờ Thìn sáng mai đến cây thị, trước miễu ông Tà. Cây thị này hồi năm ngoái bị trời đánh tét làm hai. Thiên hạ đồn rằng : Có điềm trời ! không vậy sao trong ruột cây có cái bộng đen ngòm. Dưới đáy bộng, một đống đất khô... Ngạc nhiên làm sao ! Ðất nhúc nhích từng cục, một con rắn hổ ốm nhom vùng ngóc đầu lên cao, phùng mang chồm tới, giống hình cái bàn nạo. Rắn nhìn người chung quanh, hút gió rồi rúc xuống đất vụn để ẩn mình.
Sáng hôm đó, đúng giờ Thìn, thầy Hai Rắn lại gốc cây thị với mọi người. Lấy tay vỗ mạnh vào gốc cây, thầy nói :
- Ông xà ơi ! Ra đây nói chuyện chơi.
Ai nấy trố mắt, ngạc nhiên. Có tiếng hút gió như đáp lại rồi từ miệng bộng cây, cái bàn nạo lần lần nhô lên.
Thầy Hai lấy tay vạch vòng tròn dưới đất, vỗ xuống mạnh :
- Tôi muốn mời ông xà lại đây, ngồi trong vòng này với tôi.
Rắn nọ bò xuống, men vào vòng đã vẽ. Thầy xòe tay ra, để cách miệng rắn chừng một tấc mà thét :
- Cắn thử coi !
Rắn không nhúc nhích.
Thầy thét lớn hơn :
- Áp khẩu tay tôi nè ! Cắn ngay đó thì tôi chết liền. Tôi đố ông dám cắn !
Ai nấy phập phồng chờ đợi. Rắn cục cựa, thối lui, ngóng mỏ lên cao, day qua day lại. Thầy Hai trợn mắt, đưa tay xít lại gần hơn nữa. Bỗng nhiên, rắn hút gió một tiếng rồi quay mình phóng vào bộng cây, mất dạng.
Thầy đứng dậy, vấn điếu thuốc. Vừa hút phì phà, thầy giảng rằng :
- Chém ruồi ai dụng gươm vàng làm chi ! Nói thiệt cho bà con thương, tôi đây cực chẳng đã mới ra nghề. Tôi biết trong số bà con đây có người tài giỏi hơn tôi nhưng giỏi về môn khác. Thứ bùa này ít ai biết... Lúc ban sơ, tôi dùng nhân lực để kêu rắn ra khỏi bộng cây. Kế đó vẽ vòng tròn tức là tôi dùng thần lực. Ðến khi chuyển qua thiên lực, rắn nọ phải chạy trối chết... Nhân lực, thần lực, thiên lực, đó là ba chặng đường mà tôi đã trải qua. Phần đông, bà con mình xưng là thầy nhưng chỉ mới bước tới nhơn lực.
Tài của thầy Hai Rắn, ai lại chẳng phục. Ngặt thầy kiêu hãnh quá nên hôm đó không ai muốn thụ giáo, họ bực tức ra về. Trong số đó có Năm Ðiền là thầy rắn bấy lâu lừng danh ở xóm Thuồng Luồng này. Năm Ðiền cảm thấy bị sỉ nhục. Về nhà chú nằm suốt đêm không ngủ được, tâm trí bận rộn, cố nhớ lại mấy toa thuốc. Chú biết đây là một mưu mô của thầy Hai Rắn. Nhứt định thầy Hai có thoa vào tay một thứ thuốc đặc biệt. Ngửi nhằm mùi đó, rắn chịu không nổi, phải mờ mắt hoặc ê răng mà chạy trốn. Ăn cắp cái toa đó là diệu kế nhứt. Nghĩ vậy, chú sực nhớ tới con Lài, Ðứa con gái khá nhan sắc của chú.
Bấy lâu nay, chú thường để ý : Thằng Lợi, con thầy Hai Rắn, thường bén mảng lại đây để trò chuyện với con Lài.

Năm Ðiền bèn kêu đứa con gái vào :
- Lài à !
- Dạ.
Nhìn trước cửa thấy không có ai, chú nói nhỏ với con :
- Bấy lâu cha sống ở rạch rày cũng là nhờ nghề trị rắn. Bây giờ, thầy Hai Rắn tính đập bể nồi cơm của cha con mình !
Con Lài hỏi, ngây thơ :
- Sao vậy ba, người ta lạ, mới tới...
- Bởi vì nếu trời đã sanh Châu Do thì không có Gia Cát Lượng.
- Gia Cát Lượng là ai vậy ba ?
Năm Ðiền đổ quạu :
- Không biết gì hết. Ngu quá ! Mày biết thầy Hai Rắn là cha của ai không ?
- Dạ... của anh Lợi.
- Thằng Lợi tới lui đây hoài. Ðiều đó ba biết hết. Ba nào cấm cản. Nó nói gì với con...
Con Lài bẽn lẽn :
- Ảnh nói muốn làm quen.
- Ừ ! Ba nói thiệt với con, làm thân con gái phải giữ gìn thân thể. Không khéo, lỡ bề gì nhơ nhuốc danh giá giòng họ. Con thương nó thì phải cho ba hay để bắt buộc nó thương con...
Con Lài buột miệng :
- Ðừng ... Tội nghiệp người ta.
- Không sao đâu. chiều mai, con rủ nó lại ăn cơm... Sẵn dịp ba mời nó uống rượu, thứ rượu "rắn giao đầu".
Nghe đến rượu "rắn giao đầu", con Lài liếc nhìn chai rượu thuốc để trên bàn thờ. Trong chai, ngâm hai con rắn mà ba nó lượm được hồi năm ngoái ! Con rắn nước nuốt con rắn trun, có lẽ nuốt không vô nên hai con đều chết. Ba nó lượm đem về ngâm rượu.
Nó hỏi :
- Uống chết không ba ? Con sợ quá.
- Gì mà sợ. Rượu đó làm cho trai với gái thương nhau như rắn. Uống vô, thằng Lợi không bao giờ bỏ con được. Trăm sự, nó đều thiệt tình. Con nhớ gạn hỏi nó một điều này mà thôi...
- Ðiều gì ba ?
- Cái toa thuốc thoa vô tay mà rắn không cắn của ba nó xài hôm trước, đằng cây thị trước miễu ông Tà : Nhớ hỏi cho kỳ được. Bằng không, ba giết chết cả hai đứa như giết rắn. Từ nay hai đứa bây là hai con rắn... Vì chất rượu này...
Lá rụng ơi lá rụng !
Từng chiếc lá tràm bay lả tả như bươm bướm mỏi cánh, đáp nhẹ xuống mặt nước từ trong ngọn rạch trôi dài ra.
Con Lài nhìn dòng nước uốn khúc qua voi, qua vịnh như con rắn bò, thứ rắn có khoang màu vàng, con rắn hổ sơn. Nó bụm mặt lại để che cái hình ảnh đó. Nhưng nào được ! Kìa chiếc xuồng của thằng Lợi bơi lướt tới, vạch ra hai làn bọt nước lốm đốm trắng như con bạch hoa xà... Lập tức nó xuống bến, bơi theo, mãi đến khi xuồng thằng Lợi ghé bên bờ đìa, kế gốc cây bình bát.
Thằng Lợi day lại cười :
- Ði đâu vậy cô Hai... Rắn bông súng ?
Con Lài sực nhìn chiếc áo có bông đang mặc.
Nó e thẹn, liếc thằng Lợi :
- Em giống như con rắn bông súng. Còn anh, áo đen mốc như con rắn hổ đất. Cười em làm chi.
- Rắn đâu dám cười rắn. Nó vừa nói vừa nắm tay con Lài.
Con Lài rút tay ra cho có lệ. Nó bước qua xuồng, ngã vào lòng thằng Lợi.
- Anh à !
- Cái gì đó, hở rắn !
- Thiên hạ thấy, họ cười chết.
- Ai thấy mà cười ? Chung quanh đây cái gì cũng là rắn như hai đứa mình. Thí dụ như mấy sợi dây choại, dây bòng bong kia...
Con Lài gật đầu :
- Phải, dây choại, dây bòng bong giống như rắn lục, nó xanh tươi. Còn đám cỏ bồn bồn đằng kia, nó dẹp lép quả thật là rắn lá... Nhánh củi khô, kế đó, anh thấy không anh Lợi ?
- Nó là con rắn nẹp nía, da nó xù xì...
- Em suy nghĩ thấy sao kỳ quá, anh à. Rắn có thù oán gì với loài người, cớ sao loài người thù oán rắn. Như dây choại, cỏ bồn bồn, nhánh củi khô rất ích lợi cho con người.
Thằng Lợi vuốt mái tòc con Lài :
- Vậy nên rắn mới buồn bực trong lòng, tụ họp lại. Con rắn này tìm con rắn kia làm bạn với mình cho vui. Rắn với rắn thương nhau lắm.
- Nó có cắn nhau không anh ?
- Ðâu có. Mà nó cũng không muốn cắn loài người. Người nào biết điều thì rắn không cắn.
- Biết điều là sao ?
- Là biết nói chuyện với rắn. Nói chuyện bằng hơi tay, thí dụ như ba của anh...
Con Lài cố giữ trầm tĩnh, biết rằng nãy giờ nó đã nói chuyện nhảm vì uống rượu rắn giao đầu, nhưng nó nhớ lời ba nó căn dặn...
- Hơi tay của ba anh có gì mà nói chuyện được. Anh có cái hơi đó không ? Tay anh đâu rồi.
Thằng Lợi xoa tay rồi đưa trước mặt con Lài ?
- Phải có ngải mọi. Em biết thứ ngải đó không ? Múc bột nó làm bánh ăn ngon lắm. Ăn bánh ngải rồi uống nước chanh. xong xuôi, nằm xuống hút một điếu á phiện với cái dọc tẩu làm bằng sừng con dinh.
Con Lài lắng nghe từng tiếng rồi hỏi tiếp :
- Hút á phiện rồi làm gì nữa ?
- Rồi thì vợ chồng dắt tay nhau dạo kiểng, ngắm cái bông huê xà...
- Bông huê xà là thứ gì ?
- Huê xà là huê xà. Ba của anh nói lại sau rốt.
Con Lài lẩm bẩm :
- Ngải mọi, nước chanh, á phiện, sừng dinh, huê xà. Toa này năm vị. Mình nhớ đủ hết.
***
Năm Ðiền với đứa con gái bỗng nhiên chết ngã lăn tại nhà.
Tin đó truyền ra nhanh chóng. Cả rạch Thuồng Luồng, ai nấy chưng hửng. Mấy ông thầy rắn xúm lại khám nghiệm rồi quả quyết :
- Chết vì rắn. Dấu răng rắn hổ. Chắc chắn có rắn hổ nuôi trong nhà, nó phản lại chủ.
Chờ cho thưa khách, thầy Hai Rắn tới, cầm bàn tay của hai nạn nhân nọ mà ngửi. Nước mắt của thầy bỗng dưng tuôn xuống. Chợt nhìn chai rượu thuốc "rắn giao đầu" trên bàn thờ, thầy lắc đầu, thở dài.
Ðêm đó, thầy kêu thằng Lợi ra sân mà nói :
- Mai này cha phải đi. Con ở lại một mình. Cha buồn lắm. Họ dụ dỗ con để khám phá bí mật, cha biết vậy. Nhưng trăm sự cũng vì toa thuốc nọ thiếu cây huê xà nên không linh nghiệm. Cây đó khó kiếm lắm. Cha con Năm Ðiền tưởng là cha nói gạt chớ sự thật nó có : dây đó tròn bằng mút đũa, vằn vện như da rắn. Phải tìm ở chót núi ông Cấm, tìm cả tháng mới gặp một cây. Con Lài chết, có lẽ vì Năm Ðiền không tin con gái nên cho rắn cắn nó trước. Chừng thấy con chết, y buồn quá nên tự tử theo, không muốn chuyện đổ bể ra e mất thể diện với bạn đồng nghề. Nghề rắn nó nghiệt như vậy đó !
Ðêm sau thầy Hai Rắn trốn xóm riềng, trốn đứa con trai mà đi mất.

Còn thằng Lợi ở lại. Tội nghiệp biết chừng nào ! Nó nào hiểu tại sao loài người bày đặt ra thuốc rượu "rắn giao đầu" để dụ dỗ lẫn nhau, trong khi cái tình yêu tự nhiên còn keo sơn hơn gấp mấy ! Nó không hiểu sở dĩ ngày nay nó cô độc, vắng cha, vắng tình nhân như vậy chỉ vì mối ganh tị giữa hai người đồng nghề là cha nó với cha con Lài.
Nó thơ thẩn như mất hồn, khóc không ra nước mắt mỗi khi ra thăm nấm mộ của người tình xưa, thấy mấy dây rau muống bò lan bên cạnh.
Cây huê xà là gì ? Có thiệt hay không ? Lắm đêm, nó nằm chiêm bao thấy một thứ dây lốm đốm trắng mọc cheo leo ở chót núi ông Cấm, tiếp với trời xanh. Trên cảnh xa vời không nhơ bợn đó, dây huê xà nhởn nhơ uốn éo với gió núi. Giữa lòng từng chiếc lá, hiển hiện kia trăm ngàn gương mặt của con Lài, tươi tắn, cười riêng với nó, trẻ mãi không già...

NGÔ NGUYÊN NGHIỄM * CUỐI NĂM UỐNG RƯỢU MỘT MÌNH



* nguyễn thanh thu
 
Tặng NGUYỄN HUY ĐIỀN

Chiều cuối năm gió thổi bật hồn ngươi
Tên lãng tử phiêu bồng thế kỷ
Cốc rượu đắng đổ đầy râu bạc
Hay là trăng soi xuống lệch đường trăng
Chiều cuối năm khí hậu mênh mang
Chau cổ tháp hồn xanh đá chảy

Hình như tiếng thảo trùng động đậy
Từng vi âm rơi rụng xuống hoàng hôn
Từng hơi thở bay ngập không gian
Nhả từng giọt hiển hoa bí tử
(Quanh thế gian, quỷ thần ngồi tư lự
Cháy lập loè bát lửa đầy vơi )

Chiều cuối năm trổi dậy hình hài
Mưa lác đác bên ngoài trời đất
Quê ai, mà đỏ bè thuỷ lục
Đèn mù u vò võ ven sông

Lãng bạt chưa đầy kín cánh buồm
Sao gió nở thổi tan hồn phách
Triệu năm sau, nếu có lần hoá thạch
Đời tử sinh còn gắn bó nơi nầy

Một mình uống rượu với ai đây
Tên lãng tử phiêu bồng thế kỷ
(Độc ẩm cho cháy càn khôn vậy
Rượu chừa chi nát dạ quỷ thần)
Chiều cuối năm núi vở quanh hồn .

NGÔ NGUYÊN NGHIỄM


Friday, January 18, 2013

TRÚC THANH TÂM * TỨ TUYỆT ĐƯỜNG XA





























VỚI SAPA

Gió lên mạn ngược về xuôi
Da em trắng mọng một trời Sapa
Ta nghe trời đất nở hoa
Rừng em mưa ướt, núi ta ngậm ngùi !


ĐÈO LONG LANH

Mưa non tình hé môi cười
Thời gian lắng đọng một thời xanh rêu
Ôm em lòng cứ suối reo
Xe êm đổ dốc qua đèo Long Lanh !

CHIỀU TUY PHONG

Bất ngờ gặp lại biển xanh
Mấy mươi năm buột tình anh chưa già
Mắt em cười mới hôm qua
Chút gì len lén chiều tà, Tuy Phong !

QUẢNG TRỊ ƠI

Trôi cùng Thạch Hãn mênh mông
Phượng hồng thắp lửa giữa lòng phố hoa
Cổ thành vững với phong ba
Áo em rợp trắng hồn ta, Nguyễn Hoàng !

TRÚC THANH TÂM

_______________________


phan bá thụy dương * quán đợi bên cầu



tặng Huỳnh Ngọc Hùng, Lê Bá Hùng

nhìn xa
khói bếp mờ nhân ảnh
có phải chăng em quán dọc đường

cát bụi nhạt nhòa hương tóc mượt
sao còn đứng đó ngóng tà dương?

nắng Hạ đường dài chân ngại bước
ai tiếp ai chào khách viễn phương

giọng hát nào êm - êm như biển nhớ
em - em quán bên cầu đón gió sương?



Wednesday, January 16, 2013

hải phương * mừng nhau đám cưới giữa mùa xuân ta làm thơ tặng vợ




























Tặng Queen

 
Bởi vì tình yêu là tất cả
khi ta ở cuối giòng sông Cái Lớn Nhatrang
em ở cuối giòng Cà Ty Phanthiết
hai con sông chảy ra biển rộn ràng
khi chúng ta ở La Jolla
mang theo Le Beau Rivage vời vợi
khi chúng ta ở vùng vịnh Cựu Kim Sơn
mang theo bờ cát dài Thương Chánh
mừng nhau đám cưới giữa mùa xuân .

Bởi vì tình yêu là tất cả
khi thơ ta chưa mùa màng
em đòng đòng cây lúa trổ
khi thơ ta trăng chưa mọc
em đã rằm đêm trước
khi thơ ta nguyệt thực
em lú nụ nguyên tiêu
mừng nhau đám cưới giữa mùa xuân .

Bởi vì tình yêu là tất cả
khi thơ ta bốn giờ sáng
hồn khuya là thác đổ
em bình minh phía chân trời hồng
ký ức thênh thang ló dạng đức tin rao giảng
trước lúc mặt trời mọc
khi thơ ta chưa tết
em quang hợp đời hoa
mở ra lung linh cánh gió
mừng nhau đám cưới giữa mùa xuân .

Bởi vì tình yêu là tất cả
khi thơ ta chiều thứ bảy
em nội trú Gia Long
rủ rê nhau dạo phố
em áo lụa học trò

Con Đường Tình Nhân* lộng lẫy
như là chuyện đôi ta
trao nhau nụ hôn mềm môi thế kỷ
đôi guốc mộc ngân nhẹ bước chân vui Hòn Ngọc
Viễn Đông thuở Tuổi Tình Yêu*
tay trong tay mắt môi say đắm
buổi chiều trường đại học hàng me tóc em trầm hương
trang phú lục mừng nhau đám cưới giữa mùa xuân .

Bởi vì tình yêu là tất cả
sáu mươi năm làm thơ tặng vợ
biển và em
nơi nào ta đi cũng có em và biển
nơi nào ta đến cũng có biển và em
em một bên biển một bên
nơi nào ta đứng cũng lênh đênh trời
em một nơi biển một nơi
chỗ nào ta ở cũng vời vợi em
chỗ nào em cũng có ta
chỗ nào ta cũng quê nhà có em
Một Thiên Thu Với Rộng Tà Áo Bay*
chỗ nào ta đi cũng Nhatrang / nhà thờ Núi Đá / chuyến
xe hỏa tốc hành buổi sớm mai sân ga nhộn nhịp
chỗ nào ta đi cũng Phanthiết / lầu Ông Hoàng / Mũi Né
/ buổi chiều ngóng chuyến ghe cá về trên bến cảng
chỗ nào ta đi cũng Đàlạt / Nơi Ta Hò Hẹn Cũ**
/ nhà thờ Con Gà đêm giáng sinh chuông đổ / con đường
lên số nhà 17 Pasteur mimosa vàng óng ả
chỗ nào ta đi cũng Long Xuyên / thành phố bên bờ
sông Hậu / cầu Hoàng Diệu / trường Thoại Ngọc Hầu
giờ tan học
chỗ nào ta đi cũng Saigon cũng Grall cũng La Pagode
cũng Bến Nghé cũng Bàn Cờ cũng Tân Định cũng
Trương Minh Giảng cũng Nguyễn Thiện Thuât
hay ở nơi nào cũng vậy
em và quê nhà sắc màu tươi rói
Cảm Ơn Tháng Giêng Biêng Biếc Ngực Em Cười*
mừng nhau đám cưới giữa mùa xuân .

Bởi vì tình yêu là tất cả
khi thơ ta ở trại K4 / K5 / Tân Lập – Vĩnh Phú
em qua đò ngang sông Hồng đò dọc sông Lô / suối A Mai
bơ vơ cơ cực
lê lết đến ngả ba Bà Chi núi non hiu quạnh theo ta
xuống biển lên rừng
thăm người tù khổ sai biệt xứ
mừng nhau đám cưới giữa mùa xuân .

Bởi vì tình yêu là tất cả
ta là kẻ làm thơ bản chất dân quê chân thật
tính khí bất thường / hoang tưởng
si mê ảo mộng / nội tàng lãng mạn tài hoa phung phí
lên lưới hẹn hò lầm lỡ / thua sạch đời mình
cám ơn em rộng lượng bao dung sau trước
nuôi dạy con cái nên người / nhọc nhằn bao nỗi
mừng nhau đám cưới giữa mùa xuân .

Bởi vì tình yêu là tất cả
bởi vì em là tất cả
bởi vì thơ là tất cả
bởi vì ta không là gì tất cả
ta một đời vô nghĩa
bởi em là trí tuệ
bởi em là tình yêu
em lộng lẫy dung nhan
cả đời ta ấp ủ
của ngàn sao kết tụ
dưới chân em mùa xuân
những bài thơ tình lai láng sáu mươi năm viết cho em đẹp
cho đời dành riêng tặng người tình là vợ làm của hồi môn
Queen ơi
Mừng Nhau Năm Mươi Năm Đám Cưới Giữa Mùa Xuân .
.
* Thơ Hải Phương .Queen xuất bản , Saigon 1962 ,1964 .Tại Hoa Kỳ 2oo6 ,2007 .
** Thơ Hải Phương ,nhạc sĩ Đức Quỳnh phổ nhạc và hát. Saigon 1990 .

Khi ở Sillicon Valley
Tháng giêng 2013
H ả i P h ư ơ n g


Lan Đàm * BUỔI TRƯA Ở COFFEE FACTORY


Gửi Phan Bá Thụy Dương

Ngồi đi, ta gọi cà phê,
Kéo thêm ghế, đợi bạn bè đến sau.

Quán trưa, hè nắng, nhìn nhau,
Điểm sương mái tóc, trán nhàu tháng năm.

Ngày mùa đông, trời lạnh căm,
Thấy trong khói thuốc mù tăm quê nhà.

*
Ngồi đi, còn ấm chung trà,
Về ư, thì lại mình ta ngậm ngùi.

LAN ĐÀM

November.2012

Tuesday, January 15, 2013

Văn Quang * Những lời phát ngôn đáng kinh ngạc nhất năm 2012



Nhân dịp cuối năm, khá nhiều cơ quan lớn nhỏ Việt Nam làm tổng kết rất “hoành tráng”. Theo lệnh tiết kiệm nên những mục tiệc tùng được giới hạn bớt, nhưng đấy là đứng về phía cơ quan, còn chuyện các quan chức liên hoan riêng theo từng nhóm là chuyện khác, chẳng ai kiểm tra được. Thôi thì “quên nó đi”. Ở một số cơ quan cờ quạt treo tưng bừng cho ra vẻ có “hội nghị tổng kết” chứ chẳng lẽ để nó im lìm như những ngày thường cũng “khó coi”. Trong chương trình nghị sự, chắc chắn là phải có mục kiểm điểm thành tích, lại ưu điểm trước, khuyết điểm sau. Phần ưu điểm của địa phương nhà bao giờ cũng lẫy lừng chiếm gần hết phần thuyết trình của ông chủ tịch. Phần khuyết điểm, tồn tại khiêm nhường vì lý do chủ quan khách quan lơ mơ cho phải phép. Rồi “phương hướng nhiệm vụ năm sau” lại tràng giang đại hải với những “quyết tâm” “quyết sách” mới mà không mới, cũ mà không cũ. Rồi vỗ tay, rồi hoan hỉ đón chào Năm Mới. Vui ra phết.
Trong khi đó một vài tờ báo lại oái oăm, tổng kết toàn chuyện “khủng” (lố bịch, kỳ quái, gây kinh ngạc) trong năm. Tất nhiên những chuyện đó được chọn lọc trong số rất nhiều chuyện “khủng” đã từng xảy ra. Chuyện gần nhất và mới nhất phải kể đến chuyện hai bộ trưởng đích thân đi kiểm tra an toàn thực phẩm tại chợ Đồng Xuân. Các vị này hết lòng lo cho sức khỏe của nhân dân, đây là một hành động “thực tế” phải được nhân dân hoan nghênh. Nhưng tiếc thay, những điều xảy ra hoàn toàn ngược lại.

Các bộ trưởng kiểm tra những gì, kết quả ra sao?
Lâu nay nghe báo chí và các đài phát thanh truyền hình báo động về tình trạng an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) trong cả nước rất nguy hại. Hầu như không có thứ nào không có độc. Từ mớ rau đến thịt gà thịt heo, từ các món phụ gia đến bánh kẹo đều bị pha trộn màu mè độc hại. Chưa nói đến các mặt hàng giả từ Trung Quốc xâm nhập bằng mọi cách đánh lừa người tiêu thụ. Người dân kêu ca và ngộ độc không ít.
Nóng lòng vì tình trạng này, sáng 5-1-2013 vừa qua, Bộ Trưởng Bộ Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến và Bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp Phát Triển Nông Thôn (NN-PTNT) Cao Đức Phát cùng dẫn đầu đoàn đi kiểm tra công tác an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) tại chợ Đồng Xuân - chợ đầu mối lớn nhất Hà Nội.
Hai bộ trưởng đã đến các khu bán hàng khô, bánh kẹo, hàng tươi sống và phụ gia thực phẩm yêu cầu lấy mẫu tương ớt, bóng bì, màu điều, tôm nõn khô, tôm sú tươi… để kiểm tra nhanh và chuyển mẫu về Viện Kiểm Nghiệm ATVSTP. Kết quả kiểm tra tại chỗ cho thấy sản phẩm tương ớt và hạt điều âm tính với phẩm màu, bánh đa nem âm tính với hàn the. Theo một số tiểu thương, đây là lần đầu tiên họ được chứng kiến một đoàn kiểm tra có nhiều nhà lãnh đạo như thế này. Đúng là “hoan hỉ” thật.
Tiếp đó, đoàn đã đến cơ sở chuyên sản xuất và kinh doanh giò chả, bánh chưng, thịt bò khô, lạp xưởng, ruốc thịt heo Quốc Hương ở phố Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Kiểm tra nhanh các chỉ số hàn the, formol, phẩm màu công nghiệp một số sản phẩm ở đây đều cho kết quả âm tính.
Trước đó, trong buổi sáng cùng ngày, đoàn do bộ trưởng Bộ Y Tế dẫn đầu đã kiểm tra công tác ATVSTP tại Công ty Cổ Phần Chăn Nuôi C.P. Tại cơ sở này, đoàn cũng ghi nhận đã tuân thủ tốt các quy định về ATVSTP.
Tóm lại trong suốt thời gian kiểm tra đủ mọi mặt hàng, cả hai vị bộ trưởng và “phái đoàn kiểm tra” không tìm ra bất cứ một dấu vết nào về sự độc hại trong các món thực phẩm. Xem truyền hình thấy các cụ trong đoàn và mấy bà bán hàng ở chợ vỗ tay quá trời, hỉ hả nhìn nhau tươi rói.

Ai nói láo ăn tiền?
Như thế té ra lâu nay mấy anh báo chí truyền thanh truyền hình loan tin “bố láo” chăng? Mấy chị bán hàng được thể khoa trương ầm ĩ: “Nhà báo nói láo ăn tiền” là trúng ngay boong rồi. Có tới 2 bộ trưởng và cả một phái đoàn hùng hậu đi kiểm tra đấy nhé. Có cái gì độc hại đâu! Chúng tôi làm ăn đàng hoàng mà, chỉ có các ông vu oan giá họa thôi.
Nhưng người dân thì khác. Không ai tin vào cái sự kiểm tra này. Bởi chưa đi kiểm tra, dân bán hàng đã biết ngày giờ các vị đến và còn có thể biết kiểm tra những hàng nào. Tất nhiên mấy bà bán hàng chỉ đưa “hàng mẫu” ra cho phái đoàn kiểm tra. Còn bao nhiêu hàng “đểu”, hàng giả, hàng có độc được giấu kỹ. Các quan đi rồi lại lôi ra bày bán. Thực phẩm bẩn vẫn tràn lan ở chợ, người tiêu thụ phải nhắm mắt ăn liều vì chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Vậy thì ai “nói láo ăn tiền”? Để chứng minh thực tế hơn, mời bạn đọc những phê phán thật nhất của người dân.

Hãy thôi biểu diễn màn cưỡi ngựa xem hoa
- Nhìn thấy những hình ảnh “hoành tráng” của Bộ Trưởng Bộ Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến và Bộ Trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát kiểm tra thực phẩm tại các chợ ở Hà Nội, nhiều bạn đọc ngỡ ngàng. Bạn đọc Hoàng Khắc Kha nhận xét: “Đi kiểm tra mà rần rần như đi lễ hội như vậy thì làm sao mà phát hiện thực phẩm không an toàn? Sao các vị không thử tìm hiểu xem người dân hàng ngày sinh sống, ăn uống ra sao?”.
- Trước những hình ảnh kiểm tra nhanh không phát hiện thực phẩm không an toàn, cả đoàn kiểm tra vỗ tay tán thưởng trên truyền hình, bạn đọc Hữu Luân bày tỏ: “Quá biểu diễn! Đoàn đi kiểm tra có báo trước không? Cách kiểm tra như vầy là một kiểu hình thức, thông báo cho báo chí đến phỏng vấn chụp hình rồi loan báo: “Chúng tôi có đi kiểm tra thực tế đây, cách kiểm tra như vậy thì tốt đẹp rồi...”.
- Bạn Teddy tiết lộ thêm: “Năm nào chả vậy, cứ năm hết tết đến thì nào là CA Phường, quản lý thị trường, phòng cháy chữa cháy... tấp nập hỏi thăm các công ty trên địa bàn. Mục đích cũng chỉ là thu đủ số phong bì về tiêu tết. Ngày trước ở một số phường còn làm hẳn cái công văn. Năm nay hoành tráng hơn, có cả đoàn cán bộ rất to đi...”.

Mang bày hàng toàn những “cử tri mẫu”, hàng mẫu
- Bạn Vĩnh nêu một cảnh mắt thấy tai nghe: “Các vị chỉ cưỡi ngựa xem hoa thôi, nhà tôi tại một chợ nhỏ nên rất dễ phát hiện người bán tẩm hóa chất vào thực phẩm chín, tươi sống như các loại dưa chua tẩm bằng chất bột màu trắng pha vào nước, cá biển tẩm phân u rê, thịt sống thì hàn the... chẳng thấy ai kiểm tra cho nên họ an toàn mà bán...”.
- Chán nản với cách làm này, bạn đọc Quang Vinh phân tích: “Không riêng gì kiểm tra thực phẩm mà bất cứ việc gì khi có đoàn cán bộ lớn đến thì địa phương, cơ quan liên quan được thông báo rầm rộ. Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri thì địa phương chọn lọc cử tri mẫu. Công an kiểm tra lấn chiếm lòng lề đường thì bà con buôn bán được báo trước dọn dẹp cho vừa mắt. Kiểm tra trường học thì học sinh được học trước bài và thực tập để giơ tay thẳng hay giơ tay cong... Cái bệnh hình thức đã ăn sâu vào mọi lĩnh vực, mọi hoạt động. Người dân ai cũng biết nên đâu thể lòe mãi được. Hãy gắng làm việc gì thực chất đừng cố đóng kịch làm gì”.
Điều đáng lo ngại là trước “thành công” của chuyến vi hành này, nhiều người dân sẽ không còn đề phòng với nguồn thực phẩm tại các chợ. Vẫn có người tin vào những cuộc kiểm tra “nghiêm khắc” của các cấp “lãnh đạo” bởi không dám tin vào những ông quản lý thị trường, những ông có nhiệm vụ kiểm soát thực phẩm hàng ngày ở các chợ. Kết quả là người dân lãnh đủ.

Và những điều phát ngôn “khủng” của chính khách Việt Nam
Vào dịp cuối năm này, tờ báo Tiền Phong xuất bản tại Việt Nam đã đề cử “10 phát ngôn siêu ấn tượng của quan chức Việt Nam”. Báo này viết:
“Năm 2012 chính thức qua đi, nhưng nhiều phát ngôn siêu ấn tượng của các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn còn đọng lại trong lòng dư luận.
Tầm ảnh hưởng của những phát ngôn đó đã vượt qua mốc thời gian, không gian mà có thể người phát ngôn cũng khó thể hình dung được, nó cũng thể hiện phần nổi những vấn đề kinh tế, xã hội, y tế tồn tại nổi cộm trong năm qua”.
Tôi chỉ xin chọn lọc lại một nửa trong số 10 phát ngôn “siêu ấn tượng” đó cũng đủ để bạn đọc bàn luận dài dài trong lúc trà dư tửu hậu cao hứng đón xuân.

1. Ngây thơ thật chứ không phải “ngây thơ cụ”
Trước hết xin bàn đến phát ngôn của bà Bộ Trưởng Bộ Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến. Cái máu của tôi vẫn vậy, cứ thấy “người đẹp” phát ngôn là đọc trước cái đã. Dù có là chức tước gì chăng nữa, bà vẫn là “liền bà” và lại là “liền bà đẹp” nữa mới chết chứ. Thế thì tội gì không xem trước.
Thật ra lời phát ngôn này tôi đã đọc trong bài tường thuật về phiên trả lời chất vấn ngày 14-11-2012 tại kỳ họp thứ 4 Quốc Hội Việt Nam khóa XIII. Bà bộ trưởng đưa ra giải pháp hạn chế tiêu cực trong bệnh viện và nâng cao y đức lương y một lời yêu cầu bất hủ:
“Bệnh nhân và người nhà hãy dứt khoát không đưa phong bì và nếu thấy bác sĩ, điều dưỡng nào nhận thì chụp ảnh, gửi cho chúng tôi".
Một giải pháp coi như “mission impossible”, ngay cả các điệp viên cũng khó thực hiện được chứ nói gì đến người dân. Làm sao chụp được ảnh mấy ông bác sĩ nhận phong bì của bệnh nhân đây? Có nhận cũng phải nhận kín đáo như các quan nhận tiền hối lộ, tiền lót tay dưới gầm bàn hoặc đưa cho vợ con quan, coi như đây là hành động “tối mật” chứ khơi khơi đứng giữa bệnh viện mà nhận phong bì hối lộ sao, thưa bà Bộ Trưởng? Dư luận râm ran phê phán gay gắt, cho là giải pháp không tưởng. Nhưng tôi thì hơi khác một tí. Tôi cho là lời phát ngôn “hơi bị ngây thơ”.
Cái số tôi thường gặp một số người đẹp, nhưng mấy bà ấy “khôn như Khổng Minh, tinh như Tào Tháo”, chẳng bà nào chịu “ngây thơ” một tí cho nhà cháu nhờ. Thế nên tôi lại thấy… hơi thích những người đàn bà đẹp có vẻ ngây thơ như thế này. Chắc nhiều nam độc giả cũng có ý thích đó như tôi nhưng “chả dám” nói ra mà thôi. Tôi cam đoan đây không phải là “ngây thơ cụ”, tức giả vờ ngây thơ cho duyên dáng thôi. Đây là sự ngây thơ rất thành thật vì phát biểu trước Quốc Hội kia mà. Còn lâu bạn mới gặp được một người đẹp ngây thơ như thế.

2. Viết sách quân sử hay viết binh pháp thay Tôn Tử?
Là dân “nhà banh”, cái máu lính vẫn còn trong tôi nên tôi chọn một vị viết sách quân sự hay nhất đứng hàng thứ hai trong số những lời phát ngôn gây sốc nặng trong năm 2012. Đó là phát ngôn của ông Đại Tá chỉ huy “trận đánh” để cưỡng chế đầm của vợ chồng ông Đoàn Văn Vươn. Có lẽ chưa bạn đọc nào quên vụ này, đến nay còn nhiều ông tham dự “trận đánh” đó bị đưa ra tòa.
Ngày 8-1, trả lời phỏng vấn báo chí về vụ việc cưỡng chế đầm của ông Đoàn Văn Vươn, Đại Tá Đỗ Hữu Ca, Giám Đốc Công An TP. Hải Phòng cho rằng: “Vụ việc hôm ấy tuy bắt không được nhưng trấn áp được đối tượng. Phải nói rằng việc hiệp đồng tác chiến cực kỳ hay. Tôi bảo, không có cuộc diễn tập nào thành công bằng cuộc diễn tập lần này. Một là, anh em cơ động dùng thuyền để tiếp cận là chưa có bao giờ trong giáo án, đã phải dùng thuyền nan để chèo vào, bí mật áp sát mục tiêu đấy. Đánh mũi trực diện nghi binh ra làm sao. Rồi là tác chiến vòng ngoài, vòng trong thế nào. Tôi nghĩ là rất hay, có thể viết thành sách. Tôi nói với các đồng chí Thường trực rằng đây không phải kế hoạch tập trận nhưng đúng là phải rút kinh nghiệm, cái này nó rất là hay, có sự kết hợp giữa địa phương, giữa công an, quân đội, biên phòng rất là đẹp…”.
Chả biết bao giờ tác giả Đỗ Hữu Ca mới viết thành sách dạy cách đánh trận vào nhà dân tuyệt cú mèo như thế để nước Việt Nam có thêm một cuốn binh pháp mới lừng danh thiên hạ? Theo ông thì từ cổ chí kim những chiến thuật… cực kỳ hay ấy “chưa bao giờ có trong giáo án”, tức là chưa có sách vở quân sự nào dạy. Sách của ông hẳn là hơn binh pháp Tôn Tử nhiều vì Tôn Tử chỉ biết dạy cách dụng binh lấy ít thắng nhiều, lấy nhu thắng cương chứ không biết dạy cách dụng binh lấy nhiều đánh ít, lấy mạnh thắng yếu, đánh trực diện vào nhà dân. Chắc là sách của tác giả Đỗ Hữu Ca “vừa bán vừa… nghe chửi” cũng đắt hàng.

3. Bao giờ ông Thống Đốc đi nhận giải Nobel?
Là dân “viết lách lăng nhăng” nên nghe tới giải Nobel là tôi khoái rồi, nhưng nếu tôi tơ tưởng mình nhận được giải Nobel, chắc chắn bạn bè và bạn đọc cũng như ngay trong gia đình tôi, từ anh em chú bác đến họ nội ngoại xa gần cho tôi là thằng điên nặng, cần phải tránh xa kẻo có ngày nó đốt nhà. Thế nên khi nghe ông Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình nói đến nhận một nửa giải Nobel là tôi hoa mắt đọc liền.
Ngày 13-11, trả lời chất vấn của đại biểu Trần Du Lịch về sự điều hành kém cỏi của ngành ngân hàng trong mục tiêu kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng, ổn định tỷ giá và câu chuyện quản lý vàng (tại kỳ họp thứ IV quốc hội khóa XIII), Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Nguyễn Văn Bình cho rằng: “Người ta tìm ra bộ ba bất khả thi giữa tăng trưởng, lạm phát và tỷ giá, ông đó được quốc tế cho giải thưởng Nobel. Vậy mà hiện nay chúng ta phải vừa làm sao kiềm chế được lạm phát mà vẫn phải tăng trưởng. Tôi đã có lần nói đùa với Chủ Tịch Quốc Hội là em chỉ cần nửa giải thưởng Nobel cũng được, nếu em làm được một trong hai”.
May quá, cuối cùng hóa ra ông Thống Đốc nói đùa. Nhận nửa giải Nobel, còn một nửa để cho ai đây, ông Thống Đốc? Thôi thì, nếu được, ông cứ nhận cả đi cho dân giàu nước mạnh, ông cũng giàu có phải sướng hơn không. Về nhà nghỉ khỏe, tội gì cứ phải tối ngày đi “canh me” mấy anh ngân hàng lách lãi suất, mấy anh buôn bán vàng lậu, vàng không “chính hãng” SJC? Ông có đi lãnh giải cho tôi đi ké xem nó ra làm sao, ông nhé.

4. Bộ ngành trung ương sẽ nhịn đói khi đến Bắc Trà My
Động đất thủy điện sông Tranh 2 được nhiều báo bình chọn là một trong sự kiện tốn nhiều giấy mực báo chí và là một trong 10 sự kiện nổi bật năm 2012. Nay động đất lớn mai động đất nhỏ làm người dân hoảng sợ. Nhiều phái đoàn cao cấp đến tận nơi quan sát và tìm biện pháp chống đỡ. Điều này làm phiền các quan chức của huyện không ít. Sáng ra tiếp phái đoàn của Bộ này, chiều đứng nghênh đón phài đoàn của Bộ kia. Mất thì giờ!
Cho nên ngày 20-11, UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức họp nghe báo cáo các vấn đề liên quan đến tái định cư các dự án thủy điện trên địa bàn tỉnh.
Ông Trần Anh Tuấn, Phó Chủ Tịch UBND huyện Bắc Trà My, khẳng định: “Hôm nay, huyện nêu quan điểm khẳng định nếu các sở ban ngành của tỉnh lên khảo sát, kiểm tra tình hình của người dân thì huyện sẽ tiếp, còn các đoàn của Bộ, ngành trung ương vào huyện sẽ không tiếp nữa. Thời gian qua, mỗi lần động đất mạnh thì các đoàn này, đoàn nọ vào nhưng chẳng giải quyết được vấn đề gì, động đất thì càng ngày càng mạnh. Từ nay, thời gian đó huyện sẽ dành giải quyết công việc của địa phương thay vì tiếp đón các đoàn”!
Thế là các phái đoàn trung ương đến Trà My sẽ phải nhịn đói nhịn khát bởi các cụ “chẳng làm được gì” cho bớt động đất. Tiếc rằng các cụ trong đoàn không phải là những ông thần đất, thần đèn, có khi cái bằng đại học cũng là “dỏm” nên không làm được gì là chuyện tất nhiên. Lỗi tại các cụ trong phái đoàn. Cho nhịn đói nhăn răng là hết đến, cái quyết định của ông Phó Chủ Tịch UBND Bắc Trà My chắc chắn sẽ có hiệu quả, đáng làm gương cho các địa phương khác.
Chỉ sợ Ủy Ban nói thì hăng lắm, nhưng cứ động nghe có phái đoàn trung ương tới lại mũ áo chỉnh tề, chuẩn bị sẵn cơm bưng nước rót, chỗ ngủ tối tân mát mẻ cho các thượng khách. Bởi tương lai của cái Ủy Ban Huyện tùy thuộc vào các “đàn anh” cấp trên. Không ra đón, không có chương trình kế hoạch đàng hoàng có thể bị về vườn như chơi. Có lẽ ông Phó Chủ Tịch phải nghĩ lại ông ạ. Dại gì, thời buổi này chạy vào công chức còm còn mất ít nhất 100 triệu, chạy vào chức của ông tốn kém của núi đấy chứ ít sao. Sách có câu “quân tử nói đi là quân tử dại, quân tử nói lại là quân tử khôn”. Ông cứ nói lại là các bác trung ương đến, chúng em sẽ tiếp đãi ra trò, nói nhỏ thôi cũng được.
Thưa bạn đọc, tờ báo Tiền Phong “đề cử” đến 10 lời phát ngôn siêu ấn tượng trong năm, nhưng tôi chỉ xin bàn đến 4 câu, tức là gần một nửa để bạn đọc mua vui cũng đủ. Nói nhiều sợ bạn đọc mắc nghẹn vì kinh ngạc.