Ông
Lộc là một nhà thơ đã ngoài sáu mươi, sống khá bình thản tuy cũng có
lúc hơi chúi chúi xuống phía nỗi buồn. Giá như ông đang sống giữa một
gia đình đông đủ mà có lúc buồn xa vắng cũng là chuyện thường, huống hồ
ông sống có mỗi mình. Nghe nói ông đã có thơ đăng báo từ Hà Nội, Sài Gòn
sang đến Mỹ, tính ra bốn mươi năm có thừa, thế mà tên tuổi ông xem ra
không có quá nhiều người biết đến. Điều này có thể là mối quan tâm của
ông hai mươi năm trước, chứ giờ thì chẳng còn nghĩa lý gì. Ra đời dính
một sinh thú lắm khi tình cờ như dính một cái nghề, lâu dần nó bén rễ
tựa cây cối, không dễ mà nhổ, dù có lúc người ta tự biết cái cây chẳng
sinh hoa kết trái như ý. Nay thì thứ cảm giác khó chịu như thế cũng
không còn, thành thói mất rồi, do đó chẳng tuần nào bưu điện không nuốt
của ông vài đồng bạc tem. Vâng, ông thả thơ đi khắp thế giới - nơi đâu
có báo tị nạn là có thơ ông tìm đến - những vần cổ thi toát lên cái
thanh khí của một ngọn núi cao, nhìn xuống mà thương cho cõi thế gian
nhầy nhụa những luỵ tình.
Nhưng
sáng nay, một sáng cuối năm ngọn núi lòng ông cứ vi vu gió thổi một
điệu nhớ nhung cái cõi đầm lầy xa như từ nhiều nghìn năm trước, chỗ mà
ông còn là một ngọn đồi xoàng xĩnh lẩn khuất giữa muôn triệu ngọn đồi
xoàng xĩnh khác.
Ông
nhìn lên bàn thờ vợ. Nhanh quá, mới đó đã non mười bốn năm trời. Bất
giác sự liên tưởng dẫn ông xa hơn. Mười bốn năm sau di cư 54 mình làm gì
nhỉ? Hồn ông cộm lên nỗi bồi hồi. Lúc ấy ông sắp bốn mươi, thủ một ghế
chủ sự phòng trong bộ Tư Pháp, vừa cưới được bà vợ thua ông gần chục
tuổi, chưa kịp trăng mật thì trận Mậu Thân xảy ra. Thật là một mùa tao
loạn rối ren, nhưng với riêng ông cái bóng tối ấy lại như tấm màn che
lại nhiều dấu ấn lãng mạn khó quên. Hai người đã giấm giúi yêu nhau
trong cả những phen chạy loạn, tá túc nơi các sân trường.
Ông
châm thêm nước nóng, hy vọng tách trà giữ cho ông sự thận trọng dù ngay
trong cơn hồi tưởng rộn ràng. Ông nghĩ ông nên đứng dậy dọn dẹp căn
phòng.
*
Gia
đình ông Lộc thuộc những nhóm thuyền nhân đầu tiên vượt biển và được
định cư tại Mỹ. Ông đi cùng vợ hai con, nhưng một cơn bão đã loại khỏi
tổ ấm người quan trọng nhất, vợ ông. Thật trời mà có vợ đã chắc gì đau
nỗi đau giống ông nếu vợ trời không là người đàn bà đảm. Từ buổi chế độ
mới biến ông thành kẻ vô dụng, vợ ông, một bà giáo mà lương tháng không
đủ mua hai lon bia Nhật, đành bỏ trường hùng hổ lao ra lề đường, đầu tắt
mặt tối kiếm cơm áo nuôi gia đình, rồi xoay xở đem được cả nhà ra đi
trót lọt.
Cái
chết của vợ như sợi thừng trói vo ông lại với lắm đam mê vốn có của
người nghệ sĩ. Nghề giáo không có nghĩa là bà phải thận trọng cả trong
cơn ghen. Vâng, xưa vợ ông ghen rùng rợn. Đã không thiếu phen bà xông cả
vào sở thanh tra ông tại chỗ. Có lần ông đang đọc lá thư của một cô thư
ký cũ gửi về thăm hỏi, chẳng có gì là tình ái trầm trọng, nhưng ông đã
phải vo tròn bỏ miệng nuốt trửng. Gì chứ bà vớ được một nét chữ đàn bà
trên tay ông thì đến khốn khổ cả phòng. Bà sẽ đóng ngay vai chánh án mà
can phạm sẽ không chỉ riêng ông, cả chục nhân viên dưới quyền cầm chắc
nguy cơ lãnh án tòng phạm tuốt luốt. Cái nghi của người đàn bà ghen to
hơn khối óc là vậy. Có lần bà giận, mỉa mai: “Lấy anh thợ thuyền chân
chất mà lại yên bụng hơn lấy anh khoá băm nhăm!”
Tự
dưng ông cười ngặt nghẽo, không vì nhớ lại mà cười vợ, nhưng vì ông
nghĩ nếu bà còn sống hẳn bà sẽ thấy lấy anh thợ thuyền đã chắc gì hạnh
phúc. Vâng, đời sống mới đã đẫy ông vào một chương trình CETA, và cuộc
đổi đời đã biến anh khoá thành anh thợ thuyền. Không thiếu lúc ông kinh
ngạc tự hỏi động lực nào khiến được ông có thể kiên nhẫn cày nghề thợ
tiện trong từng đó tháng ngày. Nhưng giờ đã hết. Đại hạn mười năm đã
hết. Ông không còn là thợ thuyền nữa. Ông đã được trở về với con người
cũ của ông. Cũng may, ông tự an ủi, rằng trời cho ông còn bàn tay phải
để làm thơ, để lâu lâu pha mực Tàu viết vài chữ đại tự tặng những thân
hữu còn sót cái tâm của lão ngục quan trong Chữ Người Tử Tù. Ông tự biết
nét tài hoa trên bàn tay phải dù đã chịu nhiều thử thách gian nan nhưng
còn đáng đồng tiền bát gạo lắm lắm.
Và
như thế ông cố lấy những gì ông có mà đổ vào những hang động núi đá,
chỗ không ít lúc bày ra lắm khoảng trống vắng bâng khuâng. Mà những thứ
ông có cũng chẳng nhiều nhặn chi. Một căn nhà ba phòng ở phố Pasadena trong thung lũng San Gabriel.
Nơi đây sau nhà thấy núi. Những chiều Thu mây trắng sà thấp, biến những
đỉnh núi nhấp nhô ra lũ đầu bạc ngó xuống rừng phong rặt một màu quan
san. Sang Đông núi biến thành những bệt đen dài huyền bí, cho đến một
ngày tự dưng có mưa, những vầng mây ô nhiễm biến đi, núi như hiện ngay
trước mặt, mở các hang động thả ra rừng hoa đào đỏ au trộn với rừng hoa
lê trắng ngần. Có những chiều gió núi thổi tốc xuống rừng cây. Ôi chao,
hoa lê bay trắng trời. Ông bước đi mà tưởng như chính ông không còn
trông thấy ông nữa.
Hơn
hai năm qua các con đi học xa ông luôn giữ cho ông hai phòng. Một phòng
ngủ; một phòng được trang trí để vừa làm chỗ viết lách, luyện thiền,
tập taichi, vừa đặt bàn thờ vợ; và phòng còn lại tính kiếm người
cho thuê, nhưng chần chừ mãi vẫn để trống. Khi mua nhà ông cọc một số
tiền khá lớn, mức trả hàng tháng nhờ đó không quá nặng. Nay với số cấp
dưỡng tàn tật quả ông có cần thêm một khoản tiền nhỏ chi dụng.
*
Ông
Lộc có vài người bạn trà rượu, đều chỗ quen biết cũ, không lối xóm cũng
là người đồng sự từ quê nhà. Họ đi lại với ông đều, và ông cũng thích
duy trì sự đều đặn đó. Trước nhất họ là những kẻ không thể phủ nhận sự
nho nhã có truyền thống của gia đình ông, kế nữa hai thằng giặc nhà này
đến lúc cũng phải kiếm vợ cho chúng nó chứ. Đám bạn người nào cũng có tí
con gái. Ông đến chơi, thấy tính ăn nết ở lắm đứa được quá, chọn làm
dâu con không lấy gì chênh lệch.
Riêng
khoản ẩm thực ông Lộc là tay khá bảnh. Chẳng những biết ăn ông còn biết
nấu. Thủa mới sang phải cày cuốc ông hay đi ăn tiệm, sau bị chứng máu
cao, sợ bột ngọt ông bớt chuyện đi ăn tiệm. Từ tai nạn đến nay, nằm nhà,
ông thừa thì giờ làm sống lại cái thú nấu ăn có từ trẻ. Vùng này gần
nhiều nông trại. Gà tươi, vịt tươi, heo tươi, dê tươi... Gì chứ chuyện
phanh ngưu tể dương muôn đời tạo sự gắn bó. Có tốn kém chút đỉnh, có vất
vả chút đỉnh nhưng ông vui. Ít ra quanh ông còn có tiếng nói, tiếng
cười thân mật của con người.
*
Một
chiều Thu lạnh. Cây trên sườn núi liên miên trút phẩm đỏ xuống vườn
nhà. Gió luồn lách như thổi vào lòng. Ông Lộc xốn xang nghe thiếu một
điều gì không thể thiếu nữa. Nhưng giống ông lang không nghe mạch được
cho chính mình, ông chịu, bỏ lửng ngọn núi lòng ông cho nỗi xốn xang
hành hình.
Lại
chén rượu thôi, ông nghĩ. Thế là ông sửa soạn một nồi giả cầy, mời ba
ông bạn cố cựu tới phụ tay mà giết cái vạn cổ sầu. Ba ông bạn là ông
Hoành trong Việt Mỹ Tin Lành Hội, ông Lâm hội Cao Niên và ông Tánh có
chân trong ban cố vấn hội Cựu Quân Nhân.
Ông
Lộc biết rõ ưu khuyết điểm từng người như biết hai bàn tay mất còn của
mình. Nhưng điều ông biết rõ hơn là họ chịu tài nấu của ông. Chẳng món
gì ông nấu mà lại không gợi hứng cho đám bạn hân hoan tán tụng. Ông biết
họ thành thật. Do đâu? Trời, họ không đều là bọn đàn ông khốn khổ ráo
trọi đấy sao? Họ làm chủ những người đàn bà đã ngoài sáu mươi cả, nhưng
vì cái nhà, cái xe, cái tủ chè, bộ sa-lông... các bà vẫn phải ngày ngày
tự giam mình trong những công tư xưởng, để bếp núc trở thành thứ trò
chơi lúng túng cho lũ chồng tự âm thầm biết mình là kẻ bạc phước. Vậy
thì ông tiếc chi tí công tí của để lâu lâu cả lũ bạc phước có được với
nhau một buổi chiều ấm cúng?
Cứ
xem, còn gì thú vị cho bằng chỉ với một nồi giả cầy đã đủ đẻ ra một bầy
chó tơ bên quê nhà sủa vang ngõ nhỏ? Bầy chó sẽ đuổi cả đám chạy tứ tán
khắp mọi ngả đường quê hương. Kẻ sẽ sa vào sức cám dỗ không thể chống
cự của món đầu cá hấp Biên Hoà, kẻ ngã sấp ngã ngửa vào lòng mấy cô em
bán nem Thủ Đức, kẻ trốn lủi vào rặng dừa Bến Tre có những đĩa đuông lăn
bột chiên bơ béo ngậy, thậm chí có kẻ còn trượt chân rơi sâu xuống mấy
tỉnh hạ phần thân thể đất nước. Chà, rùa rắn chuột miệt dưới! Ông không
rõ mấy cái thứ đó đã biến bao nhiêu thế hệ sớm thành những tiên ông tiên
cậu.
Bữa
ăn vui vẻ diễn ra non hai tiếng mới tới màn trà đàm. Họ kéo nhau ra
phòng khách. Ông Lộc lấy hộp trà móc câu mới nhận được từ Việt Nam pha đãi bạn, giữa khi giọng ông Tánh “lính” oang oang:
“Thú thật với các bác tôi loại lông nách một nạm trà Tàu một hơi, đến nay vẫn cứ tự hỏi vì đâu lại có cái thú uống trà!”
Ông Lộc thận trọng kê vòi ấm lên miệng chén tống. Ông không nhìn bạn mà nhìn vào dòng trà thơm xanh nhẹ chảy, giọng hài hoà:
“Người
ta chỉ có thể om sòm khi uống rượu thôi bác ạ, còn bên khay trà mọi
chuyện đều phải thu nhỏ lại cho vừa với không khí ấm cúng. Vung chân
vung tay thế nào được nữa. Đấy bác xem, nâng cái chung téo tẹo nóng hổi
thế này lên hỏi ai mà không phải thận trọng? Tôi thì tôi nghĩ con người
luôn bị xâu xé giữa mộng và thực, nên người ta có méo mó đi, đôi khi bị
trương nở, đôi khi bị teo tóp; tách trà nóng quân bình được hết!”
Ông
Lâm “hội già” không hơn chủ nhà mấy tuổi, quãng sáu lăm sáu bảy chi đó,
nhưng có lẽ cái mác bô lão buộc ông phải có những phù phép riêng. Ông
nuôi râu dài trước ngực, ăn nói nhất nhất cái chi cũng đều trịnh trọng.
Ông nhìn quanh, bắt gặp giữa những tấm liễn tấm hoành quen thuộc có treo
mấy câu thơ Hán tự. Ông vui vui nghĩ mình đã tìm ra được cái cớ mà cảm
tạ chủ nhà về bữa ăn ngon.
Ông nói:
“Thế
ra uống trà là một ngụ ngôn thâm thuý các cụ để lại đấy!” Ông gật gù:
“Có thể thế lắm... Ồ mà cái kia chắc là ông anh mới viết, chà, nét chữ!”
Ông Lộc nhìn lên vách chỗ treo một bài thơ viết thảo thật lớn. Ông nhỏ nhẹ:
“Không
phải thơ tôi đâu. Chẳng là mấy hôm trước, nhân thấy cảnh Thu tàn tạ
quá, buồn dở sách cũ đọc trúng ngay bài ‘Kim Lũ Y’ của Đỗ Thu Nương, cảm
quá mà viết treo chơi đó thôi. Vâng, đó là hai câu cuối của bài tứ
tuyệt:
Khuyến quân mạc tích kim lũ y,
khuyến quân tích thủ thiếu niên thì;
hoa khai kham chiết trực tu chiết,
mạc đãi vô hoa không chiết chi.
Đại
khái nàng khuyên chàng giữ chi cái áo tơ vàng, có giữ là giữ lấy những
ngày xanh; và giục chàng hoa đến mùa thì cứ việc hái, đừng chờ lúc hoa
héo chỉ còn cành không.”
Thật
thì ông Lộc có nói dối. Ông đã viết mấy câu thơ đó ra trong một phút
nhớ người bạn đời của ông quá. Xưa bà là một giáo sư Việt văn. Hai người
thương nhau vì cùng gặp nhau ở cái lòng ưu ái cổ thi. Của đáng tội xem
ra bà thân với cổ nhân còn hơn cả ông; và há những ngày còn soan, bà đã
không lãng mạn gửi cho ông bốn câu thơ khéo nhắc khéo giục ấy đấy sao?
Mở sách gặp lại thơ xưa như gặp người cũ, ông ngậm ngùi viết treo trên
vách dù chẳng hiểu rồi để làm gì.
Ông Tánh vốn máu lính, nổi tiếng ăn nói ba gai, chen vào:
“Ghê nhẩy, người xưa mà đã cấp tiến vậy đấy!”
Ông Hoành “tin lành” rất cừ Anh ngữ, thấy đã đến lúc cần tí đóng góp, ông nói:
“Tôi
cũng dốt chữ lắm, thơ Tàu chỉ đọc bản dịch. Mới đây tôi có đọc một bài
tựa là Lover - người tình - đăng trên một tạp chí Mỹ. Tác giả là một nữ
sĩ vô danh nhưng bài thơ đã có đâu từ thế kỷ thứ mười. Nó thế này...”
Ông hơi lúng túng biện bác: “Thôi thì xin các bác cứ cho phép tôi đọc
nguyên văn bản Anh dịch đã nhá.
I know what it means, that damn dog barking
at a man half slumped against my door
A stockingless scamper down the stairs
to my worthless lover, drunk once more.
He needs to be helped to my silk hung bed
Can he get his clothes off on his own?
Of course he can’t. He’s as drunk as a badger,
but I guess it’s better than to sleep alone.”
Nhìn một vòng thấy các bạn đều bối rối, ông Hoành lại lúng túng. Ông bảo: “Xin tạm dịch hầu các bác luôn vậy:
Em biết chó em sủa cái gì
Sủa chàng lảo đảo trước hiên khuya
Thềm hoa lướt xuống chân không vớ
Em đỡ chàng lên say bét be
Đẩy giúp chàng lên giữa gấm sàng
Áo quần chàng tự cởi được chăng?
Vô phương! Chàng gục như con gấu,
Thà thế còn hơn phải ngủ không.”
Đọc xong ông Hoành tin lành nhìn ông Tánh lính:
“Xứ cụ Khổng, thế kỷ thứ mười, chưa là vợ chồng thế mà bác thấy. Trai gái ngày nay buông thả cũng đến thế thôi chứ!”
Bài thơ không ngờ gây kích thích giữa mấy ông đã vào tuổi cụ. Ông Lâm hội già có hao đi tí đạo mạo ngày thường. Ông cười:
“Thú
đấy. Gớm, thật là cái câu! Áo quần chàng tự cởi được chăng.” Ông đột
ngột nhìn chủ nhà, hỏi bâng quơ: “Mà hỏi thật từ sang đây bác Lộc đã say
lần nào chưa nhỉ?”
“Tôi ạ?” Ông Lộc có vẻ chột dạ, gãi nhẹ một chân mày: “Mà sao bác lại hỏi chuyện say?”
Ông Lâm hội già càng hứng khởi hơn:
“Trong
hội tôi lắm cụ ông vẫn tìm cớ say hoài đấy. Dĩ nhiên thế nào mà chả có
lúc ta cần say, tôi biết. Này bác ạ, ý tôi không nên không phải bác bỏ
qua cho, chứ tôi cứ thắc mắc cô quạnh như bác sao không sớm vào hội với
chúng tôi. Có tí bác gái mới cũng vui đấy chứ. Đồng đất nước người, lỡ
khi ta say còn có kẻ thương cảm, còn hỏi hộ cho mình ‘áo quần chàng tự
cởi được chăng’ mà không lý thú sao?”
Ông Lộc cười nhỏ nhẹ:
“Tôi
vốn nghĩ tuổi mình đi tới bước nữa là sự liều lĩnh tiêu sớm hơn những
điều kỳ thú còn sót lại ở cuối đường, thành ra tôi dừng lại đấy bác ơi.”
Không ai trong bọn nghĩ họ tin ông Lộc!
Kệ
họ, ông Lộc cứ điềm nhiên pha thêm một ấm trà. Không nhìn mà ông biết
mấy ly rượu khởi ngấm trong người ông Tánh lính. Ông e ngại rồi ra thế
nào ông ta cũng kết thúc tuần trà với một câu bậm trợn bất ngờ. Mà thế
thật, ông ta đã đứng lên, cười hê hê:
“Mình
gặp nhau nói cho ấm chân răng vậy thôi, hữu sự ly kỳ ấy có mà vái cả
tơi lẫn nón. Tôi là thằng lính già, ẩu tả quá trời, bê bối quá trời còn
phải chịu cái luật đào thải, chưa phải của trời đất chi, mà của ngay cái
dục trong tâm can mình đây này; nói chi con người nho nhã, mực thước
như cái nhà bác Lộc. Nói các bác bỏ qua cho, hăng như tôi mà giờ cả năm
chầy cối trong nhà cũng chẳng còn dịp tưởng nhớ đến nhau, thay thảy cứ
lạnh như đít bụt cả!”
Ông Hoành tin lành lướt vào, sợ rồi ra ông bạn nhà binh sẽ đi xa quá. Ông nói:
“À này, từ dạo hai cháu nó đi học xa, nhà trống, sao bác...”
“Vâng, của đáng tội tôi cũng đang có ý tìm một người cho trọ, miễn tử tế, đừng ồn ào...”
“Thôi
thế này thì con cháu tôi đúng là buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Phải đấy,
nhà thì rộng, cảnh lại đơn, tôi không bù khú đâu, nhưng nếu không có tí
hơi người trong nhà, tôi sợ ngay cái tâm già ấm cúng của mình rồi ra
cũng có ngày nó lạnh như đít bụt thật. Bác ưng, tôi báo tin cho cháu nó
mừng.”
Ông Tánh lính cười hê hê:
“Nhưng nên xâu xấu một tí.”
Ông Lộc nghiêm trang:
“Cháu nó đi làm hay đi học?”
Ông Hoành tin lành đáp:
“Nó học năm đầu y khoa. USC. Khổ quá, nhập học đến nơi mà vẫn chưa tìm ra chỗ trọ gần trường.”
Ông Tánh lính ngả người ra ghế, lại cười:
“Thế là được. Bác Hoành bỏ lỗi cho. Gái y dược, hê hê, tôi tin cô cháu đã hội đủ điều kiện để không được đẹp lắm.”
*
Ông
Lộc hài lòng về tính nết của Mai. Sự lặng lẽ ấy vừa đủ để không quấy
rối ông một ý thơ dang dở, và sự cư xử cho thấy cô gái chắc đã có một bà
mẹ nồng nàn.
Dù
Mai không hẳn là đoá hoa tươi sắc cắm vào chiếc bình trống, nhưng trong
dòng nhạc đời vốn đều đều của ông Lộc quả có nhờ đó mà trổi lên hơi
hướm một cảm âm lạ, không đê mê, chỉ gần với chút rung động héo hon,
bàng bạc chút mặc cảm không lời của một đoá hoa kém tươi. Một cái bớt đỏ
như chiếc lá phong bám một bên má, chạy xuống tới cổ, xoá đi phân nửa
vẻ đẹp một chân dung bình thường. Nền giải phẫu thẩm mỹ Hoa Kỳ liệu có
khả năng trả lại cho cô gái chút vốn đời khiêm tốn? Ông Lộc không biết,
nhưng điều ông biết chắc Mai có đôi mắt thật lạ, đôi mắt buồn xa vắng
như bài thơ đẹp, thường bị những lọn tóc rối mỏng như khói xoà xuống che
khuất phân nửa, khiến người ta chỉ còn cảm mà khó đọc ra được từng chữ
từng lời.
Đôi mắt giống hệt đôi mắt vợ ông!
Dù
đang chúi đầu vào chồng sách dưới đèn, nhưng cứ nghe thấy tiếng xe ông
đậu trước nhà là cô gái đã nhanh chân ra mở cửa. Ánh sáng sau lưng như
làm nảy ra khỏi tấm thân mảnh mai sự ân cần ấm như ý nghĩa gia đình. Thế
nào Mai cũng nói câu quen thuộc:
“Sao bác về khuya vậy, bác dùng cơm chưa, cháu dọn nhá?”
Ông
không tin lắm đó là hơi lửa nóng trong tình con thương cha, và thích
thú tưởng tượng giữa trời đông giá có mớ tro ủ, chỉ chịu khó khơi lên
một chút dư sức hâm lại một niêu cơm. Phong thái ấy chẳng khác chi vợ
ông ngày nào, có thể hừng hực lửa giận chờ cơm đấy, nhưng thấy mặt rồi
giận mất đâu cả.
Những
bữa ông về khuya quá, lại có tí hơi men, phản ứng của Mai xem ra có
chút trầm trọng. Bực trông thấy. Mai ghét ông uống rượu lái xe. Nhiều
lần cô bé kể cái gương ông bố ở nhà cho ông nghe với giọng doạ dẫm. Ba
ngàn tiền phạt; mỗi tuần một thứ bảy, chẵn chòi hai năm, cứ đến nơi toà
chỉ định mà xem miết những cuốn phim chết người vì uống rượu lái xe.
Thật tai quái, lâu dần ông đâm nghiện cái dáng dấp giận dỗi đó!
Những
ngày cuối tuần Mai hay bày ra làm những món ăn nho nhỏ, như bằng chứng
hùng hồn trong nhà có một cô gái thì mọi sự phải khác, người đàn ông
phải được hưởng một sự sung sướng khác: Một nồi riêu cua đòi nhiều tỉ
mỉ, những cặp bánh dầy bánh giò, những đĩa bánh cuốn nóng... Nhìn cái
lối ngồi đổ bánh cuốn, tấm lưng hơi gù vẻ nhẫn nhục, đôi bàn tay thành
thạo quẹt thanh tre mỏng hớt bánh trên mặt vải bốc khói của cô gái, ký
ức ông cứ như bị cái móng nhẹ cào sướt qua.
Ông Lộc quý Mai lắm, nhưng thành thật mà nói nếu chọn vợ cho con chắc ông sẽ có nhiều nghĩ ngợi.
Nhưng
giả dụ đùng một cái căn nhà này thiếu đi sự hiện diện kia? Không thiếu
lúc ông đã tự hỏi. Ông chắc ông không rối trí lắm đâu, nhưng sẽ bâng
khuâng, sẽ buồn nhè nhẹ. Khối óc thi sĩ của ông hình dung ra một nữ tu,
vì nhiệm vụ phải dấn thân vào đời vốn nồng nàn sướng khổ, lúc được triệu
về nhìn lại những bức tường tu viện lạnh lẽo thế nào, thì chắc nỗi bâng
khuâng của ông cũng đến như của chị thôi.
Nhưng
ông Lộc đã lầm. Ông không bâng khuâng. Ông chết lặng. Ông không ngờ năm
nay trời lạnh đến thế. Tuyết mấy năm trước chỉ lấm đầu núi, năm nay
nhiều ngọn bị nhuộm trắng non nửa. Gió cuối năm như nhất quyết không
muốn rừng đào rừng lê để dành được đoá nào tới lúc ra giêng. Thế mà ông
có mỗi mình!
Cô gái đã về nghỉ lễ với gia đình mãi tận San Jose.
Ông đinh ninh rồi cái hơi lạnh cuối năm sẽ khó có cơ tràn vào nhà ông
vì hai thằng con cũng về nghỉ lễ kịp lúc. Chúng ồ ạt trám ngay vào tất
cả mọi khoảng trống, nhưng chỉ được vài ngày, tưởng như hơi lạnh trong
gia đình không đủ cho chúng bão hoà bầu nhiệt khí tuổi trẻ, hè nhau thuê
xe đi chơi núi mãi tận vùng tuyết phủ Denver.
Hình như chúng quên trong nhà có một ông bố còn sống!
*
Tách
trà cuối vẫn không làm cho ngọn núi lòng ông Lộc ấm hơn, bình tĩnh hơn,
thận trọng hơn, nên ông quyết vùng dậy. Đã tới lúc ông phải dọn dẹp căn
phòng. Ông lặng lẽ gom mớ ly tách, nhặt từng mẩu bánh vụn, cố nhón khỏi
khe bệ cửa sổ một mẩu thuốc lá, một bã kẹo cao su, sửa lại mấy tấm
tranh ảnh lệch lạc trên vách. Loay hoay chốc lát ông đã mệt nhừ. Ông
ngồi bệt xuống thảm, ngao ngán hỉnh mũi, cảm nhận được sức tàn phá ghê
gớm của lũ con trai. Mới mươi ngày trước thôi ông có thể phân biệt rành
rẽ cái hương ngây ngây, cái thanh khí dịu dàng đến kỳ bí khi bước vào
căn phòng xinh xắn, có cửa sổ liễu rủ, nhìn xuống con đường đầy những
đào lê đương độ rực rỡ. Bây giờ đã nát bét cả. Căn phòng toàn mùi pizza,
khói thuốc, vớ thối và xem ra còn lẫn lộn cả mùi cơm bánh lên mẻ đâu
đây.
Bất
giác ông nhìn thấy cái kẹp tóc còn dính vài sợi tóc đen mềm nổi trên
mặt thảm trắng. Ông nhặt lên, rút sợi tóc, ngắm, lòng nảy bâng khuâng.
Trong tủ áo lòi ra phần cuối chiếc giày nỉ màu xanh lam. Ông nhớ đến cái
gót chân tròn trắng như quả trứng ngỗng và những bước đi loanh quanh êm
ái. Ông bần thần đẩy cánh cửa tủ hé sang bên. Nơi góc tủ còn vắt lơ
lửng chiếc áo lót mình trắng mỏng. Bóng tối như phả lên nó vài bệt mồ
hôi sâm sẫm. Khi không ông đứng nhìn trân lúc lâu, rồi nửa hồi hộp, nửa
dè dặt ông gỡ manh áo khỏi móc. Trong góc phòng bỗng như có một ma lực
kéo ông ngồi xuống. Rõ ràng đã có đôi ba tiếng tim lỗi nhịp. Phải lúc
lâu lắm ông mới có gan trải tấm áo trên hai đầu gối. Cổ tay cụt vuốt nhè
nhẹ, thật nhẹ trên lớp vải mát mềm như da người ẩm. Rồi mắt ông sụp
xuống, như ngấm thuốc ngủ, như đê mê. Ông nhớ có lúc ông đã cảm thấy từ
một bệt mồ hôi khô thốt bốc hơi, thơm tho ngấm vào nhiều sợi gân nhạy
cảm chỗ cổ tay, đến nỗi trong tiếng thở dài vô cớ sau đó như có phả ra
cả cái kỳ hương ấy. Rồi ông không còn nhớ ông đang ở đâu, không nhớ đến
căn nhà giá lạnh, đến núi, đến thơ, đến những gian nan đường đời.
Có
cơn gió mạnh quất cành liễu vào cửa kính. Ông Lộc choàng dậy với cơn
rùng mình sung sướng. Ông thấy gai ốc nổi đầy hai cánh tay. Đôi mắt đẹp
buồn của cô gái từ tấm ảnh vừa trố lên. Ông cuống quýt như kẻ bị bắt quả
tang đang làm một điều hết sức dị hợm, hay như người quá cao hứng đánh
mất đi sự thận trọng, làm đổ toé tách trà nóng ở một chỗ trang nghiêm.
Nhưng giờ thì còn gì nữa. Buông thả mất rồi. Ông lỳ lợm ôm riết tấm áo
vào ngực, tiêng tiếc khép mắt tìm lại cái cảm giác mới trôi qua - ẩn
mật, nôn nao, giục giã và tràn trề./.