văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Wednesday, January 2, 2013

Tuệ Chương HLH * Mùa xuân nói chuyện... mê gái




Tuổi Xuân, tuổi người

Người ta thường ví một đời người như bốn mùa xuân hạ thu đông. Vì vậy, mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, mùa của yêu đương. Từ yêu đương mà đâm ra mê thì đâu có bao xa!
Đầu đề tôi viết là mê gái, mê vợ, nhưng có lẽ nào lại không có chuyện mê trai, mê chồng. Có điều lạ, trong lịch sử cũng như trong văn học, trong đời thường, đàn ông, con trai mê gái nhiều hơn đàn bà, con gái mê chồng, mê trai.
Vậy thì bây giờ, nói cái gì trước, về phái nam hay phái nữ?

Nếu nói về đàn bà, trước hết xin nhắc đến câu ca dao:

“Tay mang khăn gói sang sông,
Mẹ kêu mặc mẹ theo chồng cứ theo.”

Sự kiện nầy, không hẳn chỉ có một mình cô gái trong câu ca dao nói trên, mà hầu như gần hết cô nào, bà nào cũng vậy. Nghe theo tiếng gọi của chồng là bỏ nhà, bỏ mẹ, có khi đi không quay mặt ngó lui nữa. Thế có phải là ... mê trai???
Người con gái VN khá lãng mạn. Này nhé: “Thương nhau cởi áo cho nhau, Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.” Ở cái xã hội xưa, nặng lễ giáo mà dám cởi áo cho.. trai, huống chi đời bây giờ thì sao?

Trong lịch sử nước ta (VN), người đầu tiên mê trai là ai?
Là Công chúa Tiên Dung đấy.
Cô là con vua Hùng Vương thứ 3, đi chơi tới một khúc sông, thấy cảnh đẹp và buồn tình lên bãi cát bên sông tắm chơi. Các con hầu vây màn, che kín cho công chúa tắm. Nước sông trong mát, thế là công chúa dội ào ào vào mình. Nước làm cát trôi đi, làm lộ ra anh chàng đánh cá Chữ Đồng Tử đang phủ cát trên mình, trốn ở dưới. Tuy hoảng hồn, như công chúa Tiên Dung cũng đủ bình tĩnh hỏi ra cớ sự. Hồi xưa trai gái gặp nhau đã khó, huống chi gặp nhau trong cảnh ai nấy cũng A-Dong và Ê-Và. Thế rồi Tiên Dung bảo đây là duyên trời định, bèn chọn Chữ Đồng Tử làm chồng, và dựng nhà ngay ở bờ sông ấy mà sống với người mới.
Nhà vua gọi, Tiên Dung không chịu về. Vua cho quân lính đến bắt, chuyện xảy ra lung tung cả lên, để rồi cuối cùng, hai người cùng bay lên cõi tiên (xem phụ lục).
Câu chuyện nầy có vài điều vượt khỏi luân lý ngày trước. Công chúa Tiên Dung tự ý chọn chồng mà không hỏi ý kiến cha mẹ, nói chi tới việc xin xỏ phép tắc. Lấy nhau mà chẳng cưới hỏi gì cả, “ba miếng trầu” cũng không là điều trái phong tục, lễ nghĩa. Cha mẹ gọi không về! Không về, nếu không phải là mê trai thì là còn cái gì nữa đây???

Người ta thường tranh cãi việc người đàn bà đã mê chồng nhưng ít thấy họ thiếu thủy chung. Chuyện Dương Quí Phi chẳng hạn. Có thể Dương Quí Phi yêu vua Đường Minh Hoàng nhiều lắm chứ, yêu thêm Lý Bạch, lại yêu luôn cả An Lộc Sơn, nên mới có cái loạn An Lộc Sơn?
Bao Tự có khác chi?
Châu U Vương mê Bao Tự đến nỗi cho phóng hỏa trên núi Cam Tuyền. Thế nhưng Bao Tự có thủy chung với Châu U Vương đâu? Tây Thi của Ngô Phù Sai, lại bỏ theo Phạm Lãi sau khi ngai vàng Ngô Phù Sai sụp đổ. Còn như “con Điêu Thuyền” (tiếng gọi của mấy bà ưa đọc truyện xưa) thì quá lắm. Trong khi làm vợ Đổng Trác, lại liếc mắt đưa tình với Lữ Bố. Có người bênh vực, cho rằng Điêu Thuyền “hoàn thành xuất sắc” cái nhiệm vụ được giao đấy!

Quốc sắc Thiên hương”
(Sắc đẹp đàn bà con gái)
Văn chương không thiếu những câu tán tụng sắc đẹp đàn bà con gái.
Quốc sắc triêu hàm tửu triêu hay chiêu?
Thiên hương dạ nhiễm y

Có nghĩa là “Sắc nước sáng say rượu. Hương trời tối ướt áo”.
Điển tích về người đẹp thì như trong Cung Oán Ngâm Khúc viết:

Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình

Câu thứ nhứt thứ nhì là “Chim sa, cá lặn”, câu thứ ba là “nguyệt thẹn, hoa nhường”. Câu cuối có nghĩa là đẹp hơn cả Tây Thi, Hằng Nga.
Nụ cười của Bao Tự hay của giai nhân làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực:
Thơ Vương Tăng Nhu vịnh người hầu yêu: “Nhất tiếu thiên kim mãi” có nghĩa là “một nụ cười nghìn lạng vàng cũng mua”.
“Nhất tiếu khuynh quốc, tái tiếu khuynh thành”. Cười một cái thì làm “nghiêng nước”. Cười lần nữa thì “nghiêng thành”, người ta thường gọi tắt là “Nghiêng nước, nghiêng thành”.

Sắc đẹp làm cho “nghiêng nước nghiêng thành” mà người đời ca ngợi, có hay ho gì đâu? Đó là thói đa tình, cái đa tình chỉ làm hư thiên hạ. Người xua họ cũng biết đấy chứ: Khuynh quốc khuynh thành vị đa tình” (Nghiêng nước nghiêng thành bởi thói đa tình)
Biết thì biết vậy mà bỏ thì không bỏ được. Thành ra, Tự cổ mỹ nữ danh họa thủy (Từ xưa người con gái đẹp đều là mối tai họa).
Cái đẹp của người đàn bà, và cái giỏi của người đàn ông gần nhau mà kết quả ngược nhau: Kinh thi có câu:
Triết phu thành thành, Triết phụ khuynh thành.

Nghĩa là: Người đàn ông giỏi dựng nên một thành trì, người đàn bà đẹp làm nghiêng đổ thành trì.


Hồi còn nhỏ, nhỏ lắm, nhà tôi ở cạnh bệnh viện Quảng Trị, tôi từng thấy một anh thanh niên bị bệnh điên. Người ta bảo anh ấy bị sa tình. Sa tình là cái gì? Là sa vào đường tình ái, rồi thất tình nên phát bệnh điên. Tôi không tin điều ấy. Nhưng khi lớn lên, đọc lịch sử, lịch sử văn học, tôi thấy nhiều người, phần nhiều là đàn ông, mê gái còn hơn bị bệnh điên nữa, yêu hay mê đến nỗi xiêu đổ thành quách, đến nỗi mất nước mất nhà thì không là điên hay sao, hay còn tệ hại hơn cả điên, hơn cả “đem tiền cho gái có đòi được không?” Mất tiền là còn nhẹ quá. Trong lịch sử, người ta còn “nặng” hơn nhiều.

Số đàn ông mê gái thì đông hơn mà cũng khủng khiếp hơn. Người ta có thể điểm mặt từng người trong sách sử:

Vua Châu U Vương mê Bao Tự chẳng hạn.

1)- Châu U Vương
nước mất nhà tan” vì Bao Tự:
U Vương nhà Tây Chu vì mê Bao Tự đến nỗi mất mạng, mất nước. Dĩ nhiên, Bao Tự là một giai nhân, tuy không được liệt vào “tứ đại mỹ nhân” của Tầu.
Trong văn học Tầu có câu “Nhất tiếu thiên kim”, có nghĩa là nụ cười đáng giá ngàn vàng cũng chưa nói hết cái tai hại của nụ cười Bao Tự. Còn như câu “Nhất tiếu khuynh quốc, tái tiếu khuynh thành” (cười làm nghiêng nước, nghiêng thành) thì cũng xứng với nụ cười Bao Tự.
Bao Tự ít khi cười, mà khi đã cười thì làm mê mẩn tâm thần ông vua nhà Chu. Vì vậy, ông Châu U vương bèn tìm cách làm cho Bao Tự vui, Bao Tự cười.

Trong Tỳ Bà Hành có câu Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước, Ngựa sắt rong, sàn sạt tiếng đao, Cung đàn lựa khúc tiêu tao, Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây là nói tới nụ cười Bao Tự. Đó là việc thứ nhất Châu U vương cho xé lụa từng cây làm cho Bao Tự cười. Tiếng lụa bị xé vang lên nghe như tiếng đàn.
Thứ hai là khói báo tin có giặc. Trong Chinh Phụ Ngâm có câu: “Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây” (Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây) là việc Châu U Vương đốt lửa trên “Phong hỏa đài”.
Phong hỏa đài là một phương tiện thông tin ngày xưa, để báo cho chư hầu biết kinh đô có giặc. Một hôm U Vương cho đốt khói lên, chư hầu tưởng có loạn kéo quân về cứu giá. Té ra đó chỉ là việc vua nhà Châu gạt chư hầu cho Bao Tự cười vui. Cái trò chơi dại dột ấy làm cho chư hầu tức giận. Về sau, khi giặc có thật, vua đốt khói trên Phong hỏa đài, chư hầu cứ nghĩ rằng vua lại gạt, nên không đem quân về, để cho U Vương nhà Chu bị giặc giết chết ở núi Ly. Bao Tự thuộc về tay rợ Khuyển Nhung, cuối cùng thắt cổ tự tận, xong một đời khuynh quốc khuynh thành.
2)- Hán Nguyên Đế giữ được giang sơn nhà Hán,
nước Tầu được yên nhờ có Chiêu Quân
Chiêu Quân còn gọi là Vương Tường, Vương Chiêu Quân, một trong “tứ đại mỹ nhân”. Cái đẹp của Chiêu Quân thuộc hàng “chim sa” trong thành ngữ “chim sa cá lặn”, Tầu gọi là “trầm ngư lạc nhạn”. Trong “Cung Oán Ngâm Khúc” có câu “Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa” là mượn điển tích nầy.

Sách cũ viết rằng khi Chiêu quân sang đất Hồ, ngang qua một sa mạc lớn, lòng buồn vì thân phận, vì xa quê, đang ngồi trên lưng ngựa, Chiêu quân bèn gảy bản đàn tên “Xuất tái khúc”. Tiếng đàn hay đến nỗi con ngỗng trời đang bay ngang qua, nghe tiếng đàn mà ruột gan đứt đoạn, sa xuống đất chết. Đó là điển tích “lạc nhạn”
Hồ Hán Tà là vua xứ Hung Nô dọa đem quân đánh phá nước Tầu, nếu vua Tầu không gả cho y một công chúa. Thay vì gả công chúa, vua Nguyên Đế nhà Hán gả cho y 5 cung nữ, dĩ nhiên, cung nữ thì không ai xấu bao giờ. Thấy vua Hán lấy 5 mà đổi 1, y bằng lòng. Một trong năm cung nữ, có Vương Tường.
Tuy nhiên, trường hợp Chiêu Quân có nhiều oan trái hơn.
Chiêu Quân vốn có sắc đẹp tuyệt hạng, lại có tài đàn hay hát giỏi. Vì vậy, khi được tuyển vào cung, Chiêu Quân không chịu đút tiền hối lộ cho tên thợ vẽ Mao Diên Thọ. Mao Diên Thọ trả thù bằng cách khi vẽ hình Chiêu Quân xong, y thêm một chấm đen dưới con mắt của cô. Sách tướng nói chấm đen đó là nốt ruồi “thương phu trích lệ” (Giọt nước mắt khóc chồng), tức là tướng sát phu (giết chồng).
Khi gọi Chiêu Quân lên để đưa sang xứ Hung Nô, nhà vua thấy Vương Tường đẹp quá, muốn giữ lại, nhưng ngại triều thần, đành phải cho đi mà lòng tiếc rẻ.

Về cái chết của Chiêu Quân có nhiều giả thuyết khác nhau:
a)- Đến Nhạn Môn Quan, Chiêu Quân gieo mình xuống sông tự vẫn. Khi đi qua cửa ải cuối cùng nầy, Chiêu Quân cảm tác nhiều bài thơ hay, hòa cùng tiếng đàn của Chiêu Quân, trở thành điển tích Hồ Cầm.

Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương

là hai câu thơ nói về tài đàn của Thúy Kiều (truyện Thúy Kiều)

b)- Chiêu Quân đến đất Hồ, nàng yêu cầu vua Hồ giết chết gian thần Mao Diên Thọ, rồi sau đó nàng tìm cách tự tử, nhảy xuống sông để xác nàng theo dòng trôi trở về đất Trung Nguyên.
c)- Một thuyết khác cho rằng Chiêu Quân đã sống một thời gian dài bên Hung Nô.
Chiêu quân đã góp phần mang lại hòa bình trong 60 năm giữa nhà HánHung Nô.
Phải nhờ đến sự hy sinh của một người đàn bà để vua quan dân chúng Tầu được yên thân, có thể đó là điều không vinh dự gì cho người Tầu và cho cả lịch sử Tầu.
Người Việt Nam khéo léo phê phán bằng một bài thơ:

Vương Tường oán triều đình (1)

Vật chi muông cỏ dám lăng loàn?
Âu hẳn trong triều ít kẻ ngoan?
(2)
Mặt thấy thư Hồ, văn vỡ mật,
(3)
Tai nghe nhạc bắc, võ run gan.
Mỡ thơm luống để nuôi thù khấu?
(4)
Bùn sũng nào hay đắp ải quan?
Vực nước ví dầu tài Vệ, Hoắc, (
5)
Tanh hôi chi để lụy hồng nhan ?

ghi chú:
1)- Vương Chiêu Quân là cung nữ của vua Hán Nguyên Đế, gả Chiêu Quân cho chúa Hung Nô để đổi lấy quan hệ hòa hiếu. Nàng chịu sang Hung Nô nhưng cuối cùng vì buồn thương và uất hận nàng đã tự vẫn.
2)- Câu thơ 3 và 4: Sự hèn nhát của các quan trong triều.
3)- Chỉ Diên Thọ, tên thợ vẽ gian tham
5)- Thù khấu: Kẻ thù
5)- Vệ, Hoắc: Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, hai người đánh tan được quân Hung Nô (đời Hán)
Năm 1309, Huyền Trân Công chúa về Chiêm quốc với Chế Mân. Triều thần có người không thuận. Trong dân chúng có bài thơ nói về việc Chiêu quân cống Hồ để ám chỉ việc gả công chúa Huyền Trân.

Vua Hán dụ Vương Tường
gả cho chúa Thuyền Vu

Hán Hồ dẫu muốn vẹn trăm đường
Há trẫm riêng tây có phụ nường
Bắc quốc tuy rằng ngoài dị vực
Biên đình song cũng một biên cương
Ở đây hạnh thắm nên mai nhạt
Về đấy sen tàn lỗi cỏ hương
Hơn thiệt thôi đừng ai oán nữa
Chờ ngày áo gấm lại hoàn hương.

Việc ví von như thế nầy là khiên cưỡng. Hành động của Huyền Trân Công Chúa cao quí hơn hành động của Vuơng Tường nhiều!

Quang Dũng có bài thơ chê vua Hán như sau:

Tuyết lạnh che mờ trời Hán Quốc
Tì bà lanh lảnh buốt cung Thương
Tang tình năm ngón sầu dâng lệ
Chiêu Quân sang Hồ xừ hồ xang

Đây Nhạn Môn Quan đường ải vắng
Trường Thành xa lắm Hán Vương ơi!
Chiêu Quân che khép mền chiên bạch
Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi

Ngó lại xanh xanh triều Hán Đế
Từng hàng châu lệ thấm chiên nhung
Quân vương chắc cũng say và khóc
Ái khanh! Ái khanh! Lời nghẹn ngùng

Hồ xang hồ xang xự hồ xang
Chiêu Quân nàng ơi lệ dâng hàng
Lã chã trời Phiên mưa tuyết xuống
Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang.

Tản Đà có bài văn tế


Cô ơi, cô đẹp nhất đời
Mà cô mệnh bạc, thợ trời cũng thua
Một đi, từ biệt cung vua
Có về đâu nữa, đất Hồ nghìn năm!


3)- Trường Hận Ca:
thiên tình hận giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi

Khi xưa ta là Đường Minh Hoàng
Ta mơ nàng làm Dương Quí Phi
(Diễm Trang - Vũ Hân)
Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi
Tôi mê Âu (?) Cơ hình nhịp nhàng
Tôi mơ (tưởng) tôi là Đường Minh Hoàng
Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi= thơ của một thi sĩ tiền chiến

Dương Quí Phi (719- 756, sau CN) cung phi của vua Đường Minh Hoàng, một trong “tứ đại mỹ nhân”, sắc đẹp khiến hoa héo vì hổ thẹn (tu hoa).

Dương Quý Phi tên thật là Dương Nguyệt Nhi, sau gọi là Dương Ngọc Hoàn= phía dưới viết 2 lần là Ngọc Hoán, quê ở Tứ Xuyên. Năm 17 tuổi, Ngọc Hoàn được tuyển vào cung làm vợ Thọ Vương Lý Mão, con vua Đường Minh Hoàng. Lý Mão còn nhỏ lắm.
Khi ấy, Vũ Huệ phi, rất được Đường Minh Hoàng sủng ái, mới qua đời. Vua Đường thương nhớ vô cùng.
Cao Lực Sĩ bèn lập mưu, đưa Ngọc Hoán vào chùa chăm sóc nhang khói cho Vũ Huệ Phi. Sau đó, đưa Ngọc Hoán vào chầu Đường Minh Hoàng. Nhà vua được Ngọc Hoán, bèn say mê, phong làm Quí Phi, gọi là Dương Quí Phi. Như vậy, có nghĩa là Dương Quí Phi lấy cha chồng.
Dương Quí Phi thường đi tắm suối ở Tây An. Nay ở đây người ta dựng tượng Dương Quí Phi tắm suối để kỷ niệm (xem hình)

Câu chuyện tình Lý Bạch và Dương Quí Phi

Lý Bạch là người nổi tiếng hay thơ. Ai cũng ca ngợi. Riêng Cao Lực Sĩ và Dương Chấp Trung, anh của Quí Phi, chê rằng tài Lý Bạch chỉ đáng mài mực và cởi giày cho thiên hạ.
Bấy giờ vua Hung Nô gởi thư cho vua Đường Minh Hoàng bằng tiếng Hung Nô. Triều thần không ai đọc được, vua phải triệu Lý Bạch vào. Lý Bạch đọc thư và giải thích cho vua nghe. Vua rất tán thưởng, lệnh cho Lý Bạch viết thư trả lời. Bạch vâng mệnh nhưng để trả mối hận bị chê bai, xin vua ra lệnh Cao Lực Sĩ cởi giày và Dương Chấp Trung mài mực cho ông ta viết thư.

Dương Quí Phi và Lý Bạch là người cùng thời. Lý Bạch cũng được Đường Minh Hoàng trọng vì tài, thường vời vào cung cùng vua và Dương Quí Phi ngắm hoa, ngắm cảnh và làm thơ. Bạch Cư Dị làm thơ tả sắc đẹp Dương Quí Phi, có hai câu đời sau còn nhắc nhở:

Phù dung như diện, liễu như mi

nghĩa là mặt như hoa phù dung, mày như lá liễu.

Về sau, Đường Minh Hoàng không còn trọng đãi Lý Bạch nữa, ông xin cáo quan, chỉ xin một điều, vua ban cho một lệnh bài, đi đến đâu, uống rượu khỏi trả tiền. Chủ quán nhận tiền ở quan lại địa phương.
Một đêm, Lý Bạch quá say, chơi thuyền trên sông. Thấy trăng ở đáy nước, bèn nhảy xuống sông, ôm trăng mà chết.
Tôi không tin câu chuyện nầy. Quan hệ giữa Lý Bạch và Dương quí Phi có thể quá gần gũi, không khiến cho Đường Minh Hoàng ghen hay sao! Vì vậy, khi Đường Minh Hoàng không ái mộ Lý Bạch nữa nên Bạch buồn tình xin cáo quan. Biết đâu, cái đêm trăng Lý Bạch chết, không phải ông ta nhảy xuống sông mà có thể một tên nào đó, giả dạng theo hầu Lý Bạch, đạp cho ông ta một đạp rớt xuống sông, để Đường Minh Hoàng thỏa mãn cái tính ghen.
Chuyện đã gần hai ngàn năm. Thuở ấy, sợ vua, ai dám điều tra. Ngày nay dù tôi “ăn ốc nói mò”, biết đâu lại là chuyện thiệt!!!

Sắc đẹp Dương Quí Phi

Như đã nói, sắc đẹp của Dương Quí Phi được Bạch Cư Dị mô tả là “Phù dung như diện, liễu như mi”. Xin nói thêm, hoa phù dung là tên chữ. Tiếng Việt gọi là bông cẩn, người Bắc gọi là hoa dâm bụt.
Lý Bạch trong Thanh Bình Điệu ca tụng sắc đẹp của Ngọc Hoàn. Hoàn hay Hoán (xem trên)

Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,
Xuân phong phật hạm, lộ hoa nùng.
Nhược chi quần ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng Dao đài nguyệt hạ phùng.

Ngô Tất Tố dịch:

Thoáng bóng mây hoa, nhớ bóng hồng.
Gió xuân dìu dặt giọt sương trong
Ví chăng non ngọc không nhìn thấy,
Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông.

Trong “Trường Hận Ca”, bài thơ nói về mối hận tình giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi (vua ra lệnh giết cô ta), Bạch Cư Dị tả sắc đẹp của Dương Quí Phi như sau:

Qui lai trì uyển giai y cựu
Thái Dịch phù dung Vị Ương liễu;
Phù dung như diện liễu như mi
Đối thử như hà bất lệ thùy?

Cũng trong bài thơ, tả tình vua Đường Minh Hoàng nhớ Dương Quí-Phi có câu:
Phù-dung như diện liễu như my” nghĩa là hoa phù-dung như mặt, lá dương-liễu như mày.

Tản Đà dịch:
Phù dung đó! Mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như!
Càng trông hoa liễu năm xưa,
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm.

Nhà thơ Đinh Hùng tán tụng:
...
Thoáng nét sương, nụ cười in khuôn ngọc,
Em bâng khuâng hé nửa cặp môi hồng,
Mắt nhắm nghiền, và sóng ngực rung rung,
Hơi thở ấm não nùng hương phấn dại ...
(
Giáp Mặt Phù Dung)

Phù dung, trong tiếng Việt, cũng có nghĩa là “thuốc phiện”, có khi gọi là “Ả Phù Dung”. Đinh Hùng là một đệ tử của “Ả”.
Khi ở cung, Dương quí Phi thường nhớ nhà. Môt hôm ra vườn ngự uyển, nhằm lúc hoa đang nở rộ. Thấy hoa, Dương Quí Phi than thở phận mình, nước mắt tuôn rơi. Khi Phi đưa tay sờ vào hoa, hoa khép cánh lại. Do câu chuyện nầy, sử Tầu gọi Dương Quí Phi là “người đẹp tu hoa”, nói theo thành ngữ là “hoa nhường nguyệt thẹn”.
Có người không tin câu chuyện hoa nầy, cho rằng thiên hạ vẽ vời, biết đâu Dương Quí Phi sờ nhằm vào cây mắc cở, văn vẻ thì gọi là cây trinh nữ.

Dương Quý Phi đã đẹp lại có tài gẩy tì bà, giỏi về âm nhạc.
Nàng lại đặt được nhiều khúc hát và điệu múa làm cho Huyền Tông càng thích thú say sưa hơn. Huyền Tông là Đường Minh Hoàng?

Loạn An Lộc Sơn
An Lộc Sơn (ALS), gốc là người “Rợ Đột Quyết” là tướng được Đường Minh Hoàng yêu vì. Khốn nỗi, Dương Quí Phi lại tư thông với ông tướng đẹp trai nầy. An Lộc Sơn thù ghét Dương Quốc Trung, anh của Dương Quí Phi. Ông nầy dựa vào thế em gái, lộng quyền ở cung. An Lộc Sơn đem quân về Trường An, quyết dẹp bỏ gian thần.
Quân của An Lộc Sơn đánh bại quân của triều đình.
Vua Đường Minh Hoàng phải nhường ngôi cho con để lên làm thái thượng hoàng. Tuy vậy, quân của triều bình vẫn liên tiếp bị đại bại. Thượng hoàng cùng Dương Quí Phi chạy vào đất Thục.
Đến Mã Ngôi (năm 756), binh lính không chịu chống giặc nữa. Chúng buộc nhà vua phải giết Dương Quí Phi mới chịu tuân lệnh vua vì cho rằng chính sự gian dâm giữa Dương Quí Phi với An Lộc Sơn gây nên mối loạn nầy.
Vì sức ép của binh lính, Đường Minh Hoàng ra lệnh thắt cổ Dương Quí Phi, lúc ấy bà mới 38 tuổi, chôn xác ở ven đường.
Sau đó vua quan nhà Đường dẹp được loạn An Lộc Sơn, giành lại đất đai cũ.

Dương Quí Phi là giai nhân. Câu chuyện tình giữa bà và An Lộc Sơn không phải là do sự dâm dục mà ra? Vua thì đã già, lại từng hoang dâm vô độ, làm sao “gánh” Dương Quí Phi đang tuổi hồi xuân.
Sự dâm dục đã tạo nên một thiên tình hận, mà Bạch Cư Dị gọi là “Trường Hận Ca”. Không ít người tiếc cho cái sắc đẹp của bà, nên cũng không ít người làm thơ.
Người xưa đâu thì tận mắt tôi không thấy, nhưng thi sĩ Vũ Hân khi dạy trường Bồ Đề Huế thì tôi gặp không ít lần, gặp ngoài đường phố, hay ở tòa soạn báo Mùa Lúa Mới hay ở nhà thi sĩ Đỗ Tấn. Nhìn ông thấy mà tội nghiệp. Ông bị tật bẩm sinh, đi đứng không bình thường. So sánh ông với Đường Minh Hoàng thì cũng là khiên cưỡng. Và ông cũng có một Dương Quí Phi. Điều đáng buồn là sau khi Dziệt Cộng “giải phóng miền Nam”, ông bị đuổi khỏi trường Bồ Đề, và Dương Quí Phi của ông cũng “ôm cầm thuyền ai”, theo một An Lộc Sơn “nón cối dép râu”. Ông chết trong cảnh nghèo đói, cô đơn (xem phụ lục)

Ông cũng từng mơ Dương Quí Phi hay sao nên ông ước:

Khi xưa ta là Đường Minh Hoàng
Ta mơ em là Dương Quí Phi.”

4)- Ngô Phù Sai
mất nước vì Tây Thi?
Sự ưu ái của Ngô Phù Sai đối với Tây Thi, trong sử sách cũng ít thấy ai sánh bằng. Để làm vui lòng giai nhân, vua sai:
  • Dựng Cô Tô đài
  • cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang trí toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi.
  • Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đấy rất nhiều chum, bên trên lát ván, để Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp.
  • Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt.
  • Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi.
  • Lại có động gọi là động Tây Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay người ta gọi là vết chân Tây Thi.
  • Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường cùng với Tây Thi gẩy đàn ở đấy.
  • Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dải nước ở phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa.
  • Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen.
  • Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình.
  • Phía nam đô thành có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn.
  • Lại có Ngư Thành để nuôi cá,
  • Áp Thành để nuôi vịt,
  • Kê Bi để nuôi gà,
  • Tửu Thành để nấu rượu.
  • Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là chỗ Tiên.

Tây Thi người nước Việt, sống vào thời Xuân Thu, 506 trước CN, không rõ mất lúc nào, năm nào, ở đâu, là một trong “tứ đại mỹ nhân” của Tầu.

Khi cô gái giặt áo bên bờ sông, bóng soi trên mặt nước sông trong suốt làm thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong vùng xưng tụng nàng là Tây Thi Trầm Ngư.

Ngô Việt đánh nhau, Việt Câu Tiễn đại bại, bị bắt. Văn Chủng, quân sư của Việt Câu Tiễn, hiến kế mỹ nhân để lung lạc, làm suy yếu nước Ngô.

Câu Tiễn tuyển hai ngàn mỹ nữ dâng cho Phù Sai, trong đó, đẹp nhất là Trịnh Đán và Tây Thi.
Tây Thi góp công lớn trong việc làm cho Ngô Phù Sai ham mê tửu sắc, bỏ bê triều chính, nên Việt Câu Tiễn phục hận, giành lại đất nước.

Sau khi đại thắng, vợ Việt Câu Tiễn không? muốn mưu hại Tây Thi vì sợ Câu Tiễn sẽ mê say cô ta mà di vào con đường như Phù Sai.
Tây Thi và Phạm Lãi có tư tình với nhau từ trước nên cả hai trốn vào Ngũ Hồ, về sau không ai biết hai người đi đâu. Có người bảo rằng Tây Thi đã tự vẫn.
Tô Đông Pha bài thơ về Tây Thi:

Thủy quang liễm diễm tình phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ
Dục bá Tây Hồ tỉ Tây Tử
Đạm tran nồng mật tổn tương nghi

(Nước dập dờn bừng khi nắng dọi,
Nước nhạt nhoà xanh lúc mưa về
Tây Hồ ví tựa Tây Thi
Điểm tranh đậm nhạt vẽ gì cũng xinh


Người ta thường cho rằng Ngô Phù Sai mất nước là vì Tây Thi. Vì vậy, La Ôn minh oan cho Tây Thi bằng mấy câu thơ:

“Nước mất nhà tan bởi cơ trời
Sao cứ Tây Thi đổ tội hoài
Tây Tử nếu làm Ngô mất nước
Thì xưa Việt mất bởi tay ai?


5)- Khúc Ca Tần Hoài

(Ai luyến, ai tiếc Khúc Ca Tần Hoài -
Dương Thiệu Tước - Đêm Tàn Bến Ngự)


Trần Hậu Chủ tên thật là Trần Thúc Bảo (553-604), nhà Hậu Trần thời Nam - Bắc triều bên Tầu.
Ông nổi tiếng là người tài tử phong lưu, ưa đàn hát vui chơi, trong cung lúc nào cũng có hàng ngàn mỹ nữ giai nhân, nổi tiếng nhất là Khổng Quí Tần và Trương Lệ Hoa, hai người rất được nhà vua sủng ái.
Vua cho xây điện Quang Chiếu, toàn bằng gỗ trầm hương để cùng các tài tử giai nhân xướng họa thơ phú, vui ca đàn hát.
Những bài thơ khúc hát soạn ra được chép thành 3 tập là: Nghinh Xuân nhạc, Ngọc Thu và Hậu Đình Hoa (Hoa ở sân sau). Riêng tập Hậu Đình Hoa toàn sưu tập những bài bay bướm, bóng bẩy, dâm đãng. Những cuộc vui nầy làm cho nhà Trần suy vi.
Trần Hậu Chủ cũng soạn một khúc hát Hậu Đình Hoa:

Nguyên tác là:
Lệ vũ phương lâm đối cao các
Trân trang điểm chất bản khuynh thành,
Ánh hộ ngưng kiều sa bất tiến,
Xuất duy hàm thái tiếu tương nghinh.
Yêu cơ kiểm tự hoa hàm lệ,
Ngọc thu lưu quang chiếu Hậu Đình.

Nghĩa:
Bóng rợp hương thơm chốn lâu các,
Nghiêng thành vẻ đẹp với mầu tươi.
Ngoài cửa dịu dàng khoan dạo bước
Trước màn chào đón mỉm môi cười,
Má hồng tựa đóa hoa đầy móc
Cây ngọc sân sau chiếu sáng ngời

Vua Văn Đế nhà Tùy thừa dịp nhà Hậu Trần nầy, sai đem quân sang vây Đại Thành. Giữa lúc ấy, Trần Hậu chủ còn đương say rượu, chưa tỉnh.

Nhà Hậu Trần bị diệt vong, người ta cho rằng sở dĩ nước mất nhà tan cũng do khúc hát Hậu Đình Hoa ấy,

Đỗ Mục, nhân một đêm ghé thuyền trên bến Tần Hoài, gần một quán rượu. Đêm đã khuya mà bấy giờ trong quán, khách còn say sưa ăn uống, bên cạnh những ả buôn son bán phấn hát xướng để mua vui cho khách.
Lắng nghe giọng hát réo rắt bên kia sông, Đỗ Mục làm bài thơ, thường gọi là Tần Hoài Dạ Bạc

Nguyên văn:
Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng "Hậu Đình Hoa"

Khói bay, nước lạnh, khói trăng pha,
Thuyền đậu sông Tần cạnh Tửu gia.
Hận nước gái buôn không biết rõ,
Cách sông còn hát Hậu Đình Hoa.


Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều ở nước ta, cũng có câu:

Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.
Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lặp lòe vẻ son.

Trong bài hát Đêm Tàn Bến Ngự có câu...

Thuyền mơ trong khúc Nam Ai,
Đàn khuya trên sông ngân dài.
Ai luyến, ai tiếc khúc ca Tần Hoài!

Khúc ca Tần Hoài chính là khúc Tần Hoài Dạ Bạc nói ở trên.
Sông Hoài, còn gọi là Hoài Hà, Hoài Thủy, lớn thứ ba sau Dương Tử Giang và Hoàng Hà, không chảy ra biển mà đổ nước vào sông Dương Tử. Sông chảy qua Tần Hoài là một quận của Nam Kinh.

6)- Điêu Thuyền
Bọn ta đều chết cả về tay người đàn bà này
(Lý Nho, mưu sĩ Đổng Trác)


Đổng Trác lộng quyền. Vương Doãn muốn trừ bèn lập mưu với Điêu Thuyền là con gái nuôi, hát hay, đàn giỏi, sắc đẹp khiến trăng phải xấu hổ mà giấu mình đi (“bế nguyệt”), Cung Oán Ngâm Khúc gọi là “Hương trời đắm nguyệt say hoa). Điêu Thuyền là một trong “tứ đại mỹ nhân”.
Vương Doãn gả Điêu Thuyền cho Đổng Trác, nhưng xúi Điêu Thuyền ngoại tình với Lã Bố, con nuôi Đổng Trác. Thế rồi hai cha con Đổng Trác - Lữ Bố giết nhau.
Đổng Trác bị giết rồi, dân chúng thoát khỏi ách cai trị tàn ác.

Đổng Trác mê say tiếng đàn, giọng hát, ánh mắt của Điêu Thuyền được mô tả như sau:

Nhất điểm anh đào khải giáng thần.
Lưỡng hàng toái ngọc phún dương xuân.
Đinh hương thiệt thổ hành cương kiếm.
Yêu trảm tà gian loạn quốc thần!

dịch:
Một đóa anh đào chúm chím môi,
Đôi hàng răng ngọc rạng xuân tươi.
Hương đưa đầu lưỡi tàng hơi kiếm:
Chém chết gian thần có lúc thôi!
Bài hát ca ngợi vẻ đẹp Điêu Thuyền:

Phải người cung cũ Chiêu Dương?
Xiêm y mây cuốn vương vương cánh hồng
Nhẹ nhàng mình liễu như bông,
Gót hài uyển chuyển trên lòng bàn taỵ
Động đình lạc lối hoa bay,
Lương châu thoăn thoắt sen cài bước chân
Nhà vàng gió cợt cành xuân,
Trăm hoa nhường vẻ thanh tân một người!


Mao Tôn Cương trong Thánh Thán Ngoại Thư” bàn về Điêu Thuyền như sau:

18 lộ quân chư hầu không giết nổi Đổng Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Điêu Thuyền lại giết nổi Trác.
Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không thắng nổi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Điêu Thuyền thắng nổi.

Ôi, lấy chăn chiếu làm chiến trường,
lấy son phấn làm khôi giáp,
lấy mày ngài làm cung nỏ,
lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn,
lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến lược mưu cơ.

Xem thế thì cái bản lãnh của nữ tướng quân quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!"


Chuyện vặt:

- Tề Tuyên Vương:
Vua Tuyên-vương nước Tề trong khi nói chuyện trị nước (chính-trị) với thầy Mạnh-tử, có nói câu “Quả-nhân hữu-tật, quả nhân hiếu sắc (kẻ quả-nhân (tụ xưng) này có tật, kẻ quả-nhân này hiếu sắc). Đó chỉ là một câu nói ví-dụ ở trong việc chính-trị, mà đây dùng lối “đoạn chương thủ nghĩa” (cắt câu lấy nghĩa) cho thêm lý thú khôi hài. Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên, tức bệnh ưa sắc đẹp của một đấng quân-vương.

Tài-sắc đã vang-lừng trong nước,
Bướm-ong càng xao-xác ngoài hiên,
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.
(Cung Oán Ngâm Khúc- Ôn Như Hầu)


- Thành Thái
Vua Đồng Khánh mất, ông Bửu Lân lên nối ngôi, hiệu là Thành Thái. Vua Thành Thái là người tiến bộ, chọn Tây học, và cũng âm mưu chống Pháp, giành độc lập.
Để chuẩn bị công việc nầy, nhà vua thành lập một đội nữ binh (lập nam binh sợ Tây lưu ý). Ông thường đi vi hành tìm người, giả bộ nói là đi tìm người ông yêu. Do đó, trong dân chúng Huế có câu ca dao, có người nói là do nhà vua đặt ra:

Kim Luông có gái mỹ miều
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.

Kim Luông, là nói trại tên làng Kim Long, phía tây ngoại thành Huế, làng trù phú, có nhiều nhà quan, cũng là nơi có họ đạo của ông giám mục Gaspar là “tên thực dân mặc áo chùng đen” như cách thường gọi của người Huế.
Dù vậy, việc làm của vua Thành Thái cuối cùng cũng bị bại lộ.
Người ta nói chính Trương Như Cương, quan to trong triều, biết việc nầy, liền báo cho Tây biết, để lật đổ vua Thành Thái mà đưa con rể của ông là Bửu Đáo, lên làm vua, tức là Khải Định.
Cũng có người nói con gái Nguyễn Thân, cung phi, cũng ở trong đội nữ binh, bị thương khi tập đánh gươm. Nguyễn Thân vào thăm con, biết việc bèn báo cho Tây để lập công. (Theo sử, Nguyễn Thân là đại Việt gian. Ở Quảng Nghĩa, sau Cách Mạng 19-8-1945, dân chúng gọi đôi guốc (mang vào chân khi đi ỉa ngoài đồng) là “đôi Nguyễn Thân) Theo ông Nguyễn Đức Cung, Nguyễn Thân là nhà ái quốc!)
Tây không đủ lý do truất phế ông về việc chống Tây bèn ngụy tạo lý do, bảo rằng ông bị bệnh điên, hoang dâm, không làm vua được.

Tây nói đúng hay dư luận dân chúng Huế đúng?
- Ngô Tam Quế
Ngô Tam Quế làm tướng nhà Minh, được giao nhiệm vụ trấn giữ Sơn Hải Quan là biên giới giữa lãnh thổ nhà Minh và Mãn Thanh. Bấy giờ thế lực nhà Thanh ở Mãn Châu mạnh lắm, muốn cướp Trung Nguyên nhưng không vượt được Sơn Hải Quan.
Bấy giờ ở kinh thành có loạn, Lý Tự Thành đã diệt được nhà Minh, dự tính sẽ lên làm vua, cho người liên minh với Ngô Tam Quế. Tam Quế có một người thiếp yêu ở kinh đô, bị một tướng của Lý Tự Thành cướp mất. Vì vậy, Ngô Tam Quế tức giận, bỏ Sơn Hải Quan, liên hợp cùng quân Thanh kéo về kinh đô để trừng trị kẻ đã cướp người thiếp của y. Nhờ đó, nhà Thanh lên ngôi ở Bắc kinh, cai trị Trung nguyên 300 năm. Người Tầu không ngo ngoe gì được, phải chờ đến cuộc cách mạng Tân Hợi để “nồi da xáo thịt” cho tới khi Tưởng thua chạy ra Đài Loan. (xem phụ lục trích từ “Sử Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê)
Dĩ nhiên, người được mê phải là người đẹp, còn như nói yêu người xấu, không hẳn là không có, nhưng có thể coi như đó là ngoại lệ, ít khi.
Dã sử còn nhắc chuyện vua nhà Lý gặp Ỷ Lan phu nhân. Bà xấu đẹp không biết nhưng mặt lại rỗ. Khi bị bắt tới “trình diện” vua Lý, thấy mặt nàng, vua bảo sẽ ra một câu đối, nếu đối được thì vua tha tội “khi quân” vì không chịu quì xuống, đứng dựa (ỷ) vào cây “lan” khi kiệu vua đi qua. Câu vua ra là:

Rỗ chằng, rỗ chịt, rỗ chín mười mươi
Cô gái đối là:

Yên nước, yên dân, yên luôn bốn bể.

Mê? Người đàn ông mê gái, mê vợ bé, ít ai mê vợ cả. Vì vậy mới có câu ca dao:

“Gió đưa bụi chuối, sau hè,
Anh theo vợ bé bỏ bè con thơ”

Câu thơ đầu thuộc thể hứng. Người vợ đêm nằm nghe tiếng lá chuối xào xạc sau hè, khó ngủ nên nhớ tới người chồng bạc bẽo.

Thôi! xin bà ngủ đi bà vợ cả. Sở dĩ bà bị chồng phụ là vì bà lớn tuổi rồi, bà già rồi, bà là “gái xề” năm, ba mặt con rồi, bà chỉ còn là:

Chàng ơi phụ thiếp làn chi
Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng.
Chỉ là “cơm nguội” thôi!!!

&

Tứ đại mỹ nhân và hầu như gần hết người đẹp nước Tầu, nước ta, nước Nhựt... có mấy ai được “trường thọ”. Người thương cũng nhiều mà người ghét cũng không ít. Thậm chí, nhiều khi cây cỏ cũng ghen.

Trong “Tần Cung Nữ Oán Bái Công Văn” có câu:

“Cặp mày xanh chiếc lá cũng ghen,
Câu khiển hứng đánh chìm giòng nước chảy”

Chiếc lá ghen với đôi mày đẹp, nên khi cung nữ viết vào lá vài câu thơ, thả xuống giòng suối trong cung, nhờ lá trôi ra ngoài cung cấm, để lời tâm sự của cung nữ được ai đó ở ngoài kia nhặt lá lên xem mà biết tới. Nhưng lá vì ghen sắc đẹp với cung nữ, không trôi đi mà chìm xuống đáy nước.
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du nói rõ hơn: “Hoa ghen sắc thám, liễu hờn kém xanh”.
Cô Kiều không chết sớm, nhưng cô phải chịu 15 năm lưu lạc.
Xưa thì cho người tài giỏi và người đẹp đều mệnh yểu như nhau:

“Giai nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”.
(Danh tướng cũng như giai nhân, không hứa ở với đời đến khi đầu bạc)
Ngay thế kỷ 20, nhà thơ Jan Leiba cũng đồng ý như như vậy:

“Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai!”

Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Quách Thoại qua đời khi chưa quá tuổi ba mươi!

Xưa gọi là “tài mệnh tương đố”. Ngày nay, tôi không tin như vậy. Tin vào số mệnh, chỉ là điều an ủi...

hoànglonghải


Trích một đoạn trong sách Sử Trung Quốc của học giả Nguyễn Hiến Lê:
Ngô Tam Quế được lịnh về cứu kinh đô từ mười ngày trước, vẫn chùng chình, tiến binh rất chậm, có lẽ vì còn tính xem có nên nhận đề nghị chia chác sau đó của Lý Tự Thành không. Khi Tư Tôn (tức Sùng Trinh Hoàng đế) tuẫn quốc, thì Quế mới tiến được có nửa đường tới Bắc Kinh. Hay tin, hắn quay trở về liền để chờ xem tình thế ra sao.
Lý Tự Thành đã thành công một cách dễ dàng...Duy có Ngô Tam Quế là có thể gây rối cho ông. Ông nhờ cha của Quế (lúc đó đã theo ông) làm trung gian để điều đình với Quế. Nhưng Quế vẫn không quyết định gì cả, có lẽ muốn đợi Lý Tự Thành trả cho mình một ái thiếp bị một tướng của Tự Thành bắt. Đồng thời Quế cũng thương thuyết với quân Thanh, nhờ quân Thanh giúp khi cần. Tự Thành hay tin đó tặng Quế 40.000 lạng (bạc?), Quế vẫn làm thinh.
Bực mình, Tự Thành phái hai tướng đem 20.000 quân tấn công Quế. Nhưng đáng lẽ phải cấp tốc đánh Tam Quế trước khi quân Thanh can thiệp, thì họ lại kéo dài ra. Tự Thành phải đích thân đem 200.000 quân đánh Quế ở gần Sơn Hải Quan, khi vây Quế ba mặt rồi, quân Quế sắp bị tiêu diệt thì quân Thanh tới cứu Quế. Tự Thành thua, rút lui, đề nghị chia giang sơn với Quế; Quế không chịu, Tự Thành giết cha Quế rồi vội vàng về Bắc Kinh (vì quân địch theo bén gót) vơ vét vàng bạc, châu báu chất lên xe, đưa về phía Tây, đốt cung điện rồi cùng với quân đội rút lui...
Quế hy vọng đuổi được Tự Thành rồi, nhường cho nhà Thanh một số quyền lợi nào đó thì họ sẽ lui về Mãn Châu. Không dè viên phụ chính (Đa Nhĩ Cổn), chú vua Thanh bảo chưa lập được trật tự nên không về, lại sai Quế đem quân Thanh đuổi theo Lý Tự Thành tới Thiểm Tây. Trong khi đó, vua Thanh mới 7 tuổi được chú (tức viên phụ chính) đưa vào Bắc Kinh, đặt lên ngai vàng.
Quế hay tin như người mất hồn, suốt ngày đóng cửa không tiếp ai, rất rầu rĩ. Hắn tiếc vì mất ái thiếp, lại mất ngôi vua hay chức Tể tướng. Hắn ân hận vì để cho cha bị giết và mang tội phản quốc..

Khóc Vũ Hân
(Vũ Hân, quê Quảng Nam, bị tật bẩm sinh, là một nhà thơ, - tác giả thi phẩm “Diễm Trang”, nhà giáo nổi tiếng ở trường Bồ Đề Huế. Sau 1975, ông bị buộc phải thôi dạy học, sống lây lất ở Saigon, vợ bỏ. Ông chết trong cảnh nghèo khó. Bài thơ nầy Hoàng Vũ khóc Vũ Hân khi nghe tin Vũ Hân qua đời).

Ức Vũ quân hề lệ mãn khâm
Trường Sơn Quảng địa nhất tinh trầm
Yên hoa phong bút, hồn như tại
Hà huống tao nhân ảo tỵ trần

bản nôm:
Thấm bâu lệ nhớ bao lần
Quê hương bỗng xót một vì sao rơi
Bút hoa gởi lại với đời
Đành sao anh vội về nơi chia đường.

Nhất phiến tài tình vạn cổ thương
Nhàn văn độc khứ thệ hà phương
Ô hô! Thế sự mai trường mộng
Hốt kiến trần khôi sở đoạn trường

bản nôm:
Tài hoa một kiếp thân thương
Cánh mây biền biệt cuối đường phiêu du
Mộng trường chôn chặt nghìn thu
Màu tro xám lạnh bùi ngùi tâm can
Hoàng Vũ

Truyền Thuyết:
Tương truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại Chử Xá huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.
Thời ấy vua Hùng Vương thứ ba có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung - Chử Đồng Tử làm chúa. Một hôm có người bày cho cách ra ngi buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Tiên. Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.
Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.
Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung - Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.
Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là chợ Hà Thị.

Anh em trai chúng tôi có 4 người, khi đến tuổi thành niên, mẹ tôi thường răn dạy, ngăn ngừa trong việc quan hệ nam nữ, sợ chúng tôi mắc bệnh phong tình, kỵ nhứt là bệnh giang mai, gây họa đến mấy đời.


Trần Vấn Lệ * Khi Em Đi Shopping Về





Khi em đi shopping về, trời mưa ướt mái tóc thề em thôi!  Em vui mà!  Em vui chơi, em đâu có biết mưa rơi lúc nào! 

Mưa Xuân như cánh hoa đào, tìm em mà nói ôi chào em xinh!  Ở đây thì đi shopping, nhìn hàng hóa để, nhìn mình trong gương…

Bao nhiêu là cái dễ thương, em không mua được để nhường người ta!  Shopping người rộng bao la, túi em thì hẹp, ôi là tuổi thơ!

Dẫu chi cũng có đôi giờ, giữa ngày năm mới không bơ vơ buồn.  Anh theo mưa tận đầu nguồn, theo em quấn quyện cái hồn Xuân xưa…

Chúng mình có thuở rất thơ, đi qua Đình đứng lại chờ sương tan.  Kia em, ngói đỏ rêu vàng, đếm đi cho hết lòng chàng thương em!

*
Đầu năm có nhớ có quên – quên đi cái thuở muộn phiền Quê Hương, nhớ, còn lại những yêu thương,  nụ hôn anh nhớ môi hường em ghê!

Khi em đi shopping về, để anh chải nhé tóc thề em, mưa…

Trần Vấn Lệ 




SG Trần Tuấn Kiệt * Ðêm lạnh ngồi đọc thơ SAY GIỮA MÙA TRĂNG của Bùi Ngọc Tuấn



Ngồi lạnh buồn trong cơn mưa bão từ chiều. Gác vắng quá đơn độc và nhớ nhung quá, nhất là khi mình giở tập thơ Say Giữa Mùa Trăng của Bùi Ngọc Tuấn ra đọc. Rồi lại khép lại, tự dưng nhớ đến một vầng trăng ngày nào còn ở trong ngục Chí Hoà. Lúc sắp chuyển trại, về sáng. Anh em tù tập trung lại để đưa đi xa. Mỗi người một vắt cơm. Cơm nhỏ đi gần, cơm lớn đi xa. Nhưng đi đâu thì đi cóc cần biết. Chỉ thấy trăng ngoài song sắt sáng ngời rọi vào trong phòng giam.

Luân Hoán * Lục Bát Mùa Xuân














tặng Lý Phước Ninh

1.
lâu nay tưởng giàu phong trần
hoá ra chỉ có vài lần phong ba
rằng tuy lạc mất quê nhà
chỗ định cư vẫn chính là... em yêu

thu đông xuân hạ sáng chiều
em còn nguyên vẹn con siêu vi trùng
cùng ta vẫn sống ung dung
làm bao nhiêu chuyện ngại ngùng nói ra

tào lao xịt bợp không à
múa may cho lắm chẳng qua yêu đời
tánh ta em thừa biết rồi
lười biếng nhút nhát ham chơi thích đùa

cũng may biết làm ông vua
trị vì nghiêm túc có thừa tài hoa
trên một em, dưới người ta
xứng mặt quân tử đúng là minh quân

năm nay bảy hai mùa xuân
soi gương ta thấy vẫn chừng nấy thôi
nghĩa là có tóc có râu
có da có thịt có đầu có chân
có luôn các cái trong quần
em cần cứ lấy ra dùng tự nhiên

nếu không xài cứ nhượng quyền
cho ai đó để thánh hiền làm thơ




Luân Hoán
12-2012




Minh Nguyễn * Những bước lên trời với ruộng bậc thang


Đang tháp tùng cùng nhóm họa sĩ Mê-Kông Art đi thực tế tại làng gốm đỏ Vĩnh Long .Bất ngờ,tôi nhận được tin nhắn của Mây trên mạng “ – Anh rảnh không ? Lên Sapa đi.Mùa thu nơi đây có hàng trăm thửa ruộng bậc thang đang vào mùa giáp hạt.Lúa chín vàng ươm, đẹp không thua gì Flowering Garden của Van Gogh “. Ôi! Cái tin nhắn có bấy nhiêu chữ, vậy mà nó thật sự lôi cuốn máu đi giang hồ vặt trong tôi, bởi từng chữ từng chữ hàm chứa biết bao sự lãng mạng trông chờ.

Ừ ! Thì lên Sapa – Lào Cai xem mùa thu của Mây dát vàng nương rẩy núi đồi và từng bước dẩn lên tới trời với ngàn thửa ruộng bậc thang, xem ra cũng thú vị,hơn là cứ ngồi ở Sàigòn hứng chịu cái nóng kinh người.

Cơ hội không đến với ai hai lần. Câu nói mang tính triết lý của ai đó đã giúp tôi quyết định cắt ngang chuyến đi “ vọoc “đất cùng với nhóm bạn hoạ sĩ.Bay một mạch về nhà sửa soạn cho chuyến đi liền kề ngay trong ngày hôm sau.

Hà Nội mùa thu đón tôi bằng lá cây sấu,cây cơm nguội,cây xà cừ rơi đầy trên hè phố cùng với mùi hoa sữa nồng nàn cuốn theo hương cốm vòng gói trong lá sen, làm nhớ quay quắc giọng nữ “ Có bóng mùa thu thức ta lòng son muộn.Một ngày về xuôi chân ghé Thăng Long buồn.Có phải em là mùa thu Hà Nội.Ngày sang thu anh lót lá em nằm.Bên trời xa suơng tóc bay “. (* )

Mây đón tôi ngay cửa ga Lào Cai.Trông cô đẹp hơn,thiếu nữ hơn so với lần gặp trước.Nhưng nụ cười thì chẳng lẫn vào đâu bởi hai chiếc răng vàng hé lộ nét duyên con gái H ‘ Mông, dễ làm cháy lòng bất kỳ chàng trai nào,trong đó có tôi.” – Anh đi tàu có mệt lắm không ? – Nếu mệt, em sẽ đền  cho anh được gì nào ? – Những ngày ở Sapa em dành tất cả thời gian đưa anh đi ngắm ruộng bậc thang – Không có gì hơn à ? – Mời ăn cơm “ lam “ với “ thắng cố “ – Còn chợ tình? – Eo ơi ! Anh tham lam quá.”

Hai má Mây tự dưng ửng hồng lên với vẽ thẹn thùng khi nghe điều tôi nói.Chẳng lẽ tới từng tuổi này Mây chưa lần ghé mắt qua chợ tình ? Tôi chợt nhớ Mây mới 16 tuổi. Cái tuổi ngày xưa các cụ ví von “ bẻ gảy sừng trâu “.Còn Mây thì có thể làm hơn gì trong cái dáng con cò bé bé ? Có lẽ do đóan được ý nghĩ trong tôi nên Mây bẻn lẻn hỏi : “ Con trai miền xuôi có dám lên đây ở rể không ? Của hồi môn chỉ vài con trâu và một ít thổ cẩm “.Tôi cười đáp lại : “ Con trai miền xuôi, dám yêu dám liều không ai bằng “.

Con đường 4 D  từ Lào Cai lên Sapa vào mùa thu mây màu biên biếc.Gió heo may bãng lãng, hôn nhẹ trên từng khóm hoa cúc dại mọc ven đường, đang dậy lên sắc vàng hoang dã.Mây ngồi nép sát người bên cửa xe.Mắt cô hướng nhìn lên dãy Hòang Liên Sơn trong veo màu núi. Vô tình,những sợi tóc mai lùa trong gió, hững hờ đậu trên cánh mũi tôi,để lại một mùi hương ngai ngái Sapa.Cái mùi thơm đặc trưng chỉ có ở người con gái miền cao Tây Bắc.Tôi vờ nhắm mắt,căn phồng lồng ngực hít hà thật sâu hương vị núi rừng. Tưởng tôi ngủ say bên cạnh.Mây lay gọi tôi thức tỉnh để chỉ cho thấy những mảng màu sắc ruộng bậc thang do bàn tay những “ nghệ sĩ nông dân “ sắp đặt.Cảm xúc thật sự òa vỡ khi tôi kịp nhìn thấy hình ảnh từng thửa ruộng  rực lên trong nắng .Những thửa ruộng đan xen với nhau giữa màu xanh lúa non,màu vàng lúa chín mọc ra từ khe đá, phủ lên các sườn đồi,để rồi thóang chốc mất hút trong làn mây. Hình ảnh ruộng bậc thang là hiện thực.Là những cung đường ngoằn ngòeo mơ màng ngái ngủ trong mây.Là đồi núi trong mùa lúa chín, ruộng nương cứ tròn đầy dâng mãi lên tận mây xanh những mâm xôi vàng hực.Là từng bậc chân thang  phối màu hình họa cho ruộng lúa thêm lung linh,kỳ ảo bước chân Từ Thức lên trời.Ôi ! Làm sao kể cho thật đủ đầy những đường nét đặc trưng phong phú khi nói về ruộng bậc thang. Không chỉ riêng ở Sapa – Lào Cai mà còn phải kể tới ruộng bậc thang Banaue – Philippines ,Yuangyang – Vân Nam , Ubad – Indonesia , Annapuma – Népal , Mea Rim – Chiang Mai, Long Ji – Quế Lâm . . . mà đọc giả tạp chí du lịch Travel and Leisure bình chon là đẹp nhất châu Á và thế giới.

Không thấy tôi có ý kiến gì. Mây thắc mắc hỏi :” Chắc,mới bao nhiêu đó hình ảnh chưa đủ chinh phục trọn vẹn tình cảm của anh đối với những thửa ruộng bậc thang nơi đây ? Điều này cũng dễ hiểu thôi.Rồi ngày một ngày hai,sau khi đã mục thị sở tại, hẳn anh sẽ kềm lòng không đậu trước vẽ đẹp vô cùng lộng lẩy do thiên nhiên ban tặng cho vùng đất này mà xem. Tới lúc đó chưa biết ai phải lụy ai à nghe ? “. Tôi cười. Không vội trả lời Mây,bởi tôi đang muốn tự hỏi xem hình ảnh ruộng bậc thang Sapa – Lào Cai có gì đặc biệt so với hình ảnh ruộng bậc thang ở Banaue mà tôi đã xem trên Youtube ? Tôi hòan tòan thất vọng khi kịp nhận ra sự so sánh khập khiểng của mình.Bởi  không có sự so sánh nào giống với sự so sánh nào.May mà tôi chưa đem chuyện này ra nói với Mây,nếu không cô sẽ có được trận cười no bụng.Hơn nữa, ruộng bậc thang Banaue tuy có khỏang 2000 năm tuổi tại vùng núi Lflugao – Philippines, được tổ tiên người Batad tạo dựng.Nhưng xem ra đời sống cư dân lẫn cảnh quang thiên nhiên đã bị thời gian bào mòn ,làm mất đi ít nhiều vẽ đẹp hoang sơ vốn quyến rũ trước đó, dù có được Unesco công nhận.Và nếu chỉ cần bầu chọn giữa hai  ruộng bậc thang Banaue và Sapa – Lào Cai thôi ( trong số bảy cảnh quan thiên nhiên đẹp nhất được đề cử ) tôi sẽ không do dự chọn ruộng bậc thang Sapa – Lào Cai. Điều này không hẳn chỉ có riêng nơi tôi mà ,hầu như các nghệ sĩ nhiếp ảnh nào cũng say mê và tốn nhiều phim ảnh để mang về cho mình nhiều tấm huy chương giá trị khi chụp các thửa ruộng bậc thang quê hương

Tuy nhiên,ít ai hiểu được “ đằng sau vẻ đẹp “ của những dải lụa vắt lên trời.Những mảng màu không chủ đích do nông dân tạo nên.Thì ruộng bậc thang kia là cả một nền văn minh ruộng rẩy lúa nước.Là cả một triết lý nhân sinh mà bao đời nay bà con người Mông,người Dao,Tày,Giáy . . .khó khăn khai khẩn, canh tác trong điều kiện khắc nghiệt của khí hậu cùng với sự kiến tạo địa hình nhiều núi non, nên phải canh tác trên các sườn núi có dộ dốc cao,dễ gặp nhiều bất trắc.Hành vi đó không chỉ là sự ứng xử mà còn là thành tựu cả về mặt văn hóa lẫn tri thức dân gian.Qua đó đã phát huy tác dụng, tạo ra năng xuất lúa nước cao hơn sản xuất lúa nương rẩy. Và từ những thách thức của thiên nhiên. Muốn hạn chế những rủi ro cho con người và trong sản xuất người xưa hình thành ra các nghi thức tín ngưởng.Bởi họ quan niệm động thực vật xung quanh con người đều có phần hồn lẫn phần xác.Cho nên để ổn định tâm lý cũng cần tới sự cúng kiến như ; lễ cầu mưa,lễ mừng cơm mới,lễ cúng ma,lễ cúng các dụng cụ nông nghiệp . . .

Mây giải thích : “ đó không phải là hủ tục mà là nét văn hóa đặc trưng của dân tộc vùng cao Tây Bắc, cần được phát huy nhiều hơn nữa trong các buổi hội hè, nếu muốn lôi kéo du khách  đến với Sapa “.

Thực tế. Đến Sapa – Lào Cai đi du lịch. Ngoài việc được thưởng thức khí hậu trong lành,tham quan phong cảnh đẹp,leo núi,ăn các món ăn đặc sản;mà không biết chút gì về phong tục tập quán của người dân bản địa,quả thật thiếu xót .Mây nói đúng. Tiếc rằng tôi không có nhiều thời gian đi tham quan hết các điểm danh lam thắng cảnh trong cùng một dịp. Nhưng việc chia nhỏ mỗi chuyến đi cũng có cái hay của nó. Vì ít ra tôi còn được gặp lại sơn nữ “ thành phố trong mây thành phố trong sương “ của tôi nhiều lần. Mây cũng đồng tình với tôi về điều này .Cho dù cô một mực ta thán “ đàn ông con trai miền xuôi chỉ nói cho vui vậy thôi “.

Đến ki-lô-mét 24 xe dừng lại. Mây cho biết nơi đây thuộc xã Trung Chải, có ruộng bậc thang cao 121 bậc nằm ở thôn Vù Lùng Sung, được đọc giả báo du lich Mỹ đề cử là một trong bảy ruộng bậc thang đẹp nhất.Nghe giới thiệu không thôi chưa đủ.Phải thực tế tận nơi mới thấy hết sự vất vả,nhọc nhằn do sức người biến núi cao,đất dốc bạc màu thành những “ bồ thóc di động “; đồng thời cũng tạo ra cảnh quan xinh đẹp để mọi người thưởng lãm.

Từ đường 4D tôi theo Mây rẻ phải. Đi bộ trong khỏang thời gian khá lâu về hướng núi Fanxipăng. Dọc hai bên đường, ngoài dốc cao dựng đứng, là hàng ngàn cái thang lúa vàng đua chiều cao, vút lê tận trời. Phải thừa nhận nông dân ở đây hẳn phải là nghệ nhân đẽo ruộng,đẽo đá chuyên nghiệp, đã tạo ra hình thù ruộng bậc thang không thửa nào giống thửa nào.Cái hình chóp, cái hình mâm xôi,hình da hổ,hình cái thang . . .  trông thật quyến rũ. Có lẽ,do thấy tôi bị mê hoặc bởi màu sắc nửa vàng óng,nửa vàng sậm giữa mùa lúa đang vừa chín tới. Mây cười nói : “ ở trên này có hai mùa tuyệt đẹp để ngắm nhìn sự kỳ thú từ ruộng bậc thang – mùa nước đổ ( tháng 5-6 ) – và mùa thu. Mùa nước đổ là mùa nước từ trên trời rơi xuống. Lúc đó nước từ đỉnh núi hay đầu nguồn chảy đầy suối rồi dẩn qua hệ thống mương mán thô sơ, chia nước ra đều khắp các thửa ruộng.Sao cho nước ngập chân lúa không sâu để không bị úng khi mưa,không bị hạn khi nắng lớn. Điều đó gọi là gì nếu không phải là nghệ thuật ? Tiếc rằng anh không đến đây sau mùa gặt. Lúc đó đất ở sườn đồi, sườn núi được san ủi thành thửa ,có cùng độ dốc, hé lộ ra từng vạt đất đỏ chói chưa kịp bừa ngấu bên từng bậc, từng bậc thang đất xếp từ chân lên tận đỉnh núi trông đẹp đến mê hồn “.

Nghe Mây tả ruộng bậc thang vào mùa hè làm tôi nghe bắt thèm.Ừ ! Nếu muốn thì lần sau lại lên đây. Vừa được xem ruộng bậc thang trong mùa đổ nước cấy, vừa được ngắm Mây. Có mất mát gì đâu.

Mệt.Tôi ngồi xuống cạnh đường.Trên đầu mây di chuyển rất nhanh,mới đó đã phủ che cả bầu trời,che luôn cả những thửa ruộng thơm lừng hương lúa, khiến tôi có cảm giác như chỉ cần đưa tay ra là có thể tóm gọn được những phiến mây nhẹ như bông.

Thấy cũng vừa đủ cho một ngày đi ngắm các thửa ruộng bậc thang ở Trung Chải.Tôi đề nghị  Mây đón xe đi tiếp lên Sapa để còn ăn uống, nghỉ ngơi.Bởi lẽ từ sáng tới giờ tôi chưa có chút gì trong bụng;ngoại trừ ổ bánh mì ba-ghét và chai nước tinh khiết do nhà tàu cung cấp đêm qua.

Tội nghiệp,khi biết được điều này, Mây luôn miệng xin lỗi tôi về sự vô ý của mình. Mây hứa ngày mai sẽ bắt đền cho tôi một chuyến ghé xuống thung lũng Mường Hoa của người Giáy ở xã Tả Van. Xem các nghệ sĩ nông dân triển lãm sắp đặt ruộng bậc thang từ các sườn đồi một cách tài tình, lãng mạn ở hai bên bờ suối.Tới lúc đó tôi sẽ có cái nhìn chân thật hơn về sự kiên cường và phóng khóang của con người; thông qua việc cày cấy,gieo trồng lúa nước trên vùng đồi núi cao khắc nghiệt. Để có sự cảm thông,chia xẻ nỗi khó khăn vất vả trong việc dùng sức người để thắng thiên nhiên,nhằm tạo ra của cải vật chất cho đời sống phong phú sau này.

Dĩ nhiên. Tôi không có gì phải bàn thêm về lời hứa hẹn xem ra khá quyến rũ của Mây, trước việc đi xem ruộng bậc thang ở thung lũng Mường Hoa. Một địa danh không chỉ nổi tiếng  đẹp nhất trên bản đồ du lịch Sapa; mà còn có nhiều thửa ruộng lung linh, huyền ảo không thua gi ruộng bậc thang ở Trung Chải./.

(*) Nhớ mùa thu Hà Nội – TQL & TNC

Văn Quang * Cả nước bị điện giật


Đúng ngày tận thế, chiều 21-12-2012, ông Điện Lực Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietnam Electricity, viết tắt làEVN) thông báo tăng giá điện, tính cả năm 2 lần tăng là 10%. Nụ cười của người Việt vừa thoát khỏi ngày tận thế chưa rời khỏi khóe môi đã héo lại vì bị “tận thu”. Cái số người dân Việt bây giờ vì thế ít khi nào có nụ cười trên môi. Xin đừng đặt câu hỏi vì sao một số người Việt bây giờ lại “vô cảm” đến thế. Lý do giản dị bởi còn chạy gạo hộc xì dầu, không có tiền thì vợ con đói, bố mẹ không có thuốc, chưa biết chết lúc nào, nên đành phải “mắc bệnh vô cảm” vậy, dù lương tâm có bị cắn rứt cũng phải chịu. Công việc nhà chúng em còn nhiều lắm, ông thông cảm hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì tới “cơm gạo áo tiền” nhà chúng em. Nhưng còn một ông lớn mắc bệnh vô cảm nặng hơn, công khai thách thức dư luận.

Ông Điện Lực Việt Nam mắc bệnh vô cảm nặng

Cái thời buổi này nó thế, nhất là dịp năm hết Tết đến này, người dân có hàng chục thứ phải lo. Công nhân đi làm xa, lo lấy cái vé tàu về quê cũng ăn chực nằm chờ suốt đêm vẫn chưa mua được, lại phải nhờ đến cò chợ đen. Nỗi lo lương thưởng Tết không có, lấy gì mua bánh cúng ông bà, lấy gì mua cho con manh áo mới. Chưa nói đến một số doanh nghiệp nợ lương từ tháng này qua tháng khác, tháng này không biết còn nợ nữa không. Rồi vẫn lo cái xe gắn máy cà tàng sắp phải đóng thuế “phí sử dụng đường bộ”. Ông ngân hàng nhà nước cũng “nhân dịp cuối năm” này ép hạ lãi suất gửi ngân hàng xuống thêm 1% nữa. Nỗi lo hơn nữa là thất nghiệp. Mấy cô cậu làm trong ngân hàng đang nơm nớp lo bị “cắt giảm nhân sự”. Nói cho đúng, làm ở sở càng lớn, lương càng cao, càng lo. Công nhân các công ty xí nghiệp càng nhỏ, lương cành “hẻo”, càng lo, chưa biết năm sau công ty sẽ đi về đâu, nỗi lo thất nghiệp vẫn canh cánh bên lòng. Ấy thế mà vẫn tăng giá điện gấp gáp, bất ngờ, có ông ví von như một cú gí điện vào lưng nhân dân. Như thế ông điện lực còn mắc bệnh vô cảm nặng hơn nhiều!
Người lao động và đại gia cũng cùng bị điện giật
Thế cho nên khi được tin tăng giá điện, cả nước nhảy nhỏm y chang bị điện giật. Có hàng ngàn câu nói cửa miệng của người lao động thốt ra. Mấy cái doanh nghiệp cũng thất thần, hãng nào cũng phải sử dụng điện trong khi hàng ế ẩm, bán giá cũ chưa ai mua, nay lại tăng giá nữa, làm sao bán hàng? Cho thợ nghỉ hàng loạt hay cho thợ làm 3 ngày một tuần, vẫn chưa giải quyết được vấn đề. Chỉ còn nước đóng cửa. Đóng kiểu nào còn tùy theo tình hình. Đóng theo kiểu bán hết máy móc thiết bị, ông chủ bỏ nhà không vườn trống, chạy mất tiêu là gọn nhất. Tha hồ cho mấy anh thợ đứng chờ như hòn vọng phu. Kiểu đó không thiếu gì ông chủ đã và đang áp dụng có hiệu quả tại Việt Nam.
Nhưng tình trạng của người lao động còn thê thảm hơn nhiều. Vậy xin chứng minh cụ thể tiếng nói của người dân trước. Trong số hàng ngàn ý kiến trên hầu hết các trang báo cho người dân “xì hơi”, đa số ý kiến đều cho rằng EVN làm ăn thua lỗ những năm trước không phải do lỗi của người tiêu thụ nên không thể bắt họ phải chịu trách nhiệm. Mời bạn đọc những tâm sự rất ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa:

Thà tận thế cho khỏe

- Bạn Lao Đao thất vọng quá đến mức phải thốt lên: Vừa vượt qua được cái tận thế lại đụng ngay cái tận thu của anh Điện, tuần sau anh Giao Thông cũng sẽ tận vét với cái phí giao thông cho các loại xe! Thà tận thế thiệt cho khỏe!!!
- Bạn Phạm Văn Lâm than bóp đã xẹp: Những ngày cuối cùng của năm 2012 giá điện tăng “hốt hụi chót”... Bóp của dân thực sự đã xẹp lép, làm gì còn tiền để đóng “phí bảo trì đường bộ” ngay đầu năm đây hỡi những ông Quan ơi?...
- Bạn Tiếng xưa nhìn nồi cơm nhà mình: Người dân đã oằn mình với bao thứ thuế, Sở Điện lực cũng ráo riết ra tay. Nồi cơm lại vơi đi rồi, Sở Điện lực ơi!
- Bác Bảy Đại Ca hỏi thăm các nhà làm kinh tế vĩ mô và “siêu tiến sĩ” Việt Nam: Đây là kinh tế vĩ mô và người dân sẽ ngộp thở, là nhờ các siêu tiến sĩ làm luận án, tăng lãi để bù lỗ và người dân ngóc đầu lên không nổi.
- Bạn Năm Khang sâu sắc hơn: Cái mất nhiều hơn: Hết biết, hết biết, hết biết! Trong khi, Chính phủ mới có chỉ đạo trong phiên họp tháng 11 là phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô; kềm chế lạm phát. Và tại sao phải tăng giá để bù lỗ do tự mình kinh doanh yếu kém. Thật sự không còn biết tin vào cái gì nữa. Dân phải ép mình mà trả thêm tiền điện, trả thêm phí bảo trì đường bộ mà tâm không phục, khẩu không phục. Có thêm tiền, nhưng cái mất là nhiều hơn!
- Bạn TBDKN nói đến nguyên tắc ngược đời trong kinh doanh: Theo nguyên tắc cung cầu của thị trường thì mua càng nhiều, giá càng giảm nhưng EVN thì không! Mua càng nhiều càng bị “chém”. Một mình một chợ muốn làm gì thì làm. Chẳng có ngành nghề nào kinh doanh sướng như EVN, thua lỗ thì nhà nước cứu, còn lợi nhuận thì đem chia nhau xài. Bó tay.
- Bạn Hiep, email hiep63@mail.vn lại tỏ ra khôi hài: Đúng là 5 anh em trên 1 chiếc xe tăng: xăng tăng - điện tăng - nước tăng - gaz tăng - vàng tăng mà lương… chậm tăng!
- Bạn có địa chỉ email tuanhonglac@... đặt câu hỏi: Tăng giá điện là điệp khúc được lặp đi lặp lại nhiều năm. EVN độc quyền bán điện rồi độc quyền tăng giá, lại còn nói “Không tác động lớn”. Cơ sở nào để các ông nói là không tác động lớn? Thử làm dân nghèo xem có tác động hay không khi mà người dân đã cắt giảm rất nhiều khoản chi tiêu, nay giá điện lại tăng thì lấy khoản nào bù vô? Đó là chưa kể giá điện tăng sẽ làm giá hàng hóa tăng theo. Tại sao làm ăn lỗ lại bắt khách hàng gánh cho mình?
- Cụ Lão Nạp kết luận: Người dân không bị tận thế thì cũng bị tận... số với các ông: Điện, giao thông, xăng dầu!
Chỉ nghe bằng ấy lời “tả oán” của người dân, bạn đọc đã có thể nhìn rõ được tâm trạng của người dân Việt hiện nay “mười phân vẹn mười” như thế nào, khỏi cần bình luận thêm, phải không bạn?
Không chỉ người dân nghèo than khổ, các đại gia chủ doanh nghiệp cũng than khổ.

Tiếng kêu của các đại gia trong các doanh nghiệp

-Ông Đỗ Phước Tống (giám đốc Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh): Quá ngán giá điện: Phải nói là quá bất ngờ. Trước đó, hầu như tôi chưa nắm được thông tin nào về việc tăng giá điện bắt đầu từ hôm nay (22-12). Thú thật, tôi đã quá ngao ngán về vấn đề này. Doanh nghiệp, người tiêu dùng than quá nhiều về giá điện nhưng Bộ Công thương có bao giờ nghe.
Từ đầu năm đến nay, nhiều loại chi phí đầu vào tăng giá mạnh, nhưng sản phẩm bán ra không thể tăng giá. Trong ngành cơ khí chúng tôi, phần điện rất nặng. Hầu hết các khâu sản xuất đều phải dùng điện.
Tại Công ty Duy Khanh, chi phí tiền điện chiếm khoảng 4% trong tổng chi phí sản xuất. Việc tăng giá điện có tác động rất lớn đến hoạt động của công ty. Trong khi đó ở thời điểm này không thể tăng giá đầu ra vì còn phụ thuộc vào sức mua, doanh nghiệp phải tự gánh khoản tăng giá điện lần này.
Thời gian thông báo tăng giá điện chỉ trong vòng 01 ngày. Đúng là chỉ có công ty điện lực được nhà nước bao cấp mới có khả năng làm như vậy để ép dân chúng tôi. Tôi chỉ vừa nghe tin tăng giá điện hôm qua, vậy mà hôm nay nhân viên điện lực đã đến cơ sở sản xuất của tôi đễ chốt giá điện báo tăng giá.
Dân chúng tôi xài điện, đóng tiền điện - cũng xem như là khách hàng của công ty điện, nhưng liệu chúng tôi có được sự tôn trọng như là khách hàng?
Thử hỏi nếu là một doanh nghiệp muốn báo tăng giá sản phẩm thì cũng phải thông qua một thời gian thông báo trước để khách hàng có tâm lý chuẩn bị và tính toán lại. Đằng này thấy ép chúng tôi quá. Dường như ngành điện giờ trở nên quá độc đoán nên chỉ trong 01 ngày thông báo tăng giá là ngày mai áp dụng ngay, để dân chúng không kịp có tiếng nói gì.
Chính phủ có thẩm quyền thì chỉ yêu cầu EVN bù lỗ nhưng không yêu cầu rõ chính sách bù lỗ hay biện pháp hạn chế sự độc đoán của EVN, thay vì bằng việc cải tổ lại bộ máy hoạt động sao cho hiệu quả tránh thất thoát hơn thì EVN chỉ đơn giản nhất là móc túi dân, bắt người dân như chúng tôi - những người làm ăn cực khổ ngày đêm thiếu ăn thiếu ngủ để tính toán sao cầm cự được vì không thể tăng giá đầu ra nhưng phải đủ sức nuôi thợ có công ăn việc làm ổn định, phải gồng gánh hết thuế này thuế nọ. Rồi lại phí này phí kia, rồi hết điện tăng rồi có ngày xăng, nước lại tăng, giá nguyên liệu tăng theo... Mỗi thứ tăng một ít 5%, 3%, 4% thì chúng tôi chỉ còn biết dẹp tiệm...
Tìm mọi lý do để móc túi dân
Bây giờ bạn đã hiểu tại sao doanh nghiệp Việt Nam đóng cửa lu bù, công nhân thất nghiệp, nạn trộm cướp hoành hành dữ dội, mại dâm từ chân dài thành thị đến con gái nhà quê mọc lên như cỏ hoang… và còn nhiều những hệ lụy khác làm băng hoại xã hội phát sinh từ những quy định thiếu thực tế, chỉ lo đến cái ngân sách của ngành mình, của cơ quan mình hơn là đời sống của dân. Các ông làm kinh tế vĩ mô, các nhà “siêu tiến sĩ” như bác Bảy Đại Ca đã “xưng tụng” bỏ quên mất đời sống của người dân sẽ chịu ảnh hưởng như thế nào. Hoặc là cố bám víu lấy một chỉ thị của cấp trên để thi hành máy móc theo kiểu “cố tình hiểu sai, hiểu lầm” nhanh chóng đưa ra những quyết định “bảo hoàng hơn vua”. Viện ra đủ lý do để móc túi dân cho nhanh.
Thí dụ “EVN công nhận năm 2012 lãi khoảng 3.500-4.000 tỉ đồng, nhưng vẫn phải tăng giá điện để bù các khoản lỗ trước đây”. Lỗ vì ngành điện lực sẵn tiền trong tay, mang đầu tư ngoài lãnh vực chuyên môn của mình như bất động sản, viễn thông, chứng khoán... để lỗ hơn 20.000 tỉ, lỗi này hoàn toàn do sự quản lý yếu kém của EVN. Đầu tư không đúng chức năng, làm thất thoát tài sản của nhà nước thì trách nhiệm trước hết thuộc về lãnh đạo EVN, phải bỏ tiền túi ra mà đền. Không thể bù các khoản lỗ bằng cách tăng giá điện, đánh vào người tiêu thụ, họ không có tội.
Theo một chuyên gia, giá điện đã có thể không gánh nhiều áp lực tăng như thế, nếu EVN quản lý tốt hơn, tiết giảm nhiều chi phí đầu vào cấu thành giá điện. Đặc biệt là tổn thất điện năng nhiều năm qua dù đã có yêu cầu phải giảm nhưng vẫn đứng ở mức cao (trên 9%). Theo vị này, chỉ cần giảm 1% tổn thất điện năng thì mỗi năm ngành điện đã tiết kiệm thêm được cả ngàn tỉ đồng. Đỡ khổ cho dân biết mấy.
Lại đến những chuyện bất hợp lý từ ngân hàng
Và cũng nhân “dịp đặc biệt” này, chỉ sau 1 ngày giá điện tăng, ông Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN), bèn ra ngay cái quyết định giảm lãi suất, trước hết là giảm đầu vào tức là giảm tiền lời của dân, bù đắp cho ngân hàng để giảm lãi suất cho doanh nghiệp vay. Cơ quan này thừa nhận tình hình doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, do sức mua của thị trường vẫn ở mức thấp, hàng tồn kho ở mức cao, khả năng hấp thụ vốn tín dụng ngân hàng hạn chế.
Việc giá tiêu dùng được kiềm chế ở mức thấp cũng là điều kiện để lãi suất tiếp tục giảm. Dự kiến cả năm nay, lạm phát chỉ tăng khoảng 7% so với năm ngoái.
Như vậy, đây là lần thứ 4 liên tiếp trần lãi suất tiền gửi VNĐ giảm, từ mốc 14% vào đầu năm. Các loại lãi suất điều hành khác còn được điều chỉnh với tần suất dày đặc hơn, mặc dù suốt 25 tháng qua, NHNN giữ nguyên lãi suất cơ bản 9% một năm.
Dự báo của các ông có tính đến việc tăng giá điện, mọi thứ sẽ tăng theo, lạm phát và tiêu dùng có còn giữ được mức đó không? Cho nên ông NHNH mới vội đưa ra quyết định giảm lãi suất cho “hợp thời trang”. Nếu để vài hôm, giá tăng đùng đùng mới đưa quyết định ra sẽ là bất hợp lý. Đúng là một quyết định khôn ngoan của các ngài làm kinh tế vĩ mô! Khôn hơn dân là cái chắc. Nhưng vẫn có những bất hợp lý không che giấu được.
Quýt làm cam chịu
Một bất hợp lý dễ thấy là những doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, làm ăn thua lỗ, sao lại bắt dân chịu? Thí dụ những doanh nghiệp, từ hàng chục năm trước đây, vay vốn ngân hàng kiểu “tay không bắt giặc”, mua 1m2 đất chỉ có vài trăm ngàn đồng, khi bán cả triệu đồng, lời hàng ngàn tỉ, dân được hưởng cái gì? Đến khi xây nhà, xây siêu thị, lại lời thêm một lần nữa, xây vài trăm triệu, bán cả chục tỉ, ai ăn? Dân được cái gì?
Thế mà khi nhà đất xây ra rồi để đó định kiếm lời vái trăm tỉ nữa, nhưng gặp lúc “đóng băng”, ế dài. Dân lại chịu đủ kiểu để “tháo gỡ” cho các “vua nhà đất”, nói chung là những “doanh nghiệp đang gặp khó khăn”. Khi ăn thì đại gia ăn hết, khi thua thì lấy tiền dân bù vào có hợp tình hợp lý không?
Còn ngân hàng khi cho các doanh nghiệp vay nặng lãi trên 20%, khi đó doanh nghiệp có ăn, trả lãi đầy đủ cho ngân hàng. Ai ăn? Khi vỡ lở ra, ngân hàng không định giá kỹ hoặc móc ngoặc với doanh nghiệp, cho doanh nghiệp không vốn hoặc ít vốn vay, bây giờ không đòi được nợ thành “nợ xấu”. Lỗi này hoàn toàn thuộc về ngân hàng, dân có tội gì? Ngân hàng có bổn phận phải tự cứu mình. Mang tiền dân ra “cứu nguy” lại là điều bất hợp lý khác nữa. Chung quy quýt làm cam chịu, người dân có tí tiền gửi tiết kiệm, thơm như quả cam đỏ hồng, bị “gí” mà không nói năng gì được.
Phần khác, khi viện dẫn lạm phát bao nhiêu phần trăm là tự các ông nói thôi, người dân hoàn toàn mù tịt, không thể biết lạm phát lên xuống ra sao. Theo suy luận giản dị của người dân, chỉ căn cứ vào giá cả cứ tăng, đời sống ngày một khó khăn hơn hay dễ thở hơn, đó là lạm phát tăng hay giảm. Cho nên người dân không khỏi bất bình về cách “áp đặt”này của NHNN. Ông NHNN đã căn cứ vào chỉ thị của chính phủ là phải hạ lãi suất, đó là điều ai cũng mong cho giá cả hạ nhiệt. Nhưng cách làm của NHNN là cứ cái gì “đè” được thì “đè” cho nó nhanh gọn, không có sáng kiến tìm ra giải pháp khác và không có lý lẽ thuyết phục.
Lúc này mọi việc đầu tư đều khó khăn, người dân chỉ có lựa chọn là gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Thôi thì nay hạ, mai hạ lãi suất, không kiếm được tí tiền lời như trước cũng gỡ được cái vốn không bị hao mòn vì đồng tiền mất giá. Ăn tiêu vào tiền lời gửi ngân hàng tức là ăn vào vốn của mình hay nói theo cách của người bình dân là mình cắn vào tay mình.
Ngay cả việc gửi tiền vào ngân hàng, có người cho rằng như thế cũng là “liều” vì chưa biết lúc nào ngân hàng có thể vỡ nợ. Họ tin vào sẽ không có ngân hàng nào vỡ nợ trong thời gian này cả vì nếu một ngân hàng vỡ nợ thì các ngân hàng khác cũng vỡ theo, nên ngân hàng phải cứu nhau. Nhưng đấy chỉ là niềm tin mỏng manh trong từng thời điểm mà thôi, ngày mai có thể khác, đó là nhận định của một chuyên gia kinh tế.
Bạn Van viết trên báo Thanh Niên ngày 23-12-2012: “Muốn nói gì thì nói, lạm pháp quá cao, cái gì cũng tăng. Từ điện, gas, nước, xăng, thực phẩm, thu phí cầu đường v.v. Tất cả đều tăng như ngựa phi, tiền đang mất giá. Ngân hàng trả lãi suất tiết kiệm quá thấp, người dân phải rút tiền tiết kiệm ra mua vàng, ngoại tệ để phòng thủ. Chứ biết làm sao bây giờ! Doanh nghiệp than, nhưng kiếm tiền rất bộn. Muốn mượn tiền với lãi suất thấp nhưng làm giàu rất mau. Chuyện kinh doanh là chuyện của họ, có dính dáng gì đến người dân mà phải hy sinh cho các đại gia này làm giàu. Cứ nghèo hoài cho họ giàu à!!!!”.
Nếu có một bất cứ một “kênh” nào gửi tiền có lời hơn 8%, họ sẽ rút tiền ra ngay. Thí dụ nhà đất ấm lên, có lời, người ta lập tức đầu tư vào chỗ khác, hơn là gửi ngân hàng nay ép mai ép. Lúc đó sợ ngân hàng không phản ứng kịp, tình hình sẽ ra sao?
Trong khi đó chẳng biết NHNN có kiểm soát được triệt để các ngân hàng cho doanh nghiệp vay đúng như quy định không và ngân hàng có “đi đêm”, lách lãi suất không? Điều này ông Thống Đốc NHNN biết hay không biết?
Còn một số quy định sẽ được áp dụng từ đầu năm 2013 đang làm người dân đau đầu. Tôi xin bàn đến vào những ngày đầu năm.
Xin chúc bạn đọc cùng gia quyến năm mới 2013 An Khang – Thịnh Vượng.
VQ– Viết từ Sài Gòn
---------
Kỳ này không có hình, xin gửi đến bạn đọc một chuyện vui cuối năm. Một chuyện rất Việt Nam, cam đoan không có ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
Muốn sống được phải liều con ạ

Gia đình nọ có hai đứa con trai lớn, đều sắp lấy vợ. Ông bố chỉ có một căn nhà mới mua, không biết cho con nào, bèn gọi hai đứa lại, bảo mỗi đứa kể một câu chuyện thật buồn cười. Đứa nào có chuyện kể hay nhất, sẽ được căn nhà đó.
Người con cả kể: Có một cán bộ kiểm tra chất lượng sản phẩm của nhà máy gạch lớn, mỗi ngày xuất xưởng hàng vạn viên, công việc nhiều, làm không xuể. May sao một hôm đang đi kiểm tra chất lượng một mẻ gạch xây tường mới ra lò, bị một viên gạch rơi trúng đầu. Anh ta sửng sốt khi thấy đầu anh ta không bị vỡ mà viên gạch bị vỡ tan. Từ đó, anh ta không dùng máy nữa mà dùng ngay đầu mình để kiểm tra chất lượng sản phẩm từng mẻ gạch cho nhanh. Nghe nói chất lượng sản phẩm của nhà máy gạch này kém hoài, nên đã một năm anh ta dùng đầu mình để kiểm tra chất lượng gạch, các viên gạch sản xuất ra đều bị vỡ mà đầu anh ta vẫn vô sự.
Nghe xong, ông bố cười hi hi.
Còn người con thứ hai kể: Mộtđập thủy điện có vốn đầu tư hơn hai trăm tỉ đồng đang được xây dựng ở Kon Tum dài tám mươi mét, thành bức tường bê tông của đập dày hơn một mét rưỡi. Để xây một con đập như vậy, lõi đập phải dùng xếp đá hộc, bơm vữa xi măng, đổ bê tông liên tục với mác 150 để chịu được tác động lực ngoại lai của công trình, đến xe tăng húc cũng không đổ. Nào ngờ, sau gần bốn năm xây dựng, sắp đưa vào sử dụng, có chiếc xe Ben chỉ tình cờ va quệt vào thành tường bê tông của đập đã làm cho sáu mươi mét thân đập bị đổ sập, vỡ vụn, nằm ngổn ngang dưới suối. Lạ hơn nữa là tường của đập bịsụp đổ hoàn toànmà chiếc xe Ben gây nên tai nạn chỉ bị "xây xát" nhẹ ở phần kính,tương tự như chuyện viên gạch rơi trúng đầu cán bộ kiểm tra chất lượng sản phẩm của nhà máy gạch thì vỡ tan, còn đầu người cán bộ ấy lại không việc gì mà anh con vừa kể. Kiểm tra hiện trường, hóa ra lõi thân đập bê tông họ làm đâu có như yêu cầu thiết kế mà chỉ được làm bằng đất, cát và đá cùng “lơ thơ” những khung sắt “gầy nhom”.
Nghe xong, ông bố ôm bụng cười sặc sụa, phán rằng:
- Câu chuyện thằng cả kể hay, nhưng là chuyện bịa như thật. Còn câu chuyện thằng út kể hay hơn vì đó là chuyện thật mà như bịa. Vì vậy, thằng hai được bố cho căn nhà mới mua. Đó là một căn nhà dành cho những người thu nhập thấp, nhưng bố cũng phải bỏ ra tất cả số tiền dành dụm bao năm mới có được đấy.
Nghe vậy, cậu con trai thứ hai sợ tái mặt, chắp tay vái bố không chịu nhận căn nhà bố vừa cho. Anh ta nói: Thưa bố, nhà của bố cho là quý, nhưng bố bạn con cũng vừa mua một căn nhà dành cho những người thu nhập thấp. Nhà vừa trao tay đã xuống cấp, tường bị ngấm nước ẩm ướt, bẩn thỉu. Lan can thì chắp nối sơ sài, mối hàn xiêu vẹo, sống mà luôn cảm thấy bất an. Gia đình của một anh bạn khác ở quê cũng được chính quyền đưa vào diện cấp cho một trong số hàng trăm căn nhà “vượt lũ” dành cho các gai đình dân nghèo tại địa phương nhưng không dám nhận, vì quá sợ khi thấy chỉ một cơn dông, đã có 24 căn nhà vừa làm xong và 5 căn nhà chưa lợp mái bị sập, do những kẻ xây dựng đã rút ruột công trình để tham nhũng. Vì vậy, bố có ép, con cũng chả nhận nhà bố cho đâu, nguy hiểm lắm, bố ạ!
Ông bố cau mặt, mắng:
- Không ngờ con tôi lại hèn thế. Thế bố hỏi con, báo chí luôn đăng đường này, đường kia vừa làm xong đã hỏng, có cầu vừa xây xong đã sập, nếu con sợ thì chả lẽ ru rú ở nhà không dám đi đâu sao? Báo chí cũng đưa tin trường học này, trường học nọ vừa xây xong đã hỏng, nếu con sợ không cho con của các con vào học thì đành để chúng thất học à? Thời nay, muốn sống được phải liều, con ạ.
(Chuyện kể của bạn Nguyễn Đoàn)