văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Thursday, March 22, 2012

Tiểu Tử * Thằng chó đẻ của má


Thanh Trí

Hôm nay là ngày Giỗ Mẹ.
Má ơi! Bữa nay là ngày 23 Tháng Chạp, ngày đưa ông Táo.
Không biết những người Việt lưu vong như tụi con có còn giữ phong tục hằng năm cúng đưa ông Táo về Trời hay không, chớ vợ của con năm nào đến ngày này cũng mua hoa quả bánh ngọt cúng đưa ông Táo, cũng thành khẩn như ngày xưa, hồi còn ở bên nhà.

Năm nay, nhờ vợ của con lau dọn bàn thờ ông Táo để sửa soạn bày lễ vật ra cúng, nên con mới nhớ ra là ngày 23 Tháng Chạp. Ngày này cũng là ngày sanh của má. Hồi đó, má hay nói: “Ngày sanh của đứa nào còn khó nhớ, chớ ngày sanh của tao là ngày ông Táo về Trời, không dễ gì quên!” Và ngày này hồi đó, khi cúng vái, má hay cầu khẩn: “Ông về ở trển nhờ tâu lại bữa nay tôi lên thêm một tuổi, cầu xin Ngọc Hoàng bớt cho tôi chút đỉnh khổ cực...” Hồi đó, nghe má cầu xin, con phì cười. Bây giờ, nhớ lại, con bỗng ứa nước mắt... Cuộc đời của má - theo lời tía kể - cũng lắm gian truân từ ngày má bỏ cái làng quê ở bờ sông Vàm Cỏ để đi theo tía dấn thân làm cách mạng vào những năm 1928/29. Gia đình dòng họ từ bỏ má cho nên hồi sanh con, tía bận đi xa, má nằm chèo queo một mình trong nhà bảo sanh, chẳng có người nào đi thăm hết. Vậy mà sau đó, má vẫn tiếp tục bôn ba... Mãi về sau, khi con lên sáu bảy tuổi, có lẽ chỉ vì sanh có một mình con nên tía má mới “trụ hình” - vẫn theo lời tía kể - với nhiều cực nhọc và khó khăn tiếp nối dài dài... Hỏi sao sau này mỗi lần đưa ông Táo má không có lời cầu khẩn nghe tội nghiệp như vậy?

***

Nhớ lại, cách đây ba năm má thọ tròn trăm tuổi. Tính ra, từ ngày con đi chui theo ý má muốn -má nói: “Mầy đem vợ con mầy đi đi, để tao còn hy vọng mà sống thêm vài năm nữa!” - cho đến năm đó, con xa má 25 năm. Con mới 72 tuổi mà cứ bịnh lên bịnh xuống nhưng năm đó con quyết định phải về. Và con đã về...
Thằng Bảy, con chị Hai Ðầy ở Thị Nghè nghỉ chạy xe ôm một bữa để đưa con về cái làng quê nằm bên sông Vàm Cỏ. Nó nói: “Ði xe đò chi cho tốn tiền, để con đưa cậu Hai về, sẵn dịp con thăm bà Tám luôn.”

Hồi tụi con bước vào nhà, cả xóm chạy theo mừng. Con nhỏ giúp việc vội vã đỡ má lên rồi tấn gối để má ngồi dựa vào đầu giường: “Thưa bà cố, có khách.” Má nhướng mắt nhìn, hai mắt sâu hõm nằm trên gương mặt gầy nhom đầy vết nám thâm thâm: “Ðứa nào đó vậy?” Con nghẹn ngào: “Dạ, con...” Chỉ có hai tiếng “Dạ, con” mà má đã nhận ra con ngay mặc dầu đã xa con từ 25 năm! Má nói: “Mồ tổ cha mầy! Trôi sông lạc chợ ở đâu mà bây giờ mới dìa? Mà dìa sao không cho tao hay?” Con ngồi xuống cạnh má: “Sợ cho hay rồi má trông.” Má nói mà gương mặt của má nhăn nhúm lại: “Tao trông từ hai mươi mấy năm nay chớ phải đợi đâu tới bây giờ!” Rồi má nhắm mắt một vài giây mới để lăn ra được hai giọt nước mắt. Cái tuổi một trăm của má chỉ còn đủ hai giọt nước mắt để cho má khóc mừng gặp lại thằng con... Xúc động quá con gục đầu vào vai má khóc ngất, khóc lớn tiếng, khóc mà không cần biết cần nghe gì hết. Cái tuổi bảy mươi hai của con còn đầy nước mắt để thấm ướt cái khăn rằn má vắt trên vai...

Suốt ngày hôm đó, má con mình nói biết bao nhiêu chuyện, có sự tham dự của họ hàng chòm xóm. Nhớ gì nói nấy, đụng đâu nói đó... vui như hội. Vậy mà cuối ngày, không thấy má mệt một chút nào hết. Con nhỏ giúp việc ngạc nhiên: “Bình thường, bà cố nói chuyện lâu một chút là thở ồ ồ. Bữa nay sao thấy nói hoài không ngừng! Có ông Hai dìa chắc bà cố sống thêm năm bảy năm nữa à ông Hai!”

Ðêm đó, má “đuổi” con vô mùng sớm sợ muỗi cắn. Con nằm trên bộ ván cạnh cái hòm dưỡng sinh của má. Con hỏi: “Bộ cái hòm hồi đó má sắm tới bây giờ đó hả?” Má cười khịt khịt vài tiếng rồi mới nói: “Ðâu có. Cái hòm mầy nói, tao cho cậu Tư rồi. Hồi Cao Miên pháo kích quá, tao đem cậu Tư về đây ở, rồi ổng bịnh ổng chết. Tao có sắm cái hòm khác, cái đó tao cho thằng Hai con cậu Tư. Tội nghiệp thằng làm ăn suy sụp nên rầu riết rồi chết!” Con nói chen vô: “Vậy, cái nầy má sắm sau đám của anh Hai.” Má lại cười khịt: “Ðâu có. Cái hòm sắm sau cái hòm cho thằng Hai, tao cho dì Sáu rồi. Hồi chỉ nằm xuống, nhà chỉ không có tiền mua hòm thì lấy gì làm đám ma?” Ngừng lại một chút rồi má mới nói: “Còn cái hòm nầy chắc tao không cho ai nữa. Họ hàng quyến thuộc lần hồi chết hết, còn lại có mình tao thôi, có nó nằm gần tao cũng yên bụng!”

Nằm tơ lơ mơ một lúc bỗng nghe má hỏi: “Thằng chó đẻ... ngủ chưa?” Con trả lời: “Dạ chưa” Má tằng hắng: “Tao tụng kinh một chút nghen.” Con: “Dạ” mà nghe tiếng “Dạ” nghẹn ngang trong cổ. Mấy tiếng “thằng chó đẻ” của má kêu con đã làm cho con thật xúc động. Hồi đó - lâu lắm, cách đây sáu mươi mấy bảy chục năm, hồi con còn nhỏ lận - má hay gọi: “Thằng chó đẻ, lại hun cái coi!” Hồi đó, mỗi lần cưng con, nựng con, ôm con vào lòng má luôn luôn gọi con bằng “thằng chó đẻ”! Mà con thì chỉ biết sung sướng khi nghe má gọi như vậy. Rồi con lớn lần, má không còn gọi con bằng “thằng chó đẻ” nữa. Con không để ý và chắc má cũng không để ý đến chuyện đó. Mãi đến bây giờ má lại gọi con bằng “thằng chó đẻ,” gọi tự nhiên như hồi còn nhỏ. Chỉ có mấy tiếng thật thô thiển bình dị, nghe khô khan như vậy mà sao con cảm nhận tình thương thật là tràn đầy. Và đối với má, dầu tuổi đời của con có cao bao nhiêu nữa, con vẫn là “thằng nhỏ,” “thằng chó đẻ cưng.” Con bắt gặp lại sự sung sướng của hồi đó khi được má gọi như vậy. Rồi bao nhiêu hình ảnh thuở ấu thời hiện về trong đầu con, liên miên chớp tắt. Ðêm đó, con trằn trọc tới khuya...

Sáng hôm sau, má biểu con đẩy xe lăn đưa má đến từng bàn thờ để má thắp nhang tạ ơn Trời Phật, Ông Bà. Cuối cùng, đến bàn thờ của tía, má nói: “Ông ơi, có thằng nhỏ nó dìa đó. Ông độ cho nó được mạnh giỏi, độ cho vợ con nó ở bên Tây được suôn sẻ trong công việc làm ăn...” Ðứng sau lưng má, con phải cắn môi thật mạnh để khỏi bật lên thành tiếng nấc!

Ðẩy má ngang bàn viết cũ của tía, con thấy trên tường có treo hai khuôn kiếng lọng văn bằng đỏ chói có đóng dấu cũng đỏ chói của nhà nước. Con ngừng lại đọc: một tấm là huân chương hạng nhứt và một tấm là huy chương hạng ba cấp cho Lê Thị Ráng. Con hỏi: “Cái gì vậy, má?” Má nói: “Mề-đai của tụi nó cho tao. Tụi nó bươi chuyện thời ông Nhạc nào đâu hồi mấy năm 1928-29 rồi chạy lại cho. Cái hạng nhứt đó cho năm ngoái, còn cái hạng ba mới cho đây.” Con cười: “Vậy là họ hạ cấp má rồi.” Má hỏi: “Sao mầy nói vậy?” Con giải nghĩa: “Thì từ hạng nhứt tuột xuống hạng ba là bị hạ cấp chớ gì nữa?” Má cười: “Mầy không biết. Cái đầu hạng nhứt đó, cho treo chơi chớ không có tiền. Cái hạng ba đó mới có cho tiền.” Con đùa: “Vậy má chia cho con chút đỉnh lấy hên coi!” Má khoát tay: “Ối... từ ngày nhận cái mề-đai đó tới nay đã ba tháng rồi mà có thấy tụi nó đưa tiền đâu. Nghe nói còn mấy khâu gì gì đó chưa thông nên có hơi trễ ” Thấy trên văn bằng đề “Lê Thị Ráng” con thắc mắc: “Ụa! Mà Lê Thị Ráng đâu phải là tên của má. Trong khai sanh của con, má là Lê Thị Láng mà!” Má cười khục khục mấy tiếng rồi mới nói: “Ðể tao nói cho mầy nghe. Hồi đó tao sanh mầy ở gần nhà thờ Cha Tam, trong Chợ Lớn. Cô mụ người tàu, nói tiếng Việt còn lơ lớ. Cổ hỏi tao tên gì để làm khai sanh. Tao nói tao tên Ráng, mà R cổ nói không được, nên ra sở khai sanh, cổ nói Ráng thành Láng là như vậy “Mãi tới bảy mươi hai tuổi con mới biết tên đúng của má là” Ráng”!

Hôm đưa ông Táo, con có tổ chức một bữa tiệc để ăn mừng một trăm tuổi của má, có họ hàng tham dự đầy nhà. Vừa ngồi vào bàn, dì Bảy Giang nói: “Theo phong tục mình, con cái phải quì lạy để chúc thọ mẹ cha. Bây giờ, chị Tám được một trăm tuổi, hiếm lắm, quí lắm. Mầy phải lạy má mầy đi rồi ăn uống gì ăn.” Mọi người vỗ tay tán thành. Má cũng cười, nói: “Ồ phải! Hồi nẳm, đám cưới của mầy, mầy có đi học lạy với cậu Bảy Dinh, nhưng bên đàng gái miễn lễ chỉ bắt xá thôi, rồi về đây tía mầy cũng miễn luôn. Cho nên tao chưa thấy mầy lạy ra sao hết. Ðâu? Mầy lạy tao coi!” Mọi người lại vỗ tay nữa. Con đứng trước mặt má, chấp tay ấp úng: “Thưa má. Hôm nay là ngày sanh thứ một trăm của má, con xin lạy mừng thọ má.” Rồi con lạy ba lạy, cũng đủ điệu bộ lên gối xuống gối như con đã học lạy cách đây gần năm chục năm. Con lạy mà nước mắt chảy quanh. Con biết rằng lần lạy đầu tiên này có thể là lần lạy cuối cùng, bởi vì qua Tết, con sẽ trở về Pháp với cái lạnh cắt da của mùa Ðông, rồi sau đó biết có còn về nữa hay không? Sức khỏe của con càng ngày càng kém, bao nhiêu thứ thuốc uống vô hằng bữa liệu kéo dài sự sống của con được đến bao lâu? Ðiều này, con đâu dám cho má biết. Mọi người lại vỗ tay khi con lạy xong. Rồi thì nhập tiệc.
Bữa tiệc hôm đó thật là vui. Người vui nhứt là má.

***

Má ơi! Bữa nay là ngày sanh thứ 103 của má, ngày đưa ông Táo về Trời. Vậy là ba năm qua rồi, con đã không về thăm má. “Thằng chó đẻ “của má vẫn còn “trôi sông lạc chợ,” để cho má cứ phải trông nó về, trông hằng ngày, trông mòn con mắt, trông khô nước mắt!
Má thương con, xin má tha thứ cho con... tha thứ cho con....

Wednesday, March 21, 2012

Tuệ Sỹ - Sơ Huyền




Tang thương một giãi tóc huyền
Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu
Gởi thân gió cuốn sa mù
Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng


Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng
Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều
Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu
Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu

Một kiếp sống, một đoạn đường lay lắt
Một đêm dài nghe thác đổ trên cao
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
Ðợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao

Một buổi sáng mắt bỗng đầy quá khứ
Ðường âm u nối lại mấy tiền thân
Ta đứng mãi trên suối ngàn vĩnh viễn
Mộng vô thường máu đỏ giữa hoàng hôn

Tuệ Sỹ

Tuesday, March 20, 2012

ĐINH TỪ THỨC * The Artist, Oscars và Cộng sản

TheArtistTeam

Chú chó Uggie cùng những người làm phim The Artist
nhà sản xuất Thomas Langmann (trái),
diễn viên Jean Dujardin (giữa), đạo diễn Michel Hazanavicius (phải),
tại giải Quả Cầu Vàng, Los Angeles, 15/01/2012.
Ảnh của REUTERS/Lucy Nicholson


Trước khi đoạt năm giải Oscars vào tối Chủ Nhật 26 tháng 2, 2012, tại Hollywood, gồm toàn các giải hàng đầu như phim hay nhất, đạo diễn giỏi nhất, nam tài tử xuất sắc nhất, cuốn phim của Pháp The Artist đã đoạt tới hai chục giải thưởng tại các đại hội điện ảnh khác, từ Pháp đến Anh, và Hoa Kỳ.

Ra mắt tại Cannes Film Festival năm ngoái, The Artist đoạt hai giải, một cho nam diễn viên chính Jean Dujardin, và giải Palm Dog cho con chó Uggie. Vẫn tại Pháp, phim này được 6 giải César (tương đương với Oscar của Mỹ); cũng toàn những giải giá trị như phim hay, đạo diễn (Michel Hazanavicius), và nữ diễn viên xuất sắc nhất (Bérénice Bejo). Tại Anh, The Artist được 7 giải BAFTA (British Academy of Film and Television Arts). Tại Mỹ, trước khi được Oscars là 3 giải Trái Cầu Vàng (Golden Globes của Hội Báo chí Ngoại quốc ở Hollywood), giải của Nghiệp đoàn các nhà sản xuất (Producers Guild Awards) ở Los Angeles, và giải Independent Spirit tặng cho nhà sản xuất độc lập (Thomas Langmann). The Artist là cuốn phim Pháp được đề cử nhiều nhất, và đoạt nhiều giải thưởng nhất trong lịch sử.

Một cuốn phim “câm” đen trắng, dài 100 phút, được nhiều giải cao quý “xuyên đại dương” như vậy, là chuyện hiếm, và ắt phải có giá trị nghệ thuật cao. Nhiều phần chắc là người viết truyện kiêm đạo diễn Hazanavicius, cũng như nhà sản xuất Langmann không có dụng ý gì liên hệ tới cộng sản. Người châu Âu hiện nay coi Cộng sản như chuyện đã hoàn toàn thuộc về quá khứ, chẳng còn gì phải bận tậm. Sau khi nhận giải Oscar, đạo diễn Hazanavicius đã cho biết ông yêu mến phim câm như thế nào: “Tiếng nói hữu dụng, nhưng chỉ hữu dụng thôi. Tuy nhiên nó cũng làm giảm giá trị của truyền thông. Khi một đứa trẻ không biết nói, cười với bạn, làm bạn xúc động khác với cái cười của người lớn. Ngay cả với những người bạn yêu, không phải lúc nào bạn cũng dùng lời nói để biểu lộ những việc quan trọng. Tôi nghĩ khi bạn không cần phải nói, đó mới thực sự là sức mạnh”. Như vậy, ý của người làm phim đã khá rõ ràng. Đối với ông, “im lặng là vàng”. Nhưng người thưởng ngoạn phim, cũng như xem tranh, nhiều khi được tác phẩm cho những cảm hứng riêng, chẳng ăn nhập gì tới ý của tác giả. Với người viết bài này, câu truyện giả tưởng qua The Artist lại phản ảnh diễn tiến thật, đầy thú vị của chủ nghĩa cộng sản trên thế giới.

Về thể loại, The Artist được coi là một phim lãng mạn bi hài (romantic comedy drama). Sự xuất hiện, bành trướng và sụp đổ của chế độ cộng sản cũng là một bi hài kịch lãng mạn của nhân loại vào thế kỷ 20. Khởi đầu, nhiều người theo cộng sản vì lãng mạn. Khi chế độ cộng sản gây ra chết chóc cho hàng trăm triệu người, lãng mạn thành bi kịch, rồi sụp đổ một cách khôi hài bởi bàn tay của người anh hùng bí tỉ như Yeltsin.

Peppy

Peppy Miller (Bérénice Bejo) đang đọc tin về chính mình, trong phim The Artist

Thời gian câu truyện The Artist diễn ra trong vòng 5 năm, tại Hollywood, từ 1927 đến 1932, là thời kỳ nghệ thuật thứ Bảy tiến từ giai đoạn phim câm sang phim nói, như một đứa trẻ từ bỏ quãng đời chỉ biết diễn tả bằng nụ cười và những cử chỉ khuơ chân múa tay, gật hay lắc đầu, sang giai đoạn có thể diễn đạt bằng lời nói. Mở đầu bằng cảnh chiếu ra mắt cuốn phim mới nhất của tài tử lớn George Valentin (Jean Dujardin), “Một điệp vụ Nga” (A Russian Affair), trong đó vai chính bị tra khảo bằng điện, bắt phải nói, nhưng nhất định không nói (cảnh mà người dẫn chương trình Billy Crystal đã bắt chước khi mở đầu buổi phát giải Oscars). Khi buổi chiếu ra mắt chấm dứt, khán giả trong rạp đứng dậy nhiệt liệt hoan hô, tài tử chính George Valentin phải nhiều lần ra vào cám ơn khán giả ngưỡng mộ. Ngoài cửa rạp, phóng viên ảnh đổ xô tới chụp hình tài tử chính. Giữa cảnh đông đảo chen chúc, Peppy Miller (Bérénice Bejo), một cô gái trẻ tuổi mới tới Hollywood, ôm mộng trở thành diễn viên, chẳng may (hay may mắn) đụng vào tài tử lớn Valentin, người mà cô hằng ngưỡng mộ. Chàng thoáng ngạc nhiên lúc đầu, nhưng trước công chúng, vội vàng cười, tỏ cử chỉ khả ái. Trước sự khuyến khích của đám đông và các phóng viên chụp hình, nàng đáp lại bằng nụ hôn cảm ơn. Trên trang nhất báo chí hôm sau đăng hình lớn của chàng và nàng, với câu hỏi “cô đó là ai?” Nhờ sự đụng chạm bất ngờ này, sau đó, cô đã kiếm được một vai vũ công trong cuốn phim kế tiếp “Một điệp vụ tại Đức” (A German Affair).

DujardinAsValentin

Đại tài tử phim câm George Valentin (Jean Dujardin):
“Tôi thành công, nhờ khán giả tới xem tôi diễn xuất,
đâu phải để nghe tôi nói. Âm thanh là chuyện vớ vẩn…”

Năm 1929, là năm xẩy ra vụ khủng hoảng kinh tế lớn nhất trong lịch sử. Để đối phó với tình hình khó khăn, giới làm phim cũng phải có quyết định khó khăn: đột phá hay là chết. Chủ hãng phim Kinograph Studios là Al Zimmer (John Goodman) quyết định thôi làm phim câm, chuyển sang phim nói. Tài tử lớn George Valentin vẫn giữ vững lập trường, coi phim câm là đỉnh cao của nghệ thuật, không thể thay thế. Để chứng tỏ mình đúng, Valentin tự bỏ vốn và tự sản xuất một phim mới. Trong khi ấy, Peppy Miller được hãng Kinograph cho đóng trong phim nói. Kết quả là khán giả xếp hàng dài cả dẫy phố đợi mua vé xem phim do Peppy Miller đóng, còn rạp chiếu phim của đại tài tử Valentin vắng như chùa bà đanh; hình Valentin in sẵn để phát cho giới ái mộ rơi rớt trên vỉa hè, dưới gót giầy của kẻ qua người lại, chẳng ai thèm nhặt.

Thất bại trong nghề nghiệp, cộng với thất bại về tài chính, Valentin trong tình trạng rất đáng thương. Vợ cũng bỏ đi. Gia tài bị bán đấu giá. Chỉ còn hai kẻ thân thiết là con chó Uggie và ông tài xế già Clifton (James Cromwell). Cuối cùng phải cho ông tài xế đi nốt, vì cả năm không có tiền trả lương.

Về phần Miller, phim nói giúp cô thành công rực rỡ, cả về danh vọng lẫn tiền tài. Cô là người có tình, vẫn ái mộ Valentin, cố thuyết phục chủ hãng Kinograph cho anh một vai. Nhưng khi nhận được truyện phim, anh vẫn tỏ vẻ khinh bỉ, coi phim nói như một thứ rác rưởi. Trong tình trạng thất vọng cùng cực, anh trở thành say sưa, gần như điên dại. Đến nỗi, đem tất cả những cuốn phim nổi tiếng mình đã đóng (chỉ giữ lại cuốn phim đầu có Miller), châm lửa đốt, làm cháy nhà, may nhờ con Uggie cứu, thoát chết. Trong khi anh còn mê man tại bệnh viện, Peppy Miller xin đem anh về dinh thự của mình để tĩnh dưỡng. Sau khi đã bình phục, một hôm Valentin khám phá chính Peppy đã kín đáo cho mua qua đấu giá những sản phẩm nghệ thuật, kể cả bức chân dung lớn của mình, đem về che đậy, cất giữ tại một căn phòng lớn. Thất vọng cùng cực cộng với xấu hổ, anh đã trở lại nhà mình, tìm khẩu súng lục, đút nòng súng vào mồm…. Miller từ phim trường về nhà, thấy những tấm vải che kỷ vật nghệ thuật của anh bị lật tung, mà không thấy anh. Nhậy cảm của nữ giới biết ngay anh đang ở đâu, nàng vội nhảy lên xe, phóng tới nhà anh. Cùng lúc, trong nhà, anh ở tư thế sẵn sàng lẩy cò súng, ngoài đường, xe nàng phóng như bay, có thể gây tai nạn bất cứ lúc nào. Một chữ “BANG!” trên màn ảnh, đưa sự căng thẳng đến tột độ. Anh chết, nàng chết, cả hai cùng chết, hay cả hai cùng sống, xin miễn nói ở đây, để bảo vệ quyền lợi của những người chưa xem The Artist.

Sự chuyển hóa của thế giới điện ảnh từ phim câm sang phim nói diễn ra vào cuối thập niên 20, đầu thập niên 30 của thế kỷ trước. Đối với thế giới cộng sản, sự thể này diễn ra chậm hơn khoảng 60 năm sau. Phim câm là biểu tượng của xã hội cộng sản không có tự do ngôn luận. Trong một xã hội mà mọi người không được nói thật, hiểu nhau qua cử chỉ, ánh mắt, những nét méo mó vụng trộm trên khuôn mặt, và an ủi nhau bằng những giọt nước mắt lén lút vội chùi, ngôn ngữ thành vô nghĩa, nói cũng như không. Cuối thập niên 80, đầu 90 thế kỷ trước, thế giới cộng sản bắt buộc phải đi từ chỗ phủ nhận sang chấp nhận tự do ngôn luận, như điện ảnh đi từ phim câm sang phim nói. Khi Tổng bí thư Gorbachev từ chức và ông Yeltsin cấm đảng cộng sản hoạt động, chính là lúc Liên Xô làm theo quyết định của chủ hãng Kinograph không còn làm phim câm nữa.

Nhưng cũng như thế giới điện ảnh, trong thế giới cộng sản cũng có những “tài tử” bảo thủ cứng đầu như George Valentin, nhất định sống chết với những giá trị cũ đã lỗi thời. Đó là “Tứ nhân bang”: Tầu, Bắc Triều Tiên, Cuba, và Việt Nam. Thành công vẻ vang của nàng Peppy Miller, chính là hình ảnh của bà Angela Merkel vươn lên từ xã hội câm vốn được gọi là Đông Đức, cùng với những tài tử thức thời khác như Ba Lan, Tiệp… Trong khi ấy, những đại tài tử vẫn trung kiên với chủ trương phim câm, như Bắc Triều Tiên và Cuba, thân tàn ma dại chẳng khác gì chàng George Valentin thuở nào. Vợ Lalentin bỏ chồng, chính là cảnh những đảng viên kỳ cựu vượt biên ra đi, hay “chẳng đặng đừng” dứt áo bỏ Đảng.

NguyenPhuTrong

Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng:
“Sự lãnh đạo của Đảng… Trước kia đã như vậy, hiện nay
đang như vậy, và sau này cũng sẽ vẫn như vậy.”

Lỗi tại ai? Valentin không đổ lỗi cho ai đã xô đẩy mình tới tình trạng thảm thương, khuynh gia bại sản, đến nỗi phải chọn quyết định tự sát. Mà còn đổ cho ai? Khi quyết định đi ngược với trào lưu tiến hóa, khi nhân loại đã bước sang giai đoạn nói, mà mình vẫn cố bám lấy thời đại câm, đó chính là thái độ tự sát, chẳng cần ai đưa đẩy. Nhưng đám “Tứ nhân bang” thì nhất định vẫn còn đổ tội cho “bọn xấu”, và “các thế lực thù địch” đã không ngừng mưu hại mình.

Đáng tiếc! Một người say mê nghệ thuật điện ảnh cách riêng như “Lãnh tụ kính yêu” Kim Jong-il của Bắc Triều Tiên, nếu được sống thêm ít năm nữa, nếu có cơ hội được xem phim The Artist, biết đâu ông chả sớm tỉnh ngộ, đưa dân tộc ông từ tình trạng phim câm sang phim nói. Với các tài tử còn sống trong đám Tứ nhân bang, hy vọng họ cũng có dịp xem phim, và sớm nhận ra thông điệp trong The Artist, để dân họ được nhờ. Riêng với cánh Hồi giáo cực đoan, xem phim là tội lỗi. The Artist không có hy vọng tới mắt họ. Ông Obama đành phải gửi thông điệp cho họ bằng máy bay không người lái, và những toán Navy Seal.

ĐINH TỪ THỨC

Monday, March 19, 2012

TRẦN TUẤN KIỆT * BỔNG DƯNG



về đây dốc đá mù sương
thả tâm tư với con đường lá bay

nguồn xưa triều đổ theo ngày
bỗng nghe chim hót lạc bầy trong đêm

vầng trăng soi một quãng buồn
hồn ta chưa biết bến nguồn là đâu

đi về nội cỏ rầu rầu
đêm nghe tiếng trúc thiên thâu tự Người

sáng trưng giấc ngủ bên đồi
mộng bay theo với những lời thinh không

hoang vu đỉnh núi trời hồng
thầm ôm trăng ngủ mênh mông một đời
TRẦN TUẤN KIỆT

Sunday, March 18, 2012

Đặng Tiến * Ngày Xuân tìm Động hoa vàng


Nhà thơ Phạm Thiên Thư là một tác gia dồi dào, đã in ra hằng vài ba trăm ngàn câu thơ, có lẽ kỷ lục về số lượng trong nền văn chương tiếng Việt, vượt xa Bùi Giáng.
Nhưng câu thơ được biết nhất, trước sau vẫn là :
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Câu thơ trích từ đoạn 41 trong trường ca Động hoa vàng, gồm 100 đoạn 4 câu, làm theo thể lục bát cổ điển, nhưng qua hàng lên xuống theo nhiều dạng khác nhau. Tác phẩm in năm 1971, không ghi nhà xuất bản ; bài thơ nổi tiếng nhờ Phạm Duy phổ nhạc nhiều đoạn dưới tên Đưa em tìm động hoa vàng cùng một lần với nhiều bài thơ khác của tác giả : Ngày xưa Hoàng thị, Em lễ chùa này… Phạm Thiên Thư nổi danh từ đấy.
Thơ lạ, nhạc hay, đã đành. Nhưng còn thêm lý do tâm lý quần chúng : những bài thơ tình này là của một nhà sư có pháp danh Tuệ Không , tu tại Thiền viện Pháp Vân 1964-1975, Sài Gòn. Cùng thời điểm này, hay trước đó, tu sĩ Tuệ Không đã chuyển ngữ Kinh Phật Kim Cương ra thơ Việt, dưới tên Qua suối mây hồng, xuất bản 1971, kèm theo hai tùy bút văn xuôi, Ngã pháp mây nổi và Hiện hóa pháp, viết 1969, giúp ta hiểu thêm tâm tưởng Phạm Thiên Thư, hơn là những bài thơ đôi khi trầm bổng qua vần điệu.
Động hoa vàng chứng tỏ tài hoa của tác giả, nhưng ít người quan tâm đến nét thâm trầm của những câu thơ, nói chung là diễn tả giấc mơ thoát tục của con người trong một giai đoạn nhiễu nhương, đồng thời niềm hoài vọng hướng về quá khứ xa xưa của dân tộc, nhớ nhung nhiều kỷ niệm cũ càng, có thật hay hư tưởng, từ quê hương thôn dã, một thuở thanh bình đã phôi pha.
Rằng xưa có gã từ quan…
Chúng ta tìm hiểu câu thơ. Muốn từ quan thì phải làm quan, thường là quan to, bậc khoa bảng, thành phần giai cấp quyền lực. Tác giả đã hạ giá danh vọng bằng từ « gã » bình dân, thân mật. Bình thường không ai gọi ông quan bằng « gã ». Và « gã » đây là ai ? Suốt tập thơ Động hoa vàng, bốn trăm câu, ta không biết. Muốn biết, ta phải đọc Đoạn trường vô thanh, phổ biến năm sau, nhưng có lẽ sáng cùng lúc. Câu 621 :
Học đòi theo gã Từ quan
Bên chùa cởi áo chuộc nàng dưới hoa
Mái chèo lãng đãng yên ba
Thần Phù xõa tóc la đà rong chơi
Rõ là chuyện Từ Thức trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thời Mạc. Từ Thức làm quan tri huyện, có hôm đi chùa xem hội hoa. Một cô gái trẻ, lỡ làm gãy hoa, bị bắt đền, Từ Thức đã « cởi áo cừu gấm trắng » để chuộc lỗi cho người con gái. Người xưa « khen quan huyện là người hiền đức » 1. Ngày nay ta gọi là hào hoa, thậm chí bay bướm. Sau đó, không chịu sự ràng buộc của quan trường, Từ « bèn cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về », rồi dong buồm chơi cửa bể Thần Phù, lạc vào động tiên, gặp lại cô gái vốn là tiên, tên Giáng Hương, cưới làm vợ, rồi trở về trần. Trong động tiên cũng có « hoa vàng » lọt vào cửa sổ :
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non
Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son

(Trúc Khê dịch)
Trở lại câu thơ « tìm động hoa vàng ngủ say ». Lên đến hang động heo hút mà chỉ để « ngủ say » thôi ư ? Trong lối hiểu thông thường, thì ngủ say đây là cách quên công danh, những hệ lụy công danh, mà cũng là cách quên đời. Người xưa có lúc lấy giấc ngủ làm hạnh phúc, như trong bài thơ Khúc ca thích ngủ, cũng trong Truyền kỳ mạn lục, nhắc lại giấc ngủ của danh nhân như Khổng Minh, Trần Đoàn, Đào Tiềm, Chu Liêm Khê 2. Biết điển cố này ta hiểu sâu sắc hơn hai câu thơ, cùng trong đoạn 41 :
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan…
« Ngủ » là trạng thái thụ động có tính cách phủ định. « Đánh giấc » là động từ, chủ động, niềm vui của tư duy khi ý thức nghỉ ngơi. Giấc ngủ là giai đoạn ý thức nhất thời chuyển mình vào cõi vô thức mà không tự hủy. Trong tùy bút Ngã pháp mây nổi, 1969, Phạm Thiên Thư đã ca ngợi : « Giấc ngủ say, giấc ngủ mệt thiếp, giấc ngủ chết lịm, giấc ngủ của đạo gia. Giấc ngủ của kẻ đau nhừ thất bại và hoan hỷ trong sự thành công mỹ mãn nhất (…) ; một giấc ngủ không tham vọng, không chấp chặt vì tất cả đều thất bại (…). Một giấc ngủ không tịch, gối đầu, duỗi chân trên hai đỉnh tuyệt vô cùng » 3.
Dĩ nhiên, giá trị của giấc ngủ chỉ hiển hiện sau khi chúng ta đã tỉnh dậy và nhận thức, như trong thơ vua Trần Nhân Tông, vị tổ sư của phái Thiền Việt Nam :
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
Dịch :
Thức giấc mở song mây
Xuân về, lòng chưa hay
Song song đôi bướm trắng
Phất phới cạnh hoa bay
Đồng thời chúng ta cũng không quên giấc ngủ vô tội, hồn nhiên của trẻ thơ, có lẽ là khoảng tịch lặng đẹp nhất trần đời.
*
Nói chung Động hoa vàng là bài ca siêu thoát, giữa xã hội và thời sự đảo điên, những lời thơ chấp chới đào vong vào một giấc mơ dài, kết nối nhiều hình ảnh thi vị của một trần gian xa cách. Quê hương thanh bình, con người an vui, trong một nền văn hóa đã quá khứ. Hạnh phúc đơn sơ :
Ngày xưa trên giậu vàng hoa
Chiều chiều kê chõng nằm ra ngó trời
(…)
Gây giàn thiên lý vàng hoa
Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây
Xuống đầm tát cá xâu cây
Bới khoai vùi lửa nằm dài nghe chim.
Khách xa nhớ đến nhau tìm
Lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà
Hứng nước suối thết bình trà
Hái bầu nấu bát canh hoa cười khàn

(khúc 89-97-98)
Đây chỉ là cảnh tưởng tượng mà thôi. Thực tế chưa bao giờ thi vị, nhất là lý tưởng như thế. Người xưa có thể kê chõng, gây giàn thiên lý, cắt cỏ, tát cá, bới khoai vùi lửa… nhưng khó bề nằm dài nghe chim…
Hình tượng có vẻ là thực tế đơn giản, tuy thật sự hão huyền, nhưng giấc mơ thì có thật trong lòng người. Nó không xâu chuỗi thành hệ thống vần vè như vậy, nhưng rời rạc vẫn ẩn hiện trong tâm thức mỗi người Việt, ít ra trong một thế hệ nào đó : Chiều chiều kê chõng… nằm dài nghe chim.
Hình ảnh có lúc tách ra khỏi phong cảnh bình dị, cụ thể của nông thôn. Mộng mơ thì vốn không biên giới, có khi vươn đến cõi bờ siêu thực :
Mùa xuân mặc lá trên ngàn
Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư
Động Nam hoa có thiền sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn
Rượu tâm hư là rượu gì, không ai biết. Nhưng rượu gì cũng là rượu. Câu thơ thú vị chỗ đó : vừa chính thống, vừa dí dỏm. Nét hóm hỉnh tạo không khí thoáng nhẹ, niềm vui thầm lặng, cho toàn tập thơ, một không khí “thiền”.
Người đọc, nhất là người nghe nhạc, chú ý đến những câu thơ tình. Ái tình ở đây chỉ làm đề tài cho thơ hồi tưởng. Những cô áo hồng, áo xanh phơ phất, cho dù có mang một ít sắc màu ký ức, cũng chỉ là đề tài thi ca, kết hợp nhuần nhuyễn với toàn bộ tập thơ. Tình yêu ở đây là mơ mộng, trắc trở, xa cách, nhớ nhung.
Có lúc chàng kể :
Ngày xưa em chửa theo chồng
Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc da trời
Sang đông em lại đổi dời áo hoa
Hồi khác chàng lại kể :
Từ hôm em bỏ theo chồng
Áo trắng em cất áo hồng em mang
Thì không ai biết cô nàng mặc áo màu gì. Thậm chí nàng có thực hay không, hoặc nàng chỉ là ảo ảnh của thiên nhiên, thường xuyên thay áo.
Khi tình yêu chỉ là điển cố văn chương, như mượn ý ca dao, Phạm Thiên Thư vẫn có thể làm được câu thơ hay:
Thôi thì em chẳng yêu tôi,
Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng
Có lúc chữ nghĩa gây nên tình cảm thê thiết :
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi
Ý thơ dàn trải, không có gì cao siêu. Nhưng lời thơ da diết chỉ vì những thì thôi, thế thôi, luyến láy, dằn vặt.
*
Phạm Thiên Thư sử dụng nhuần nhuyễn thể lục bát trong hình thái cổ điển nhất. Và những tứ thơ siêu thoát cũng không mới lạ, vì ta đã từng gặp từ thời Nguyễn Trãi ; nhưng đến 1970 thì không mấy ai còn nhớ. Do đó Động hoa vàng khi xuất hiện vẫn làm mới thi ca.
Vào thịnh thời của Thơ Mới, 1940, hay thơ Tự do tại Sài gòn 1960, không ai làm những câu :
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
(…)
Đợi nhau tàn cuộc hoa này
Đành như cánh bướm đồi Tây hững hờ
Hình ảnh lạ lẫm, nhưng lời thơ dân dã, thuận chiều theo lô-gíc :
Đất Nam có lão trồng hoa
Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông
Lại đem bầu ngọc ra trồng
Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân
Ý tứ tân kỳ, nhưng câu chữ không cầu kỳ. Lời thơ ý nhị, dí dỏm, diễn tả được nhu cầu siêu thoát. Nó hiện đại hóa một tứ thơ có từ Nguyễn Trãi :
Bẻ cái trúc hòng phân suối
Quét con am để chứa mây.
Thời đại cho phép một ngôn ngữ mới, ngông nghênh, phóng túng hơn. Nhưng đại thể vẫn vậy.
Đánh giá một tác phẩm, cần đặt nó vào thời điểm xuất phát. Khoảng 1970, chiến tranh lan tràn khốc liệt, xã hội đảo điên.Thịnh hành là lối thơ thân phận, nói lên tâm trạng, hoàn cảnh tang tóc, bi thương. Không ai làm thơ chơi chơi, khơi khơi, như Phạm Thiên Thư :
Có con cá mại cờ xanh
Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân
Nửa giòng cá gặp phù vân
Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi.
Dĩ nhiên người ta có thể thích hay không thích, chấp nhận hay không chấp nhận một lối sáng tác “vô lập trường” như thế.
Ngày nay ta thường dùng từ phản ánh theo nghĩa thông thường : quy chiếu lại hình ảnh của thực tại, theo phép hiện thực hay cách điệu. Nhưng ta có thể dùng ngược lại : phản ánh là quy chiếu những cảm nghĩ trái chiều với thực tế, như bề mặt, bề trái, của một đồng tiền. Như giấc mơ thanh bình đối lập với thực tại bom đạn.
Một đêm nằm ngủ trong mây
Nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời
Cây bưởi trắng ngát hương đời
Nụ là tay Phật chỉ người qua sông.
Trong một đoạn hồi ký, Phạm Duy có nhắc lại giai đoạn này, với kỷ niệm chính xác về Phạm Thiên Thư. Thời đó, 1970, để phản ứng lại với cái “dung tục, trâng tráo” của xã hội, đã xuất hiện khuynh hướng “về nguồn, với con người Việt Nam, cây nhà lá vườn.”
“Đối với tôi lúc đó, hình ảnh thiền, chùa, động hoa vàng, thật là mát mẻ và rất cần thiết (…) Gặp tu sĩ Tuệ Không kiêm thi sĩ Phạm Thiên Thư là tôi như thoát xác, vượt ra khỏi những đắng cay, chán chường và bế tắc (…). Từ đó tôi luôn luôn tìm đọc thơ của Phạm Thiên Thư để phổ thành những bài hát thanh cao nhất của thời đại” 4.
Nhạc phẩm Phạm Duy đúng là những thành tựu nghệ thuật lớn lao, được đón nhận nồng nhiệt ngay. Ngày nay, bốn mươi năm sau, vẫn con nhiều thính giả nghe lại và yêu chuộng.
*
Bài này chỉ đóng khung vào trường ca Động hoa vàng : nguồn gốc thi hứng, giá trị tư tưởng, nghệ thuật, và xã hội của nó.
Tác giả Phạm Thiên Thư còn sáng tác nhiều thi phẩm khác, nhưng không thành công bằng tập Động hoa vàng. Có lẽ tác giả đã vơi nguồn thi hứng đích thực, bớt khả năng cô đúc tình cảm, tập trung tư duy sáng tạo, cho nên những thi phẩm về sau – rất dồi dào – phải nép vào ngôn ngữ tài hoa. Mà tài hoa thì không đảm bảo được một hành trình sáng tạo lâu dài. Nhưng chỉ một thi tập Động hoa vàng cũng đánh dấu một thời đại trong thi ca, đồng thời thăng hoa khả năng thẩm mỹ và diễn đạt diệu vợi của thể thơ lục bát cổ truyền.
Đánh giá toàn bộ tác phẩm Phạm Thiên Thư là việc khó khăn, chưa kể có kẻ lạm quyền đã đánh giá cuộc đời chìm nổi của nhà thơ, qua lắm bể dâu.
Nói ít, nhưng đầy đủ về Phạm Thiên Thư, có mấy câu thơ Bùi Giáng tặng ông :
Chạy quanh khu vực thần tiên
Mỗi chân mười ngón kết liên bốn mùa
Vườn cây trái ngọt trái chua
Mù sương hấp dẫn về chùa ngủ quên.
Đặng Tiến
Orléans, 12.10.2011
1 Nguyễn Dữ, Truyền kỳ mạn lục, tr 106-119, nxb Văn Học, 1971, Hà Nội
2 Nguyễn Dữ, sđd, tr.142, truyện Người tiều phu núi Na.
3 Phạm Thiên Thư, Qua Suối Mây Hồng,1971, tr. 72-73, tái bản, nxb Văn Nghệ, 2006, TPHCM.
4 Phạm Duy, Nhớ, hồi ký, tr.191, nxb Phương Nam, 2005( ?), TPHCM

Saturday, March 17, 2012

TRẦN VẤN LỆ * Tưởng Ai Dưới Nguyệt



M ỗi ngày…mình có một bình minh
Một buổi trưa xanh biếc lá cành
Một buổi xế chiều mươn mướt gió
Một hoàng hôn em của riêng anh…
Nói như hai đứa đang ngồi cạnh
Đang nắm tay và hôn trán nhau
Ai biết là mình xa cách lắm
Buồn ơi bèo giạt nước qua cầu!
Biết thế nên anh thường tưởng tượng
Em là trăng sáng mỗi đêm trăng
Cuối tháng và đầu tháng vắng
Em nằm trong ngực – một Giai Nhân!
Phải chi ở cạnh em bây giờ
Anh nói một ngón chân em một ngón Thơ
Anh vuốt ve hoài Thơ một ngón
Hai bàn chân em một trời mơ…
Anh vuốt tới mười em ngủ thiếp
Anh làm sao nhỉ?  Chắc ăn gian
Hôn lên đầu gối, hai con mắt
Em ngủ đi em!  Ôi vầng trăng!
 
Trần Vấn Lệ
     

VĨNH HẢO * Ảo


Hồi mới qua Mỹ, tối nào chàng cũng lấy cuốn nhật ký ra viết đôi dòng. Có khi hứng thú viết một hơi ba bốn trang. Nhiều chuyện lắm. Biết bao nhiêu là điều mới lạ để học hỏi, để ngạc nhiên, để sửng sốt, để thán phục, để chiêm ngưỡng hoặc để bỗng nhiên sực nhớ rằng mình được may mắn rơi tỏm vào một thiên đường từ lâu mơ ước. Và mới đây thôi, đâu chừng vài tháng trước, chàng hãy còn viết, viết rất nhiều về tình yêụ Một cuộc tình cũng sướt mướt lãng mạn như ai vậỵ Nhưng giờ thì khác rồị Ngày nào cũng giống y chang một khuôn, đâu có hơi đâu mà viết nhật ký.


Không có gì lạ. Và khi nhìn cuốn nhật ký, tự nhiên chàng thấy ớn ớn như nhìn một thứ thức ăn ướp lạnh lâu ngàỵ Không lý mỗi tối ngồi vào bàn cầm bút lên là viết một mạch khỏi cần suy nghĩ rằng: “Hôm nay thức dậy, làm vệ sinh. Ăn một gói mì cho đỡ đói rồi ngủ nướng thêm một giấc cho đến hai giờ trưạ Tắm sơ một cái rồi đi làm. Làm mệt lắm, chán lắm. Nhưng phải ráng. Gần một giờ khuya mới về đến nhà. Lại ăn qua loạ Vừa ăn vừa nghe nhạc. Lên giường. Bấm ti-vi coi bậy một show nào cho đỡ buồn. Rồi ngủ.”

Như vậy đó. Ngày nào cũng như ngày nàọ Có gì mới lạ để mà viết! Hết rồị Qua rồị Những ngày thăng trầm vinh nhục có còn đâu! Hồi đó còn ngủ ké sofa nhà thằng bạn, có khi chui vào sleepping bag ngủ luôn ngoài xẹ Bây giờ thì chăn êm nệm ấm. Cái king bed rộng rinh xoạc cả hai cẳng ra cũng chưa đụng tới hai mép giường. Hồi đó căn phòng lạnh tanh, không có tiếng động, phải tự mình đi ra đi vào, mở cửa đóng cửa, huýt sáo ca hát cho nhộn nhịp lên. Bây giờ thì vừa cassette vừa ti-vi, có cả video nữa, thứ nào trông cũng bảnh và dư sức hoạt náọ Tắt hết để ngủ thì vẫn còn cái tủ lạnh riêng ở góc phòng siêng năng kêu rè rè suốt ngày đêm. Rộn lắm. Có sót cái gì đâụ Thế mà vẫn thấy như thiếu một cái gì. Cảm giác thiếu thốn không phải chỉ mới có lúc này mà có tự đời thuở còn trắng tay vô saả kiạ Nó nổi lên, đòi hỏị Tìm cách đáp ứng nó rồi, nó lại đòi hỏi thứ khác. Chẳng biết chung cục là đâụ Ban đầu chàng tưởng rằng sắm cái cassette để nghe nhạc là êm chuyện rồị Không ngờ nó lại đòi phải có ti-vị Từ ti-vi lại qua videọ Rồi đến tủ lạnh, microwave (để không dùng chung hay dùng ké anh bạn share phòng kế bên nữa), rồi tủ sách đầy tiểu thuyết diễm tình, hộc băng đầy những băng nhạc mùi mẫn, đàn guitar, phim con heo, báo Playboy... không dễ có một thằng thanh niên độc thân nào bì kịp những tư hữu mà chàng sắm, chàng tự hào như vậỵ Thế mà chàng vẫn cứ phải băn khoăn tìm hiểu xem mình còn cần cái gì, thiếu cái gì nữa mà thấy đời sống cô quạnh buồn hiụ

Nhớ lại thời gian nàng đến để rồi khiến mình tương tư, chàng không khỏi thấy trong lòng thoáng bùi ngùị Nàng đến. Vâng, nàng đã đến, rồi đi luôn ra khỏi đời chàng. Nàng là con ông chủ nhà, tên là Xuân. Cái tên nghe như gợi lên một mùa lộc mới với tràn đầy sinh lực và khát vọng tuổi trẻ. Chính nàng đã là đề tài nóng bỏng, sôi động nhất khuấy trộn cả cuộc sống cô liêu buồn tẻ của chàng. Nàng ngúng nguẩy chàng ràng trước mặt chàng như một con gà mái hay một con chó cái đương thời động cỡn. Chàng biết ngay điều đó có nghĩa là gì. ít ra chàng cũng có cái nhạy cảm để nhận biết những dấu hiệu của yêu đương nơi Xuân. Và chính chàng, chàng cũng cảm thấy là mình đã yêụ Và những gì chàng thiếu có lẽ là đâỵ Nhưng Xuân tinh quái lắm. Nàng cứ sàng qua sàng lại, lâu lâu bước thẳng vào phòng chàng một cách tự nhiên, cầm cuốn sách, thử cuốn băng, giống y chang là nàng đã mết chàng rồi vậỵ Thế mà sự thực trái ngược hẳn. Cô ả đâu có chút caả tình gì với chàng đâụ Sách của chàng thì cô chê là tiểu thuyết rẻ tiền (hừ, rẻ! cuốn nào cũng tám chín đô la chứ có ít ỏi gì đâu!); còn băng nhạc của chàng thì nàng nói sao sến hoặc cải lương quá (hứ, Tuấn Vũ, Chế Linh... toàn là thứ chiếng trong làng ca mà còn chê được thì đúng là quê mùa!). Nhưng thôi, gái mới lớn lên ở Mỹ thì trách sao chẳng sành nhạc Việt Nam.

Chàng cứ việc mua quà, hết món này đến món nọ, có cả thơ nữa—những bài thơ trữ tình lãng mạn chép ra từ trong báo nhận bừa là của mình—thành tâm thành ý dâng tặng cô ả. Cô nhận hết, không hề từ chốị Nhưng cuối cùng mới biết cô ả chỉ đùa chơi với chàng thôị Nhận quà là nhận quà, có tặng thì có nhận. Còn yêu đương là chuyện khác: không phải ai tặng cũng có thể nhận được. Xuân xanh mơn mởn, mộng ước cao vời, cô ngước mặt nhìn lên và mới đây thôi, cặp bồ với một chàng kỹ sư điện toán mới ra trường. Thật đơn giản như vậy mà chàng lại hiểu theo cái cảm tính rất ư chủ quan và lạc quan của mình để rồi trượt một cái thiệt đaụ Người ta không yêu gì chàng hết. Rõ ràng quá mà. Qua Mỹ gần bảy năm rồi mà không đi học. Chơi hết ba năm đầụ Năm thứ tư mới quyết định kiếm việc làm vì ông bác đã chịu hết nổi, không muốn thấy mặt thằng cháu vô tích sự, lười biếng, lêu lỏng trong nhà ông nữạ Chàng chỉ có vỏn vẹn chút ít vốn liếng tiếng Anh từ lúc học ở trại tị nạn cọng thêm chút ít nhờ kinh nghiệm đi làm. Chút ít đó vừa đủ để hiểu manager nó muốn mình làm cái gì. Và chút ít đó cũng chỉ đủ để tính tiền với khách hàng, để thỉnh thoảng đi shopping mà thôị Những cuộc tiếp xúc như vậy thì đâu có đòi hỏi gì nhiều tiếng Anh đâu nàọ Vậy đó, rồi cứ đi làm. Đứng bán cho một cây xăng. Bằng cấp chẳng có, chữ nghĩa mù tịt, còn Xuân dù gì cũng đã tốt nghiệp trung học tại Mỹ, làm sao có thể nhìn chàng một cách đầy ngưỡng mộ như chàng lầm tưởng. Mà xét cho cùng, cô ả đâu có đẹp gì đâu kìa!

Chỉ được cái cao ráo, trông có vẻ đẫy đà hấp dẫn mà thôị Nếu cô ở Việt Nam, xí, đố mà chàng để mắt nhìn tớị Ở đây thiếu con gái Việt cô ta mới làm eo, làm trời làm đất như vậy thôị Dù sao, chàng cũng cám ơn cô tạ Cám ơn cô cho chàng mấy tháng mộng mơ, mấy tháng tương tư và mấy tháng mới đây thôi: thất tình. Ồ, cái cảm giác thất tình sao nghe thú vị mới lạ chứ! Mỗi sáng thức dậy hát bậy một câu trên giường: “Một sớm mai thức dậy, tình yêu rời chăn gối, bay theo những cơn mưa phùn... ”của Đức Huy, nghe thấm thía làm sao! Thấm thía nhất cũng bởi vì bản nhạc này là bản ruột của Xuân, cô ả thích bản này lắm mà! Còn chàng thì thích Tuấn Vũ hơn, cho nên từ lúc thất tình, trong khi chờ cà phê sáng, chàng bật cuốn băng của ca sĩ thần tượng này ra nghe rên: “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng... không xong... ” nghe đúng là giọng tri âm! Chưa hết, nhờ quằn quại trong thú yêu đương mà chàng cũng đã nắn nót ghép chữ đẻ ra được hai bài thơ thống thiết về tình phụ và đã được đăng một cách trịnh trọng trong một tờ báo quảng cáo địa phương với tên chàng nổi bật kèm theọ Tờ báo này chắc chắn Xuân sẽ đọc mà, vì cuối tuần nào cô cũng ra chợ Việt mang về một lô báo Việt ngữ thảy lên bàn ở phòng khách để cả nhà xem. Đọc rồi, cô sẽ hối tiếc. Hối tiếc là đã sai lầm đá đít một thi sĩ tài hoạ

Nhưng bây giờ, niềm đau kỳ diệu đó cũng đi qua rồị Nó đi qua và kéo tuốt luốt cả hứng cảm làm thơ của chàng. Và cũng nhờ vậy mà chàng nhận ra một sự thực rất ư là nực cười, rằng xét cho cùng, những thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ của nhân loại có hơn gì chàng đâu! Họ nổi danh là nhờ cái hứng cảm thất tình đó mà. Chỉ có những bài thơ, những tiểu thuyết, những bản nhạc thất tình mới đủ ma lực để cuốn người ta vào cái thế giới ê ẩm riêng tư đầy ý nghĩạ Cho nên, mới đây đọc báo thấy đăng tin: “Nhà thơ X. kết hôn cùng cô Ỵ” hoặc “Nữ văn sĩ V. sánh duyên cùng anh T.” là chàng bật cười buông một câu ta thán rằng: “Ồ, một nhà thơ đã chết, một nhà văn vừa bị chôn.” Phong vận tài hoa của một người coi như bỏ đi khi hắn được thắng lợi vẻ vang trong lãnh vực tình cảm. Chàng nghiệm ra một chân lý rất đơn giản nhưng xác thực: muốn thành một thi sĩ hay văn sĩ lỗi lạc thì phải yêu cho hết mình và phải thất bại trong tình yêu đó. Một đời sống tình cảm quân bình, thành công, êm thắm thì chẳng đẻ ra được cái gì xuất sắc và sẽ chẳng làm nên trò trống gì cả.

Ấy vậy mà chàng cũng đành vùi chôn thiên tài của mình dù rằng chàng đã có, ít nhất cũng một lần, thất tình. Có lẽ nồng độ yêu đương của chàng dành cho Xuân không đủ to lớn để kéo dài niềm đau trong chàng. Huống chi, giữa Xuân và chàng hãy còn một khoảng cách mênh mông cả về tâm hồn lẫn thể xác. Hai tâm hồn hầu như chẳng ăn khớp gì với nhau—xét theo cá tính, sở thích. Còn hai thể xác thì hãy còn thọ thọ bất thân.Chàng chưa đụng được tới ngón tay của Xuân dù rằng đã có lúc chàng cố ý làm vậy (nhưng cũng hụt nữa!). Niềm đau, vì thế, chỉ hành hạ chàng đâu chừng một tháng hơn thì lịm dần rồi mất hút. Cảm hứng làm thơ cũng chết tiệt. Và bây giờ, muốn khôi phục lại thi tài của mình đồng thời khỏa lấp cảm giác thiếu thốn đang xuất hiện trở lại trong tâm thức, chàng chỉ có nước đi tìm một đối tượng khác. Chàng thấy rõ điều đó, nhưng thực hiện nó không phải là chuyện đơn giản. Người ta đi học, ngày ngày đến trường, không lớp này thì lớp kia, thế nào cũng làm quen được một vài cô bạn học cùng xứ để chọn lựa, hay ít nữa cũng có thể kết bạn với vài cô gái nước ngoài như bọn Mễ, Đại Hàn, Nhật Bản, Mỹ trắng, hay Mỹ đen v.v...


Còn chàng, có đi học đâu mà có cơ hội đó! Người ta đi làm xưởng này, công ty nọ, mấy chục người hoặc hàng trăm người cùng làm chung, gặp nhau mỗi ngày, thế nào cũng quen nhau, hò hẹn nhaụ Còn chàng, đứng bán cây xăng từ bốn giờ chiều đến mười hai giờ khuya (có khi làm thêm giờ phụ trội—over-time—đến hai giờ sáng) mà chỉ đứng bán một mình, quen biết ai đây! Khách tới đổ xăng, trả tiền rồi phóng xe đi, có ai rỗi rảnh đứng lại mà ngó ngàng chi đến chàng. Có đối thoại chăng nữa thì cũng chỉ how are you một cách lấy lệ không cần nghe câu trả lời, rồi thank you một cách không ơn nghĩa chi hết.
Sau khi cơn đau của mối tình đơn phương lắng dịu, chàng đi tìm cảm giác mới, khung cảnh mới bằng cách ra ngồi la cà ở một quán cà phê Việt Nam vào mỗi cuối tuần. Ở đây có hai ba cô chạy bàn trẻ trung, lịch thiệp và hiếu khách. Chàng thấy cô nào cũng có vẻ dễ mến hơn Xuân. Sự tương phản thấy rõ giữa họ và Xuân khiến chàng đâm ra ghét Xuân hơn. Tại sao ở đời lại có một thiếu nữ kiêu kỳ đáng ghét như Xuân vậy kìa, chàng tự hỏị Từ đó, chàng siêng năng đi uống cà phê hơn. Uống xong, bỏ tiền tip (buộc-boa) rất hậụ Dần dần, chàng cảm thấy hình như mình đã trở thành một người khách đặc biệt mà các cô hầu bàn ở đây mong đợị Nhìn chung quanh, bàn nào bàn nấy ba bốn cậu thanh niên choai choai ngồi rung đùi, to tiếng cười nóị Nhiều cậu còn buông lời chọc ghẹo các cô hầu bàn nữạ Còn chàng, lúc nào cũng vậy, ngồi một mình lặng lẽ, đăm chiêu, phà khói thuốc, lắng nghe tiếng nhạc, hoặc lắng lòng vào một mộng tưởng xa xôi nào đó, y như một nhà hiền triết đang suy gẫm về một nan đề sâu xa cấp thiết cho thời đạị Phong độ của chàng vì thế hẳn nhiên là phải nổi bật giữa đám người lao xao chỉ biết tán gẫu và sống ồ ạt theo ba động bên ngoàị Chàng cảm thấy rõ ràng như vậỵ

Từ lúc bước vào quán cho đến khi bước đến quầy trả tiền rồi lững thững bước ra ngoài, chàng có cảm tưởng là bao nhiêu cặp mắt đang đổ dồn về mình: một con người xa lạ, thầm kín và hết sức cao vợị Nhất là các cô hầu bàn, hẳn là các cô phải tấm tắc khen trong lòng với bao ngưỡng mộ cũng như ao ước được chàng đoái hoài đến. Đó là các cô chưa biết chàng đã từng có hai bài thơ đăng trên báo; chứ nếu biết thì các cô làm sao mà cầm lòng cho đậu! Ngoài phong độ uống cà phê một mình trong im lặng, chàng còn tạo thêm được ba đặc điểm xuất sắc khác khiến cho người ta—các cô hầu bàn—không thể nào lẫn lộn chàng với một kẻ tầm thường nào khác. Thứ nhất, bước vào quán đúng mười giờ sáng ngày thứ bảy và chủ nhật—chàng thường lái xe đến bãi đậu sớm hơn giờ đó một chút để bảo đảm giờ khắc xuất hiện của mình. Thứ hai, chỉ chọn duy nhất một cái bàn trong góc tối mà từ đó chàng có thể quan sát tất cả mọi người ra vào—nhất là các cô hầu bàn, vì khi mang thức uống cho bất kỳ khách nào bắt buộc các cô đều phải đi ngang chỗ chàng ngồị Chiếc bàn trong góc này hầu như đã trở thành chỗ ngồi ưu tiên của chàng vì sau mười giờ sáng, khách mới vào đông và khi vào, khách thường tìm chỗ ngồi thoáng, gần cửa ra vào nhất chứ chẳng ai nhọc công bước tới góc bàn tăm tối ở cuối tiệm gần restroom (phòng vệ sinh) cả. Thứ ba, chỉ uống cà phê đen thôi chứ nhất định không uống thứ gì khác. Có lần chàng thử gọi một ly mãng cầu xay nhưng các cô hầu bàn bảo đã hết. Từ đó, chàng nhất quyết chỉ gọi cà phê đen thôị Quán này là quán cà phê, thì không thể xảy ra trường hợp hết cà phệ Cà phê đen đá cũng chưa chắc ăn, vì biết đâu lại có lúc hết đá bất tử. Còn cà phê sữa đá thì trông có vẻ như con nít còn ham sữa quá. Huống chi, người ta có thể tưởng ra được một thi sĩ hay một văn nhân đang đăm chiêu bên tách cà phê đen chứ nói ông ta đang đắm mình bên cạnh ly kem dừa, ly mít xay hay ly cà phê sữa đá thì thật là chẳng thích hợp chút nàọ Sinh tố và kem để dành cho đàn bà con nít; cà phê sữa đá thì dành cho bọn thanh niên mới lớn còn thèm sữa mẹ, dùng cái muỗng dài khoắn đá lên cho rộn ràng rôm rả. Tách cà phê đen của chàng thì chỉ cần một cái muỗng nhỏ khuấy nhẹ cho tan đường, chẳng gây tiếng động nào đáng kể và khi uống, có thể nhấm nháp, thong thả, từ từ: cử chỉ thích hợp cho một người có đời sống nội tâm phong phú.

Các loại thức uống có đá và ngon, ngọt, béo, đều có tính cách giải khát, hưởng thụ, đáp ứng trực tiếp cho vị giác và có thể là cho bao tử nữạ Trong khi đó, cà phê đen—một thức uống mang vị đắng mà nói cho cùng thì chàng cũng chẳng mấy hứng thú gì để uống cả—thì có vẻ như một chất xúc tác khơi động đời sống tâm linh sâu thẳm. Không khi nào chàng uống được hơn nửa tách cà phệ Nó chẳng có gì hấp dẫn đối với chàng cả. Nhưng ít nhất, nó là lý do chính đáng để chàng được ngồi lâu một chỗ và đóng cho trọn vai trò của một người bí ẩn, phi phàm. Và nó cũng là cái cớ để chàng tự do ngắm nhìn các cô hầu bàn trẻ trung lúc nào cũng tươi cười và đon đả đón khách.
Sau hai tháng cần cù đến quán đúng giờ đúng khắc, đúng địa điểm, đúng menu (thực đơn, nhưng thật ra chỉ có thức uống thôi, gọi ẩm đơn thì đúng hơn) cố định và đúng cả những động tác trầm ngâm phì phà khói thuốc, nhâm nhi ly cà phê đắng, chàng nghiệm ra được những ý nghĩ cao đẹp cho phong cách đặc biệt của mình mà trước đây chàng không hề nghĩ tớị Rằng một kẻ giữ được giờ giấc qui định hẳn nhiên là một kẻ mô phạm, mực thước; rằng một kẻ chỉ chọn một địa điểm cố định chứng tỏ hắn ta là kẻ chung tình trọn nghĩa, không có mới nới cũ; rằng một kẻ chỉ chọn lấy duy nhất một thứ thức uống có vị đắng thuần chất chứ không pha loãng bởi sữa hay đá xác định hắn là con người có lập trường vững chắc và có thừa khả năng chịu đựng những đắng cay ngang trái trên đờị Ôi, bao nhiêu là phẩm cách cao quí chỉ tập trung nơi mỗi một con người!

Nhưng các cô hầu bàn xinh tươi kia, có ai là tri âm nhìn ra được những đặc tính của chàng không nhỉ? Có. Có lẽ có, ít nhất là một cộ Chàng tin như vậỵ

Cô ta tên Tuyết. Phải, Tuyết. Và thật là trắng như tuyết. Nhưng không phải cô trắng mà đồ cô mặc lúc nào cũng trắng—áo em trắng quá nhìn không rạ Chàng đọc thầm câu thơ đó khi ngắm nhìn Tuyết và thực không nhớ nổi là câu thơ đó do mình sáng tác hay là của thi sĩ nào mà nghe độc đáo như vậỵ Trong góc bàn tối sâm sẩm mà chàng hay ngồi, chàng thấy hình như Tuyết có làn da xẫm bóng như màu vẹc-ni mới phết lên gỗ, hoặc nói cho văn chương như chàng thì cô có nước da màu bánh mật—chàng không hiểu bánh mật là gì cả, chỉ quen dùng để chỉ nước da ngăm ngăm mà thôị Trông nàng khỏe và có duyên. Có duyên nhất là cái miệng méo và rộng.

Méo thì chàng không để ý gì nhiều cho lắm. Chỉ biết đại khái là khi nói hay cười, đôi môi nàng đã tỏ ra là không được ngăn nắp, không chịu sự kiểm soát của nàng một cách nghiêm chỉnh. Còn rộng thì dễ thấy hơn. Khi nàng cười, hai khóe miệng nàng tưởng chừng như muốn kéo tới mang tai, vẽ nên một vành bán nguyệt nên thơ sầu mộng (chàng nghĩ đến bốn chữ này khi liên tưởng đến nụ cười của nàng). Người xưa thường nói: “Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà.” Câu ấy không ảnh hưởng gì đến quan điểm mỹ thuật của chàng cả. Thiếu gì đàn ông miệng rộng mà chẳng thấy sang chút nàọ Ngược lại, đàn bà miệng rộng hồ dễ có mấy người làm nhà cửa tan hoang? Phụ nữ Tây phương đó, cô nào cô nấy miệng chạy cả gang tay, không lý họ đã góp công làm tan nát xứ sở phồn thịnh văn minh củœa họ sao! Huống chi cái miệng rộng rất ư là lợi thế. Ăn, uống, nói, cười, đánh răng, súc miệng và... hôn nữa, thứ gì cũng được thong thả, thoải máị Nhất là khi cười: cái miệng rộng có vẻ như lúc nào cũng chực cười khiến cho ta cảm thấy tươi vui cả cuộc đờị
Chàng quả quyết là Tuyết đã yêu mình. Tất nhiên là phải yêu rồị Một thanh niên trầm lặng, tác phong đứng đắn, cuộc sống ổn cố, nổi bật giữa đám người lăng xăng, chộn rộn và kịch cỡm, dễ gì Tuyết khỏi rung động.
Lần này, không giống như lần trước với Xuân, nhất định là chàng đã không quá tưởng tượng. Có những dấu hiệu hiển nhiên cho thấy rằng Tuyết đã yêu chàng. Gần nửa tháng nay, khi chàng đến, Tuyết tự động pha một tách cà phê đen mang ra cho chàng mà không cần phải khách sáo hỏi: “Anh uống chỉ” như bổn phận của các cô hầu bàn phải làm thế. Cử chỉ tế nhị đó của Tuyết là gì nếu không phải là muốn nói với chàng rằng nàng đã quan tâm đến chàng? Thường thì chỉ có vợ chồng chung sống với nhau mới biết rõ sở thích cũng như những nhu cầu từ cao đến thấp của người phối ngẫụ Thái độ của Tuyết khiến chàng có cảm giác như mình là một người chồng đi làm mới về, được vợ săn sóc mang ra thức uống phục vụ. Chàng coi đó như là cách biểu lộ tình cảm tối thiểu nhất mà Tuyết đã dành cho chàng. Chưa hết, thứ bảy tuần trước, khi chàng vừa bước vào tiệm là Tuyết đã đon đả trờ tới hỏi ngay:
“Sao hôm nay anh đến trễ vậỷ”
“À, tại kẹt xẹ”

Nhìn lại đồng hồ, chàng thấy mới mười giờ năm phút. Trễ mới năm phút. Chàng thầm nghĩ: “Mới trễ có năm phút mà nàng đã tỏ vẻ lo lắng, sốt ruột như vậy huống gì trễ một, hai tiếng đồng hồ hay cả tuần lễ! ôi, thực là tội nghiệp cho nàng. Tại sao ta bắt nàng chờ đợi mong mỏi ta suốt một tuần lễ để chỉ gặp ta có mỗi sáng thứ bảy và sáng chủ nhật! Ta đâu có thể hà tiện thì giờ với nàng như vậy!" Từ đó, chàng bắt đầu sắp xếp lại thời khóa biểu của mình. Thay vì chỉ đi uống cà phê vào mỗi cuối tuần, chàng quyết định ngày nào cũng có mặt. Bớt tiêu xài một chút, bớt ngủ một chút, là chàng có thể mang lại niềm vui và sự ấm áp cho một tâm hồn. Nghĩ vậy, chàng thấy lòng hăng hái hơn và tự nhủ dù sao chàng cũng chẳng thiệt thòi gì cho lắm.
Để có mặt tại quán cà phê mười giờ sáng mỗi ngày, chàng phải thức dậy chín giờ sáng thay vì mười hai giờ trưạ Đó là một cố gắng phi thường, vì chàng làm việc ca đêm, từ nửa đêm đến sáng; nếu phải thức dậy lúc chín giờ sáng có nghĩa là chàng chỉ mới ngủ được vài tiếng đồng hồ mà thôị Không những là cố gắng phi thường, chàng còn cho đó là một sự hy sinh rất ư lãng mạn của một kẻ có đời sống mực thước như chàng. Nhưng mặt khác, chàng cũng có cảm nghĩ rằng mình đã làm một cử chỉ ban phát cơ hội một cách cao cả cho một người phái yếu mà xét cho cùng người ấy chưa phải là đối tượng hội đủ điều kiện để được chàng đoái hoài yêu thương.



Tình yêu bấy giờ nẩy nở một cách rộn rã trong chàng. Và dường như nó chấn động đến tận tủy xương chàng những rung cảm cực mạnh đến nỗi chàng đã tự thốt với chính mình rằng: “Ồ, đây mới thực sự là tình yêụ Trước kia ta chạy theo Xuân chỉ là cái rung động nhất thời, gượng gạo mà thôi!” Xúc cảm mạnh đến thế nhưng vẫn không đủ để đẩy những hứng cảm của chàng trào vọt thành thợ Chàng đã không làm được một câu thơ nào để tặng Tuyết từ khi yêu nàng. Sự kiện đó càng làm cho chàng tin chắc vào quan điểm trước đây của mình. Rằng khi một kẻ thắng lợi trong tình cảm, hồn thơ của hắn bị chết tiệt đị Cho nên, hoặc là chọn lấy tình yêu, hoặc là ôm lấy đau thương để nẩy ra được những bài thơ bất hủ. Bây giờ, chàng không nẻ ra được câu thơ nào dù đã cắn móp cả cái nắp bút nguyên tử. Chàng thở dàị Đành thôi vậỵ Không thể có được cả hai cái vĩ đại cho cùng một kiếp ngườị Có lẽ Thượng Đế chỉ muốn chọn chàng như một tình nhân lý tưởng của các hồng nhan hơn là một thi nhân siêu tuyệt của nhân loạị Huống chi, bỏ Tuyết ngay lúc này, quả là điều khó làm.

Chàng nghĩ, chàng và Tuyết đã yêu nhau và đang tiến đến một cách êm xuôi trên con đường tình ái đầy những hứa hẹn. Không cần thiết phải mơ tưởng đến một đoạn trường dang dở. Và trong tình yêu dành cho Tuyết, chàng cảm thấy còn có một niềm trắc ẩn, một thứ bi mẫn nào đó đi kèm. Không nên bỏ Tuyết. Không nên làm nàng thất vọng. Tuyết yếu đuối, cần được yêu thương vỗ về. Không lý do nào chính đáng để chàng phải chọn một cái gì khác mà bỏ nàng cho dù cái đó có là một sự nghiệp vẻ vang trên thi đàn. Không có tình yêu (hay nói trắng ra là thất tình), chàng có thể trở thành một thi sĩ cô đơn múa bút trên những trường thi tuyệt sắc. Nhưng thiếu tình yêu (hay nói trắng ra là không được chàng yêu thương), Tuyết chỉ biết lặng câm mà ôm lấy sầu hận, đau khổ suốt đờị Nghĩ vậy, chàng thấy xốn xang thương cảm và quyết là sẽ trao đến Tuyết trọn vẹn tình yêu của mình cho dù nàng không xứng với chàng đi nữạ

Sáng hôm nay, chàng cũng có mặt đúng giờ. Chàng sắp đặt sẵn trong đầu những gì sẽ nói với Tuyết. Chàng muốn cho nàng một bất ngờ. Chắc chắn là nàng sẽ vui mừng, sửng sốt đón nhận sự bất ngờ đó. Khi Tuyết mang cà phê đến, chàng nói mà không nhìn mặt Tuyết, với giọng của một ông chủ hỏi cô thư ký riêng của mình:
“Hôm nay Tuyết rảnh không?”
Tuyết đặt cà phê lên bàn, cười một cái thật có duyên với cái miệng rộng rinh của nàng:
“Hôm naỷ Em đang bán ở đây nè.”
“ý anh hỏi chiều tối kiạ”
“À rảnh. Nhưng chi vậy anh?”
“Anh lấy vé rồi, tối nay đi xem phim nghẹ”
“Xem phim? Ơ... có lẽ em đi không được đâụ”

Chàng cau mày, ngạc nhiên tột độ. Bất ngờ quá. Nàng đã không sửng sốt. Nàng đã không vui mừng. Nàng đã không sung sướng với ân huệ chàng ban mà chính chàng mới là kẻ bất ngờ, sửng sốt vì nàng đã có vẻ như không muốn đón nhận cái cơ hội quí giá mà chàng hào phóng tạo rạ
Tuyết trở vào trong quầỵ Chàng móc thuốc ra, tay run run bật lửạ Máu nóng máu lạnh chạy loạn xạ trong ngườị Khói thuốc tuôn ra cay xé đôi mắt.
Một chốc, Tuyết lại bước ra, ngang chỗ chàng, nói ghé một câu như an ủi:
“Em sợ là em không rảnh. Để em coi lại đã nghẹ”
Rồi nàng mang thức uống đến bàn khác. Chàng lầm bầm một mình: “Khỏi, khỏi cần coi lạị Đừng hối hận nhé. Không có cơ hội khác đâụ”
Nhưng khi Tuyết quay trở vào, nhoẻn miệng cười và hỏi: “phim gì vậỷ hay không anh?” thì chàng thấy tươi tỉnh trở lại, hăm hở đáp ngay:
“Phim A Kiss Before Dying. Nghe nói hay lắm!”
“Vậy à!”

Tuyết lại vào trong. Chàng tự nghĩ có lẽ Tuyết giả đò suy nghĩ lại để chàng năn nỉ hoặc để tỏ ra mình không phải hạng con gái dễ dãị Và chàng thực không biết Tuyết nói như thế là đã có ý nhận lời mình hay chưạ Bỗng thấy một đứa bé gái chừng bốn năm tuổi từ ngoài cửa vừa chạy vừa nhảy lơn tơn đến chỗ Tuyết.
“Má,” đứa bé gọị
“Ai dẫn con ra vậỷ” Tuyết hỏị
“Ba, ba ngoài kia kìạ”


Người đàn ông ba của đứa bé đẩy cửa bước vàọ Một gã đàn ông trung niên lực lưỡng, dáng đi hiên ngang hùng dũng, không để mắt nhìn ai, bước thẳng đến chỗ Tuyết nói đôi câu gì đó với nàng rồi ẳm đứa bé gái về.
Chàng móc thêm thuốc, run tay bật lửạ Hút lia lịạ Không khí trong quán có vẻ lạnh một cách khác thường. Hút chưa hết điếu thuốc, chàng đã vội dụi tắt rồi đứng dậy, đến quầy trả tiền.
Tuyết vẫn cười rất tươi với cái miệng rộng có duyên của nàng. Nhưng bây giờ, chàng mới thực sự thấy rằng đàn bà con gái mà miệng rộng thì thật khó coi quá đỗi, chắc chắn không làm tan hoang cửa nhà thì cũng tan hoang cửa lòng chứ chẳng chơi!

Tuyết có vẻ như hiểu tim đen chàng, hơi thương hại, vừa thối tiền vừa nói:
“Cám ơn anh đã có ý mời em xem phim. Nếu có dịp khác rảnh... ”
Chưa đợi nàng nói hết câu, chàng đã quay đi rồị Ra ngoài, chàng nghĩ có lẽ chàng nên phóng xe nhanh về nhà, lấy giấy bút ra để cho mạch thơ tuôn trào một dòng miên man bất tuyệt.
Nhưng khi về đến phòng, chàng chỉ biết nằm thừ rạ Không nẻ ra được câu thơ nào dù cõi lòng tan tác. Trời có vẻ lạnh lắm ở bên ngoàị Bên trong cũng vậỵ Chàng run. Lấy thuốc ra hút và thầm nghĩ: “Có lẽ ta đã vượt ra thế giới của những kẻ đang no đủ trong tình yêu cũng như những kẻ đang đói khát tình cảm: kẻ cần thơ, kẻ cần tình. Thực ra, đâu có bắt buộc phải chọn hoặc cái này, hoặc cái kiạ Không chọn gì cả mới là khó!”


Chàng cầm hai cái vé xi-nê lên nhìn. Hình như có lờ mờ tựa đề của phim in trên vé: A Kiss Before Dying (Nụ Hôn Trước Khi Chết - có người dịch tiểu thuyết này thành Nụ Hôn của Tử Thần, chàng có thấy ngoài tiệm sách Việt bán cuốn đó nhưng mắc tiền quá, không mua). Chàng thở dàị Chàng đã chết rồi đây nhưng chưa được nụ hôn nào cả. Chàng vứt hai cái vé xi nê vào sọt rác. Nằm lăn ra giường. Ngủ.

ĐINH HÙNG * Ác Mộng

nguyễn thị hợp

Niềm khát vọng, ta ghi vào huyết sử,
Dưới chân em, Thơ lạc mất linh hồn.
Ta đau xót trong mỗi giờ tình tự,
Ta khóc nhiều cả những lúc trao hôn.

Đời tàn tạ em đừng ca hát nữa:
Hội thanh bình, cuộc sống gượng vui thôi.
Ta muốn điên vì khóe miệng em cười,
Ta cuồng dại bởi nghìn câu em nói.

Nhan sắc ấy chớ nên tàn nhẫn vội,
Tình mất rồi! oán hận đã mênh mông.
Chớ thờ ơ! Ta nổi giận vô cùng,
Nhiều ác mộng hằng len vào giấc ngủ.

Ta quên hết! Ta sẽ làm Bạo Chúa,
Sống nghìn năm ngự trị một lòng em.
Cuộc ân tình ghê rợn suốt muôn đêm
Nào ai tiếc thương gì thân mỹ nữ!

Tay mỏi ôm sẽ dày vò nhung lụa,
Phấn hương nhàu, tan tác áo xiêm bay.
Ta bắt em cười, nói, bắt em say,
Ta đòi lấy mảnh linh hồn bỡ ngỡ.

Ôi! ly rượu em dâng toàn huyết đỏ,
Ta uống cùng dòng lệ chảy đêm xưa,
Để ưu tư, hờn giận với nghi ngờ
Về hiển hiện bóng ma kề bên gối.

Bao hoan lạc! sau những giờ tội lỗi,
Một mình Em sửng sốt đứng bên giường,
Ngắm ta nằm say giấc ngủ đau thương,
Trong run sợ bỗng thấy lòng tê tái.

ĐINH HÙNG

Friday, March 16, 2012

phan bá thụy dương * CẢM ĐỀ HỌA PHẨM BIỂN TÍM















© biển tím - Lương Trường Thọ



Thuyền ai lạc bãi chiều hoang
Lẫn trong gió cát lời vàng vọng âm

Em từ Biển Tím hiện thân
Dáng tiên lồng lộng trắng ngần thịt da

Sóng cuồng, tóc rũ kiêu sa
Mắt nhung, môi thắm, nhủ hoa rạng ngời

Sắc hương mỹ nữ gọi mời
Rượu ngon chưa nhắp đã chơi vơi hồn


TRẦN VĂN NAM * truyện giả-tưởng tốc-ðộ cao làm thời gian chậm lại của nguyễn mạnh côn




Có những phức hợp trong truyện giả tưởng của Nguyễn Mạnh Côn. Ta có ấn tượng như vậy, khi đọc tác phẩm “Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn” của ông. Cuốn sách gồm nhiều truyện, nhưng truyện trên là chính và dài nhất, gồm hơn 100 trang (xuất bản tại Sài Gòn, 1960)

Tóm tắt truyện: Tháng 6 năm 1954, khi Việt Nam chưa chia đôi ở vỹ tuyến 17, có ba người lính binh chủng Nhảy Dù thuộc Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, gồm một nữ trợ tá quân đội, một bác sĩ, một hạ sĩ quan, đang thực hiện một phi vụ gần biên giới Trung Hoa. Phi cơ của họ bị bắn hạ ở vùng chiến khu Việt Minh, cách Hà Nội độ 350 cây số. Phi cơ đâm nhào xuống, họ không biết gì nữa: đó là lúc họ lọt vào một vùng không khí năng lực phi thường (có lẽ là đạt tới tốc độ ánh sáng), nhờ vậy họ lọt vào vũ trụ thuộc kích thước thứ tư.

Tại đây, họ diện kiến với Lưu Thần và Nguyễn Triệu, hai cổ nhân từ ngàn xưa cũng nhờ gặp một cơn bão tập trung sức mạnh khủng khiếp (ta cũng nên hiểu là lúc đạt tới tốc độ ánh sáng) mà hai vị đã tới vùng kích thước thứ tư ấy. Vậy đây chính là Thiên Thai với cảnh trí tuyệt vời, nước không chảy, hoa không tàn, thời gian hoàn toàn đình chỉ.

Nơi đây có nhiều bộ máy huyền vi, trong số có một trái cầu nhỏ mà rất kỳ diệu. Nó đưa con người tìm về quá khứ hay tương lai, chỉ cần tâm ý ra lệnh cho những dòng chữ hiện lên trên màn ảnh. Có lẽ tác giả muốn nói đến loại phi thuyền vũ trụ, được điều khiển với các máy điện toán (máy vi-tính), mà vào năm 1960 những thứ trên còn rất xa vời. Bác sĩ Mai và nữ trợ tá Kiên Trinh ở lại với Thiên Thai, còn hạ sĩ Khang muốn tìm về quá khứ.

Khang ra lệnh cho dòng chữ hiện lên trong trái cầu muốn trở về thế kỷ 18 (tức là muốn được chuyển đi bằng tốc độ cực nhanh làm thời gian chậm lại),và Khang đã trở về Thăng Long vừa đúng lúc cứu sống vua Quang Trung. Khang cùng với vị anh hùng Tây Sơn thực hiện tham vọng đòi lại Lưỡng Quảng đã bị Trung Hoa sáp nhập từ nhiều thế kỷ trước. Vua Quang Trung rất biết dùng người: mặc dù Khang chỉ là hạ sĩ quân đội nhưng đã là người tiến bộ của thế kỷ 20. Do đó Khang được thống lĩnh lực lượng tiền phương, tổ chức binh đội rất hiện đại thuộc thế kỷ 20, và dĩ nhiên đè bẹp quân nhà Thanh cổ lỗ thuộc thế kỷ 18, rồi thẳng đà định lật đổ chế độ phong kiến Trung Hoa để thiết lập chế độ quân chủ lập hiến. Nhưng quân Tây Sơn vấp phải sự chống cự của dân Trung Hoa. Họ áp dụng phương pháp tiêu thổ kháng chiến và trường kỳ du kích chiến. Ðến đời vua cháu ba đời của QuangTrung Ðại-đế thì cuộc tiến chiếm xứ Trung Hoa hoàn toàn thất bại vì đã bị dân Trung Hoa đông đảo làm Hán-hóa tất cả. Ðến lúc đó, Khang mới sực tỉnh biết mình đã có tham vọng mù quáng, làm tờ trình “xin nhà vua trả cho nước Việt Nam trở về vị trí cũ”.

Tính ra, Khang đã mấy đời sống nơi dương thế, trong khi đó chỉ là thời gian rất ngắn với Kiên Trinh ở chốn Thiên Thai. Ðã có lần Kiên Trinh cũng trở về trần, đi tìm người yêu là hạ sĩ Khang nơi chốn trận mạc, và đau khổ đến điên dại vì biết Khang đã là người trong thân thích gia đình của vua Quang Trung (vợ Khang là Ngọc Chân Công Chúa, em gái của Ngọc Hân Hoàng hậu). Bác sĩ Mai trên Thiên Thai thì động lòng nhớ nhà nhớ quê hương: “Nào Hà Nội với Hàng Rèn, với bờ hồ Hoàn Kiến; nào chiến khu Việt Bắc với đồng bào Thổ áo chàm...”. Tóm lại cả ba đều là những con người thuộc thế gian trần lụy: Khang với tham vọng bành trướng lãnh thổ, Kiên Trinh vì tình duyên, bác sĩ Mai vì lòng nhớ quê hương. Lưu Thần và Nguyễn Triệu biết rằng: “Những người thường, hữu tình và hiếu động, không thể sống mãi được trong Thiên Thai mà họ mơ ước, bởi lẽ họ không biết Thiên Thai chỉ là nơi con người không còn tình dục” (trang 271).

Ta nhận ra có những cái không đồng chất trong truyện. Ðầu tiên là có sự pha trộn giữa khoa học thật và khoa học thêu dệt. Ðành rằng truyện giả tưởng là bịa đặt, nhưng là bịa đặt cốt truyện, không quá đà bịa đặt luôn cả về máy móc kỹ thuật hoang đường. Làm như vậy người đọc dễ bị hoang mang, nếu không biết qua về khoa học kỹ thuật, sẽ khó phân biệt giữa những điều tác giả đã thực sự dựa vào nghiên cứu, và những cái hoàn toàn bịa thêm. Mà hoang mang thì thiếu sự thuyết phục rằng đây là sách “khoa học dự tri và giả thiết khoa học” như tác giả cho ghi ở ngoài bìa.

Những điều làm ta phấn khởi ở những đoạn viết về Thuyết Tương Ðối của Einstein: “Nếu ánh sáng đi chậm lại thì chúng ta sẽ thấy bụi cây trước rồi mới thấy rặng núi sau... Cái nhầm của cổ nhân coi vạn vật chỉ có bề dài, bề rộng, bề sâu, tức là chỉ có ba kích thước, mà không biết rằng sở dĩ người ta trông thấy ba kích thước ấy là nhờ có ánh sáng. Tùy sức ánh sáng đi nhanh hay chậm, tùy con đường từ ta đến cảnh vật xa hay gần mà ta tức khắc trông thấy vạn vật, hay chỉ trông thấy dần dần... Cảnh vật chung quanh ta tưởng rằng nhất định như thế mà thật ra có thể đổi khác (Thấy không khác vì tốc độ ánh sáng ở cõi ta là một hằng số)...Einstein đã biết rằng khi một vật di động càng nhanh, càng tới gần tốc độ ánh sáng thì thời gian và không gian hỗ tương ảnh hưởng vào nhau, sẽ uốn cong lại chung quanh cái vật di động kia. Sự uốn cong này chính là kích thước thứ tư...” (Từ trang 183- 186)

Ðiều làm ta hoang mang như về luồng ngoại tuyến bao bọc thân thể khiến ta lọt vào kích thước thứ tư, theo kịp tốc độ ánh sáng; về cái máy “xuyên-thời di-không ký-ảnh” thấy hết mọi điều xảy ra trên Trái Ðất giống như trái cầu pha lê của các phù thủy trong truyện cổ tích Tây Phương; về viên thuốc kết tinh của ánh sáng thay thế cho thực phẩm trần gian...

Những chỗ khác, tác giả viết nhiều đoạn hay về lịch sử. Như một đạo quân vượt biên thì không thể lấy danh nghĩa gì để thu phục quần chúng, do đó quân Tây Sơn bị lao đao khi đối phó phương pháp tiêu thổ kháng chiến của người Tàu. Như bài học đã từng xảy ra cho một đạo quân viễn chinh trên một lục địa bao la với dân số quá đông như nước Trung Hoa. (Có lẽ tác giả liên tưởng đến trường hợp Mông Cổ xâm lăng và cai trị nước Tàu mà rốt cuộc là bị Hán-hóa). Nội việc phải dùng Hán-văn để giao tiếp cho thuận tiện với quần chúng Trung Hoa là cách lần lần thiểu số bị đa số đồng hóa: “lúc ban đầu còn dùng Quốc-văn, về sau càng ngày càng dùng nhiều Hán-văn cho thuận tiện... Ngót một triệu người Việt phân tán đi cai quản hơn mười ngàn thị trấn, và chiếm đóng hơn ba mươi ngàn đồn binh” (trang 265).

Sự pha trộn không đồng chất rõ ràng hơn hết là lối viết biên khảo và lối viết văn chương. Cuốn sách nặng phần trình bày kiến thức về khoa học để dựa vào đó mà lồng truyện giả tưởng. Ta nhận ra có sự bịa đặt về cốt truyện nhưng thiếu chất huyền ảo, dù tác giả lồng vào đó huyền truyện Ðông Phương nơi chốn Thiên Thai. Hình như như tác giả không chú trọng lắm việc “làm văn chương”, không lộ rõ bút-pháp.

Ngoài kiến thức khoa học, còn kiến thức về lịch sử và kiến thức triết lý. Thiết nghĩ những đoạn về trận mạc giữa quân Tây Sơn và quân nhà Thanh trên đất Trung Hoa bao la đáng là một dịp viết những trang hùng tráng trong bối cảnh địa lý vĩ đại, tương tự như cuộc dàn binh của Nã Phá Luân khi tiến đánh vào đất Nga (mà ta thấy qua màn ảnh đại vĩ tuyến, thực hiện cuốn tiểu thuyết “Chiến Tranh Và Hòa Bình” của Leon Tolstoi). Thiết nghĩ những đoạn khi Kiên Trinh điên dại đi tìm Khang ở chốn ba quân, nếu bằng lối văn chương thiên về xúc-cảm như Mai Thảo, thì đã là một dịp viết thành những trang dị-thường thiên về nghệ-thuật kiểu “Người Ðiên Dưới Chân Sườn Tam Ðảo”: người điên lúc nguy khốn lại tỉnh trí, chạy phất phơ với tấm bao-tải choàng trên người, “dềnh-dàng chuệnh-choạng” ven sườn núi, cốt làm đích nhắm cho quân Pháp bắn gục ngã, cốt đánh lạc hướng để những người thân trong gia đình chạy thoát cuộc truy lùng, thời quân Pháp mở những cuộc bố ráp làng xóm tình nghi.

Kết hợp kiến thức về khoa học của “Thuyết Tương Ðối” với huyền truyện “Lưu Nguyễn Lạc Thiên Thai”; làm lộ ra một điểm mà bấy lâu ta không thắc mắc trong truyện cổ: tại sao có thể lạc vào chốn thời gian đình chỉ. Tác giả giải thích; đó là khi phi cơ rớt và khi gặp bão họ lọt vào một vùng năng lực phi thường, và ta hiểu đó chính là lúc đạt tới tốc độ ánh sáng. Thiên Thai hay vũ trụ thuộc kích thước thứ tư không ở đâu xa: “Bọn ta ở đây vẫn là ở trên mặt đất, nghĩa là vẫn cùng một không gian, với đời sống dương thế, nhưng nhờ có tốc độ ánh sáng thay đổi nên có thể lẫn lộn vào nhau, chồng chất lên nhau mà không biết. Trong ánh sáng đi nhanh hơn lên 90 ngàn lần, cả một vũ trụ sở tại của chúng ta sẽ trở thành vô hình” (trang 187).

Nói chung, quá nhiều kiến thức làm cho cuốn sách nặng nề vì viết theo kiểu biên khảo. Bằng không thì văn học ta đã có thêm một tập truyện huyền ảo, dễ cảm nhận hơn với lối văn chương thiên về rung cảm nghệ thuật, sánh vai cùng bài thơ “Tống Biệt” rất đẹp của thi sĩ Tản Ðà.

TRẦN VĂN NAM