văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Saturday, April 7, 2012

Vương Tân * TẠP CHÍ SÁNG TẠO





Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Genève ký kết giữa chánh phủ Cộng Hòa Pháp do thủ tướng Mandès France và ngọai trưởng nươc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng đã chia đôi đất nước VN.  Chánh phủ Quốc Gia Việt Nam do thủ tướng Ngô đinh Diệm đứng đầu đã phản đối việc chia cắt đất nươc đã không ký hiệp định Genève khiến cho Việt Nam trở thành hai nước , một nước VN thủ đô là Hà nội và nước Việt Nam thủ đô là Saigon. Thời gian này tôi làm chủ bút văn nghệ tuần báo Quê Hương của ông Bùi Đức Thịnh một nhân vật thân tín của chánh khách Ngô Đình Diệm, khi chánh khách Ngô đình Diệm làm thủ tuớng chánh phủ quốc gia Việt Nam dưới sự lãnh đạo của quốc trưởng Bảo Đai thì ông Thịnh đã quyết định tham chánh ngừng xuất bản tuần báo Quê Hương [xem chương hồi ký VT viết về giai đọan làm chủ bút văn nghệ tuần báo Quê Hương]. Cùng với việc làm báo thời gan này tôi còn đi học luật tại trường đai học luật Đông Dương ở Hà nội, hiệp đinh Genève ra đời trường này quyết định rời Hà nội vào Saigon, tôi đã theo trường vào Saigon. Vào Saigon tôi ở trong lều bạt của đòan sinh viên Hà nội và đi viết báo kiếm sống. Tại Saigon tôi gặp Buttinger -một người Mỹ- là chuyên gia nghiên cứu lịch sử VN, nói thạo tiếng Pháp mà tôi quen biết từ hồi còn ở ngòai Hà nội . Buttinger hỏi tôi vẫn còn viết báo chứ, tôi cho Buttinger biết tôi hiện là một nhà báo tự do viết báo ăn tiền bài theo đơn đạt hàng của một vài tờ tạp chí , Buttinger cho tôi biết tổ chức phi chánh phủ của người Mỹ đó là tổ chức IRC [International Recue Committee] mà ông là đai diện ở VN vừa nhận lời giúp đỡ một nhóm văn nghệ sĩ di cư mà trong đó có một người thân với tôi là Như Phong Lê Văn Tiến xuất bản một tờ nhật báo bằng Việt ngữ giương cao ngọn cờ báo chí tự do vậy Buttinger muốn tôi tham gia tờ báo này. Tôi nói với Buttinger hiện Như Phong Lê Văn Tiến là thư ký riêng của bộ trưởng thông tin Bùi kiến Tín và tôi là người 'kỵ' giao thiệp với các quan chức nhà nước nên từ khi vô Saigon tôi không còn liên lạc với Tiến. Buttinger xin địa chỉ của tôi và nói với tôi Tiến sẽ đến kiếm tôi

Tối hôm đó lúc tôi vừa về tới lều bạt nơi tôi ngủ đêm đã thấy Như Phong Lê Văn Tiến ngồi ngòai cửa lều chờ tôi. Thấy tôi về Tiến nói ngay ông Buttinger bảo với mình phải mời cậu tham gia tờ Tự Do cậu nhận lời chứ. Với tôi Như Phong Lê Văn Tiến không phải chỗ xa lạ. Tiến là em kết nghĩa của nhà văn Hòang Đạo Nguyễn Tường Long, đươc nhà văn Hòang Đao không những bồi dưỡng cho nghề văn ,nghề báo mà còn giới thiệu với bạn văn người Nhật là ông Komasu một nhà văn Nhật bản có tiểu thuyết được dịch ra tiếng Pháp, từng đươc nhà thơ Nguyễn Giang con trai nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh, anh nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp chuyển ra tiếng Việt. Như Phong Lê vănTiên đươc nhà văn Komasu - người mà giới trí thưc ở Hà nội đồn rằng ông ta là một đảng viên Đảng Hắc Long thuộc lọai vai vế ở Hà nội dạy không những nghề văn còn nghề tình báo nữa. Như Phong Lê Văn Tiến không chỉ là em kết nghĩa của nhà văn Hòang Đao mà còn là thư ký riêng của nhà văn này.Năm 1945 chính nhà văn Hòang ĐạoNguyễn Tường Long đã giới thiệu với bác sĩ Luyện chủ nhiệm báo Tin Mới để bác sĩ Luyện dùng Như Phong Lê Văn Tiến làm phóng viên chánh trị của báo Tin Mới. Khi bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ khai sinh ra trường Lục quân Yên Bái của Quốc dân quân nhà văn Hòang Đạo đã gửi Như Phong Lê Văn Tiến đi học trường Lục quân Yên Bái. Như Phong Lê Văn Tiến sau này nổi tiếng là nhà báo ngươi Việt trong làng báo tiếng Anh là người thông thạo nhất về nội tình Đảng Cộng Sản Việt Nam. Như Phong Lê Văn Tiến không chỉ là nhà báo có hạng mà còn là nhà văn kiệt xuất với bút hịệu Lý Thắng Như Phong Lê Văn Tiến đã viết cuốn trường giang tiểu thuyết Khói Sóng đăng trên nhật báo Tự Do nhiều năm. cuốn tiểu thuyêt trường giang Khói Sóng này được giới thưởng ngọan văn chương nhận định là một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc của văn chương Việt Nam hậu bán thế kỷ hai mươi

Sau khi nhà văn Hòang Đạo đột tử ở Qủang Châu [Trung Quốc] thì Như Phong Lê Văn Tiến về ở hẳn với gia đình nhà văn Hòang Đạo và được đưa vào Nha Thông Tin Bắc Việt làm biên tập viên. Tiến thân với nhà văn Măc Thu Lưu Đức Sinh, kich tác gia Vũ Khắc Khoan và nhà văn Chu Tử Chu Văn Bình. Do đó khi kịch tác gia Vũ Khắc Khoan làm chánh văn phòng cho tổng trưởng bộ thông tin là bác sĩ Bùi Kiến Tín họ Vũ đã đưa Như Phong Lê Văn Tiến làm thư ký riêng cho tổng trưởng Bùi Kiến Tín. Như Phong Lê Văn Tiến làm tình báo làm chánh trị và từng là cố vấn chuyên môn cho bác sĩ Trần Kim Tuyến ông trùm tình báo của chế độ Ngô Đình Diệm, làm chánh trị Như Phong Lê Văn Tiến từng là ủy viên Ủy ban hành pháp trung ương [tương đương bộ trưởng] và là người vẽ sơ đồ tổ chức cho mấy tay tướng trẻ nắm chánh quyền [giữa năm 1976 thế kỷ hai mưoi khi cùng ở chung phòng giam ký hiệu B với tôi tại trại giam sở công an TPHCM nơi mà thiên hạ lúc đó gọi 'khách sạn cây mít' Như Phong Lê Văn Tiến trả lời câu hỏi của tôi về chuyện thiên hạ nhiều lời về mối quan hệ giữa cậu em kết nghĩa của chồng và bà chị dâu vừa góa chồng ở chung nhà với nhau. Như Phong Lê Văn Tiến cười sòa rồi nói rằng Như Phong Lê Văn Tiến nghe rác tai những lời đàm tiếu của thiên hạ về mối quan hệ giữa Tiến và chị Long nhưng thiên hạ quên một điều quan trọng là Tiến ở nhà anh chị Long từ khi Tiến chưa đầy hai mươi tuổi và lúc anh Long lưu vong đã ký thác vợ con cho Tiến chăm sóc thời gian này chị Long đã cẩn thận đón mẹ đến ở cùng. Tiến công nhận chị Long là người đẹp vào lọai 'quốc sắc thiên hương ' và Tiến rất là' thần tương' chị Long có lẽ vì vậy mà tới khi chị qua đời Tiến vẫn chưa lập gia đình. Đời Tiến có hai mối hận là không kiếm đươc người bằng nửa thần tượng để cưới làm vợ nhưng vì Tiến đối xử với các con anh Long như con Tiến nên họ lúc nào cũng coi Tiến như cha nuôi, dù gọi Tiến là chú, nỗi ân hận thứ hai là lập kế họach và dựng mô hình đưa đám tướng trẻ lên cầm quyền đám này làm ăn quá tệ đến nỗi phe quốc gia tan đàn xẻ nghé như ngày nay

Theo nhà văn Tạ Quang Khôi thì cuối đời Tiến làm cố vấn cho đài Á Châu Tự Do và viết báo Wallstreet nhưng dành nhiều thời gian sang Paris tìm đọc tiểu thuyết Khói Sóng trong thư viện Pháp để sửa chữa và viết tiếp . Tiến đã hòan thành trường giang tiểu thuyết Khói Sóng trươc khi qua đời

Tôi nhận lời Như Phong Lê Văn Tiến về tòa sọan báo Tự Do làm phóng viên chánh trị nhưng nói với Tiến rằng tôi là anh viết văn làm thơ tôi không muốn rời anh em sinh viên Hà nội lúc đó đang làm tờ nguyệt san Lửa Việt. Nhóm sinh viên này không xa lạ gì với Như Phong Lê văn Tiến đó là những sinh viên như luât sư Trần Thanh Hiệp sinh viên cao học luât, nhà giáo Nguyễn Sỹ Tế sinh viên cao học luật, nhà giáo Dõan Quốc Sỹ con rể nhà thơ Tú Mỡ sinh viên văn khoa, nhà giáo Thanh Tâm Tuyền sinh viên luât, nhà giáo Lữ Hồ sinh viên Cao Đẳng sư phạm.

Nhóm Trần Thanh Hiệp Thanh Tâm Tuyền lúc đó cộng tác với Vũ Ngọc Các làm tờ nhật báo Hòa Bình. Trần Thanh Hiệp phụ trách phần chánh trị coi như chủ bút, Thanh Tâm Tuyền coi mảng văn nghệ coi như chủ trương trang văn nghệ cuối tuần. Một bữa Thanh TâmTuyền nhận đươc thư độc giả gửi một truyện ngắn tựa đề Đêm gĩa từ Hà nội ký tên tác giả là Mai Thảo một tên lạ hoắc Tuyền định xếp xó nhưng đọc qua dòng đầu tiên của truyện ngắn thì sửng sốt văn hay quá cứ như thơ vậy. Tuyền đọc xong truyện ngắn thấy phía dưới đề đia chỉ liên lạc với tác giả là Nguyễn Đăng Qúy bèn gọi điện thọai cho Nguyễn Sỹ Tế chủ bút nguyệt san Lửa Viêt báo tin mình vừa khám phá ra một thiên tài và yêu cầu Nguyễn Sỹ Tế xếp chỗ cho truyện ngắn Đêm Gĩa Từ Hà nội trên Lửa Viêt số sắp ra

Sự ra đời của nhà văn Mai Thảo và tác phẩm Đêm Gĩa Từ Hà Nội là như thế đó

Sau đó tôi gặp Nguyễn Đăng Qúy tôi mới biêt Qúy là em Nguyễn Đăng Viên và trưóc khi Qúy là nhà văn Mai Thảo , Qúy làm thơ ký bút hiệu Nhị Qúy là dân Thổ Khối, một xã trong làng Bát Tràng anh em họ với nhà văn hóa Nguyễn Đăng Thục em ruột Nguyễn Đăng Viên mà Viên thì lại chẳng xa lạ gì với tôi . Viên là đệ tử nhà văn Chu Tử. Viên học giỏi và là bạn cùng học với một tên tướng Pháp khi tên này làm tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Việt. Viên đã được tên này đề bạt môt lúc làm tỉnh trưởng ba tỉnh Hưng Yên Thái Bình Ninh Bình. Viên từng đươc cố Đảng trưởng đảng Đai Việt Trương Tử Anh kết nạp Đảng cùng thời với bác sĩ Đặng Văn Sung, cố đảng trưởng Trương Tử Anh rất tin tưởng Viên. Nguyễn Đăng Viên có tài nhưng phải tật tếu táo thích đùa rỡn. Viên từng dùng trung úy Nguyễn văn Thiệu làm sĩ quan hầu cận. Khi ông Thiệu làm Tổng Thống có mời Viên tham chánh. Viên đã từ chối với lý do làm giám đốc khách sạn Palace của Pháp ở đường Nguyễn Huệ luơng to hơn lương bộ trưởng. Có lẽ vì cái tính tếu táo mà có lúc Viên đã bị thủ tướng Ngô Đình Dịệm nhốt vào khám Chí Hòa. Lúc Nguyễn Đăng Qúy đăng quang cái tên nhà văn Mai Thảo thì Nguyễn Đăng Viên cùng với nhà văn Chu Tử mở trường trung học tư thục Thăng Long ở số 207 Bùi Viện.

Sau ngày 30 tháng tư Nguyễn Đăng Viên bị tù cải tạo tại trại Xuyên Mộc hút thuốc lào sòng sọc xuốt ngày, ra tù Viên vươt biển đăm tầu sác chôn bụng cá Thái Bình Dương [muốn biết thêm về Nguyễn Đăng Viên đọc hồi ký Vương Tân chương Nguyễn Đăng Viên]

Khi cái tên Mai Thảo đươc Thanh Tâm Tuyền 'đánh bóng' thì Nguyễn Đăng Qúy nghĩ ngay tới chuỵện kinh doanh gom các truyện ngắn đã viết lại thành một tập lấy tên là tập truyện ngắn Đêm Gĩa Từ Hà nội in thành sách đem bán. Thời đó lọai truyện như Đêm Gỉa Từ Hà nội phát hành tác gỉa muốn có lời chỉ có hai nơi tiêu thụ ngon lành là Bộ Thông Tin và Phòng Thông Tin Hoa Kỳ. Bộ Thông Tin thì Nguyễn Đăng Qúy nhờ sư quen biết của Nguyễn Đăng Viên nên bộ này đã nhận lời mua một nghìn cuốn. Phòng Thông Tin Hoa Kỳ qua Viên Qúy gặp Từ Ngọc Bích phó phòng Thông Tin Hoa Kỳ nơi này không những chịu mua cho Mai Thao tới hai nghìn cuốn Đêm Gĩa Từ Hà nội mà Bích còn giới thiệu với Mai Thảo một ngươi Mỹ gốc Ý tên Tucker lúc đó là trưởng phòng Thông Tin Hoa Kỳ tại Saigon nói thạo tiếng Pháp. Gặp Mai Thảo Tucker gợi ý Mai Thao nên xuất bản một tạp chí văn chương ra hàng tháng với điều kiện tạp chí này cổ võ cho xu hướng văn chương hiện đại và văn chương tự do. Phòng Thông Tin Hoa Kỳ có thể yểm trợ Mai Thảo bằng cách mua cho mỗi kỳ hai ngàn số để Mai Thảo không bị lỗ vốn có thu nhập đủ chi phí cho tòa sọan và trả tiền nhuận bút. Mai Thảo đã nhận lời đề nghị của Tucker. Trong khi đó Đòan Sinh Viên Hà nội hết nhiệm vụ lịch sử tờ Lửa Viêt ngưng xuất bản, nhóm Lửa Việt xuất bản tờ Người Việt đưa nhà văn Dõan Quốc Sỹ làm chủ nhiệm nhà văn Nguyễn Sỉ Tế làm chũ bút

Khi Lửa Việt đổi thành Người Việt, họa sĩ Lữ Hồ tốt nghiệp trường Cao Đẳng sư phạm Saigon về Huế lấy vợ rời cây cọ, thành ra Người Việt không có họa sĩ trình bầy, tôi đã giới thiệu cho Người Việt họa sĩ Duy Thanh một họa sĩ nổi tiếng từ Hànội là truyền nhân của họa sĩ Nguyễn Tiến Chung để minh họa và trình bầy Người Việt [muốn biết thêm về họa sĩ Duy Thanh đọc hồi ký Vương Tân chương viêt về họa sĩ Duy Thanh]

Tuần báo Ngươi Việt ra ít số thì Nguyên Sa Trần Bích Lan [vương tân dành một chương hồi ký viết về Nguyên Sa] từ Pháp về tìm tôi nói về nền văn học hiện sinh và đưa tôi bài thơ viết về Nga vợ Nguyên Sa in trên một tấm thiếp báo hỉ cùng mấy bài thơ. Tôi đã mang tấm thiếp báo hỉ và mấy bài thơ của Nguyên Sa đưa cho Thanh Tâm Tuyền đọc. Thanh Tâm Tuyên đọc xong mấy bài thơ Nguyên Sa đã bảo tôi đưa Thanh Tâm Tuyền một bài thơ tôi mới sáng tác để Thanh Tâm Tuyền làm một trang thơ bạn giới thiệu thơ tôi và thơ Nguyên Sa như một hiện tượng thi ca mới xuât hiện trên bầu trời thi ca Việt Nam do Thanh Tâm Tuyền viết lời giới thiệu đăng vào Ngươi Viêt số Xuân 1956 [số báo này còn lưu giữ nơi các thư viện ở Saigon Paris Washington]

Báo Ngươi Việt ra đươc mấy số thì hết tiền đình bản. Nguyên Sa Trần Bích Lan bỏ tiền tục bản với điều kiện cho NGUYÊN Sa phần lựa bài đăng nhưng Người Việt ra hai số với sự lựa bài của Nguyên Sa thì Thanh Tâm Tuyền đã yêu cầu Dõan Quốc Sỹ đòi lại báo vì không thích đuờng lối văn nghệ hiện sinh và nói Nguyên Sa Trần Bích Lan lấy tiền của bác sĩ Trần KimTuyến [trùm mật vụ của chế độ Ngô Đình Diệm ] xuất bản báo Người Việt. Dõan Quốc Sỹ đã làm theo yêu cầu của Thanh Tâm Tuyền

Trong khi Mai Thảo xuất bản tạp chí Sáng Tạo anh em Người Viêt không ai tham gia bài vở dù có đi ăn nhậu và khiêu vũ với Mai Thảo vì ai cũng ngại mang tiếng viết tờ báo nhận tài trợ của Phòng Thông Tin Hoa Kỳ

Nhưng Sáng tạo ra mấy số thấy không có mầu mè gì của Mỹ cả vì Mai Thảo được tòan quyền lựa bài vở theo hướng đứng về phía cái mới làm mới văn chương Việt Nam hiện đại hóa văn chương Việt Nam thì anh em Người Việt mới bắt đầu viết cho Sáng Tạo

Tờ Sáng Tạo đã đưa ra được những nhà văn mới như Thảo Trường, Dương Nghiễm Mậu, Lý Hòang Phong những nhà phê bình hội họa Nguyễn Trung, Thái Tuấn [hai nhân vật này từ phê bình sang sáng tác đã trở thành những danh họa]

Thiên hạ thường ba điều bốn chuyện về chuyện tại sao Nguyên Sa là người bên cạnh Mai Thảo từ khi Sáng Tạo sửa sọan ra đời và cũng chính Nguyên Sa đã giới thiệu Nguyên Văn Trung tham gia viết Sáng Tạo ban đầu với bút hiệu Hòang Thái Linh thế mà chẳng bao lâu Nguyên Sa và Sáng Tạo lại lạnh nhạt với nhau. Có người như Du Tử Lê chẳng hạn quả quyết chuyện Mai Thảo lạnh nhạt với Nguyên Sa là vì một bài phỏng vấn Nguyên Sa của Vương Tân trong bài này Nguyên Sa nói hơi nhiều về luật bằng trắc trong thơ và thơ tự do 'đụng' tới Thanh Tâm Tuyền khiến Thanh Tâm Tuyền áp lưc Mai Thảo 'nghỉ chơi' với Nguyên Sa..Mai Thảo được hỏi về chuyện này thì lại bảo rằng chuyện hơi tế nhị nên Mai Thảo không muốn tiết lộ. Thật ra chuyện tế nhị đó là mối quan hệ của Nguyên Sa với bác sĩ Trần Kim Tuyến trùm mật vụ của chế độ Ngô đình Diệm, bác sĩ Tuyến muốn nắm tờ Sáng Tạo sau khi đã nắm tờ Tự Do chứng cớ là khi Sáng Tạo ngưng xuất bản bác sĩ Tuyến đã tài trợ cho nhà thơ Nguyên Sa xuất bản tạp chi Hiện Đại với ý đồ trám chỗ tạp chí Sáng Tạo nhưng vì không mời được Mai Thảo cũng như anh em nhóm Ngươi Việt tham gia bộ biên tập nên Hiện Đại không vô được đất đứng của Sáng Tạo nơi bạn đọc

Sáng tạo cả hai thời kỳ xuất bản không nhiều số thời kỳ đầu từ 1956 tới 1960 do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ yểm trợ rồi thời kỳ thứ hai năm 1964 do một tổ chức văn hóa Hoa Kỳ yểm trợ qua bác sĩ Lý Trung Dung đã tạo đươc một vị trí tầm cỡ trong văn học nghệ thuật Việt Nam trong những thập niên 50 và 60. Sáng Tạo nổi đình đám nhờ phất ngọn cờ làm mới văn học nghệ thuật VN có sự tham gia của nhóm Người Việt chứng cờ là sau Sáng Tạo Mai Thảo từng chủ trương các tờ Nghệ Thuật rồi Văn nhưng không có sự tham gia đông đảo của nhóm Ngươi Việt nên các tờ này đâu thay thế được tạp chí Sáng Tạo

Tạp chí Sáng Tạo thời kỳ 1956 -1960 so với thời kỳ 1964 cũng hòan tòan khác thời kỳ 1956-1960 dấu ấn của nhóm Người Việt đậm hơn thời kỳ 1964

Những đặc sắc của Sáng Tạo là phất ngọn cờ đổi mới văn học nghệ thuật nỗ lực cổ động cho phong trào sáng tác và đọc thơ tự do và mở rộng cửa đón những văn tài mới.

Cái làm nên bản chất của tạp chí Sáng Tạo là nhà văn Mai Thảo cộng với sự hợp tác của nhóm Người Việt. Phải công bằng mà nói một Ngươi Việt không chẳng thể làm nên tạp chí Sáng Tạo, chứng cớ là sau năm 1963 Vũ Khắc Khoan ra tạp chi Vấn Đề đưa Thanh Tâm Tuyền làm thư ký tòa sọan lôi kéo nhóm Ngươi Việt tham gia viết nhưng Vấn Đề vẫn không thay thế được Sáng Tạo trong khuynh hướng thưởng ngọan văn chương của bạn đọc và Mai Thảo làm báo Nghệ thuật rồi Văn thiếu sự góp mặt của nhóm Người Việt cũng không tạo đươc vị thế của Sáng Tạo trong giới đọc cũng như giới thưởng ngọan văn chương.

Sáng Tạo tuy phất ngọn cờ đổi mới văn học nghệ thuật dứt khóat đứng về phía cái mới chủ lưc là nhóm Người Việt nhưng là diễn đàn mở có sự tham gia của các nhà thơ tiền chiến Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương và nhà văn nhóm Quan Điểm Mặc Đỗ, nhà văn quân đội Tạ Tỵ nhà văn công chức đài phát thanh Saigon Lý Hòang Phong nhà thơ thuộc nhóm Đời Mới Hòang Bảo Việt

Vị trí của Sáng tạo trong văn học sử Việt Nam như thế nào nay đã rõ vì ngay những nhà nghiên cứu văn học ở miền Bắc những người có tầm nhìn khá khắc khe và hạn chế về nền văn học miền Nam trong hai thập niên 50,60, của thế kỷ hai mươi cũng phải thừa nhận rằng sự xuất hiện của tạp chí Sáng Tạo đã đem lại không khí đổi mới cho văn chương Việt Nam, đưa văn chương VN ra khỏi những hạn chế của su hướng văn chương tiền chiến với những Tự Lưc Văn Đòan Tiểu thuyêt thư bẩy thứ năm hay Xuân thu nhã tập Thanh Nghị.

VƯƠNG TÂN

TC Hoàng Long Hải * Phận người





Thịnh đẹp.

Ai cũng nói Thịnh đẹp.

Ngay từ khi còn bé, Thịnh cũng biết Thịnh đẹp.

Hồi ấy, ba Thịnh là công chức cao cấp ở tỉnh, nên ông thường tham dự các buổi lễ ở chùa, nhà thờ và được mời tham dự các buổi diễn văn nghệ. Vừa là con út, vừa đẹp, Thịnh thường được ba Thịnh dẫn “con gái cưng” đi theo.

Dĩ nhiên, mẹ Thịnh cũng cưng Thịnh như vậy. Thịnh được mẹ chăm sóc việc ăn, mặc, nhất là mặc, khi Thịnh đã là “con gái”.

Khi còn mặc đầm, mẹ Thịnh lo mua sắm áo đầm cho Thịnh. Lớn hơn, tức là khi Thịnh qua khỏi bậc tiểu học, lên trung học, Thịnh không còn mặc đầm mà mặc áo dài. Áo dài mặc đi học, theo qui định của trường, là áo trắng. Những ngày lễ, đi phố, đi chơi, Thịnh mặc áo màu. Có nhiều màu Thịnh rất thích, nên Thịnh có ít nhất sáu, bảy cái áo cho những màu ấy. Thứ nhất, thích màu tím, Thịnh thường mặc áo màu tím than, là màu của thi ca, của thời trang, màu “thịnh” của con gái thời ấy. Ấy là “Màu thời gian không xanh, màu thời gian tím ngắt như trong thơ Đoàn Phú Tứ. Đó cũng là “màu của chiều hoang”. “Chiều hành quân, qua những đồi sim, màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biên biệt”. Áo màu tím Thịnh thường mặc vào những chiều cuối thu, khi có những “chân trời tím”, như trong một cuốn tiểu thuyết.

Mùa xuân, Thịnh mặc màu hoàng yến, cho hợp với tuổi xuân của Thịnh. Mùa hè, Thịnh mặc áo màu thiên thanh. Cả ba mầu ấy, đều thích hợp với màu da trắng của Thịnh. Ngoài ra, Thịnh có những áo bông với nhiều màu khác nữa, nhưng chỉ là áo phụ, để mặc khi không có... mục đích gì cả hay cho có vẻ người lớn một chút.

Ra phố, Thịnh có thể ghé vào một sạp vải hay một cửa hàng vải nào đó, xem vải, chọn màu và nói với bà chủ: “xé cho cháu một áo.” Xong, Thịnh cầm áo đến thợ. Mẹ Thịnh sẽ đi phố, và ghé vào trả tiền ở nơi nào người ta đã “xé một áo” cho Thịnh. Thịnh không phải lo nghĩ về chuyện đó.

Với quê hương, Thịnh có những nơi vui chơi khác nhau. Huế, nơi Thịnh học đệ nhị cấp, Thịnh thích đi dạo phố vào chiều thứ bảy, chủ nhật. Đi dạo phố, Thịnh thường nhìn lén mình trong tủ kiếng, xem thử Thịnh đẹp như thế nào. Thịnh ghé vào nhà sách, tìm sách để mua, và ban cho anh chàng nào theo đuôi Thịnh bằng một cái nhìn “chết người”. Chưa bao giờ Thịnh thấy “Chiều nay em ra phố về, thấy đời là con nước trôi”, là “những quán không”,“những chuyến xe người ta chia tay cuối đường” như trong bài hát của một nhạc sĩ nào đó, Thịnh không quan tâm.

Thích nhất là những chiều cận tết, Thịnh đi xem chợ hoa bên cạnh đầu cầu Trường Tiền. Nó có đủ những hoa thật, hoa giả, hoa người, và những đứa con gái đẹp như Thịnh, đẹp hơn Thịnh. Bọn con gái đẹp có sức hút đến với nhau, để so đẹp, khoe áo, giày, guốc và cười mấy thằng con trai ngớ ngẩn chạy theo làm những cái đuôi.


Chiều thứ sáu, Thịnh hối hả ra bến xe lô Huế - Quảng Trị sau khi tan trường. Thịnh về thăm mẹ, thăm gia đình mỗi cuối tuần.

Hôm ấy, Thịnh là người khách cuối cùng. Khi Thịnh vào xe, người ngồi bên cạnh Thịnh là một thanh niên, có lẽ là một sinh viên đại học Huế. Băng ghế chật, những bốn người. Người thanh niên ngồi thu lu, hình như anh ta không dám nhúc nhích, sợ đụng chạm đến người Thịnh.

Xe qua khỏi cầu Phò Trạch thì trời đã tối hẵn. Đây là một khu rừng tràm thấp, phía núi là đường xe hơi - Quốc lộ 1 - phía biển Đông là đường xe lửa. Hai con đường, ở quãng nầy, gần như song song. Có chiếc xe lửa đang chạy xình xịch bên ấy. Thịnh thoáng thấy người ngồi bên cạnh nghiêng đầu nhìn về hướng chiếc xe lửa. Anh ta nói, như để chính cho anh ta nghe: “Đẹp quá!”. Thịnh tự hỏi: Cái gì đẹp? Thịnh đẹp? Nếu thấy Thịnh đẹp sao nãy giờ anh ta không nói gì, nhất là khi trời còn sáng, mới thấy Thịnh đẹp được chứ. Còn bây giờ thì trời đã tối rồi. Có lẽ anh nói hình ảnh chiếc xe lửa đẹp vì Thịnh thấy anh ta nhìn chăm chú về phía ấy.

Chiếc xe lửa như con thú dữ, màu đen hùi, nổi lên khỏi những cây tràm thấp, in hình lên bầu trời còn sáng mờ mờ. Con quái vật lao tới, hơi nước từ đầu máy tỏa lên trời cao. Thỉnh thoảng nó thét lên tiếng còi rền rỉ, và khói từ ống khói tỏa ra.

Cùng với khói tuôn ra là những đốm lửa nhỏ. Những đốm lửa bay tỏa quay cuồng trong không gian, như ngàn vạn tinh cầu trong vũ trụ đen tối bao la. Chúng bay lên cao, tỏa ra xa, rơi xuống từ từ và tắt ngấm đâu đó, trong những gốc tràm đen đủi. Tinh cầu đã tắt. Bao giờ thì tinh cầu của loài người sẽ tắt. Thịnh tự nghĩ như vậy? Tinh cầu tắt rồi, không chỉ nhân loại mà mọi sinh vật trên địa cầu nầy sẽ chìm vào bóng tối, sẽ diệt vong.

Thịnh nhớ hình như thầy giáo có nói tới điều ấy, nói tới cái tuổi của địa cầu. Tuổi ấy có thể là năm sáu triệu năm. Địa cầu mới đi được một nửa cuộc đời của nó, và nó còn một nửa đời nữa. Tới cuối đời, lúc nó tắt ngấm như đốm lửa phun ra từ ống khói đầu máy xe lửa, thì cuộc đời Thịnh đã qua rồi, qua quá lâu! Sự tàn tạ ấy, đâu phải sẽ xảy ra ngày mai, ngày kia mà khiến cho Thịnh phải lo. Dù sao, cái đẹp của vũ trụ, trong ý nghĩa tương đối nào đó, sẽ là cái đẹp vĩnh cửu.

Tuy nhiên, tiếng khen và cái nhìn của người thanh niên ngồi bên cạnh, tuồng như đánh thức một ý niệm nào đó, về sự tồn tại, sự “hiện hữu”, của lời thầy giáo dạy môn triết, về vũ trụ mà nó đã nằm sâu trong tiềm thức từ lâu rồi. Dù sao thì hôm nay, nó cũng đánh thức một ý niệm về cái đẹp của vũ trụ mà người thanh niên đã chỉ cho Thịnh thấy. Thịnh có cảm tình với anh ta.

Trí thức, phải có một cái gì sâu sắc hơn người!

Thịnh nói một mình, cũng hình như nói với anh ta: “Tuần tới thử về quê bằng xe lửa, coi có vui hơn không?”

Người thanh niên nghĩ rằng Thịnh nói với anh, nên anh ta trả lời:

- “Thích thú hơn mà buồn hơn! Cô ạ!”

Thịnh nói:

- “Vậy thì tôi sẽ đi coi thử nó buồn như thế nào!”

Thế rồi hai người nói chuyện với nhau, dè dặt vì mới gặp lần đầu, cho tới khi xuống xe.

Chiều thứ sáu tuần sau, Thịnh lên ga Huế để đi xe lửa về Quảng Trị. Khi Thịnh đi vào cửa bên phải để vào chỗ quầy bán vé thì anh ấy đứng ngay cửa. Chờ Thịnh hay tình cờ mà gặp? Rõ ràng là anh ấy làm như “tình cờ” vì khi Thịnh đi tới chỗ bán vé thì anh ấy nói: “Tôi mua giùm cho cô rồi”.

Ở cái tuổi trên dưới hai mươi nầy, bọn con trai không khôn ranh bằng bọn con gái. Giả làm tình cờ gặp mà mua vé trước thì tình cờ thế nào được? Biết vậy Thịnh hỏi:

- “Anh chờ em có lâu không?

- “Không lâu lắm.” Đó là câu trả lời hay là lời thú nhận biết sẽ gặp Thịnh?!

Thế rồi Thịnh cùng anh ấy ra sân ga.

Đường xe lửa “thống nhất” Saigon - Đông Hà khánh thành khoảng năm 1957. Từ Saigon ra Huế, đoàn xe lửa dài tới ba chục toa, kéo bằng đầu máy chạy dầu cặn, có khói mà không có lửa như đầu máy chạy bằng hơi nước. Từ Huế ra Đông Hà, đoàn xe được kéo bằng đầu máy xe lửa cũ, chạy bằng hơi nước. Xe đã chờ sẵn trong sân ga, chờ khi đoàn tầu từ Saigon ra, khoảng một giờ sau, sau khi sang khách và hàng hóa xong thì khởi hành. Khách đi Saigon - Huế thì đông. Huế đi Đông Hà đâu có bao nhiêu nên đoàn tầu chỉ có vài ba toa.

Đầu máy màu đen, các toa xe cũ kỹ màu xám đen. Sau khi rít lên hai hồi còi dài con tàu xục xịch chạy ra khỏi sân ga khi trời sập tối. Chưa được bao lâu, xe lửa sắp qua cầu trên sông Hương, lại rít lên hai hồi còi dài nữa. Tiếng còi xe lửa chạy bằng máy hơi nước, làm Thịnh nhớ lại một đoạn giảng văn đã học của Lê Văn Trương trong cuốn tiểu thuyết “Tôi là mẹ” của ông.

“Tầu “Cờ lốt sáp”, trước khi nhổ neo, theo lệ thường, rút lên ba hồi còi. Còi rút thất dài, hùng dũng bao nhiêu thhì ai oán bấy nhiêu...”

Thịnh không thấy cái hùng dũng trong những hồi còi của đầu máy xe lửa từ Huế ra Quảng Trị. Thịnh cũng không thấy ai oán như tác giả muốn nói. Thịnh chỉ thấy buồn, một nỗi buồn nhẹ nhàng và bâng khuâng. Tiếng còi tầu nhắc Thịnh nhớ đến mẹ, đến thành phố nhỏ của Thịnh, đến những chiều Thịnh đi dạo bên bờ sông Thạch Hãn, chợt nghe tiếng còi tầu và ngó lên phía cầu ga. Một con tầu đen lầm lũi chạy qua cầu ga hay cầu Bầu Vịt ở bên cạnh, có một luồng khói trắng tỏa ra phía sau con tầu. Nó làm Thịnh nhớ cái sân ga nhỏ của thành phố nơi Thịnh sinh trưởng, những khi tầu đến rồi đi, không có lắm người đưa tiễn, nhưng hình như nó cũng mang đầy nỗi buồn của những sân ga vắng vẻ, một nỗi buồn dài dằng dặc, lặng lẽ, kéo dài từ sáng đến chiều, từ chiều đến đêm khuya.

Chính là những đêm khuya, sau khi nằm trong chăn, nghe tiếng còi tầu từ xa vọng về, trí Thịnh bỗng hiện ra cái sân ga vắng vẻ đó, tưởng có ai đang vội vã lên tầu, có ai đang đưa tay lau giọt nước mắt, tiễn một người đi xuôi về phía nam xa lắc, mờ mịt, và biết có một ngày trở về hay không.

Tiếng còi tầu cũng làm cho Thịnh nghĩ tới sông Thạch Hãn, con sông trầm lặng và buồn bã, tỏa lên những luồng hơi nước mong manh, che mờ một phần khung cảnh hiu quạnh bãi cát vắng vẻ bên kia sông, hay rặng tre đen bên phía đó, rặng tre chạy dài cho tới cuối sông.

Với nỗi buồn vu vơ ấy, Thịnh lặng lẽ ngồi im trong toa tầu, có một chút hơi lạnh từ cửa sổ toa xe bay vào. Thỉnh thoảng, có vài hạt lửa nhỏ bay vào trong toa, như một tinh cầu đi lạc, thoát ra ngoài vũ trụ, rồi tắt ngấm dâu đó dưới hàng ghế ngồi dài dọc theo thành toa.

Có lẽ trân trọng trước sự im lặng của Thịnh, anh ấy không nói một lời, cho đến khi tầu vào ga. Thịnh vội vàng chào anh ấy với một nụ cười tươi như Thịnh thường có, rồi vội vàng lên xe xích-lô để mau về với mẹ.

Tuần tới, Thịnh lại cùng vè quê bằng xe lửa với anh ấy. Khi đã vào ngồi trong toa, trời còn sáng, anh ấy đưa cho Thịnh một bài thơ do anh ấy chép tay. Thịnh còn nhớ và ghi lại vào đây:

Đón Em

Ngược lại một đường tàu để đón em từ một sân ga
Ðường vô như rất xa
Bánh tàu lăn không ăn hết đường thương nhớ.
Cùng một đường đi quanh co lối ngõ
Nhìn hai bên thêm thấy rõ lòng em.
Yêu nhau từ một ánh đèn
Rồi trên những chuyến tàu để tàu đi, đi mãi.


Từ một điểm nhớ thương anh nôn nao trở lại
Ðón em
Chiều nay
Ðể đốt lên từ vầng mắt thâm gầy
Một ánh lửa chong suốt đời, trọn kiếp.
Em ơi em!
Ngược một đường đi giờ này em có biết
Lắc lư nghiêng ngã con tàu
Ta vẫn muốn đi mau
Ði thật mau để nhìn em buồn bên cửa gió.
Nhìn em,
Đôi dòng mắt mở
Trông tìm sân vắng, ga đơn.
Ðể rồi khi chớm nở giận hờn
Anh xuất hiện
Màu hoa lên ánh mắt.
Náo nức ngồi đây, thân tàu lay lắt


Náo nức ngồi đây, thân tàu lay lắt
Mà thương nhớ xót xa trông chờ quay quắt.
Ta viết mau để quên tiếng xa gần.
Ðường dù dài nhưng chưa hết trăm năm
Tàu có chậm nhưng đường đi có hạn.
Ta sẽ gặp nhau giữa chiều hửng nắng,
Ta sẽ ôm em hôn trắng môi hồng.
Hôn thật lâu để trút nhớ cùng mong
Lên môi thắm hiền, yêu, chân thật.
Nghĩa là viết cho đến giờ gặp mặt.
 

Đọc một mạch xong bài thơ, Thịnh hỏi:

- “Thơ của ai mà hay vậy? Của anh hả?”

Anh ấy nói:

- “Tôi có thử làm thơ, nhưng làm xong thì vứt bỏ, thấy nó dở quá. Bài nầy của ông Đỗ Tấn, in trong báo, thấy hay, tôi chép lại tặng cô.”

- “Đỗ Tấn nào? Ông dạy Việt Văn ở trường Bồ Đề ấy hả?” Thịnh hỏi.

- “Vậy cô không biết chuyện tình của ông ta với cô Cao Xuân Y. ở Nguyễn Hoàng hả?” Anh ấy hỏi.

- “Câu chuyện tình lãng mạn ấy ở thành phố nầy ai mà không biết. Ông ta lớn tuổi, đã có vợ, nhưng lại là một nhà thơ. Còn cô giáo là cô gái mới lớn, chưa từng biết yêu. Chuyện tình rắc rối thật đó.”

- “Rắc rối nên có người không dám yêu!” Anh ấy nói đùa.

- “Chưa chắc đấy, làm sao biết ai bạo gan hơn ai?” Thịnh cũng nói đùa.


Dĩ nhiên là Thịnh và yêu nhau. Anh ấy tỏ tình hôm anh rủ Thịnh đi chơi Khiêm Lăng.

Trong nhà thủy tạ vắng vẻ, anh ấy quì xuống, run rẩy, nói không ra lời. Một lúc sau, anh ấy hôn Thịnh, lần đầu tiên trong đời Thịnh mà cũng là cái hôn đầu tiên trong đời của anh ấy. Cũng như mọi người, cái hôn đầu sợ hết hồn hơn là ham muốn. Nhưng lẽ nào yêu nhau mà không hôn nhau.

Một lúc sau, bình tĩnh hơn, khi đứng ở hành lang nhà thủy tạ, nhìn mấy con cá lội dưới hồ nước, Thịnh mới nói đùa một câu, cho anh ấy mau “lại hồn”.

- “Làm gì mà nhát vậy, “run như run thần tử thấy long nhan.”

Anh ấy cười, trả lời: “Run thiệt.”

Thịnh nói tiếp:

- “Em có phải là chúa hay đức mẹ đâu. “Quỳ cạnh Chúa đám chiên lành run rẩy”. Đám chiên nầy chỉ có một con nên run dữ.” Thịnh lại nói đùa.

Thế rồi những tuần tiếp sau, Thịnh không về quê. Thịnh và anh ấy ở lại Huế, cuối tuần đi chơi lăng, từ lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức, Thiệu trị, Khải Định… không nơi nào hai người không tới. Đi chơi lăng cũng có nghĩa là đi chơi Đồi Vọng Cảnh, thăm viếng các ngôi chùa nằm sâu, phía xa trong núi. Và rồi, một đêm, quá vui, Thịnh liều ở lại với anh ấy, cho anh ấy cái gì cao quí nhứt của đời con gái. Đó là một biến cố lớn, nhưng Thịnh đã yêu và đã liều.

Thấy vì “ham vui” nhiều quá, Thịnh đâm lo. Còn hai tháng nữa là thi phần hai, Thịnh vẫn chưa học ôn hết bài. Mỗi lần đi chùa, Thịnh lại cầu nguyện cho ngày thi được gặp may, trúng tủ.


Thịnh không gặp may. Không những Thịnh hỏng kỳ đầu, lại hỏng luôn kỳ hai. Đó là một sự khiếp đảm. Cũng có người hỏng thi nên tự tử đấy. Có cô gái, nhà ở Kim Long, không thấy tên mình trên bảng đậu, về ngang cầu xe lửa, bèn buông xe đạp, nhảy xuống sông. Cả thành phố Huế náo động lên vì cái tin “cô nữ học sinh”, không phải “mua chai thuốc chuột” mà lại nhảy xuống sông Hương.

Thi cử, đối với bọn học trò Huế là một biến cố trọng đại. Ra làm cô giáo, hay cao hơn, kỹ sư bác sĩ, hay chuyên môn như nữ hộ sinh, y tá, v.v… hay làm nghề buôn bán vất vả, tất cả chỉ thuộc vào một cái tên được đánh máy lên trên bảng yết kết quả thi… Nó quan trọng hơn cả việc lấy chồng, nếu người ta có sắc đẹp chỉ bình bình, kỹ sư, bác sĩ không ngó tới. Cũng từ cái thực tế đó, Thịnh cũng như các bạn của Thịnh có câu châm ngôn “Thà bị “bồ” đá, không thà hỏng thi.” Cơm cha, áo mẹ, công thầy mà hỏng thi trời ơi! Có cái nào đau đớn hơn!

Và Thịnh đã hỏng thi.

Thịnh trở về quê, ở nhà với mẹ, với một nỗi buồn mênh mông vì hỏng thi, không trở lại trường, tự học lấy, sang năm thi “tự do”.

Thế nhưng Thịnh lại lấy chồng.

Năm ấy, một người cùng làng, du học ở Pháp về, đang giữ một chức vụ lớn ở Saigon, về thăm quê, thăm ba má Thịnh và xin cưới Thịnh.

Mẹ Thịnh thấy con đang buồn vì hỏng thi, lại thấy anh ta học hành bên Tây về, bằng cấp cao, tương lai sáng lạn, nên khuyên Thịnh.

Thịnh đang hối hận nhiều chuyện. Chuyện tình yêu như lửa cháy, nóng vội và liều lĩnh, chuyện hỏng thi và những câu nói của bạn bè “Người tình không phải là người chồng”. Hai người ấy khác nhau như thế nào? Người tình là người nghệ sĩ, lãng mạn, đàn giỏi, hát hay, thơ văn bay bổng…Người chồng thì phải bảo đảm tương lai cho vợ. Lấy một ông kỹ sư, bác sĩ, có chức vụ cao ở bệnh viện, ở ngành y tế, có phòng mạch… Chẳng bao lâu sẽ có xe hơi, có biệt thự… Người tình không bao giờ có thể đem lại những điều hạnh phúc, sung sướng như người chồng.


Trong ý nghĩa đó, Thịnh bằng lòng.

Rồi Thịnh theo chồng vào Saigon, ít khi về quê, không gặp lại người cũ. Thịnh đi một mạch trên một đoạn đường dài. Có thế lực, giàu có, tuần lễ trước ngày 30 tháng tư 1975, Thịnh đã cùng chồng di tản sang Mỹ.


Anh thân yêu!

Nghe tin anh ở Đông Hà, Thịnh muốn về thăm anh, dù câu chuyện cũ đã qua nửa thế kỷ rồi đấy.

Không phải Thịnh đi tìm chuyện quên hay nhớ, nhưng khi xa anh, Thịnh cứ nghĩ cuộc đời của mỗi chúng ta như môt giòng sông chia hai, không bao giờ gặp nhau lại nữa.

Thế rồi mỗi giòng sông đều có nhiều hạnh phúc và nhiều nỗi thương đau. Thịnh không có con cái gì cả. Anh ấy qua đời cũng đã mười năm. Thịnh sống cuộc đời cô quạnh nơi xứ người, nhưng tất cả rồi cũng quen đi anh à. Đời sống, dù ở đâu, nó cũng có những nỗi vui buồn. Nếu Thịnh bỏ xứ Mỹ mà về lại quê nhà, chắc gì Thịnh sẽ không cảm thấy cô đơn, chắc gì Thịnh sẽ không có những nỗi vui buồn như khi Thịnh sống ở xứ Mỹ nầy.

Thịnh lấy chồng, bỏ xứ đi mất, nhưng Thịnh vẫn nghĩ sâu trong lòng: “Với anh là Tình, với chồng là Nghĩa”. Thịnh không thể quên đi, quên đi chứ đừng nói là mau quên, một mối tình đầu, mối tình độc nhứt, mà cũng là mối tình đẹp nhất, ít ai có được. Tuy vậy, Thịnh cứ để kín trong lòng, không thương, không nhớ, không tiếc, không buồn…

Chỉ buồn là mới năm ngoái đây, Thịnh lại có được tin anh.

Anh cũng rời bỏ ngôi trường anh đang học, nhập ngủ sau khi “được tin em lấy chồng”.

Cuộc chiến tàn để lại trên thân thể anh những dấu tích không bao giờ lành hẵn được. Dấu tích trên thân thể và cả những dấu tích trong tâm hồn. Rồi sau những năm tù đầy, anh chẳng còn gì hết, ngoài một tấm thân tàn, trở về Đông Hà, nơi cố quận, chờ một ngày cuối đời, như anh nói với người bạn anh. Người ấy cũng đã kể lại cho Thịnh nghe.

Từ Mỹ, Thịnh về Saigon, dự tính về Đông Hà gặp anh một lần nữa, một lần chót, mà trước kia, Thịnh không bao giờ nghĩ tới. Dù sao, cũng phải thăm anh một lần.

Về Huế, Thịnh dự tính ngày mai sẽ về Đông Hà, gặp anh.

Nhưng rồi chiều hôm qua, Thịnh lại đi dạo phố Trần Hưng Đạo, Gia Long như ngày xưa, những ngày nghĩ, Thịnh thường đi dạo phố vậy. Mùa xuân, Thịnh mặc áo màu hoàng yến. Cái hình ảnh của Thịnh ngày ấy, anh còn giữ trong lòng không? Hình ảnh ấy có phải là của một nữ hoàng, một Lý phu nhân, một Dương Quí Phi, không chịu gặp hoàng thượng, chỉ cắt một nắm tóc gởi cho hoàng thượng để tỏ lòng nhớ thương.


Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ
phụng quân vương Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa, thiếp phụ chàng


Anh thân yêu!

Cái đẹp của Thinh ngày xưa không còn nữa, tuy tóc chưa bạc hết, da chưa mồi, nhưng làm sao Thịnh còn được những đường cong, không có những nếp nhăn trên mặt…

Đang dạo phố, tự nhìn hình mình trong một tủ kính cửa hàng nào đó trên đường Trần Hưng Đạo, Thịnh bỗng thấy sợ nếu gặp lại anh. Màu hoàng yến không còn “ăn” với màu da của Thịnh nữa. Mái tóc cắt ngang nửa lưng nay khô vàng, cứng, không còn bay bay theo gió như anh đã từng ca ngợi. Bước chân Thịnh trên đường phố không còn thanh thoát nhẹ nhàng mà nặng nề, chậm lụt, nụ cười không còn tươi mà ủ dột,… Tất cả đã hết rồi, một thời con gái.

Phi tần không chịu gặp vua vì nhan sắc đã tàn tạ. Thịnh có thể gặp anh được không, hoàng thượng cuảa Thịnh, khi nhan sắc Thịnh đã phai tàn?

Không anh à!

Một mối tình đẹp, những hình ảnh đẹp. Sao có thể xóa nhòa đi được? Hình ảnh Thịnh trong tim anh có phải là một hình ảnh đẹp không? Sao Thịnh có thể thay vào đó hình ảnh một … bà già.


&


Vậy rồi Thịnh trở lại Saigon để sang Mỹ, sau khi gởi lai bức thư và cái mà Thịnh gọi là “một chút quà mọn”. Chút quà mọn đó không giống như món tóc mà Dương Quí Phi đã gởi cho Đường Minh Hoàng./

Và cũng không có hồi âm!


hoànglonghải

Thursday, April 5, 2012

Trần Hoài Thư * Tháng Tư Quốc Hận: Ban Mê Thuột Ngày Đầu Ngày Cuối

Hôm nay, 37 năm về trước, Ban Mê Thuột thất thủ. Đây là một câu truyện được xây dựng từ những dữ kiện có thật theo lời kể của cựu Thiếu Uý trinh sát Trung Đoàn 45/SĐ23B và cũng là người bạn cùng một Sư Đoàn, Nguyễn Lương Sơn. Tác giả mong được nói lên phần nào về một biến cố lịch sử mà những người lính vô danh VNCH đã là những chứng nhân, và hơn nữa đã tham dự thật sự vào, bằng máu, nước mắt, kiêu hãnh và tủi nhục trong những ngày oan nghiệt nhất của lịch sử đất nước từ ngày đầu tiên 10/03 đến ngày cuối cùng 17/03/1975 tại Ban Mê Thuột.
Ban Đông, ngày 01/03. Đại Đội về Ban Mê Thuột chưa kịp nghỉ dưỡng quân, bổ sung quân số, lại được lệnh tăng phái cho tiểu khu. Lệnh từ tiểu khu: Đến Ban Đông để tiếp nhận căn cứ do một đơn vị địa phương quân bàn giao lại. Cấp trên cho đi nghỉ mát hay cho vào hiểm địa chăng. Không ai cần biết. Lại lên đường. Trung đội trưởng Minh lại ngồi trong cabin, đám lính ngồi đằng sau, chĩa súng ra ngoài bìa rừng. Buổi sáng từ giã thành phố, từ giã Liên, quán cà phê, tiếng hát của Lệ Thu nức nở Nghìn Trùng Xa Cách từ rạp hát Thăng Long, con phố ngắn hai bên vách tường vôi sậm bùn đỏ sệt như lời hát nào đi năm phút trở về chốn cũ. Đường về hướng Tây cũng như hướng Đông, hướng Nam, hướng Bắc. Vẫn là cõi sống và cõi chết. Vẫn là những khu rừng già che hết cả tầm nhìn. Vẫn là những lần ngồi trong xe, rồi nhảy xuống, rồi nhìn bản đồ, địa bàn, ra lệnh, hét hò, chửi thề. Vẫn là những hơi thuốc hít vội, những đầu lọc như bị cắn nhừ để chống những nỗi lo âu vô cớ...

Đóng đồn. Lâu lắm, đơn vị mới được dịp dừng lại trong bốn bề phòng tuyến, co cụm lại thay vì phải bung ra từng toán tăng phái cho tiểu khu, Trung Đoàn, Sư Đoàn hay Quân Đoàn. Buổi sáng Đại Đội tập họp, Minh lại nhớ Thiếu Uý Thường. Toán hắn đã chạm địch khi nhảy xuống rừng tìm tin tức của toán Minh. Nhưng cuối cùng, toán thất lạc của Minh đã trở về an toàn và toán đi tìm đã không còn dịp để trở về nữa. Thiếu Uý Thường đã ôm trái lựu đạn tự sát vì bị thương quá nặng để rảnh tay đồng đội. Khi nghe tin thằng bạn thân chết Minh đã lấy súng bắn như điên cuồng về phía rừng. Mắt Minh long lên đỏ ngầu. Minh nhớ đôi mắt của bạn. Nụ cười của bạn. Nhớ đến cái dáng bất cần của bạn. Hắn dường như sống để mà lao về phía trước. Ngọn cỏ ngọn lau còn rụt rè, trái lại đối với hắn, cả thân hắn đứng thẳng, như thể thách thức với trận mạc. Và xác hắn banh. Tiếng nổ của trái lựu đạn thật quá lẻ loi không có ý nghĩa gì hết so với những tràng sấm kinh động từ những lần phi pháo trên những cánh rừng già Trường Sơn. Trung đội mất một Thiếu Uý Thường thì vẫn có một sĩ quan khác được bổ sung. Và nếu không có sĩ quan bổ sung, một hạ sĩ quan toán phó sẽ lên thay. Không ai bận tâm thắc mắc về một cuộc chiến mà chiến công được vinh danh qua những xác chết. Chỉ có những người cùng vào sinh ra tử với nhau này. Chỉ có những đứa con mỗi ngày chia xẻ từng hộp thịt quân tiếp vụ, từng hơi thuốc, từng cô gái giang hồ, từng chai bia lăn lóc, từng mẫu âm thoại trên máy PRC 25 này. Thường ơi, tao nhớ mày, mày biết không. Tại sao hôm nay mày không có mặt để đi đóng tiền đồn với tao.
___
Ban Đông ngày 01/03. Quận cách Ban Mê Thuột chừng 45 cây số về hướng Tây. Quận của mặt trời lặn. Đoàn xe bốn chiếc lăn bánh trên con đường nhựa còn sót lại thời kỳ Pháp thuộc. Bụi đỏ cuốn mù. Qua rừng cao su, những đồn điền trà và cà phê bất tận. Chiếc xe hàng chạy qua đầy ngập hành khách, những người Thượng trên rẫy hay bên đường đã cho người lính tự tin hơn về sự an ninh của con trục lộ miền núi. Sương mù vẫn còn trùm phủ những ngọn đồi xa. Người lính truyền tin Đại Đội vẫn tiếp tục báo cáo và nhận lệnh. Tháng Ba, Tết đã qua, mùa xuân vẫn còn vương vít trong đất trời, với những đàn chim én nô đùa trong không gian tươi thắm nắng vàng. Núi rừng trùng trùng điệp điệp vây quanh, không có gì toả ra những đe doạ dưới một màu xanh thẫm bạt ngàn. Nhưng Minh đã biết hơn ai hết về những tai hoạ đang chờ chực dưới những cánh rừng già phía dưới ấy. Các toán đã báo cáo đến mệt lả về phòng hai. Từ Đức Lập, Thuần Mẫn, từ Lệ Trung, Lệ Thanh, từ Phú Bổn, Quảng Đức và dưới những cánh rừng già Đắc Lắc. Mỗi lần nhảy là bọn Minh phải ôm tim ôm ngực trước những bước chân di chuyển, tiếng động cưa cây, chặt gỗ làm cầu, dọn đường cho tăng và những đoàn quân xa nặng, những đồ lương khô còn vất lại trên đường mòn, những bãi cỏ lau bị rạp vì bước chân người. Bọn Minh biết rõ từ lúc đầu tháng Giêng năm 1975, những sửa soạn sôi nổi như không còn che dấu được nữa của những đơn vị Sư Đoàn F10, Sư Đoàn 320, Trung Đoàn Quyết Thắng, cả Trung Đoàn chiến xa đang dàn binh dọc theo hành lang của các tỉnh miền núi như Pleiku, Tuyên Đức, Đắc Lắc, Phú Bổn... Minh có dự cảm về một trận chiến sắp sửa ở đâu đây. Trận phún thạch không biết sẽ phụt lên lúc nào, và ở đâu. Đâu là điểm nóng, điểm lạnh. Ngày trước, mỗi lần lấy tin là cả một sự khó khăn. Toán phải bung sâu vào mật khu, xa bộ chỉ huy hàng mười lăm, hai chục cây số, lặn lội trong rừng già, mới tìm được tin mà báo cáo. Bây giờ, không còn phải vất vả như xưa nữa. Địch có mặt khắp nơi, khắp chốn, công khai, như thể sắp dự vào một trận đại địa chiến một mất một còn.

Ban Đông. Ngày 01/03. Xế trưa. Không có đơn vị địa phương quân nào đợi sẵn để bàn giao căn cứ. Căn cứ trống trơn, trơ vơ những hàng dây kẽm, những giao thông hào, những nhà tôn tiền chế và bãi phi đạo tầm ngắn còn lại từ thời tiểu đoàn biệt động quân biên phòng trấn đóng. Thì ra, đơn vị địa phương quân đã bỏ căn cứ từ lúc nào. Bỏ mà không nói một tiếng cho Đại Đội đến tiếp nhận. Thẩm quyền của Minh chửi bới um sùm qua máy. Đại Đội bắt đầu tiếp nhận căn cứ. Dưới mắt Minh, núi rừng trong nắng chiều vàng thẩm, trùng điệp. Anh có thể thấy bao quát một vùng rộng lớn, mãi tít bên kia hành lang. Vâng, đây là cửa ngõ xâm nhập. Và căn cứ này là con mắt có thể quan sát được sự di chuyển của quân địch. Tầm quan trọng về chiến lược đã được để lại dấu tích bằng một căn cứ vững chắc, có cả phi đạo cho máy bay. Nhưng đó là chuyện của ngày xưa. Thời biệt kích Mỹ. Thời Biệt Động Quân biên phòng. Thời máy bay lên xuống căn cứ không ngớt. Thời mà cả tiểu đoàn vũ khí hùng hậu. Thời hễ bốc máy xin được yểm trợ là có phi pháo hay B52. Cái thời đó đã không còn nữa. Mà trái lại, lúc này là cái thời chỉ có một Đại Đội trấn giữ lẻ loi, cô đơn giữa một trùng trùng điệp điệp Sư Đoàn, binh đoàn địch, chẳng cần giấu giiếm.

Phải. Lúc này, là lúc chín mùi cho một mặt trận. Về phía địch, họ đã đạt được ý nguyện, có nghĩa là không còn pháo đài bay, mắt điện tử dòm ngó khi họ chuyển quân xâm nhập, hay không còn những phản lực cơ từ đệ thất hạm đội, hay từ các căn cứ nội địa sẵn sàng có mặt trên đầu họ. Ký kết hiệp định Ba Lê, có nghĩa là người Mỹ phủi tay để nhìn một miền Nam trước sau gì cũng thoi thóp. Minh đã nhảy biết bao nhiêu lần. Và bao nhiêu lần Minh lấy tin từng đơn vị cấp Sư Đoàn đang ngày đêm ồ ạt tiến về Nam như tiến vào chỗ không người.

Như thường lệ, buổi tối các toán phải bung ra nằm ngoài phòng tuyến. Minh cho toán của Chuẩn Uý Hào lên nằm trên ngọn đồi cao điểm của căn cứ. Riêng anh theo toán của Trung Sĩ I Bao, dẫn người truyền tin cùng tên tà lọt đi cùng. Đêm trên cao, sao càng rõ hơn. Gió từ phía Lào thổi qua, vẫn còn mang theo hơi ẩm uớt từ những cánh rừng già. Phía dưới chợ, le lói vài ánh đèn như dấu hiệu của sự sống. Ngày xưa nơi này được tiếng là một quận trù phú về lâm sản và thú rừng. Bây giờ, người dân đã bỏ đi gần hết. Chỉ còn những người Thượng sống chết với núi rừng.

Đêm đầu tiên ở Ban Đông, Minh nghe vọng về rất rõ tiếng máy xe tiếng chân người di chuyển, cả tiếng cưa cây, bắc cầu, đóng cọc, có cả tiếng máy xe ủi... Kể từ khi không còn bóng những pháo đài bay, F110, hay F111 địch đã không còn là những bóng ma như người ta đã nói. Họ công khai xuất hiện. Như bọn Minh đã từng báo cáo suốt mấy tháng trước đây. Nhưng chẳng ai thèm ngó ngàng. Không còn B52, không còn thuốc khai quang, hết cho cây rừng còn xanh lá, thôi pháo binh, hết máy bay ném bom mỗi khi có lời yêu cầu. Và đêm nay, cũng vậy. Cả Đại Đội đang chờ đợi một điều sẽ đến. Có thể là một cuộc tấn công cũng nên. Minh lo không thể ngủ được. Minh sợ thằng gác ngủ quên. Đôi khi, Minh phải trở dậy đi tuần tra. Từ cả tháng nay, tin đồn Quốc Thánh về cùng những đứa con trinh sát của Sư Đoàn, cho biết Ban Mê Thuột sẽ gặp đại nạn, vô phương cứu chữa. Người ta nói anh linh của Tướng Trương Quang Ân nhập vào Quốc Thánh. Và Ngài chỉ đặc biệt độ trì trinh sát, bởi khi còn sống, vị Tướng này rất thương mến lính trinh sát. Trời ơi, sao Ngài không chịu nhập vào mấy tay lãnh tụ, tướng lãnh, Sài Gòn hay Ngũ Giác Đài. Sao Ngài lại không dùng quyền uy để bắt họ ra nằm ngoài Ban Đông một đêm với lính, mới hiểu là điềm triệu này đúng. Tại sao lại đem một Đại Đội trinh sát đi nằm tiền đồn. Để làm gì. Minh không thể hiểu. Trong bóng đêm đen đặc, Minh đang chờ. Như chờ suốt bao lâu từ khi về đơn vị, từ chức toán trưởng, trung đội phó và giờ là trung đội trưởng. Chờ trong khi hết đồng đội này đến đồng đội khác, cứ tiếp tục tiến lên, bước sâu vào, nhảy ào xuống, cái cõi mà ai ai cũng phải hãi hùng. Từ một đơn vị trực thuộc Trung Đoàn, bây giờ đơn vị lại trở thành con ghẻ của mọi bà dì vô tâm. Hết Sư Đoàn xin, đến Quân Khu rồi tiểu khu xin. Xin để nhảy lấy tin. Nhưng khi tin đã cho rồi, thì chẳng cần ai đếm xỉa. Họ đâu có biết gì về nỗi bơ vơ của đám con ở chiến trường này đâu. Họ làm ngơ trước những lời báo cáo. Đến bây giờ Minh mới hiểu tại sao đơn vị địa phương quân lại bỏ căn cứ. Và tại sao đơn vị Minh lại được lệnh về đây để đóng đồn. Không ai có thể sống mãi trong tình trạng cực kỳ căng thẳng và tuyệt vọng như thế này mãi. Dù quá mệt, mắt muốn chụp xuống, nhưng Minh vẫn không thể nào ngủ được. Tiếng động càng lúc càng rõ, càng dội về. Giả dụ đêm nay địch tấn công căn cứ thì sao. Dĩ nhiên là phải xin bắn trái sáng, phi pháo nổ chụp. Còn khuya. Thằng bạn thuộc tiểu đoàn pháo binh cho biết tiêu chuẩn mỗi ngày từ 8 quả nay xuống 6 quả. Minh nhìn lên bầu trời đầy sao. Minh mong đêm cho mau hết. Có tiếng gọi đổi phiên gác. Bóng người lính gác lờ mờ in trên giao thông hào. Một vì sao rụng, bay xẹt ngang bầu trời. Một ngày trôi qua yên tĩnh. Ngày thứ hai, Minh được tin từ trên cho biết đám lính Thượng sẽ làm phản, nội ứng. Các sĩ quan họp lại. Không ai đều tin chuyện này xảy ra. Riêng Minh biết rõ họ trong những năm anh chỉ huy từ chức toán trưởng đến chức trung đội trưởng. Họ là những người lính rất thuần hậu và đầy tinh thần trách nhiệm. Họ không bao giờ tìm cách trốn tránh hành quân hay kích gác cẩu thả. Họ cũng không hề ba gai anh chị như một ít người lính Kinh. Khi đụng trận xong, họ hay chạy đầu, lật xác tìm chiến lợi phẩm. Tuy vậy, phòng ngừa vẫn là cách tốt nhất. Thẩm quyền bí mật phân tán họ ra khắp các trung đội, cố chia cách họ được chừng nào hay chừng nấy, nhất là trong đêm nằm tiền đồn.

Ngày đóng đồn cũng nhàn nhã. Chỉ cực nhất là ban đêm. Còn ban ngày, mấy thằng lính chùi súng ống hay xuống dòng sông Ban Đông liệng cá hay xuống chợ ngồi trong túp quán bên đường nhìn con gái đàn bà Thượng. Trong nỗi hiu quạnh của tiền đồn heo hút, những người lính thỉnh thoảng tụm năm tụm ba dạo đàn hát hò. Trong đơn vị, có Thành, Tánh, Minh là những tay nghệ sĩ còn chuyên nghiệp hơn cả những tay nghệ sĩ phòng Tâm Lý Chiến. Tiếng hát làm cả bọn phải nín thở, đưa họ về những vùng trời cũ – mà họ đã bỏ lại đằng sau, hay chưa bao giờ bắt gặp – giúp họ quên đi hiện tại đang rình rập đe doạ xung quanh. Ngày sương mù che phủ cả núi rừng, làm đôi lần mắt Minh phải mờ đi, lòng chao lạnh. Ai đưa ta đến chốn này. Cứ núi cứ rừng cứ buông cứ bản. Nơi xa, em thì vàng võ đợi chờ. Cha mẹ thì ngày đêm đốt nhang cầu nguyện. Đã bao lần vào sinh ra tử. Cái chết chạm đến nhàm rốt cùng lòng Minh cũng dửng dưng. Chỉ sợ, là những người còn lại. Phải chi con người sống như cây cỏ cầm thú, thì đỡ khổ cho hắn biết mấy.

Ngày 09/03/1975

Lệnh đơn vị phải rút về Ban Mê Thuột. Đức Lập đang bị áp lực nặng. Con đường 14 đã bị cắt. Quảng Đức đang nguy ngập. Bây giờ, đơn vị lại bỏ trống Ban Đông. Dù sao đi nữa, cả bọn cũng vui mừng. Không ai cần thắc mắc về những tin tức bi quan xảy ra xung quanh họ. Chuyện ấy là chuyện của Dinh Độc Lập, Quân Đoàn. Bởi nhiều người lính trong đơn vị đều có thân nhân ở Ban Mê Thuột. Riêng Minh thì nhớ đến Liên. Đi đâu, thành phố này vẫn là mái nhà cuối cùng. Ở đó, mỗi lần Minh trở về, Liên dọn cho Minh những bữa cơm còn nghi ngút khói, cho Minh những lần làm tình cuồng bạo, và sau đó, là Minh lại ra đi, tiếp tục lao vào cõi sống chết. Đi đâu cũng nhớ đến những con đường đầy bùn đỏ, những vách tường màu đỏ kịt, quán cà phê và tiếng nhạc và đầy ngập khói thuốc.

Đi đâu cũng nhớ lại một đêm lành lạnh bình an trong thành phố mà sao hình như càng thấp hơn, càng long lanh hơn, mà ngày như nắng đầy bụi, và mưa như làm đất trở nên nhảo nhẹt bám cứng đế giày. Ban Mê Thuột. Minh đã đi nhiều, nhưng chỉ có Ban Mê Thuột bắt Minh phải nhớ. Như những cánh rừng cao su và cà phê, đến nỗi vào mùa hoa cà phê nở, cả một thị trấn như ngào ngạt hương hoa. Trong thành phố, những hàng cây muồng hoa vàng rực bên cạnh giáng hương, trâm, bông li ti trắng, cùng những vườn bông sứ hoang dại như làm thành phố chìm vào trong nỗi man dại ngây ngất...

Dù được lệnh rút về Ban Mê Thuột nhưng phương tiện chờ hoài vẫn không thấy. Trong khi các đơn vị địa phương quân đã được các đoàn xe GMC tới bốc từ lâu. Thẩm quyền Minh năn nỉ đến ráo nước bọt mới được Quân Khu cho một chiếc chinook già nua cũ mèm vào lúc bốn giờ chiều.

Đại Đội phải chia làm hai nhóm để được chở đi vì chỉ có mỗi một chiếc duy nhất. Minh theo đoàn sau. Con tàu oằn mình như mang gánh quá sức nặng, đến nỗi một nửa thân tàu phải nghiêng hẳn xuống như mất cả thăng bằng mặc dù hai cánh quạt đang cố quay tít. Cả bọn ngồi trên sàn. Kính từ những khung cửa đã bị bể hoàn toàn, khiến gió thốc vào no nê. Cơn nắng oi nồng vẫn còn chói chan trong thinh không. Phương Tây vẫn yên tĩnh. Giã từ mười ngày tại Ban Đông vô sự. Giã từ những đêm căng thẳng và những ngày nhìn xuống phía rừng già, để dự cảm về một điềm gỡ sắp xảy đến. Giã từ một tuần lể xuống chợ nhìn con gái Thượng ngực trần và ngồi quán cóc trong chợ. Giã từ để tiếp tục bước vào một chuyến đi tăng phái khác. Nghề của trinh sát là phải vậy. Cứ chỗ nào khó, cần là bốc trinh sát, là bắt trinh sát dẫn đầu. Như hôm nay. Về Ban Mê Thuột để hướng dẫn một tiểu đoàn trừ ( - ) của Trung Đoàn 53 lên giải toả Đức Lập. Tần số bắt đầu đổi sang hàng ngang. Trung Đoàn. Sư Đoàn. Quân Khu. Rồi chiếc Chinook đáp xuống phi trường ở cây số 3. Đoàn xe đã đậu sẵn. Tin lại cho biết Đức Lập đã mất. Miễn đi. Đại Đội được lệnh về hậu cứ của Trung Đoàn 53. Quân trú phòng trong hậu cứ quá đông, Trung Đoàn trưởng cho ra nằm ở phi trường Phụng Dực, cách hậu cứ khoảng 3, 4 trăm mét. Lúc ấy gần tối. Không ai biết một mảy may gì về tình hình. Lính tráng bỏ đơn vị đón xe về thăm thân nhân. Đám sĩ quan ngồi chung xe zeep chạy về thành phố lúc màn đêm buông xuống. Thị xã vẫn yên tĩnh. Nhạc từ rạp hát vẫn vọng trong thinh không. Những ngọn điện đường vẫn mờ nhạt. Đây là ngã Năm. Bên kia là rạp chiếu bóng. Phía góc đường dẫn về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23BB là câu lạc bộ sĩ quan. Đối diện là ngôi nhà thờ đá. Và con đường mờ tối như dẫn vào một cõi bình an, một bến tàu chờ đợi những con người vừa trải qua những thềm địa ngục. Có người con gái chờ đợi Minh trong căn nhà trọ giữa vườn hoa sứ. Có quán cà phê, ngồi cùng bạn hữu đốt những sợi khói tình si. Có những chai bia, chai rượu nồng nàn, hay những con mèo đêm mắt hồ ly luân lạc từ đâu lại. Không ai biết đến những gì sẽ xảy đến. Bởi tất cả thị xã vẫn yên tĩnh lạ lùng. Minh kêu xe dừng lại ở trước nhà Liên. Đêm nay nếu đơn vị không cấm trại, Minh sẽ xin phép thẩm quyền ở lại cùng nàng. Mà thẩm quyền thông cảm. Anh ta nói: "Thôi mày ở lại đi. Có gì tao cho tài xế tới bốc". Minh nói là anh muốn đi uống cà phê, lâu lắm không nếm mùi cà phê Ban Mê Thuột. Trong nhà Liên ríu ra ríu rít. Mà nàng ngạc nhiên thật. Đôi mắt nàng mở lớn. Minh muốn ôm nàng, ôm siết và hôn lên đôi môi mọng đỏ. Cả thân thể nhỏ bé thon mềm kia là của Minh, nhưng Minh cứ muốn khám phá thêm, tìm tòi thêm. Bên trong da thịt kia là con tim vô cùng rực lửa, tha thiết, dâng hiến trọn vẹn nhất, đầy đủ nhất, dữ dội nhất.

Minh đã không ngờ lại gặp Liên tại thị xã này. Định mệnh hay chăng. Khi mà trên tấm poncho ở bên xa lộ Sài Gòn Biên Hoà, hai người cùng ôm nhau quằn quại dưới cơn mưa như thác, khi mà cả quần áo của nàng ướt dầm dề, lồ lộ da thịt đỏ hồng, khi mà miệng này ngoạm vào miệng kia, tiếng thở hổn hển trong ngày cuối cùng, để Minh coi đó như là dư vị kỷ niệm để nhớ lại một lần. Rõ ràng ngày ấy người con gái Sài Gòn đã không đòi hỏi gì ở Minh. Nàng cho anh dù biết rằng ngày mai, anh sẽ quên nàng. Vâng, Minh biết mình quá tàn nhẫn. Chiến tranh quá cuồng bạo, kinh hoàng, không còn cảnh anh qua đồi sim viết thư về em gái hậu phương. Chiến tranh đẩy anh đến no nê cùng máu, nước mắt, làm quen với xác người, mất đầu, mất hạ bộ, dòi bọ lúc nhúc. Chiến tranh làm một người thầy giáo như anh đi vào trong những động giang hồ, chửi thề hơn ai hết, uống rượu đập ly, mắt đỏ ngầu, răng nghiến kèn kẹt trước những thi thể của bạn bè... Chiến tranh làm anh trở nên lì lợm, lạnh lùng. Chiến tranh đẩy anh đi tìm cái sống trong cái chết và cái giá trị ghê gớm của cái sống. Chiến tranh làm anh chẳng cần hối hận khi bỏ Liên, hay những người con gái khác. Nhưng Liên thì không. Liên không vô tâm như anh. Liên không quên mối tình đầu quá sức nồng nhiệt. Nàng sẽ theo anh. Theo hoài. Chẳng thắc mắc, tính toán, so đo. Nàng sẽ đến góc bể chân trời để gặp một người đã phá nổ cõi xuân thì của nàng, để lại những vết sướt đầu đời.

Vì thế khi tốt nghiệp lớp cán sự xã hội, nàng đã chọn Ban Mê Thuột. Nàng lại gặp người tình cũ. Và căn phòng thuê của nàng như một mái ấm cho mỗi lần Minh về phép hay dưỡng quân. Lần này cũng vậy. Đã hơn một tuần xa cách, quá lâu. Liên nghĩ đến đêm nay, lòng lại dâng lên niềm rạo rực. Má nàng au hồng. Nàng nói với Minh, anh nhớ về sớm nhé. Ở nhà em nấu cơm. Anh kêu các bạn anh nói về cùng ăn cơm chung nhé.

Chín giờ đêm, xe quân cảnh chạy khắp nơi trong thị xã, lục lạo đám lính đang ngồi trong các quán hay trong động giang hồ bắt phải về đơn vị khẩn cấp. Họ gặp đám sĩ quan của Đại Đội trong quán cà phê. Họ chào tay và cho biết lệnh báo động đỏ đã ban khắp thị xã. Địch chỉ cách Ban Mê Thuột không bao xa, có thể tấn công thành phố bất cứ lúc nào. Đám sĩ quan lên xe phóng về sân bay Phụng Dực. Những chiếc xe dân sự, hay nhà binh cũng gấp rút hối hả không kém. Đám lính súng ống đội nón sắt ngồi trên xe. Xuất chiếu bóng đã mãn, thành phố ngạt thở. Minh không còn đủ tâm trí để nghĩ về buổi cơm tối mà người yêu đã chờ đợi anh. Tin tức lại cho hay địch chỉ cách thị xã hai cây số. Điều mà Minh dự cảm đã đến. Đức Lập đã mất hồi trưa hôm qua. Bây giờ, là thành phố này đang báo động đỏ. Trong bóng tối, thẩm quyền bật đèn pin lên bản đồ, chấm toạ độ, và chia trách nhiệm cho từng trung đội. Những ngọn đèn từ hậu cứ Trung Đoàn mờ nhạt phía sau. Có tin ta đã bắt được một sĩ quan pháo của địch khi hắn ta tìm cách xâm nhập vào thị xã để điều nghiên các cứ điểm. Như vậy rõ ràng là phe Bắc quân đang mở trận đánh lớn vào thị xã. Sĩ quan không dám cho lính biết, sợ hàng ngũ hoang mang giao động. Truyền tin được lệnh chuyển tần số hàng ngang, có thể liên lạc với máy bay từ duới Nha Trang bao vùng. Minh đốt từ điếu thuốc này sang điếu thuốc khác. Những người sĩ quan trong Đại Đội cũng vậy. Mấy tháng trời anh đã báo cáo, bạn bè anh đã báo cáo, có người đã chết, có người đã bị tàn phế, cũng vì những bản tin này, nhưng rốt cùng, mọi sự đến phải đến. Đến một cách thật dửng dưng. Không ai có thể ngờ cả một binh đoàn đông như vậy lại cách thị xã hai cây số. Quân không còn nữa để mà giữ. Đồn thì bỏ chạy trước tiên. Trung Đoàn 44, 45 thì tản rộng khắp nơi. Liên đoàn Biệt Động Quân thì không thấy đâu. Khắp nơi nằm yên, bó tay, thụ động. Ngay cả ở thị xã này, chỉ có những khẩu 105 ly so với những khẩu trọng pháo 130 ly của địch. Và địch cứ thế mà vào, càng ngày càng sát thị xã. Chẳng những người mà còn cả hàng đoàn xe tăng. Trách nhiệm này là trách nhiệm của ai. Hay là đã đến một thời mà nơi này ngập biển máu như lời người đạo sĩ dạo nào xuất hiện giữa thành phố đã rao truyền. Minh đã viết một bài đăng trên báo Sài Gòn kể về người đạo sĩ cuồng điên múa kiếm giữa đám dân thị xã hiếu kỳ cách đây đã lâu. Ông ta khóc ròng: "Thương thay, thương thay chúng sinh tội nghiệp. Đây là nơi mà máu là biển, máu ngập tràn. Thương thay!" để cuối cùng ông ta bị thầy cảnh sát xua đi vì lưu thông công cộng. Có phải cái ngày này đã đến rồi chăng.

Trong bóng đêm ngạt thở, những bóng người ẩn hiện trên sân phi đạo. Mọi sự vẫn bình thường. miền Nam này không thể bỏ mất Ban Mê Thuột được. Phải giữ nó. Tiếng nói nào quá vô hình nhưng quá vũ bão thúc giục anh, và có lẽ thúc dục tất cả những người lính trong đơn vị. Sớm hay muộn, quân tiếp viện sẽ đến. Biệt Động Quân sẽ vào. Nhảy Dù từ dưới duyên hải sẽ lên. Bằng mọi giá phải cố mà giữ. Ban Mê Thuột không thể nào mất được.

Minh được lệnh cho con mình phòng thủ phía Tây Nam cuối phi đạo nhìn ra một buôn Thượng. Trong bóng tối, cả bọn móc đất từ những ụ đất kiên cố, một thời dùng để che chở máy bay. Hai bàn tay móc đến chảy máu, đến muốn tróc móng, để đào những hố ẩn thân từ bên trong ụ. Bề cao ụ quá ba thước, trống trải, không mái che, nhưng chắc chắn có thể che chở được tầm đạn trực xạ, ngay cả tầm đạn chiến xa. Phi trường Phụng Dực là ải đầu tiên để che chở bộ chỉ huy Trung Đoàn 53 BB, và hậu cứ, cùng trại gia binh Trung Đoàn. May mắn ở xung quanh phi trường, là bãi đất trống trước khi dẫn đến bìa rừng cao su. Đêm đen tối quá chừng. Rừng cao su ngoài phi trường ngày xưa đối với Minh là cả một khu rừng cổ tích, với những hàng cây song song, lá cành đan nhau như mái vương cung thánh đường, và Liên bỏ dép, chạy chân trần trên rừng lá khô vàng, và tóc nàng bay lướt thướt, rối cả mặt nàng. Và khi Liên quay tròn người như một điệu luân vũ, thì Minh không sao cầm nổi cơn xúc động, anh ôm choàng lấy Liên, đẩy Liên vào thân cây, rồi hôn từ mắt xuống phần thân thể phía dưới... Vâng, Liên, anh đang chuẩn bị đây. Bên anh là dây đạn, lựu đạn, M72, là M60, anh sẽ chiến đấu cho mà xem. Đơn vị anh sẽ cản đầu xe tăng, sẽ đánh cận chiến, sẽ đâm lưỡi lê, sẽ quần thảo tay đôi.. Không thể dễ dàng chơi với bọn trinh sát này được. Quốc Thánh không về phù trợ có nghĩa là Quốc Thánh muốn để những đứa con này ở lại giữ Ban Mê Thuột.

oOo

Vào hai giờ sáng, địch bắt đầu pháo vào thị xã loạn cuồng. Hàng ngàn quả cũng nên. Đạn rớt khắp nơi, không dứt. Nhưng hình như địch quên cứ điểm phi trường. (Minh đoán là tình báo địch chưa phát hiện đơn vị anh, vì giờ chót, đơn vị anh đến nhận phòng tuyến khi trời quá tối). Trong đêm dày, Minh thấy cả một bầu trời đầy những chớp lửa và gào rú tiếng đạn pháo. Hình như bốn bề tám hướng địch đều nhất loạt chĩa bao nhiêu họng pháo về thị xã và Bộ chỉ huy Trung Đoàn. Thỉnh thoảng một vài đám cháy bốc ngọn rực sáng trong đêm. Minh nhớ đến Liên. Nhớ và cầu nguyện cho nàng. Mới cách đây vài tiếng đồng hồ là sự bình an, là giấc mơ, là nũng nịu, là vòng tay ân tình, là cà phê ở quán đường Hai Bà Trưng, là tiếng nhạc, thì bây giờ tất cả chìm đắm trong biển lửa. Minh không tưởng tượng là mọi sự lại xảy ra nhanh đến độ sững sờ như thế. Cường độ pháo dường như tăng chớ không giảm. Chắc là một cuộc tấn công vào thị xã. Trong máy truyền tin, hỗn loạn muôn ngàn âm thanh, của ta, của địch, của lời cầu cứu hay của men say chiến thắng, của tiếng pháo, cả tiếng nổ dòn dã của tiểu, đại liên... Rồi Minh thấy từ phía trong hậu cứ Trung Đoàn muôn ngàn tia đạn bắn ra đan kết với muôn ngàn tia đạn lửa từ ngoài bắn vào, như cả một buổi hoa đăng cuồng loạn của sa tăng quỉ sứ. Minh biết là địch đã bắt đầu tấn công. Có điều địch vẫn chưa biết có một Đại Đội trinh sát đang nằm cách hậu cứ một khu rừng cao su nhỏ này. Địch đã từ hướng Đông Nam, Đông Bắc chọc thẳng vào phòng tuyến Trung Đoàn vào lúc 5 giờ sáng. Bảy giờ sáng đơn vị địch bị những quả đạn pháo rót xuống đầu, cũng như sức phản ứng quá mạnh của quân phòng thủ nên rút dạt về hướng phi trường. Cả một Đại Đội chờ sẵn, và bắn, bắn, bắn. Lần đầu tiên Minh mới thấy trước mắt anh hàng hàng lớp lớp địch quân nằm chết la liệt trên bãi đất trống. Tay anh bóp cò điên cuồng. Anh say máu. Những tên địch ngơ ngác dường như không biết phải ẩn ở chỗ nào, sau đó té nhào, văng khẩu súng. Anh không còn bình tĩnh nữa. Họ chết nhiều quá. Có lẽ tại họ khinh địch. Trong khi lửa vẫn cháy ở trong thị xã. Và đạn vẫn ầm ầm vang dậy bốn bề. Trong máy, tin cho biết, địch đã chiếm một số cứ điểm trong thị xã. Nhưng ở nơi này, là xác địch nằm la liệt, trong bộ quân phục mới cắt chỉ. Đơn vị Minh tịch thu đến 5 khẩu SA7, và cả rừng súng, và bắt sống 3 tù binh. Riêng Minh cũng lấy được một cuốn nhật ký và một cây viết máy hiệu Hồng Hà từ một C trưởng (Đại Đội Trưởng) thuộc K5 SĐ 316. Lật trang đầu, anh muốn khóc. Có ảnh của một người vợ và đứa con dán ở trang đầu.

Chiến thắng đầu tiên đã làm nức lòng những đứa con trinh sát hơn bao giờ hết. Số súng và tù binh được lệnh mang về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 53BB.
---
Như vậy, ngày N, khởi đầu cho một thành phố bị hiếp đồng loạt và man rợ. Xe tăng ào vào từ khắp nơi. Địch quân, Sư Đoàn này đến Sư Đoàn khác tiến vào thị xã như vào chỗ không người. Thành phố trống trơn bỏ ngõ như người đàn bà trần truồng bị vồ dập từ tứ phía. Từ phi trường, bọn anh đã nghe, thấy, và hiểu từng giờ, từng phút cơn hấp hối của một con bệnh. Đêm cũng như ngày, những đứa con bộ binh, ngầy ngật cùng những đêm trắng mắt, những nỗi căng thẳng tột cùng giữa các ụ máy bay. Đêm cũng như ngày, đơn vị đã chịu đựng hết những quả cối, hay đạn 130 ly, hay 57 ly từ xe tăng, đến từng đợt tấn công từ các đơn vị đặc công hay tùng thiết, để giữ vững phòng tuyến trách nhiệm... Đêm cũng như ngày, Đêm cũng như ngày, không còn gì để mà suy nghĩ nữa. Mắt ráo hoảnh. Không còn sức để chịu đựng nhưng vẫn phải chịu đựng. Đêm chớp lửa. Đêm bạo cuồng. Đêm lóe sáng khắp thị xã. Và ngày, địch lại đưa đơn vị này tấn công, rồi thảm bại, rồi đưa đơn vị khác tiếp tục. Đặc công của 316 lui đến 320 rồi đến tăng. May mà có những hàng cây cao su để bọn anh còn nhào ra cận chiến, lách bên này, núp bên kia, chụp, vật, lấy súng, lấy đạn, lấy lương khô. May mà có hai khẩu M60 đặt từ trên cao điểm, và trung sĩ nhất Sữu bóp cò và ba người lao công chiến trường phục hồi lại cấp bậc ngay tại chỗ để trở thành ba cây súng mới. May mà cả bọn có ụ cản như những pháo đài kiên cố để cản lại trăm ngàn quả đạn. May mà máy vẫn còn liên lạc được với bộ chỉ huy Trung Đoàn, Quân Khu và cả máy bay từ dưới Nha Trang lên để bọn anh còn hy vọng là quân tiếp viện sẽ đến giải cứu kịp thời. Lữ đoàn Dù từ dưới Khánh Dương sắp được bốc. Biệt động quân sẽ được đổ xuống. Và Trung Đoàn 44, 45 sẽ có mặt...

Tăng địch vẫn tiếp tục theo hướng Đông Bắc, từ rừng cao su tấn công thẳng vào bộ chỉ huy Trung Đoàn. Và bọn anh ở ngoài có nhiệm vụ giúp điều chỉnh pháo binh rót những quả 105 ly vào ngay đội ngũ địch. Và đã bảy ngày, từng giây từng phút. Không thể tưởng tượng là Đại Đội đã chiến đấu trong những điều kiện cô đơn đến độ ghê gớm như thế. Phi đạo vẫn còn đó. Bể nước cao vời vợi vẫn còn đó. Bộ chỉ huy của Trung Đoàn vẫn còn đó. Còn đó, như cái xác của trung sĩ nhất Sữu bị banh ra tơi tả cùng với khẩu đại liên M. 60 khi quả đạn 57 ly từ tăng bắn trực xạ vào anh ta. Nửa xác của anh bị bắn lên không, nhìn từ xa thấy rõ những mảnh thịt tung tóe như xác pháo. Còn đó, để hai mẹ con người đàn bà vào trưa ngày 14/03 – bốn ngày sau trận đánh mở màn – bỗng nhiên xuất hiện trên bãi đất trống. Trời ơi, đừng tới nữa chị. Nơi này đâu phải là cái bến để mẹ con chị tìm đến mà nương nhờ. Nơi này là cõi địa ngục mà. Hãy tìm chỗ khác. Bọn anh đã xô đuổi hai mẹ con họ giữa lúc họ rất cần bọn anh. Không. Đôi mắt chị sợ hãi và tuyệt vọng. Và chị lại dẫn đứa con chị rời khỏi phi trường, trở lại phía con đường nhựa. Rồi trái pháo chụp xuống. Không còn thấy bóng họ nữa.

Còn đó, bởi vì vào trinh sát là không thể để địch túm cổ được. Một vài người bạn sa cơ của họ trước đây đã bị móc mắt, xẻo mũi. Vâng, mắt để nhìn, mũi để ngữi, để đánh hơi bọn ông, bây giờ bọn ông sẽ dạy cho con bài học. Mọi giá phải chơi lại. Không còn cách nào hơn. Minh đã chuẩn bị một trái lựu đạn cuối cùng. Và những người lính kia cũng vậy. Có mệnh hệ gì thì mở chốt đồng loạt và chết đồng loạt. Trinh sát là phải vậy. Chính cái điều lựa chọn dứt khoát này đã là sức mạnh ghê gớm để cả Đại Đội còn có mặt trong cơn đại hồng thuỷ. Lửa và chất nổ như cháy cả buồng tim, để những người lính không còn hãi sợ, để Minh, dù là Thiếu Uý, phải phạt người Thiếu Uý trung đội phó cầm lựu đạn mà chạy đầu khi toán của hắn không chịu dàn hàng ngang xung phong vào bìa rừng, mà ở đằng sau bắn tới vào ngày 12/03. Vì anh có thâm niên quân vụ hơn. Lúc này, ông thần chính là kỷ luật. Lúc này, thằng nào yếu mềm là phạt mang lựu đạn ra nằm ngoài bìa rừng. Lúc này, kêu chạy phải chạy, xung phong là xung phong, mang mìn gài chiến xa cách phòng tuyến cả trăm thước, phải tuân lệnh. Lúc này, nằm tận trong bìa rừng làm tiền đồn phải nằm. Không nghe, bắn. Lúc này chỉ biết càng bắn, càng đâm, càng tung lựu đạn, càng hả hê cuồng sát, càng hả hê khi thấy những người lính đối phương thét la vang dội, Bác ơi, Bố Mẹ ơi. Như tiếng thét kinh hoàng của người lính trẻ Bắc quân trước khi hắn chết. Hắn không quen đánh trong rừng cao su. Hắn như con nai, thay vì chạy về phía sau cùng hàng ngũ, hắn chạy về phía trước. Và phụp. Máu vọt thành vòi, bắn lên gương mặt của hạ sĩ nhất Đặng. Lúc này không còn thắc mắc, bận tâm, lương tâm, nhân bản. Lúc này không còn cảnh bắt tù binh mang về bản doanh Trung Đoàn như trong lần thử chiến đầu tiên cùng K5 thuộc 316 nữa. Mà không thể mang được. Trong khi xung quanh thiên binh vạn mã trùng điệp vây quanh tìm cách giết đám con chiu chắt...

Wednesday, April 4, 2012

Thy An Nguyễn Thế Tài * Mùa xuân nhớ dòng thơ




Đào Hải Triều



1.
khi con chim họa mi
bên mảng tường rêu xanh
gửi lời từ biệt đến mùa đông hiu quạnh
bằng nụ hôn những cành hoa bay theo gió,
chữ nghĩa của ta sẽ no tròn
phơi trên tấm lưng trần
bát ngát đại dương
và khu vườn hoang sơ
sẽ trở mình thức dậy
như giấc mơ
băng qua những đám mây ngủ sắc

 2.
viên sỏi nhỏ chiều nắng tắt
trinh nguyên như môi cười trổ nụ hôm qua
muôn đời ngủ yên
hiền hòa
dưới những bước chân nõn nà
hài hoa, gót ngọc
đã vượt ngàn năm ánh sáng
ân cần bọc lấy ngực tim
và đo kỷ niệm bằng những vòng dây ái ngại
3.
bên kia những biển dâu bờ bãi
ta bỗng nghe
loài người mòn mỏi trở về
đứng giữa đêm sương
trái tim oặn đau thời chinh chiến
và tình thương chưa đủ lớn
để bôi đi những đoạn trường
của lịch sử oan khiên ...
ôi hai vầng nhật nguyệt
âm thầm
nhỏ lệ xuống quê hương trăn trở
4.
cửa thiên đường chưa một lần rộng mở
nghe tàn hơi con phố cũ quay về
dẫm lên ký ức từng trang sách đam mê
tiếng ca hào sảng của bầy ngựa rừng si dại
nhắc ta nhớ lại
mảnh trăng vàng ghế lạnh công viên
ngút ngàn những ánh sao
như mắt của tình nhân cô độc
giữa vũ trụ bao la
tìm một nơi trú ẩn
lạ thường
5.
khóm hoa vàng đọng lại những giọt sương
đêm khuấy tan nỗi buồn
pha thơ vào rượu
chữ nghĩa ngục tù
không giữ nổi màu xanh
trên đôi mắt long lanh chờ sáng
và ngôn ngữ cúi đầu
bất lực
gục trên những đam mê tuyệt vọng
bầu ngực căng phồng khao khát yêu thương

6.
giữa những hoang đường
có tiếng hát đầu năm như con chim bay lạc
bám lấy góc tường rêu : điểm tựa cuộc đời
dòng thơ lao đao trên bầu trời xưa cũ
mời mọc tuổi thanh xuân
âm thanh trượt ngã ...
và trên những xôn xao ngày tháng
hãy nhìn hoa nở để quàng vai hạnh phúc
thơ biến thành di chúc mịt mù
7.
mãi mãi
mùa xuân lang thang
lặng lẽ
tiễn người về cuối phố thiên thu ...
 
thyan NTT
 

Tường Linh * Ðêm Vũng Tàu


. sóng nhớ thương chi
đến bạc đầu
niềm khơi
trăn trở đã bao lâu ?
Vũng Tàu
đêm
gió xôn xao quá
lạ vị cà phê
quán Bãi Dâu


giọt đắng rơi..rơi...
biển mịt mùng
tâm tư thềm biển nỗi riêng , chung
giàn khoan típ tắp khơi xa đó
đêm lại nối ngày
tim biển rung


giọt đắng ngừng rơi
sóng mãi reo
đèn khơi không động
mắt vương neo
Vũng Tàu phóng khoáng
đêm
mừng khách
trở gót
bờ trăng
sóng vỗ theo


Tường Linh