| ||
| ||
1. Nỗi vui một nửa
Bọn trí thức bốn tên: Có những nỗi vui, cái thích chả cắt nghĩa được. Nhớ lại có một lúc nào đó xuất hiện các tên Trung TR rồi Chung CH đồng loạt. Nhất là sau 1963. Thật khó cùng một lúc có những tên tuổi như thế nổi lên cùng thời. Đến nỗi, ông Thiên Hổ, chủ bút báo Xây Dựng đã viết chửi gom cùng một lúc bốn tên Trung, Chung như sau: "Tất nhiên rồi. Những Lý Quí Chung, Nguyễn Hữu Chung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các anh em có tên Chung hay Trung cũng như các đứa con chỉ được quen mồm gọi thằng Cu như Thiên Hổ, nghĩa là đại đa số con dân Việt Nam ở ba miền Trung Nam Bắc, vẫn muốn là (những người ở giữa) thì câu đó nông a lê ù, mà còn tổ làm cớ cho Cộng sản nó khai thác. Nhà dân biểu hăng say Lý Quí Chung vì dân tộc, với dân tộc hẳn đã nghĩ đến điều đó. Dù sao Thiên Hổ cũng xin phép nói trước, sợ đàn anh quá sốt sắng đến thành ngây thơ. Chết cho dân tộc chúng em đấy. Thiên Hổ.
Có điều cả bốn người họ đều nổi cộm lên, đều
viết được. Phải nói họ đều viết hay mới đúng. Trong hồi ký của Lý Quí Chung cũng
đã có lần nhắc đến cái cụm bốn Trung, Chung rất là lạ, rất là kỳ cục như thế.
Trong cả bốn, Nguyễn Hữu Chung sau này ở cùng chỗ với tôi, lại có viết chung
trên Tạp chí Đi Tới. Anh viết ít. Nhưng nhiều lúc anh hạ một con chữ, tôi đọc
thấy cũng đã lắm.
Đến lúc Lý Quí Chung cho ra cuốn: "HỒI KÝ KHÔNG TÊN", rồi Talawas cho đăng lại. Tôi theo dõi mỗi ngày với sự thích thú. Nay đã đọc xong, xin ghi lại một số cảm nghĩ của mình.
Thể văn hồi ký tự nó có sắc thái đặc biệt. Đó
là thể văn cho người đã xế chiều. Viết để nhớ lại và gửi gắm. Đọc nó, giúp ta
hiểu đời sống một người đồng thời hiểu một giai đoạn mà tác giả sống, nhất là về
phương diện chính trị, xã hội hay văn học. Nhưng theo tôi, đó là một thể văn gay
go nhất, vì nó đòi hỏi người viết một nguyên tắc khá quyết liệt: Viết thật thà,
viết với lòng trung thực, viết không phải để tô son đánh bóng mình. Hầu hết các
cuốn hồi ký từ trong nước đến hải ngoại đều vấp phạm phải lỗi lầm này. Đến không
thể kể ra cho hết được. Thế là cuốn hồi ký trở thành vô giá trị, cùng lắm đọc
chơi, đọc để giải trí.
Riêng cuốn hồi ký của Lý Quí Chung tôi nghĩ nó
đạt được nửa điều trung thực, nửa điều thật thà. Nửa
Tôi tự hỏi mình, ông viết vào cái lúc sắp sửa
bước chân vào cõi bên kia. Còn gì để ông vướng bận? còn gì để ông e ngại mà
không trải lòng mình ra? Cái chúc thư mà ông gửi đến người đọc là chúc thư gì?
Nội dung nhắn gửi có đủ chưa, có còn gì để nói nữa? Điều gì đã làm ông phải lựa
chữ, lựa lời, lách chữ để có mặt? Để ít ra còn được lên tiếng?
Nhưng dù gì đi nữa, tôi cũng vẫn đọc ông với
niềm trân trọng nhất là khi ông viết những dòng trăn trối như thế này:
"Tôi có ý định viết lại phần đời sau 30 tháng
Tư 1975 này, thành một tập hồi ký riêng. Nhưng tôi hoài nghi mình sẽ không còn
thời gian đủ để làm việc đó. Tôi vừa thoát qua cơn bệnh hiểm nghèo, không biết
thời gian tạm ứng tiếp cho tôi sẽ được bao lâu. Phần một của tập Hồi Ký tôi mất
một năm rưỡi để viết. Tôi đã bắt đầu ngay khi vừa phục hồi sức khỏe từ cuối
tháng 12.2002. Khi viết những dòng này, ngày 01.3.2004, tôi được tin người bạn
thân và đồng hành với tôi trước 1975 trong thời gian chống Mỹ-Thiệu, cựu dân
biểu Nguyễn Hữu Chung, đã mất ngày 26-2004."
Có thể thời gian còn lại quá ít để ông không có
thì giờ viết nữa?
Nhân tiện đây xin trích dẫn một người bạn thân
Nguyễn Hữu Chung của ông. Lối viết rất Nam Kỳ, rất Nguyễn Hữu Chung, rất trung
thực trong một lá thư trước khi ông mất. Lá thư này coi như chúc thư gửi cho ông
chủ bút , nhưng cũng là gửi cho mọi người để cùng nhau suy nghĩ.
Anh Hóa.
Bác sĩ cho "moi" 12 tháng, "moi" xài hết 6 tháng rồi. Anh kêu tôi viết, tôi cám ơn anh, nhưng tôi nghĩ mình viết cái gì bây giờ?
Mình viết về một dân tộc mà mình biết có một
phân nửa. Mình viết về một đất nước mà mình biết có phân nửa. Mình viết về thế
hệ tương lai, tính từ 75, đã một thế hệ sanh ra và lớn lên mà cả hai thế hệ
này... nó không biết mình là ai, mà mình cũng không biết nó là ai.
Anh thấy không, anh kêu tôi viết về tuổi trẻ, về tương lai, về một thế hệ mà đã hơn một phần tư thế kỷ mình không ở đó, cái điều đó có thể cũng không sao, nhưng quan trọng hơn, là mình không dự phần, mình không chia xẻ, thì bây giờ viết cái gì bây giờ. Tôi đi năm 75, ở cái tuổi sung mãn nhứt của đời người thì… chỉ để kiếm cơm. Bây giờ về hưu rồi, hết rồi "toa" (…) Nhưng anh cứ nói cho tôi biết, tôi phải viết cái gì bây giờ?
Nguyễn Hữu Chung,
Montréal, một ngày tháng Tư 2003
(Trích một lá thư gửi Đoàn Minh Hóa, chủ nhiệm,
chủ bút Tạp chí Đi Tới, Montréal, Québec, Canada)
Trích dẫn cả hai đọan văn trên để nhớ cả hai người đã một thời tuổi trẻ, đã có mặt, đã tham dự một phần vào lịch sử miền nam vào những ngày trước 30.4.75. Những trí thức trẻ tạo nên thời cuộc Dựa theo Hồi Ký Không Tên của Lý Quí Chung, tôi nhớ lại sau 1963 xuất hiện một loạt những khuôn mặt chính trị non trẻ, không có một tý bề dày kinh nghiệm chính trị gì cả. Vốn liếng chính trị rất mỏng. Kinh nghiệm sinh hoạt nghị trường v.v... cũng không có. Kể như là những tay mơ. Họ là giới thanh niên trí thức trẻ của cả một thời, đánh dấu một thời kỳ của ho. Họ là những Ngô Công Đức, Lý Quí Chung, Nguyễn Hữu Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Phạm Thế Trúc (sau trốn sang Nhật không dám về) Nguyễn Hữu Hiệp, Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Cứ, Hoàng Ngọc Biên, Dương Văn Ba, Dương Minh Kính, Nguyễn Văn Châu, Bành Ngọc Quý, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Tấân Mẫm, Hồ Ngọc Cứ, Nguyễn Văn Binh (đại tá). Dĩ nhiên, phải nhìn nhận rằng, họ có mặt là do sự hỗ trợ đằng sau của Công giáo hay Phật giáo hoặc do nhãn hiệu Nam, Bắc hay Trung. Thời cuộc thay đổi, tình hình chính trị thay đổi. Họ thay thế các khuôn mặt chính trị lớp cũ, nhiều khuôn mặt quá quen thuộc tỏ ra lỗi thời. Họ thiếu kinh nghiệm, nhưng xông xáo, học bài rất nhanh. Cộng thêm họ lý tưởng, có một tấm lòng. Nhiều người trong họ, với kinh nghiệm thu tập trong nghị trường, trong mặt trận báo chí, trong các phong trào phản chiến, đứng giữa hay thành phần thứ ba. Chẳng mấy chốc, họ trưởng thành qua kinh nghiệm, trở thành những khuôn mặt chính trị đại diện giới trí thức trẻ khuynh tả của miền Nam lúc bấy giờ.
Đại diện trong đám họ, tiêu biểu có thể là mẫu
người như Lý Quí Chung, vừa là nhà báo như các người trẻ khác như Trương Lộc,
Trần Trọng Thức, Nguyễn Vạn Hồng, Nguyễn Bá Thành. Vừa là nhà chính trị như một
số dân biểu vừa nêu trên. Ông là mẫu người lý tưởng, hăng say, dấn thân nhập
cuộc.
Những điều mà ông Lý Quí Chung viết về giai đoạn ấy khá trung thực. Trung thực khi viết về chính bản thân mình như học dở dang, chưa ra ông ra thằng. Vào đời vỏn vẹn có mảnh bằng Tú tài 1, chương trình Pháp. Tay nghề làm báo kể là số không. Lăn vào chính trị như một tình cờ, một dun dủi. Đi từ trí thức khuynh tả nhảy sang đứng giữa rồi thành phần thứ ba. Nhưng qua những điều ông kể, đánh giá người này, người kia, đánh giá sự việc, đánh giá một tình huống. Phải nhận ông là người có tài, người có một tấm lòng, người thẳng thắn, tạo cho mình một bản lãnh, một thế đứng chính trị, phản ứng ăn nhịp với xu hướng chính trị, thời cuộc. Đó là trí thức khuynh tả, thành phần thứ ba. Chập chững vào nghề: Hứa hẹn vóc dáng một tên tuổi đầy hứa hẹn
Tôi còn nhớ vào những ngày trước biến cố Phật
giáo 1963, một số tờ báo vẫn có thói quen ca tụng chế độ Ngô Đình Diệm. Tờ
Sàigòn Mới là một trong số những tờ đó. Nhưng khi ông Diệm, ông Nhu bị thảm sát
xong. Diện mạo, cung cách, giọng điệu một số tờ báo đã khác. Họ đổi chiều, trở
giọng nhanh như chớp đến đáng khinh. Vô số những bài phóng sự mới ra lò bôi nhọ
chế độ ông Diệm. Không ai cấm họ làm như thế với điều kiện trước đây họ đừng có
khen hay nịnh bợ. Khinh họ là ở chỗ đó. Chỉ trong một đêm. Giọng điệu đang rỉ rả
ca tụng thành chửi bới, bôi nhọ. Tôi cảm thấy ngầy ngật về nhân cách của một số
tờ báo thời đó.
Vì thế, tôi đọc hồi ký của Lý Quí Chung trong chương: Chập chững vào nghề báo. Tôi nghĩ rằng, ông là nhà báo trẻ và duy nhất không nói và về hùa theo đám đông. Bài báo viết về vụ ông Cẩn của ông có cách nhìn riêng, khá nhân bản và can đảm. Có lẽ cả cuốn hồi ký, phần này nói lên cái nhân cách của Lý Quý Chung sau này. Lý Quí Chung vượt trên cái nhãn thức bình thường của các ký giả viết chạy theo thời cuộc, viết a dua, viết chạy theo đám đông, viết bôi bác lem nhem, nhãn thức thiển cận hẹp hòi không có trình độ, thiếu một cái nhìn sắc bén về cá tính ông Ngô Đình Cẩn. Lý Quí Chung biết nhận ra ở ông Ngô Đình Cẩn lúc ra tòa, lúc ở cái thế kẻ thua cuộc. Ông Ngô Đình Cẩn vẫn tỏ ra cho thấy một con người có bản lãnh, có cá tính, có uy lực, coi thường những kẻ đang xử án mình và coi khinh những nhân chứng trước đây ra vào nhà ông qụy lụy. Từ tư thế một tội nhân, bị xử án, ông Cẩn ở tư thế một người biết chấp nhận thua được một cách bình thản. Khó chứ không phải dễ. Người ta có thể oán hận ông, có thể kết án ông điều này điều nọ. Nhưng trước tòa án xử ông, ông chứng tỏ một nhân cách đáng nể. Điều đó không thể phủ nhận được. Lý Quí Chung viết: "Tôi vẫn nhớ thái độ ông Cẩn trước tòa án rất ngạo mạn, ông chẳng quan tâm gì đến diễn tiến phiên tòa. Chẳng chú ý tới các lời buộc tội ông. Ông mặc bộ đồ bà ba lụa mầu trắng, mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các phiên xử. Nhiều lúc còn có cử chỉ tỏ vẻ khinh khi các tướng tá đang ngồi xử mình.. Và lúc bị đưa ra hành quyết, Lý Quí Chung viết: "Ông bị trói chặt vào cột hành quyết và lúc sắp sửa bị bịt mắt bằng vải đen thì ông ta phản ứng. Ông nhất định không để bị bịt mắt, muốn được nhìn tận mắt cuộc hành quyết mình. Nhưng người thi hành án giải thích với ông rằng luật lệ không được phép cho họ làm khác. Người ta vẫn bịt mắt ông và một loạt súng kết liễu mạng sống của người thứ ba và là em út trong dòng họ Ngô từ sau cuộc đảo chính 1.11.63. Bài tường thuật của tôi nhấn mạnh hai điểm: ông Cẩn không sợ cái chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử ông tại tòa.
Bài viết này làm nên vóc dáng Lý Quí Chung sau
này trong nghề làm báo và chính trị, khởi đầu một cuộc hành trình trí thức trẻ,
dấn thân và nhập cuộc. Đó là bài báo như bước chân khổng lồ vào đời, xác định
được thế đứng, góc nhìn và vóc dáng của một nhà báo trẻ. Bài báo đó báo hiệu
tương lai một người tuổi trẻ lý tưởng và hăng say, can đảm và trung
thực.
Vào lúc đó, ngoài Lý Quí Chung, còn có tờ Tiếng
Nói Dân Tộc, số kỷ niệm ngày 1.1.63 có ghi lại cảm tưởng như sau: "Vô cùng kinh
ngạc vế thái độ dửng dưng và thật trầm tĩnh của con người được mệnh danh là Út
Trầu, lúc mà Cẩn biết bị bác đơn ân xá" .
Khoảng gần 30 năm sau. Trong hồi ký Luật Sư:
Nghề hay Nghiệp, hồi ký về vụ án ông Cẩn đăng trên tờ Thế Giới Ngày Nay ở
Kansas, Hoa Kỳ, năm 1992, Luật sư Võ văn Quan viết: "Ông Cẩn im lặng nghe đọc
bản án bác đơn xin ân xá. Quá cảm động, tôi chỉ biết nói câu an ủi tầm thường:
"Thôi ông cố vấn đừng quá đau buồn. Trên cõi đời này sớm muộn gì rồi cũng phải
ra đi." Ông nhìn tôi điềm tĩnh nói: "Luật sư đừng có buồn cho tôi. Tôi đi theo
mấy ông anh của tôi. Tôi trở về cõi Chúa. Tôi không sợ chết đâu, nhưng tôi lo
cho luật sư. Luật sư đụng chạm tới họ không biết luật sư ở lại có bi họ làm khó
dễ hay không.." Tôi ứa nước mắt nói không sao đâu, ông cố vấn đừng lo cho tôi.
Xin cầu chúc ông cố vấn được vào nước Chúa". Người lính đem khăn vải đen bịt mặt
ông. Tới lúc đó, ông không còn giữ im lặng lắc đầu nói lớn, tôi không chịu bịt
mắt đâu, tôi không sợ chết, nhưng người ta vẫn buộc. Bị bịt mắt, ông Cẩn vẫn lên
tiếng phản đối vùng vẫy cái đầu. Một tiếng hô, một loạt súng nổ. Đạn bắn mạnh
vào làm cho thân hình người tử tội bật ngược lên, dãy nảy rồi rũ xuống như một
người máy bị đứt dây thiều. Viên sĩ quan chỉ huy đội hành quyết bước tới cọc,
lạnh lùng bắn phát đạn ân huệ. Đầu ông Cẩn dãy lên rồi gục xuống. Hoàng hôn chụp
xuống ảm đạm tang tóc".
Ông kết luận: "Tối hôm xử bắn, tôi đã uống thuốc để cố gắng tìm giấc ngủ, vẫn trằn trọc thao thức suốt đêm vì bao hình ảnh vụ án cứ dồn dập quay cuồng trong tâm trí và ông nhận ra tình cảm cũa ông đối với bị cáo đã thay đổi: Lúc đầu ác cảm phẫn nộ, đến khâm phục và thương tâm.
Con đường làm chính trị thông qua cửa ngõ nhà
thờ, hoặc nhà Chùa.
Qua Hồi Ký Không Tên giúp chúng ta hiểu khá rõ
quá khứ của những sinh hoạt chính trị sau năm 1963. Tôi còn nhớ đến ngạc nhiên
là tự mọi nơi chốn, những người trẻ quen cũng như không quen, như một lớp sóng
trào nhảy vào chính trị rất là ngang xương, rất là " blanc- bec". Nguyễn Hữu
Hiệp, dáng thư sinh học trò, con cháu của Molière và học trò của Aristote,
Platon đã dùng cú đá song chảo đá văng những nhà chính trị lão thành tăm tiếng
như bác sĩ Hoàng Cơ Bình. Châu Nguyễn ở Đà Lạt cũng vậy. Dưới tỉnh, những Bành
Ngọc Quý, Dương Văn Ba đã có lá bài "Miền Nam" hay "Liên Trường", hay địa
phương. Những Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Văn Binh, Lý Quí Chung, Dương
Minh Kính thì đúng ra mỗi người có những lá bài "tẩy", những lá dù che của thời
kỳ đó.
Họ muốn lọt vào sinh hoạt chính trị, không có
con đường nào khác qua cổng chùa hay cổng nhà thờ. Một điều như thể bắt buộc,
không làm khác được. Cha Cố, sư sãi có giá. Điều đó chứng tỏ một chính quyền,
một chế độ non nớt. Uy quyền Quốc Gia không có. Tôn giáo, thần quyền dính vào
thế quyền, chia xẻ quyền lực rất tay ngang và không bình thường. Cổng chùa, cổng
nhà thờ nay ra vào không phải là những Phật tử hay con chiên ngoan đạo nữa. Thêm
vào đó là những nhà chính trị, trẻ có, già có đi tìm một tấm giấy thông hành
chính trị. Không ai có thể ra vào Hạ Viện, Thượng Viện mà thiếu một tấm giấy
thông hành. Hạ Viện thì đám người trẻ như tác giả Lý Quí Chung. Rất năng động,
rất xôm tro, rất nổi đình đám. Hoặc như các dân biểu Đinh Văn Đệ, Nguyễn Phúc
Liên Bào, Phan Xuân Huy, Đinh Xuân Dũng, Kiều Mộng Thu, Trần Ngọc Châu trong vai
trò dân biểu đối lập. Hoặc có những người ít xuất hiện công khai như Dương Văn
Tòng, Trương Lộc, Hoàng Ngọc Biên v.v.. Hoặc trong bóng tối với tư cách người
Cộng sản như: Trương Bá Cần (hay Trần Bá Cường), Vương Đình Bích, Huỳnh Công
Minh, Phan Khắc Từ. Bốn người này đều có thẻ đảng và nắêm tờ Công giáo và Dân
Tộc từ sau 75 cho đến hiện nay.
Thượng Viện thì thầm lặng hơn với đám sồn sồn,
trí thức salông. Họ bỏ nhà thương, bỏ tòa án, bỏ quân ngũ, bỏ trường học để ra
ứng cử và xếp hàng dưới hai nhãn hiệu: Liên danh của Công giáo hay Phật giáo.
Chỉ cần người đứng đầu có tên tuổi như Trần Văn Lắm, Vũ Văn Mẫu, Dương Văn Minh
v.v.. gắn thêm cái mác tôn giáo. Thế là xong. Ngay cả những liên danh quân đội
của các tướng như Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính thì cũng không thoát nổi cái dù
che của Cha cố, Sư sãi. 9 người còn lại đều có nghề nghiệp chuyên môn, có tuổi,
có tên, nhưng mà chưa có tên tuổi. Họ là những nhà chính trị giả hiệu, thiếu tay
nghề, thiếu kinh nghiệm nghị trường. Cùng lắm là những nghị gật.
Và đây là lời xác nhận của ông Lý Quí Chung về
điểm này: "Trong khi chuẩn bị cuộc vận động cho liên danh Dương Văn Minh với tư
cách đại diện báo chí cho liên danh này, tôi đã tiếp cận với Phật giáo Ấn Quang
tìm sự ủng hộ của lực lượng Phật giáo có hậu thuẫn quần chúng lớn nhất. Hình như
dân biểu đơn vị Huế là Trần Ngọc Giao cũng có giới thiệu tôi với Thượng tọa Trí
Quang lúc này đang ở chùa Ấn Quang"
Dân biểu Lý Quí Chung nhận xét tiếp: "Lần đầu
tôi gặp 'Người làm rung chuyển nước Mỹ', Báo Newsweek đã gọi Thượng tọa Trí
Quang như thế. Khi đã tiếp xúc thì con người ấy đã toát lên một thứ thần sắc
khác thường. Ánh mắt như sao băng, chiếu thẳng vào người đối thoại như nhìn thấu
những suy nghĩ của họ. Tôi nhớ mãi ấn tượng đầu tiên ấy khi lần đầu gặp nhà tu
hành nổi danh."
Khi ra Huế, dân biểu Lý Quí Chung đưa ra một
nhận xét khá đặc biệt khi gặp Đức Tăng Thống: "Trong chùa Bảo Quốc chỉ treo một
bức ảnh chân dung duy nhất trên tường. Đó là chân dung Thượng tọa Trí Quang. Như
thế đủ thấy ảnh hưởng của thầy Trí Quang với người lãnh đạo tinh thần cao nhất
Giáo Hội Phật Giáo là như thế nào."
Nay thì quyền lực thế trần nắm trong tay các vị
lãnh đạo tôn giáo, thay cho quyền lực siêu nhiên. Hay có thể là cả hai mà tự bản
chất của các tôn giáo, hai quyền lực đó không thể dung hợp nhau được. Hoặc có
cái này thì không có cái kia, có loại trừ, không làm tôi hai chúa được. Đó cũng
là lựa chọn đau xót mà mỗi người tu hành bước qua ngưỡng của tôn giáo phải tuân
thủ. Bước đầu của việc tu trì là rũ áo, bỏ đời mà đi trong tấm lòng thanh thản,
không còn nuối tiếc trần thế nữa.
Cho nên, đừng ai nói hay. Tôn giáo mà đi đôi
với thế quyền, cộng thêm tiền bạc thì khó tránh khỏi nguy cơ của sự sa đọa trần
thế. Sa đọa quyền lực, lẫn lộn vai trò lãnh đạo tôn giáo và vai trò lãnh đạo
chính trị. Một thứ chính trị như ban phát ơn, thiếu lành mạnh, thiếu dân chủ chỉ
xảy ra ở VN trong một tình huống khá đặc biệt. Nhìn lại cho thấy đó là một giai
đọan tồi tệ vì một khủng hoảng quyền lực, khủng hoảng uy quyền Quốc Gia. Chúa
Phật chỉ có nước bỏ chùa, bỏ nhà thờ mà đi lang thang.
Hồi ký của Lý Quý Chung khá lý thú kể về người,
về việc, về từng biến cố với tư cách người trong cuộc. Nhất là nêu bật được cái
hay, cái dở, cái yếu của cái cơ chế của sinh hoạt chính trị thời đó.
Tôi cũng nhận ra rằng, trong cuốn Hồi Ký Không
Tên, phần viết về những năm hoạt động báo chí và làm dân biểu, Lý Quí Chung viết
rất thong dong, thoải mái, rạch ròi từng sự việc, từng người, phê phán thẳng
thắn theo cái kiểu "Có sao nói dzâïy". Từng nhà báo, từng tờ báo, từng nhân vật
như ông Thiệu, ông Kỳ. Nêu bật được cá tính, cái hay lẫn cái dở của họ. Về những
hoạt động chính trị của ông với tư cách một dân biểu đối lập, về các đồng sự, về
các cuộc chống đối biểu tình được nhìn từ bên trong với tư cách người trong
cuộc.
Ông không ngại nói hết, kể hết cho thấy vai trò
của ông trong các biến động ấy. Đấy là những trang hồi ký sống động, một thứ sản
phẩm còn nguyên vẹn được bóc trần ra, ít lắm cũng có thêm những chi tiết mà phải
là người trong cuộc mới biết được. Chẳng hạn như cái chương 25, Thời khắc Lịch
sử: Đầu hàng. ông đã tận dụng ngòi bút để nhấn mạnh vai trò nhân chứng của mình,
từng chi tiết nhỏ một. Dù là nhân chứng một vụ việc rất là nhỏ, chẳng đáng nói.
Chẳng hạn chi tiết hướng dẫn một ngườøi lên sân thượng để treo lá cờ Giải phóng,
thay lá cờ Quốc gia.
Chi tiết lá cờ Giải Phóng, nửa xanh nửa đỏ treo
lên ở Dinh Độc Lập khá là quan trọng và mang nhiều ý nghĩa lắm. Ở những ngày sau
30-4. Sàigòn rợp bóng cờ mầu xanh. Phố phường, nhà nhà mầu xanh, mầu đỏ, xe cộ
chạy rần rật trên đường phố phất phới mầu xanh. Trẻ con cầm lá cờ đi phất phới
khắp nơi. Cũng mầu xanh và đỏ. Cũng lá cờ của Mặt trận giải phóng miền Nam. Vậy
mà, chẳng bao lâu sau, trong vài tuần lễ, không kèn không trống.. Những lá cờ
mầu xanh và đỏ đó biến đâu mất.
Phải nói lại, miền Nam có hai lần giải phóng
cờ: 30-4, giải phóng cờ Quốc Gia, cờ mầu vàng ba sọc đỏ. Sau một tháng, giải
phóng cờ một lần nữa. Lá cờ mầu xanh đỏ thay thế bằng lá cờ đỏ sao vàng. Cùng
với sự biến mất lá cờ mầu xanh cũng dần biến mất những nhân vật đã từng nhân
danh chiến đấu dưới nhãn hiệu lá cờ xanh, đỏ đó.
Cũng qua cuốn Hồi Ký, mặc dầu chỉ trong vài
dòng, ông cũng lột mặt nạ một số trí thức theo đuôi, không khỏi có những nhố
nhăng khó tránh khỏi. Ta hãy nghe ông kể: "Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài
phát thanh Sài Gòn trên chiếc xe Jeep của bộ đội. Còn tôi đi theo trên một chiếc
xe jeep khác của các nhà báo Đức. Khi tôi đến đài phát thanh thì hai ông Minh và
Mẫu đã vào bên trong. Tôi vừa bước vào sân thì anh Nguyễn Hữu Thái và một hai
thanh niên khác đứng ở cổng nói với tôi: "Anh về đi, khi nào có bộ phận chính
trị vào sẽ liên lạc lại." Lúc này thật khó biết ai là ai, ai có đủ thẩm quyền
quyết định chuyện này chuyện nọ. Ai cứ bảo là Lý Quí Chung ra đòn không
thâm?
Cũng qua cuốn hồi ký, tôi nhận ra một điều là
trí thức miền Nam như những Lý Quí Chung chủ trương chống Mỹ và chống Thiệu.
Chống Thiệu thì rõ ràng rồi, không có gì để phải nói. Chống Mỹ thì có hai mặt:
Chống đường lối, chính sách của Mỹ chung chung. Nhưng mặt khác lại giao du khá
thân mật với các ký giả, nhà chính trị Mỹ. Và coi những người này như những
người bạn tâm giao, nếu không nói là hãnh diện về những mối liên lạc này. Trong
suốt hồi ký, tác giả đã không quên nhắc đến người này, người kia trong sự trân
trọng và quý mến. Họ như thể nằm trong cái vốn chính trị của tác giả như một
thành quả trong những năm hoạt động chính trị của mình. Chống Mỹ mà vẫn yêu Mỹ,
tin Mỹ, mà vẫn chơi với họ..Chống hời hợt. Không có chỗ nào cho thấy trực diện
chống Mỹ, nếu không nói là để cho Mỹ giật giây.
Nó có một cái gì đấy cho thấy việc chống Mỹ
chưa đủ căn cơ, mức độ. Nhiều lúc tự hỏi, ông đã viết được một bài báo hay một
cái gì đó tương tự trong đường lối chống Mỹ? Chống cái gì? Chống chung chung? Từ
đó dẫn đưa đến những ngờ vực.
Ông để ra hai chương nói về: Những ngày cuối
cùng của Tổng thống Thiệu và cuộc "trốn chạy" của Nguyễn Văn Thiệu. Có những
điều thật sự nó không phải là hồi ký của chính ông kể lại hoặc do nghe được,
chứng kiến. Có nhiều đọan, ông trích dẫn lại hồi ký của Nguyễn Cao Kỳ hoặc trích
dẫn Christian G. Appy trong The Viet Nam war rememberd from all sides hay của
Frank Snepp trong Interval Decent (sách đã được dịch ra tiếng Việt), hay của
Henry Kissinger trong Ending The War, hoăïc của Tiziano Terzani trong Three days
and Three months. Những trích dẫn nhiều như thế làm mất cái đặc sắc của vai trò
nhân chứng của ông.
Nhưng nói chung, nếu nhìn toàn diện những
chương viết về giai đoạn trước 30.4. Cuốn hồi ký của tác giả ít lắm nêu bật được
những điểm quan trọng sau đây:
- Vai trò của trí thức trẻ miền Nam Việt Nam - Bộ mặt thật của sinh hoạt chính trị miền Nam dưới thời đệ nhị Cộng Hoà. - Vai trò chủ động không chối cãi được của người Mỹ trong những yếu tố quyết định số phận miền Nam. - Tính cách con rối của toàn bộ sinh hoạt chính trị ấy.
2. Một Nửa Buồn
Nửa phần bài viết này sẽ được trình bày về
chương: Sau ngày 30.4 và chương phụ lục.
Về chương phụ lục, thật ra phải cám ơn Talawas
về cái chương phụ lục này. Và đối với tôi, đây là chương quan trọng nhất. Tôi
dành phần còn lại của bài để nói về chương này và để thấy rằng có nhiều điều Lý
Quí Chung đã không dám nói thật, nói hết, nói đủ.
Cuộc đời làm báo, làm chính trị của tác giả
chia ra hai giai đoạn. Dứt khoát và rõ rệt. Giai đoạn 13 năm trước 30 tháng Tư
mới đúng là con người Lý Quí Chung. Một thanh niên lý tưởng, hăng say, dám nói,
dám làm, dấn thân, nhập cuộc. Không ai chối cải điều đó. Rất trân trọng. Và gần
30 năm sau ngày 30 tháng Tư, tác giả dù cố gắng cũng không viết nổi, vỏn vẹn
chưa tới 20 chục trang. Với lời thú nhận: Thận trọng lúc này là cần thiết. Đó
không phải là Lý Quí Chung. Đó là ai khác. Đúng như tác giả viết: "Nói cách nào
đó, tôi có hai cuộc đời. Trước và sau năm 1975. Chỉ không quyện vào nhau như tác
giả nghĩ.
Trước hết, hãy nói về những gì Lý Quí Chung
viết về giai đoạn sau ngày 30.4. Nói chung, đó là những lời lẽ khá nhún nhường,
quá bài bản đến không thật như: "Thật là mãn nguyện khi được tham gia Hội nghị
Hiệp thương Thống nhất.. sự kiện đó có một ý nghĩ lớn.. có mặt trong một hội
nghị như thế là một sự thỏa mãn tinh thần cực kỳ lớn.. tôi vô cùng thỏa nguyện
được sống trọn vẹn với nghề này.. và tôi không thể tưởng tượng được ở đó tôi còn
cơ hội gặp lại lần lượt tất cả những nhân vật huyền thoại mà tôi cứ ngỡ rằng đã
thuộc về lịch văn học xa xôi, chỉ tồn tại trong sách vở như Văn Cao, Nguyễn
Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận.. Cái nghèo, cái cực khổ của Hà Nội mà tôi chạm mặt lần
đầu không hề gây sự thất vọng cho tôi, mà trái lại là sự cảm phục. Những ngày
làm báo từ Tin Sáng 75-80 sang Tuổi Trẻ 80-90, tôi vẫn không một ngày nào thiếu
hăng hái hay mất niềm tin.. đồng lương thì chỉ đủ ăn sáng, nhưng cống hiến thì
vẫn hết mình. Vợ con tôi chịu đựng cũng rất giỏi, nhung bán mãi rồi cũng không
còn gì để bán nữa.. ngay chỉ còn cái đàn piano, niềm vui sau cùng của các con
tôi cũng không thể giữ nổi.. để lo cuộc sống hằng ngày, chúng tôi đành phải bán
nó đi. Tại tòa báo vào thời điểm đó, tôi tuyên truyền cho các cuộc cải tạo tư
sản mại bản, công thương nghiệp tư sản, tư doanh.. vậy mà chính nhà ba của ông
bị đóng chốt để cuối cùng ông cụ bị lên huyết áp và đột qụy, cụ gặp đứa con đã
giận dữ nói: "Tao không muốn gặp mày nữa. Gia đình mày đã ra thế này, cha mày đã
ra thế này, mà mày còn viết báo cho Cộng sản. Cha mày từ mày". Còn các em trai
của tôi thì không tin vào người anh trai của mình nữa. Chỉ làm thinh để chuẩn bị
vượt biên. Như vậy, cùng một lúc, tôi" mất" bảy đứa em.
Không phải là một đảng viên Cộng sản nhưng tôi
tin vào những lý tưởng xã hội tốt đẹp cho bất cứ xã hội nào muốn tiến lên công
bằng xã hội và nhân bản hơn. Tôi vẫn giữ niềm tin đó ngay cả sau khi chế độ Cộng
sản ở Liên Xô và Đông Âu bị xụp đổ… nhìn đất nước nối liền từ Nam chí Bắc hiện
nay, đến bây giờ, tôi vẫn tưởng nằm mơ.. Hà Nội bây giờ như một thiếu nữ đẹp,
duyên dáng và tràn đầy sức sống. Và Sài Gòn mạnh mẽ hơn nhiều và tự tin hơn
nhiều trong cuộc hành trình mới, bởi sự tồn tại của thành phố này không còn nhờ
vào sự "tiếp máu" của người khác.
Đọc những dòng chữ trên của ông, tôi cũng tưởng
mình đang nằm mơ tự hỏi có phải đó là Lý Quí Chung hay không? Dù sao, cũng rất
may, ở vào thời điểm đó, các trí thức miền Nam gặp được một người như ông Võ Văn
Kiệt. Ông là cái dù che chắn cho trí thức miền Nam khỏi phải bị dập vùi thê
thảm.. Không có ông, số phận nhiều trí thức trẻ miền Nam đã không được như ngày
nay. Họ sẽ phải đi học tập, tệ nữa bị kiểm soát, canh chừng hoặc tù đầy, bắt
cóc, hành hạ, tra hỏi, trục xuất khỏi nhà..
Vì thế, không thể không nhắc tới tấm lòng ưu ái
của ông Võ Văn Kiệt đối với trí thức miền Nam.
Về tờ Tin Sáng. Đây là một niềm hãnh diện của ông và một số bạn bè của ông. "Le Tin Sáng est le seul journal non communisme dans une société communiste. (Tờ Tin Sáng là tờ báo duy nhất không Cộng sản trong một xã hôi Cộng sản). Từ đó ông hết lời tán dương: "Comme la plupart de mes amis ici, J'ai vécu l'experience des deux régimes de presse. Tu connais le mot de Đuc, notre directeur: auparavent, nous étions des bucherons, aujourd'hui, des menuisiers. Le comportement est radicalement différenr. C'est dans la construction que nous nous sommes lancés. Aujourd'hui, je me sens beaucoup plus utile pour la société Vietnamienne, pour mon peuple, plus lié à la vie de la nation, plus responsable, oui, c'est le mot. (cùng sách vừa trích dẫn). Câu nói trên cho thấy ông phủ nhận toàn bộ gia tài làm báo, làm chính trị dưới thời Đệ nhất Cộng hoà của chính ông. Ông còn cho rằng trước đây cùng lắm ông làm thợ bửa củi. Đi biểu tình, tranh đấu trước diễn đàn Quốc hội, họp báo, tiếp xúc, diễn thuyết, phân phát truyền đơn, chống luật báo chí, chống tham nhũng, chống đối bầu cử độc diễn, chống độc tài, chống dân biểu gia nô, nghị gật, chống Nguyễn Văn Thiệu, chống Mỹ, nằm trong lực lượng thứ ba đòi hỏi chấm dứt chiến tranh. Tất cả công việc vừa nêu trên chỉ là đáng được coi là công việc bửa củi thôi sao? Bẽ bàng thế? Có thể phủ nhận chính mình, tự hạ thành con dun, con dế? Ai dãõ đẩy ông vào tư thế phải nói như vậy? Bây giờ làm thợ nề, thợ nề để tán tụng, để cúi đầu, để vâng phục. Thử hỏi ông đã làm được gì trong suốt 30 năm làm thợ nề? Kể là đau xót. Ai đó đã bắt ông phải hạ mình nói như thế ?
Viết như thế, tôi không hề có ý chê trách ông,
vì một lẽ dễ hiểu, ông đang sống trong một xã hội toàn trị, với khủng bố và đe
dọa tinh thần. Đúng như ông vẫn nói: Cái ung thư bướu là người của chế độ cũ
luôn luôn vẫn còn đó, ám ảnh và gây phiền hà cho ông. Chả lúc nào, ông được
yên.
Cho đến năm, 1980, lúc mà tờ báo sắp đóng cửa
theo 3 cái nguyên tắc đề ra ở thời kỳ đó: để cho làm, phạm sai lầm thì đóng cửa.
Dùng cho đến khi nào thấy không cần thiết thì vứt kiểu vắt chanh bỏ vỏ. Ba tạo
một tương quan tin tưởng tốt vào nhau.
Rõ ràng việc đóng cửa là dựa vào nguyên tắc thứ
hai. Đã không có quý ông nào dám lên tiếng. Trong khi đó, tôi đọc được như sau:
"Cinq années se sont passés. Le Tin Sáng de Ngô Công Đức et de ses amis parait
toujours. Le test est il positif?" (Trích dẫn như trên) Hỏi là trả lời. Cái test
cho thấy một thất bại ê chề của trí thức cũ làm việc dưới chế độ mới. Chả nhẽ
nói bị lừa, bị bội phản. Dù sao, 5 năm cũng là thời gian khá dài so với tờ Đứng
Dâïy của Nguyễn Ngọc Lan. Số phận nó chỉ thoi thóp chưa tới một năm. Sau 5 năm.
Tất cả trí thức cũ chỉ còn là những quả chanh chắt đã vắt vỏ. Quả chanh Ngô Công
Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Tấn Mẫm (sau Huỳnh Tấn Mẫm bị quản chế cùng với những
người như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, vì cái tội dã tiếp xúc với báo chí ngoại quốc,
hay phê bình và đòi hỏi cải tổ nhanh guồng máy kinh tế và chính trị. Những vụ
quản chế này không được loan báo công khai và nơi quản chế cũng vậy). Quả cóc
Nguyễn Hữu Thái. Quả bưởi Nguyễn Ngọc Loan, Chân Tín. Quả đu đủ Lý Chánh Trung.
Quả dừa Huỳnh Công Minh, Trương Đình Hoè, Phan Khắc Từ. Quả ổi Dương Văn
Ba.
Các ông chẵng còn gì để vắt nữa. Rồi cuối cùng
phải nhìn nhận như Ngô Công Đức thôi: "Nous avons surmontés les difficultés,
mais non sang certains dégats. Quelque-uns, parmi nous, sont partis à mi chemin,
d'autres ont vacillé". Và đây cũng là yếu tố góp thành sự đóng cửa tờ Tin Sáng,
vì có nhiều người trong đám trí thức thành phần thứ ba thất vọng, chao đảo hay
bỏ ra đi.
Nhưng vì lý do gì nó phải ngừng bản và chuyển
một số bộ phận sang tờ Tuổi Trẻ. Ông đã cố dấu kín. Ông đã viết một cách úp mở
như sau: "Với các anh em trong Tin Sáng cũng có nhiều quan điểm, thái độ khác
nhau đối với hướng đi và cách quản lý tờ báo". Oâng buộc lòng không dám nói
thẳng ra là có sự bất đồng quan điểm về hướng đi tờ báo kể từ khi có biến cố
Đông Aâu cũng nhu sự xụp đổ bức tường Bá Linh.
Về lá thư Lettre aux amis
d'occident.
Trong lá thư này, có hai điểm gửi cho giới trí thức Âu châu mà tôi không đồng ý: Đó là việc học tập cải tạo và vấn đề thuyền nhân. Về các trại học tập: Trong lá thư mà không biết ai là người thảo lá thư đó, một số trí thức miền Nam đã phủ nhận đó không phải là nhà tù, không phải trại tập trung thì nó là gì? Là trung tâm cải tạo? Người đi tù cải tạo không phải người tù chính trị, cũng không phải kẻ bị khổ sai (Forcats). Đó chỉ là những lý lẽ tiểu xảo chơi chữ, trốn tránh và biện hộ cho chế độ. Các ông đã che đậy cho những chính sách của Hànội. Thực tế họ là những người tù khổ sai, không có ngày về. Nhiều người đã chết vì bệnh tật, đói ăn ở đó? Các ông biết rất rõ. Vậy mà vẫn phải nhắm mắt bênh vực chế độ.
Về người di tản: Cũng lá thư đó đã đổ lỗi cho
chế độ cũ, đổ cho sự tuyên truyền của Mỹ, đổ cho chính sách người Hoa của Trung
Quốc. "En fin, comme il a été dit plus haut, ce sont les dirigeants de Pékin qui
ont provoqué l'exode massif des résidents Chinois pour pouvoir nous accuser
ensuite de 'terroriser et de chasser les Hoa', justifie ainsi leur polique
inamicale (cessation de L!aide économique) puis ouvertement agressive à l'égard
du Viet Nam". (sách trích dẫn ở trên)
Đây là một biện hộ không chấp nhận
được. Tất cả những người Việt Nam vượt biển (chánh thức và bán chánh thức) thì
đều biết rõ là phải đóng tiền cho chính quyền địa phương để được phép rời Việt
Nam.
Một số tên tuổi trí thức miền Nam đã ký trong
danh sách này. Thật khá thất vọng.
Nhưng nói cho cùng thì những trí thức miền Nam
ở lại, theo chế độ mới làm gì được? Kết án họ ư? Kết án thì cũng dễ, nhất là
ngồi ở ngoại quốc mà chửi vọng về. Phải là người trong cuộc, phải sống dưới chế
đó toàn trị đó. Nào ai có thể nói hay được.
Nhà văn Nguyễn Tuân, nổi tiếng ngang bướng cao
ngạo, sau mấy chục năm sống nín thở qua sông, vào đến miền Nam đã phát ra một
câu nói để đời. Phải nhịn mấy chục năm nay mới dám nói : « Tao còn sống đến ngày
nay là nhờ biết SỢ. » Nói xong chiêu một ngụm rượu, ngửa mặt, vuốt râu, nhìn lên
trời cười ha hả.
Phải chăng các trí thức miền Nam cũng đã học
qua bài học triết lý biết sợ đó?
Nghĩ như thế mà thương cho họ, thương cho mình, thương cho dân tộc mình . Và hiểu cho Nguyễn Tuân, hiểu cho trí thức miền Nam. Phải biết sợ, mới sống được.
Còn lại phần bài viết sau đây sẽ được trình bày
về Chương Phụ Lục. Thật ra phải cám ơn Talawas về cái Chương phụ lục này.
Và đối với tôi, đây là chương quan trọng nhất.
Tôi dành phần còn lại để chỉ nói về chương này
và để thấy rằng có nhiều điều Lý Quí Chung đã không nói thật, nói hết, nói đủ
chỉ vì nó.
Về 13 trang phụ lục:
Đây là 13 trang bị cắt ra khỏi bản thảo. Chẳng
khác khối ung thư của Lý Quí Chung được Đảng Cộng sản cắt dùm. Nó nói lên nhiều
điều lắm. Ta muốn biết sự thật thì phải tìm đọc từng dòng của những điều bị cắt
bỏ, những điều non-dits. Chỉ cần đọc13 trang này, ta mới hiểu thấu được chế độ
và thương xót cho những người như Lý Quí Chung.
Trước hết:
- Chương về: phần lời giới thiệu của nhà xuất đã bị sửa, bị cắt kể như toàn bộ. Trong đó có đoạn sau đây khá ý nghĩa đã bị cắt:
"Ngày toàn thắng của năm 1975, với chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử: thần tốc-táo bạo-bất ngờ-chắc thắng, qua 55 ngày đêm chiến
đấu (từ 9.3 đến 30.4.1975), quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn
quân đội ngụy, đập tan bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ… Là hồi ký cá
nhân, không phải một biên niên xử, tất nhiên, nên không tránh khỏi cách nhìn,
cách phân tích chủ quan..
Trong phần mở đầu cuốn sách, cho thấy họ vẫn
huyênh hoang đến nhàm chán, không biết ngượng. Vẫn giọng điệu mạ lỵ miền Nam
Việt Nam. Rồi cũng bài bản chê nhẹ tác giả không khỏi cách nhìn chủ quan. Cũng
vì phần giới thiệu quá huyênh hoang trống rỗng, họ đã viết lại cho chừng mực
hơn.
Bản lời giới thiệu mới bớt huyênh hoang, nhưng
vẫn cái bệnh phải dạy đời một tý: "Hồi ký là một góc nhìn…, đánh giá mang tính
chủ quan cũng là điều có thế chấp nhận. Xét cho cùng cũng là việc mà người đọc
nên "rộng rãi" khi đọc.
Phần lời giới thiệu của Trần Bạch Đằng bị cắt
bỏ vì nói sai: Cách mạng Việt Nam đa dạng. Góp phần vào bức tranh đa dạng ấy
những đường nét riêng.. Làm gì có đa dạng được, chỉ có một đường lối cách mạng
thôi, vì thế, cũng cắt kiểm duyệt phần nói về các hồi ký của Dương Văn Ba, Hồ
Ngọc Nhuận.
Chương 14 đã bị cắt khá nhiều, khá dài về việc trích dẫn hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận và bà Ngô Bá Thành. Vấn đề tìm hiểu xem các nhân vật đó có còn có trong mắt đảng hay không?
Chương 17. Ông Lý Quí Chung nhắc tới thành
phần thứ ba, hay lực lượng thứ ba. Thế là phạm giới, phạm quy rồi.. Đối với nhà
nước Cộng sản, chỉ có lực lượng của phong trào đô thị là lực lượng nòng cốt
trong sự sụp đổ của nền Đệ nhị Cộng hòa. Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng mắc phải
sai lầm này khi đề cao và đánh giá lực lượng thứ ba trong vai trò dứt điểm miền
Nam. Ông Nguyễn Khoa Điềm đã kiểm duyệt và cắt bỏ những lời tuyên bố của cựu Thủ
tướng Võ Văn Kiệt. Đề cao vai trò của thành phần thứ ba là đặt lại vai trò của
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trong công cuộc chấm dứt chiến tranh ngaỳ
30.4.
Chương 19. Sang đến chương 19, Ông Lý Quí
Chung lại vướng mắc vào cái bướu ung thư thành phần thứ ba, mà đảng muốn cắt bỏ.
Khi ông viết: "Từ 1973, đâu đâu cũng thấy những cá nhân tự xưng mình là thành
phần thứ ba. Với Hiệïp định Paris, tình hình miền Nam mở ra nhiều khả năng khác
nhau. Khi ấy, tôi nghĩ, lạc quan nhất lúc này là giải pháp một chính phủ hòa
giải, hoà hợp gồm ba thành phần. Nhưng không ai mường tượng cái chính phủ vận
hành thế nào.. còn thành phần thứ ba thì không biết sẽ lựa chọn như thế
nào"
Ông vẫn còn ngây thơ quá, chưa nắm được ý đồ
của đảng muốn gì. Thành phần thứ ba là một quả chanh đã vắt vỏ, đã vắt kiệt..
Riêng các ông trong tờ Tin Sáng thì được vắt thêm 5 năm nữa. Đã quá đủ, quá
nhiều. Đóng cửa tờ Tin Sáng là phải. Đã đến giờ rồi.
Chương: Phần sau ngày 30.4.1975.
Cái hớ hênh của một Lý Quí Chung sau 30 năm
sống dưới chế độ mới vẫn chưa đủ. Thận trong, gạn lọc, ngó trước dòm sau mới
viết mà vẫn có kẽ hở. Ông vẫn muốn nhắc đến ngày Đại hội Hiệp thương Thống nhất.
Đây cũng là điều đảng không muốn nói tới nữa. Có hội nghị hay không thì Việt Nam
cũng đã thống nhất rồi. Muốn thống nhất thì phải xoá tan những chiêu bài trước
đó đã đặt ra như Mặt trận Giải Phóng Miền Nam v.v.. Thật là không có gì là khó
hiểu.
Đảng cũng kiểm duyệt những tình cảm sau giải
phóng trong gia đình ông như: "Những chuyện trong gia đình tôi đã biến cha tôi
từ một người hồ hởi đón nhận chào cách mạng, biến thành một người ác cảm với
Cộng sản."
Một đoạn văn như thế thì cắt là phải rồi. Còn
kêu ca nỗi gì nữa.
Phần gia đình thân yêu.
Trong phần này nhẽ ra không cần đọc, vì có gì
đụng chạm đến chính trị. Nhưng dù thế, nó cũng bị cắt đi ngót nghét một trang.
Trong đó có một câu vài chữ không đáng gì. Nhưng nếu suy ra thì viết một cuốn
sách cũng không đủ. "Các em tôi đều thành đạt tại Mỹ Canada.." Thế là cả đoạn
văn sau đành cắt hết, đục bỏ hết chỉ vì cái chữ thành đạt. Nói thành đạt là nói
ngược lại Nhà nước Việt Nam thất bại. Cẩn thận lắm mới được. Viết thật cẩn
thận.
Ngòi bút của Lý Quý Chung có lệch cũng chỉ vì
13 trang cắt bỏ này. Điều mà Lý Quý Chung không dám nói, điều mà Lý Quý Chung bị
cắt trong 13 trang một cách không ngờ trở thành lời tố cáo chế độ ngoài cả ý
muốn của người viết cuốn hồi ký. Không ngờ đến cuối đời, cuốn Hồi Ký không tên
trở thành một chúc thư gửi lại cho đời mà tôi xin được phép đổi lại tên cuốn Hồi
ký không tên: NHẬT KÝ CỦA IM LẶNG, vì im lặng cũng là một cách nói.
NGUYỄN VĂN LỤC |
Tuesday, April 10, 2012
NGUYỄN VĂN LỤC * Nhật ký của im lặng
Sunday, April 8, 2012
phan bá thụy dương * trên nỗi tình người 2
Tạ từ em
với sương mai
Anh lên tay súng cất lời hô quân
Tàu đi sông nước chập chùng
Nẻo quan san đó gian truân đã chờ
Trước sau cờ rợp bóng cờ
Ngoài kia chiều ráng nắng mờ hắt hiu
Em về mây gió trôi theo
Nhớ nhau ?
thôi cũng chắt chiu kiếp này
Bên anh đạn réo tên bay
Trăm binh đao với tháng ngày bỏ quên
Quê mình còn đó không em
Cho anh ấp ủ trái tim ngọt ngào
Anh lên tay súng cất lời hô quân
Tàu đi sông nước chập chùng
Nẻo quan san đó gian truân đã chờ
Trước sau cờ rợp bóng cờ
Ngoài kia chiều ráng nắng mờ hắt hiu
Em về mây gió trôi theo
Nhớ nhau ?
thôi cũng chắt chiu kiếp này
Bên anh đạn réo tên bay
Trăm binh đao với tháng ngày bỏ quên
Quê mình còn đó không em
Cho anh ấp ủ trái tim ngọt ngào
* ngày về giải tỏa Mỹ Tho - Tết 68
[tựa cũ trong tuyển tập Đầu Gió do Hội VNSQĐ/TC.CTCT ấn hành:
Khi Anh Rời Gò Công Về Khu Chiến]
Trần Vấn Lệ * Tháng Tư Mà Có Thêm Ngày Nữa Cũng Lỡ Hết Rồi Chuyện Nước Non
B a mươi sáu năm…nhớ lại: Một Ngày Buồn Thật Buồn. Ban Mê Thuột thành Buôn…Sài Gòn mang tên mới, cái tên ai cũng hỏi “Hồ Chí Minh Là Gì?”.
Cái gì cũng qua đi, Ba Mươi Tháng Tư không vậy! Nó vẫn: Dòng Máu Chảy, vẫn Dòng Nước Mắt Sa! Ôi Việt Nam xót xa, sau một thời chiến trận, đất không nở ra hoa, người không hòa không hợp, nhìn nhau hai mắt chớp, trời đất mờ biển dâu!
Ôi Tháng Tư! Tháng Tư! Tháng dương lịch nên thiếu, thiếu gì ai cũng hiểu: Một Sự Đền Bù Vui! Tổng Thống từ chức rồi. Thủ Tướng rời bỏ phủ. Dân bỗng thành Lê Thứ. Niềm vui: miếng-mồi-nhử từ người Phía Bên Kia!
Niềm Vui không ai chia…khi người ta có nó! Điều đó khi hiểu rõ thì chỉ còn buồn thôi! Ba Mươi Tháng Tư ơi! Ba Mươi Tháng Tư khóc! Cái gì còn cũng mất, cái gì mất không còn! Chút ước mơ mõi mòn: Tháng Tư thêm ngày nữa! Ôi ngày không-thể-có trên tờ Lịch Tháng Tư!
Ba mươi sáu năm…xưa vẫn sờ sờ trước mặt một Việt Nam Nam Bắc, một đoạn trường lê thê! Bao người đi có về…rũ bà con đi tiếp, biết là đi khốn kiếp mà cứ đi cứ đi! Khúc hoan ca mê ly đen ngòm kênh Nhiêu Lộc. Tự Do và Hạnh Phúc cứ mãi là chiêu bài! Sân khấu đời diễn hài kéo dài đời điên đảo!
Ai thật tình, ai xạo, ba-mươi-tháng-tư-bảy-lăm đã thấy rất rõ ràng! Phân biệt được Đá / Vàng, đờì chuyện gì cũng muộn! Ngay cả niềm ước muốn tháng Tư thêm Một Ngày! Một ngày…thêm Lưu Đày? Một ngày…cầu Hạnh Phúc? Bốn ngàn năm vinh - nhục…Bốn ngàn năm khói-sương!
Cảnh người Mẹ ôm con, đứa con không còn thở. Cảnh người Lính nức nỡ bên đồng đội máu me. Cảnh mặt lộ ngập xe, những chiếc xe bể bánh…Trời tháng Tư không lạnh mà đất đá cũng run, mà mở miệng không cùng, lời hỏi thăm tắt nghẹn! Tháng Tư ngày cuối tháng, như thế đó! Ba Mươi!
Tháng Tư ơi! Tháng Tư ơi!
Một ngày mong đợi đâu rồi? Gió bay?Phải chi Lịch nối thêm ngày
Thì đâu có cảnh đọa đày Bắc
Trần Vấn Lệ
Saturday, April 7, 2012
Vương Tân * TẠP CHÍ SÁNG TẠO
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp
định Genève ký kết giữa chánh phủ Cộng Hòa Pháp do
thủ tướng Mandès France và ngọai trưởng nươc Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng đã chia đôi đất
nước VN. Chánh phủ Quốc Gia Việt Nam do thủ tướng Ngô
đinh Diệm đứng đầu đã phản đối việc chia cắt
đất nươc đã không ký hiệp định Genève khiến
cho Việt Nam trở thành hai nước , một nước VN thủ đô
là Hà nội và nước Việt Nam thủ đô là Saigon. Thời
gian này tôi làm chủ bút văn nghệ tuần báo Quê Hương
của ông Bùi Đức Thịnh một nhân vật thân tín của
chánh khách Ngô Đình Diệm, khi chánh khách Ngô đình Diệm
làm thủ tuớng chánh phủ quốc gia Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của quốc trưởng Bảo Đai thì ông Thịnh đã
quyết định tham chánh ngừng xuất bản tuần báo Quê
Hương [xem chương hồi ký VT viết về giai đọan làm chủ
bút văn nghệ tuần báo Quê Hương]. Cùng với việc làm
báo thời gan này tôi còn đi học luật tại trường đai
học luật Đông Dương ở Hà nội, hiệp đinh Genève ra đời
trường này quyết định rời Hà nội vào Saigon, tôi đã
theo trường vào Saigon. Vào Saigon tôi ở trong lều bạt
của đòan sinh viên Hà nội và đi viết báo kiếm sống. Tại
Saigon tôi gặp Buttinger -một người Mỹ- là chuyên gia
nghiên cứu lịch sử VN, nói thạo tiếng Pháp mà tôi quen
biết từ hồi còn ở ngòai Hà nội . Buttinger hỏi tôi vẫn
còn viết báo chứ, tôi cho Buttinger biết tôi hiện là một
nhà báo tự do viết báo ăn tiền bài theo đơn đạt hàng
của một vài tờ tạp chí , Buttinger cho tôi biết tổ chức
phi chánh phủ của người Mỹ đó là tổ chức
IRC [International Recue Committee] mà ông là đai diện ở VN
vừa nhận lời giúp đỡ một nhóm văn nghệ sĩ di cư mà
trong đó có một người thân với tôi là Như Phong Lê Văn
Tiến xuất bản một tờ nhật báo bằng Việt ngữ
giương cao ngọn cờ báo chí tự do vậy Buttinger muốn tôi tham
gia tờ báo này. Tôi nói với Buttinger hiện Như Phong Lê
Văn Tiến là thư ký riêng của bộ trưởng thông tin Bùi
kiến Tín và tôi là người 'kỵ' giao thiệp với các
quan chức nhà nước nên từ khi vô Saigon tôi không còn
liên lạc với Tiến. Buttinger xin địa chỉ của tôi và
nói với tôi Tiến sẽ đến kiếm tôi
Tối hôm đó lúc tôi vừa về
tới lều bạt nơi tôi ngủ đêm đã thấy Như Phong Lê
Văn Tiến ngồi ngòai cửa lều chờ tôi. Thấy tôi về
Tiến nói ngay ông Buttinger bảo với mình phải mời cậu
tham gia tờ Tự Do cậu nhận lời chứ. Với tôi Như Phong
Lê Văn Tiến không phải chỗ xa lạ. Tiến là em kết nghĩa
của nhà văn Hòang Đạo Nguyễn Tường Long, đươc nhà văn
Hòang Đao không những bồi dưỡng cho nghề văn ,nghề báo
mà còn giới thiệu với bạn văn người Nhật là ông
Komasu một nhà văn Nhật bản có tiểu thuyết được dịch
ra tiếng Pháp, từng đươc nhà thơ Nguyễn Giang con trai nhà
văn Nguyễn Văn Vĩnh, anh nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp chuyển
ra tiếng Việt. Như Phong Lê vănTiên đươc nhà văn Komasu
- người mà giới trí thưc ở Hà nội đồn rằng ông ta
là một đảng viên Đảng Hắc Long thuộc lọai vai vế ở
Hà nội dạy không những nghề văn còn nghề tình báo
nữa. Như Phong Lê Văn Tiến không chỉ là em kết nghĩa của
nhà văn Hòang Đao mà còn là thư ký riêng của nhà văn
này.Năm 1945 chính nhà văn Hòang ĐạoNguyễn Tường Long
đã giới thiệu với bác sĩ Luyện chủ nhiệm báo Tin Mới
để bác sĩ Luyện dùng Như Phong Lê Văn Tiến làm phóng
viên chánh trị của báo Tin Mới. Khi bác sĩ Nguyễn Tiến
Hỷ khai sinh ra trường Lục quân Yên Bái của Quốc dân
quân nhà văn Hòang Đạo đã gửi Như Phong Lê Văn Tiến
đi học trường Lục quân Yên Bái. Như Phong Lê Văn Tiến
sau này nổi tiếng là nhà báo ngươi Việt trong làng báo
tiếng Anh là người thông thạo nhất về nội tình Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Như Phong Lê Văn Tiến không chỉ là
nhà báo có hạng mà còn là nhà văn kiệt xuất với bút
hịệu Lý Thắng Như Phong Lê Văn Tiến đã viết cuốn
trường giang tiểu thuyết Khói Sóng đăng trên nhật báo
Tự Do nhiều năm. cuốn tiểu thuyêt trường giang Khói Sóng
này được giới thưởng ngọan văn chương nhận định là một
trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc của văn chương
Việt Nam hậu bán thế kỷ hai mươi
Sau khi nhà văn Hòang Đạo đột tử
ở Qủang Châu [Trung Quốc] thì Như Phong Lê Văn Tiến về ở
hẳn với gia đình nhà văn Hòang Đạo và được đưa vào
Nha Thông Tin Bắc Việt làm biên tập viên. Tiến thân với
nhà văn Măc Thu Lưu Đức Sinh, kich tác gia Vũ Khắc Khoan và
nhà văn Chu Tử Chu Văn Bình. Do đó khi kịch tác gia Vũ
Khắc Khoan làm chánh văn phòng cho tổng trưởng bộ thông
tin là bác sĩ Bùi Kiến Tín họ Vũ đã đưa Như Phong Lê Văn Tiến
làm thư ký riêng cho tổng trưởng Bùi Kiến Tín. Như Phong
Lê Văn Tiến làm tình báo làm chánh trị và từng là cố vấn chuyên môn cho bác sĩ
Trần Kim Tuyến ông trùm tình báo của chế độ Ngô Đình
Diệm, làm chánh trị Như Phong Lê Văn Tiến từng là ủy
viên Ủy ban hành pháp trung ương [tương đương bộ
trưởng] và là người vẽ sơ đồ tổ chức cho mấy tay
tướng trẻ nắm chánh quyền [giữa năm 1976 thế kỷ hai
mưoi khi cùng ở chung phòng giam ký hiệu B với tôi tại
trại giam sở công an TPHCM nơi mà thiên hạ lúc đó
gọi 'khách sạn cây mít' Như Phong Lê Văn Tiến trả lời
câu hỏi của tôi về chuyện thiên hạ nhiều lời về
mối quan hệ giữa cậu em kết nghĩa của chồng và bà
chị dâu vừa góa chồng ở chung nhà với nhau. Như Phong Lê Văn Tiến cười sòa rồi nói rằng Như Phong
Lê Văn Tiến nghe rác tai những lời đàm tiếu của thiên
hạ về mối quan hệ giữa Tiến và chị Long nhưng thiên
hạ quên một điều quan trọng là Tiến ở nhà anh chị
Long từ khi Tiến chưa đầy hai mươi tuổi và lúc anh Long
lưu vong đã ký thác vợ con cho Tiến chăm sóc thời gian
này chị Long đã cẩn thận đón mẹ đến ở cùng. Tiến
công nhận chị Long là người đẹp vào lọai 'quốc sắc
thiên hương ' và Tiến rất là' thần tương' chị Long có
lẽ vì vậy mà tới khi chị qua đời Tiến vẫn chưa lập
gia đình. Đời Tiến có hai mối hận là không kiếm đươc
người bằng nửa thần tượng để cưới làm vợ nhưng
vì Tiến đối xử với các con anh Long như con Tiến nên
họ lúc nào cũng coi Tiến như cha nuôi, dù gọi Tiến là
chú, nỗi ân hận thứ hai là lập kế họach và dựng mô
hình đưa đám tướng trẻ lên cầm quyền đám này làm
ăn quá tệ đến nỗi phe quốc gia tan đàn xẻ nghé như
ngày nay
Theo nhà văn Tạ Quang Khôi thì
cuối đời Tiến làm cố vấn cho đài Á Châu Tự Do và
viết báo Wallstreet nhưng dành nhiều thời gian sang Paris
tìm đọc tiểu thuyết Khói Sóng trong thư viện Pháp để
sửa chữa và viết tiếp . Tiến đã hòan thành trường
giang tiểu thuyết Khói Sóng trươc khi qua đời
Tôi nhận lời Như Phong Lê Văn
Tiến về tòa sọan báo Tự Do làm phóng viên chánh trị
nhưng nói với Tiến rằng tôi là anh viết văn làm thơ
tôi không muốn rời anh em sinh viên Hà nội lúc đó đang
làm tờ nguyệt san Lửa Việt. Nhóm sinh viên này không xa
lạ gì với Như Phong Lê văn Tiến đó là những sinh viên
như luât sư Trần Thanh Hiệp sinh viên cao học luât, nhà
giáo Nguyễn Sỹ Tế sinh viên cao học luật, nhà giáo Dõan
Quốc Sỹ con rể nhà thơ Tú Mỡ sinh viên văn khoa, nhà
giáo Thanh Tâm Tuyền sinh viên luât, nhà giáo Lữ Hồ sinh
viên Cao Đẳng sư phạm.
Nhóm Trần Thanh Hiệp Thanh Tâm
Tuyền lúc đó cộng tác với Vũ Ngọc Các làm tờ nhật
báo Hòa Bình. Trần Thanh Hiệp phụ trách phần chánh trị
coi như chủ bút, Thanh Tâm Tuyền coi mảng văn nghệ coi như
chủ trương trang văn nghệ cuối tuần. Một bữa Thanh
TâmTuyền nhận đươc thư độc giả gửi một truyện
ngắn tựa đề Đêm gĩa từ Hà nội ký tên tác giả là
Mai Thảo một tên lạ hoắc Tuyền định xếp xó nhưng
đọc qua dòng đầu tiên của truyện ngắn thì sửng sốt
văn hay quá cứ như thơ vậy. Tuyền đọc xong truyện ngắn
thấy phía dưới đề đia chỉ liên lạc với tác giả
là Nguyễn Đăng Qúy bèn gọi điện thọai cho Nguyễn Sỹ
Tế chủ bút nguyệt san Lửa Viêt báo tin mình vừa khám
phá ra một thiên tài và yêu cầu Nguyễn Sỹ Tế xếp chỗ
cho truyện ngắn Đêm Gĩa Từ Hà nội trên Lửa Viêt số
sắp ra
Sự ra đời của nhà văn Mai Thảo
và tác phẩm Đêm Gĩa Từ Hà Nội là như thế đó
Sau đó tôi gặp Nguyễn Đăng Qúy
tôi mới biêt Qúy là em Nguyễn Đăng Viên và trưóc khi
Qúy là nhà văn Mai Thảo , Qúy làm thơ ký bút hiệu Nhị
Qúy là dân Thổ Khối, một xã trong làng Bát Tràng anh em
họ với nhà văn hóa Nguyễn Đăng Thục em ruột Nguyễn
Đăng Viên mà Viên thì lại chẳng xa lạ gì với tôi . Viên
là đệ tử nhà văn Chu Tử. Viên học giỏi và là bạn cùng học
với một tên tướng Pháp khi tên này làm tư lệnh quân
đội Pháp ở Bắc Việt. Viên đã được tên này đề bạt
môt lúc làm tỉnh trưởng ba tỉnh Hưng Yên Thái Bình Ninh
Bình. Viên từng đươc cố Đảng trưởng đảng Đai Việt
Trương Tử Anh kết nạp Đảng cùng thời với bác sĩ
Đặng Văn Sung, cố đảng trưởng Trương Tử Anh rất tin
tưởng Viên. Nguyễn Đăng Viên có tài nhưng phải tật tếu
táo thích đùa rỡn. Viên từng dùng trung úy Nguyễn văn
Thiệu làm sĩ quan hầu cận. Khi ông Thiệu làm Tổng Thống
có mời Viên tham chánh. Viên đã từ chối với lý do làm
giám đốc khách sạn Palace của Pháp ở đường Nguyễn
Huệ luơng to hơn lương bộ trưởng. Có lẽ vì cái tính
tếu táo mà có lúc Viên đã bị thủ tướng Ngô Đình Dịệm
nhốt vào khám Chí Hòa. Lúc Nguyễn Đăng Qúy đăng quang
cái tên nhà văn Mai Thảo thì Nguyễn Đăng Viên cùng với
nhà văn Chu Tử mở trường trung học tư thục Thăng Long
ở số 207 Bùi Viện.
Sau ngày 30 tháng tư Nguyễn Đăng
Viên bị tù cải tạo tại trại Xuyên Mộc hút thuốc lào
sòng sọc xuốt ngày, ra tù Viên vươt biển đăm tầu sác
chôn bụng cá Thái Bình Dương [muốn biết thêm về Nguyễn
Đăng Viên đọc hồi ký Vương Tân chương Nguyễn Đăng
Viên]
Khi cái tên Mai Thảo đươc Thanh
Tâm Tuyền 'đánh bóng' thì Nguyễn Đăng Qúy nghĩ ngay tới
chuỵện kinh doanh gom các truyện ngắn đã viết lại
thành một tập lấy tên là tập truyện ngắn Đêm Gĩa Từ
Hà nội in thành sách đem bán. Thời đó lọai truyện như
Đêm Gỉa Từ Hà nội phát hành tác gỉa muốn có lời
chỉ có hai nơi tiêu thụ ngon lành là Bộ Thông Tin và
Phòng Thông Tin Hoa Kỳ. Bộ Thông Tin thì Nguyễn Đăng Qúy
nhờ sư quen biết của Nguyễn Đăng Viên nên bộ này đã
nhận lời mua một nghìn cuốn. Phòng Thông Tin Hoa Kỳ qua
Viên Qúy gặp Từ Ngọc Bích phó phòng Thông Tin Hoa Kỳ
nơi này không những chịu mua cho Mai Thao tới hai nghìn
cuốn Đêm Gĩa Từ Hà nội mà Bích còn giới thiệu với
Mai Thảo một ngươi Mỹ gốc Ý tên Tucker lúc đó là
trưởng phòng Thông Tin Hoa Kỳ tại Saigon nói thạo tiếng
Pháp. Gặp Mai Thảo Tucker gợi ý Mai Thao nên xuất bản
một tạp chí văn chương ra hàng tháng với điều kiện
tạp chí này cổ võ cho xu hướng văn chương hiện đại
và văn chương tự do. Phòng Thông Tin Hoa Kỳ có thể yểm
trợ Mai Thảo bằng cách mua cho mỗi kỳ hai ngàn số để
Mai Thảo không bị lỗ vốn có thu nhập đủ chi phí cho
tòa sọan và trả tiền nhuận bút. Mai Thảo đã nhận lời
đề nghị của Tucker. Trong khi đó Đòan Sinh Viên Hà nội
hết nhiệm vụ lịch sử tờ Lửa Viêt ngưng xuất bản,
nhóm Lửa Việt xuất bản tờ Người Việt đưa nhà văn
Dõan Quốc Sỹ làm chủ nhiệm nhà văn Nguyễn Sỉ Tế làm
chũ bút
Khi Lửa Việt đổi thành Người
Việt, họa sĩ Lữ Hồ tốt nghiệp trường Cao Đẳng sư
phạm Saigon về Huế lấy vợ rời cây cọ, thành ra Người
Việt không có họa sĩ trình bầy, tôi đã giới thiệu cho
Người Việt họa sĩ Duy Thanh một họa sĩ nổi tiếng từ
Hànội là truyền nhân của họa sĩ Nguyễn Tiến Chung để
minh họa và trình bầy Người Việt [muốn biết thêm về
họa sĩ Duy Thanh đọc hồi ký Vương Tân chương viêt về
họa sĩ Duy Thanh]
Tuần báo Ngươi Việt ra ít số
thì Nguyên Sa Trần Bích Lan [vương tân dành một chương
hồi ký viết về Nguyên Sa] từ Pháp về tìm tôi nói về
nền văn học hiện sinh và đưa tôi bài thơ viết về Nga
vợ Nguyên Sa in trên một tấm thiếp báo hỉ cùng mấy
bài thơ. Tôi đã mang tấm thiếp báo hỉ và mấy bài thơ
của Nguyên Sa đưa cho Thanh Tâm Tuyền đọc. Thanh Tâm Tuyên
đọc xong mấy bài thơ Nguyên Sa đã bảo tôi đưa Thanh
Tâm Tuyền một bài thơ tôi mới sáng tác để Thanh Tâm
Tuyền làm một trang thơ bạn giới thiệu thơ tôi và thơ
Nguyên Sa như một hiện tượng thi ca mới xuât hiện trên
bầu trời thi ca Việt Nam do Thanh Tâm Tuyền viết lời
giới thiệu đăng vào Ngươi Viêt số Xuân 1956 [số báo
này còn lưu giữ nơi các thư viện ở Saigon Paris
Washington]
Báo Ngươi Việt ra đươc mấy số
thì hết tiền đình bản. Nguyên Sa Trần Bích Lan bỏ tiền
tục bản với điều kiện cho NGUYÊN Sa phần lựa bài
đăng nhưng Người Việt ra hai số với sự lựa bài của
Nguyên Sa thì Thanh Tâm Tuyền đã yêu cầu Dõan Quốc Sỹ đòi
lại báo vì không thích đuờng lối văn nghệ hiện sinh
và nói Nguyên Sa Trần Bích Lan lấy tiền của bác sĩ Trần
KimTuyến [trùm mật vụ của chế độ Ngô Đình Diệm
] xuất bản báo Người Việt. Dõan Quốc Sỹ đã làm theo
yêu cầu của Thanh Tâm Tuyền
Trong khi Mai Thảo xuất bản tạp
chí Sáng Tạo anh em Người Viêt không ai tham gia bài vở dù
có đi ăn nhậu và khiêu vũ với Mai Thảo vì ai cũng ngại
mang tiếng viết tờ báo nhận tài trợ của Phòng Thông
Tin Hoa Kỳ
Nhưng Sáng tạo ra mấy số thấy
không có mầu mè gì của Mỹ cả vì Mai Thảo được tòan
quyền lựa bài vở theo hướng đứng về phía cái mới
làm mới văn chương Việt Nam hiện đại hóa văn chương
Việt Nam thì anh em Người Việt mới bắt đầu viết cho Sáng Tạo
Tờ Sáng Tạo đã đưa ra được
những nhà văn mới như Thảo Trường, Dương Nghiễm Mậu,
Lý Hòang Phong những nhà phê bình hội họa Nguyễn Trung,
Thái Tuấn [hai nhân vật này từ phê bình sang sáng tác đã
trở thành những danh họa]
Thiên hạ thường ba điều bốn
chuyện về chuyện tại sao Nguyên Sa là người bên cạnh
Mai Thảo từ khi Sáng Tạo sửa sọan ra đời và cũng
chính Nguyên Sa đã giới thiệu Nguyên Văn Trung tham gia
viết Sáng Tạo ban đầu với bút hiệu Hòang Thái Linh thế
mà chẳng bao lâu Nguyên Sa và Sáng Tạo lại lạnh nhạt
với nhau. Có người như Du Tử Lê chẳng hạn quả quyết
chuyện Mai Thảo lạnh nhạt với Nguyên Sa là vì một bài
phỏng vấn Nguyên Sa của Vương Tân trong bài này Nguyên
Sa nói hơi nhiều về luật bằng trắc trong thơ và thơ tự
do 'đụng' tới Thanh Tâm Tuyền khiến Thanh Tâm Tuyền áp
lưc Mai Thảo 'nghỉ chơi' với Nguyên Sa..Mai Thảo được
hỏi về chuyện này thì lại bảo rằng chuyện hơi tế
nhị nên Mai Thảo không muốn tiết lộ. Thật ra chuyện tế
nhị đó là mối quan hệ của Nguyên Sa với bác sĩ Trần
Kim Tuyến trùm mật vụ của chế độ Ngô đình Diệm, bác
sĩ Tuyến muốn nắm tờ Sáng Tạo sau khi đã nắm tờ Tự
Do chứng cớ là khi Sáng Tạo ngưng xuất bản bác sĩ
Tuyến đã tài trợ cho nhà thơ Nguyên Sa xuất bản tạp
chi Hiện Đại với ý đồ trám chỗ tạp chí Sáng Tạo
nhưng vì không mời được Mai Thảo cũng như anh em nhóm
Ngươi Việt tham gia bộ biên tập nên Hiện Đại không
vô được đất đứng của Sáng Tạo nơi bạn đọc
Sáng tạo cả hai thời kỳ xuất
bản không nhiều số thời kỳ đầu từ 1956 tới 1960 do
Phòng Thông Tin Hoa Kỳ yểm trợ rồi thời kỳ thứ hai
năm 1964 do một tổ chức văn hóa Hoa Kỳ yểm trợ qua bác
sĩ Lý Trung Dung đã tạo đươc một vị trí tầm cỡ
trong văn học nghệ thuật Việt Nam trong những thập niên 50 và
60. Sáng Tạo nổi đình đám nhờ phất ngọn cờ làm mới
văn học nghệ thuật VN có sự tham gia của nhóm Người
Việt chứng cờ là sau Sáng Tạo Mai Thảo từng chủ
trương các tờ Nghệ Thuật rồi Văn nhưng không có sự
tham gia đông đảo của nhóm Ngươi Việt nên các tờ này
đâu thay thế được tạp chí Sáng Tạo
Tạp chí Sáng Tạo thời kỳ 1956
-1960 so với thời kỳ 1964 cũng hòan tòan khác thời kỳ
1956-1960 dấu ấn của nhóm Người Việt đậm hơn thời
kỳ 1964
Những đặc sắc của Sáng Tạo
là phất ngọn cờ đổi mới văn học nghệ thuật nỗ
lực cổ động cho phong trào sáng tác và đọc thơ tự do
và mở rộng cửa đón những văn tài mới.
Cái làm nên bản chất của tạp
chí Sáng Tạo là nhà văn Mai Thảo cộng với sự hợp tác
của nhóm Người Việt. Phải công bằng mà nói một Ngươi
Việt không chẳng thể làm nên tạp chí Sáng Tạo, chứng
cớ là sau năm 1963 Vũ Khắc Khoan ra tạp chi Vấn Đề đưa
Thanh Tâm Tuyền làm thư ký tòa sọan lôi kéo nhóm Ngươi
Việt tham gia viết nhưng Vấn Đề vẫn không thay thế
được Sáng Tạo trong khuynh hướng thưởng ngọan văn
chương của bạn đọc và Mai Thảo làm báo Nghệ thuật
rồi Văn thiếu sự góp mặt của nhóm Người Việt cũng
không tạo đươc vị thế của Sáng Tạo trong giới đọc
cũng như giới thưởng ngọan văn chương.
Sáng Tạo tuy phất ngọn cờ đổi
mới văn học nghệ thuật dứt khóat đứng về phía cái
mới chủ lưc là nhóm Người Việt nhưng là diễn đàn
mở có sự tham gia của các nhà thơ tiền chiến Đinh Hùng,
Vũ Hoàng Chương và nhà văn nhóm Quan Điểm Mặc Đỗ, nhà
văn quân đội Tạ Tỵ nhà văn công chức đài phát thanh
Saigon Lý Hòang Phong nhà thơ thuộc nhóm Đời Mới Hòang
Bảo Việt
Vị trí của Sáng tạo trong văn
học sử Việt Nam như thế nào nay đã rõ vì ngay những
nhà nghiên cứu văn học ở miền Bắc những người có
tầm nhìn khá khắc khe và hạn chế về nền văn học
miền Nam trong hai thập niên 50,60, của thế kỷ hai mươi
cũng phải thừa nhận rằng sự xuất hiện của tạp chí
Sáng Tạo đã đem lại không khí đổi mới cho văn chương
Việt Nam, đưa văn chương VN ra khỏi những hạn chế của
su hướng văn chương tiền chiến với những Tự Lưc Văn
Đòan Tiểu thuyêt thư bẩy thứ năm hay Xuân thu nhã tập
Thanh Nghị.
VƯƠNG TÂN
TC Hoàng Long Hải * Phận người
Thịnh
đẹp.
Ai
cũng nói Thịnh đẹp.
Ngay
từ khi còn bé, Thịnh cũng biết Thịnh đẹp.
Hồi
ấy, ba Thịnh là công chức cao cấp ở tỉnh, nên ông
thường tham dự các buổi lễ ở chùa, nhà thờ và được
mời tham dự các buổi diễn văn nghệ. Vừa là con út,
vừa đẹp, Thịnh thường được ba Thịnh dẫn “con gái
cưng” đi theo.
Dĩ
nhiên, mẹ Thịnh cũng cưng Thịnh như vậy. Thịnh được
mẹ chăm sóc việc ăn, mặc, nhất là mặc, khi Thịnh đã
là “con gái”.
Khi
còn mặc đầm, mẹ Thịnh lo mua sắm áo đầm cho Thịnh.
Lớn hơn, tức là khi Thịnh qua khỏi bậc tiểu học, lên
trung học, Thịnh không còn mặc đầm mà mặc áo dài. Áo
dài mặc đi học, theo qui định của trường, là áo
trắng. Những ngày lễ, đi phố, đi chơi, Thịnh mặc áo
màu. Có nhiều màu Thịnh rất thích, nên Thịnh có ít
nhất sáu, bảy cái áo cho những màu ấy. Thứ nhất,
thích màu tím, Thịnh thường mặc áo màu tím than, là màu
của thi ca, của thời trang, màu “thịnh” của con gái
thời ấy. Ấy là “Màu thời gian
không xanh, màu thời gian tím
ngắt” như
trong thơ Đoàn Phú Tứ. Đó cũng là “màu
của chiều hoang”. “Chiều hành quân, qua những đồi
sim, màu tím hoa sim, tím cả chiều
hoang biên biệt”.
Áo màu tím Thịnh thường mặc vào những chiều cuối
thu, khi có những “chân trời tím”,
như trong một cuốn tiểu thuyết.
Mùa
xuân, Thịnh mặc màu hoàng yến, cho hợp với tuổi xuân
của Thịnh. Mùa hè, Thịnh mặc áo màu thiên thanh. Cả ba
mầu ấy, đều thích hợp với màu da trắng của Thịnh.
Ngoài ra, Thịnh có những áo bông với nhiều màu khác
nữa, nhưng chỉ là áo phụ, để mặc khi không có... mục
đích gì cả hay cho có vẻ người lớn một chút.
Ra
phố, Thịnh có thể ghé vào một sạp vải hay một cửa
hàng vải nào đó, xem vải, chọn màu và nói với bà chủ:
“xé cho cháu một áo.” Xong, Thịnh cầm áo đến thợ.
Mẹ Thịnh sẽ đi phố, và ghé vào trả tiền ở nơi nào
người ta đã “xé một áo” cho Thịnh. Thịnh không phải
lo nghĩ về chuyện đó.
Với
quê hương, Thịnh có những nơi vui chơi khác nhau. Huế,
nơi Thịnh học đệ nhị cấp, Thịnh thích đi dạo phố
vào chiều thứ bảy, chủ nhật. Đi dạo phố, Thịnh
thường nhìn lén mình trong tủ kiếng, xem thử Thịnh đẹp
như thế nào. Thịnh ghé vào nhà sách, tìm sách để mua,
và ban cho anh chàng nào theo đuôi Thịnh bằng một cái
nhìn “chết người”. Chưa bao giờ Thịnh thấy “Chiều
nay em ra phố về, thấy đời là con nước trôi”,
là “những quán không”,
là “những chuyến xe người ta chia
tay cuối đường” như trong bài hát
của một nhạc sĩ nào đó, Thịnh không quan tâm.
Thích nhất
là những chiều cận tết, Thịnh đi xem chợ hoa bên cạnh
đầu cầu Trường Tiền. Nó có đủ những hoa thật, hoa
giả, hoa người, và những đứa con gái đẹp như Thịnh,
đẹp hơn Thịnh. Bọn con gái đẹp có sức hút đến với
nhau, để so đẹp, khoe áo, giày, guốc và cười mấy
thằng con trai ngớ ngẩn chạy theo làm những cái đuôi.
Chiều
thứ sáu, Thịnh hối hả ra bến xe lô Huế - Quảng Trị
sau khi tan trường. Thịnh về thăm mẹ, thăm gia đình mỗi
cuối tuần.
Hôm
ấy, Thịnh là người khách cuối cùng. Khi Thịnh vào xe,
người ngồi bên cạnh Thịnh là một thanh niên, có lẽ
là một sinh viên đại học Huế. Băng ghế chật, những
bốn người. Người thanh niên ngồi thu lu, hình như anh ta
không dám nhúc nhích, sợ đụng chạm đến người Thịnh.
Xe qua khỏi
cầu Phò Trạch thì trời đã tối hẵn. Đây là một khu
rừng tràm thấp, phía núi là đường xe hơi - Quốc lộ 1
- phía biển Đông là đường xe lửa. Hai con đường, ở
quãng nầy, gần như song song. Có chiếc xe lửa đang chạy
xình xịch bên ấy. Thịnh thoáng thấy người ngồi bên
cạnh nghiêng đầu nhìn về hướng chiếc xe lửa. Anh ta
nói, như để chính cho anh ta nghe: “Đẹp quá!”. Thịnh
tự hỏi: Cái gì đẹp? Thịnh đẹp? Nếu thấy Thịnh đẹp
sao nãy giờ anh ta không nói gì, nhất là khi trời còn
sáng, mới thấy Thịnh đẹp được chứ. Còn bây giờ
thì trời đã tối rồi. Có lẽ anh nói hình ảnh chiếc
xe lửa đẹp vì Thịnh thấy anh ta nhìn chăm chú về phía
ấy.
Chiếc
xe lửa như con thú dữ, màu đen hùi, nổi lên khỏi những
cây tràm thấp, in hình lên bầu trời còn sáng mờ mờ.
Con quái vật lao tới, hơi nước từ đầu máy tỏa lên
trời cao. Thỉnh thoảng nó thét lên tiếng còi rền rỉ,
và khói từ ống khói tỏa ra.
Cùng
với khói tuôn ra là những đốm lửa nhỏ. Những đốm
lửa bay tỏa quay cuồng trong không gian, như ngàn vạn tinh
cầu trong vũ trụ đen tối bao la. Chúng bay lên cao, tỏa
ra xa, rơi xuống từ từ và tắt ngấm đâu đó, trong
những gốc tràm đen đủi. Tinh cầu đã tắt. Bao giờ thì
tinh cầu của loài người sẽ tắt. Thịnh tự nghĩ như
vậy? Tinh cầu tắt rồi, không chỉ nhân loại mà mọi
sinh vật trên địa cầu nầy sẽ chìm vào bóng tối, sẽ
diệt vong.
Thịnh nhớ
hình như thầy giáo có nói tới điều ấy, nói tới cái
tuổi của địa cầu. Tuổi ấy có thể là năm sáu triệu
năm. Địa cầu mới đi được một nửa cuộc đời của
nó, và nó còn một nửa đời nữa. Tới cuối đời, lúc
nó tắt ngấm như đốm lửa phun ra từ ống khói đầu
máy xe lửa, thì cuộc đời Thịnh đã qua rồi, qua quá
lâu! Sự tàn tạ ấy, đâu phải sẽ xảy ra ngày mai, ngày
kia mà khiến cho Thịnh phải lo. Dù sao, cái đẹp của vũ
trụ, trong ý nghĩa tương đối nào đó, sẽ là cái đẹp
vĩnh cửu.
Tuy
nhiên, tiếng khen và cái nhìn của người thanh niên ngồi
bên cạnh, tuồng như đánh thức một ý niệm nào đó, về
sự tồn tại, sự “hiện hữu”, của lời thầy giáo
dạy môn triết, về vũ trụ mà nó đã nằm sâu trong tiềm
thức từ lâu rồi. Dù sao thì hôm nay, nó cũng đánh thức
một ý niệm về cái đẹp của vũ trụ mà người thanh
niên đã chỉ cho Thịnh thấy. Thịnh có cảm tình với
anh ta.
Trí
thức, phải có một cái gì sâu sắc hơn người!
Thịnh nói một mình,
cũng hình như nói với anh ta: “Tuần tới thử về quê
bằng xe lửa, coi có vui hơn không?”
Người thanh niên nghĩ
rằng Thịnh nói với anh, nên anh ta trả lời:
- “Thích thú hơn mà
buồn hơn! Cô ạ!”
Thịnh nói:
- “Vậy thì tôi sẽ
đi coi thử nó buồn như thế nào!”
Thế rồi hai người
nói chuyện với nhau, dè dặt vì mới gặp lần đầu, cho
tới khi xuống xe.
Chiều
thứ sáu tuần sau, Thịnh lên ga Huế để đi xe lửa về
Quảng Trị. Khi Thịnh đi vào cửa bên phải để vào chỗ
quầy bán vé thì anh ấy đứng ngay cửa. Chờ Thịnh hay
tình cờ mà gặp? Rõ ràng là anh ấy làm như “tình cờ”
vì khi Thịnh đi tới chỗ bán vé thì anh ấy nói: “Tôi
mua giùm cho cô rồi”.
Ở cái tuổi trên
dưới hai mươi nầy, bọn con trai không khôn ranh bằng bọn
con gái. Giả làm tình cờ gặp mà mua vé trước thì tình
cờ thế nào được? Biết vậy Thịnh hỏi:
- “Anh chờ em có lâu
không?
- “Không lâu lắm.”
Đó là câu trả lời hay là lời thú nhận biết sẽ gặp
Thịnh?!
Thế rồi Thịnh cùng
anh ấy ra sân ga.
Đường
xe lửa “thống nhất” Saigon - Đông Hà khánh thành
khoảng năm 1957. Từ Saigon ra Huế, đoàn xe lửa dài tới
ba chục toa, kéo bằng đầu máy chạy dầu cặn, có khói
mà không có lửa như đầu máy chạy bằng hơi nước. Từ
Huế ra Đông Hà, đoàn xe được kéo bằng đầu máy xe
lửa cũ, chạy bằng hơi nước. Xe đã chờ sẵn trong sân
ga, chờ khi đoàn tầu từ Saigon ra, khoảng một giờ sau,
sau khi sang khách và hàng hóa xong thì khởi hành. Khách đi
Saigon - Huế thì đông. Huế đi Đông Hà đâu có bao nhiêu
nên đoàn tầu chỉ có vài ba toa.
Đầu máy
màu đen, các toa xe cũ kỹ màu xám đen. Sau khi rít lên hai
hồi còi dài con tàu xục xịch chạy ra khỏi sân ga khi
trời sập tối. Chưa được bao lâu, xe lửa sắp qua cầu
trên sông Hương, lại rít lên hai hồi còi dài nữa. Tiếng
còi xe lửa chạy bằng máy hơi nước, làm Thịnh nhớ lại
một đoạn giảng văn đã học của Lê Văn Trương trong
cuốn tiểu thuyết “Tôi là mẹ” của ông.
“Tầu
“Cờ lốt sáp”, trước khi nhổ neo, theo lệ thường,
rút lên ba hồi còi. Còi rút thất dài, hùng dũng bao nhiêu
thhì ai oán bấy nhiêu...”
Thịnh
không thấy cái hùng dũng trong những hồi còi của đầu
máy xe lửa từ Huế ra Quảng Trị. Thịnh cũng không thấy
ai oán như tác giả muốn nói. Thịnh chỉ thấy buồn, một
nỗi buồn nhẹ nhàng và bâng khuâng. Tiếng còi tầu nhắc
Thịnh nhớ đến mẹ, đến thành phố nhỏ của Thịnh,
đến những chiều Thịnh đi dạo bên bờ sông Thạch Hãn,
chợt nghe tiếng còi tầu và ngó lên phía cầu ga. Một
con tầu đen lầm lũi chạy qua cầu ga hay cầu Bầu Vịt ở
bên cạnh, có một luồng khói trắng tỏa ra phía sau con
tầu. Nó làm Thịnh nhớ cái sân ga nhỏ của thành phố
nơi Thịnh sinh trưởng, những khi tầu đến rồi đi,
không có lắm người đưa tiễn, nhưng hình như nó cũng
mang đầy nỗi buồn của những sân ga vắng vẻ, một nỗi
buồn dài dằng dặc, lặng lẽ, kéo dài từ sáng đến
chiều, từ chiều đến đêm khuya.
Chính
là những đêm khuya, sau khi nằm trong chăn, nghe tiếng còi
tầu từ xa vọng về, trí Thịnh bỗng hiện ra cái sân ga
vắng vẻ đó, tưởng có ai đang vội vã lên tầu, có ai
đang đưa tay lau giọt nước mắt, tiễn một người đi
xuôi về phía nam xa lắc, mờ mịt, và biết có một ngày
trở về hay không.
Tiếng
còi tầu cũng làm cho Thịnh nghĩ tới sông Thạch Hãn, con
sông trầm lặng và buồn bã, tỏa lên những luồng hơi
nước mong manh, che mờ một phần khung cảnh hiu quạnh bãi
cát vắng vẻ bên kia sông, hay rặng tre đen bên phía đó,
rặng tre chạy dài cho tới cuối sông.
Với nỗi buồn vu vơ
ấy, Thịnh lặng lẽ ngồi im trong toa tầu, có một chút
hơi lạnh từ cửa sổ toa xe bay vào. Thỉnh thoảng, có
vài hạt lửa nhỏ bay vào trong toa, như một tinh cầu đi
lạc, thoát ra ngoài vũ trụ, rồi tắt ngấm dâu đó dưới
hàng ghế ngồi dài dọc theo thành toa.
Có lẽ trân trọng
trước sự im lặng của Thịnh, anh ấy không nói một
lời, cho đến khi tầu vào ga. Thịnh vội vàng chào anh ấy
với một nụ cười tươi như Thịnh thường có, rồi vội
vàng lên xe xích-lô để mau về với mẹ.
Tuần tới, Thịnh lại
cùng vè quê bằng xe lửa với anh ấy. Khi đã vào ngồi
trong toa, trời còn sáng, anh ấy đưa cho Thịnh một bài
thơ do anh ấy chép tay. Thịnh còn nhớ và ghi lại vào
đây:
Đón
Em
Ngược lại một
đường tàu để đón em từ một sân ga
Ðường vô như rất
xaBánh tàu lăn không ăn hết đường thương nhớ.
Cùng một đường đi quanh co lối ngõ
Nhìn hai bên thêm thấy rõ lòng em.
Yêu nhau từ một ánh đèn
Rồi trên những chuyến tàu để tàu đi, đi mãi.
Từ một điểm nhớ
thương anh nôn nao trở lại
Ðón emChiều nay
Ðể đốt lên từ vầng mắt thâm gầy
Một ánh lửa chong suốt đời, trọn kiếp.
Em ơi em!
Ngược một đường đi giờ này em có biết
Lắc lư nghiêng ngã con tàu
Ta vẫn muốn đi mau
Ði thật mau để nhìn em buồn bên cửa gió.
Nhìn em,
Đôi dòng mắt mở
Trông tìm sân vắng, ga đơn.
Ðể rồi khi chớm nở giận hờn
Anh xuất hiện
Màu hoa lên ánh mắt.
Náo nức ngồi đây, thân tàu lay lắt
Náo nức ngồi đây,
thân tàu lay lắt
Mà thương nhớ xót
xa trông chờ quay quắt.Ta viết mau để quên tiếng xa gần.
Ðường dù dài nhưng chưa hết trăm năm
Tàu có chậm nhưng đường đi có hạn.
Ta sẽ gặp nhau giữa chiều hửng nắng,
Ta sẽ ôm em hôn trắng môi hồng.
Hôn thật lâu để trút nhớ cùng mong
Lên môi thắm hiền, yêu, chân thật.
Nghĩa là viết cho đến giờ gặp mặt.
Đọc một mạch xong
bài thơ, Thịnh hỏi:
- “Thơ của ai mà
hay vậy? Của anh hả?”
Anh ấy nói:
- “Tôi có thử làm
thơ, nhưng làm xong thì vứt bỏ, thấy nó dở quá. Bài
nầy của ông Đỗ Tấn, in trong báo, thấy hay, tôi chép
lại tặng cô.”
- “Đỗ Tấn nào?
Ông dạy Việt Văn ở trường Bồ Đề ấy hả?” Thịnh
hỏi.
- “Vậy cô không
biết chuyện tình của ông ta với cô Cao Xuân Y. ở Nguyễn
Hoàng hả?” Anh ấy hỏi.
- “Câu
chuyện tình lãng mạn ấy ở thành phố nầy ai mà không
biết. Ông ta lớn tuổi, đã có vợ, nhưng lại là một
nhà thơ. Còn cô giáo là cô gái mới lớn, chưa từng biết
yêu. Chuyện tình rắc rối thật đó.”
- “Rắc rối nên có
người không dám yêu!” Anh ấy nói đùa.
- “Chưa chắc đấy,
làm sao biết ai bạo gan hơn ai?” Thịnh cũng nói đùa.
Dĩ nhiên là Thịnh và
yêu nhau. Anh ấy tỏ tình hôm anh rủ Thịnh đi chơi Khiêm
Lăng.
Trong nhà thủy tạ
vắng vẻ, anh ấy quì xuống, run rẩy, nói không ra lời.
Một lúc sau, anh ấy hôn Thịnh, lần đầu tiên trong đời
Thịnh mà cũng là cái hôn đầu tiên trong đời của anh
ấy. Cũng như mọi người, cái hôn đầu sợ hết hồn
hơn là ham muốn. Nhưng lẽ nào yêu nhau mà không hôn nhau.
Một lúc sau, bình
tĩnh hơn, khi đứng ở hành lang nhà thủy tạ, nhìn mấy
con cá lội dưới hồ nước, Thịnh mới nói đùa một
câu, cho anh ấy mau “lại hồn”.
- “Làm gì mà nhát
vậy, “run như run thần tử thấy long nhan.”
Anh ấy cười, trả
lời: “Run thiệt.”
Thịnh nói tiếp:
- “Em có phải là
chúa hay đức mẹ đâu. “Quỳ cạnh Chúa đám chiên lành
run rẩy”. Đám chiên nầy chỉ có một con nên run dữ.”
Thịnh lại nói đùa.
Thế rồi những tuần
tiếp sau, Thịnh không về quê. Thịnh và anh ấy ở lại
Huế, cuối tuần đi chơi lăng, từ lăng Minh Mạng, lăng
Tự Đức, Thiệu trị, Khải Định… không nơi nào hai
người không tới. Đi chơi lăng cũng có nghĩa là đi chơi
Đồi Vọng Cảnh, thăm viếng các ngôi chùa nằm sâu, phía
xa trong núi. Và rồi, một đêm, quá vui, Thịnh liều ở
lại với anh ấy, cho anh ấy cái gì cao quí nhứt của đời
con gái. Đó là một biến cố lớn, nhưng Thịnh đã yêu
và đã liều.
Thấy
vì “ham vui” nhiều quá, Thịnh đâm lo. Còn hai tháng nữa
là thi phần hai, Thịnh vẫn chưa học ôn hết bài. Mỗi
lần đi chùa, Thịnh lại cầu nguyện cho ngày thi được
gặp may, trúng tủ.
Thịnh
không gặp may. Không những Thịnh hỏng kỳ đầu, lại
hỏng luôn kỳ hai. Đó là một sự khiếp đảm. Cũng có
người hỏng thi nên tự tử đấy. Có cô gái, nhà ở Kim
Long, không thấy tên mình trên bảng đậu, về ngang cầu
xe lửa, bèn buông xe đạp, nhảy xuống sông. Cả thành
phố Huế náo động lên vì cái tin “cô nữ học sinh”,
không phải “mua chai thuốc chuột” mà lại nhảy xuống
sông Hương.
Thi
cử, đối với bọn học trò Huế là một biến cố trọng
đại. Ra làm cô giáo, hay cao hơn, kỹ sư bác sĩ, hay
chuyên môn như nữ hộ sinh, y tá, v.v… hay làm nghề buôn
bán vất vả, tất cả chỉ thuộc vào một cái tên được
đánh máy lên trên bảng yết kết quả thi… Nó quan trọng
hơn cả việc lấy chồng, nếu người ta có sắc đẹp
chỉ bình bình, kỹ sư, bác sĩ không ngó tới. Cũng từ
cái thực tế đó, Thịnh cũng như các bạn của Thịnh có
câu châm ngôn “Thà bị “bồ” đá, không thà hỏng
thi.” Cơm cha, áo mẹ, công thầy mà hỏng thi trời ơi!
Có cái nào đau đớn hơn!
Và Thịnh đã hỏng
thi.
Thịnh trở về quê,
ở nhà với mẹ, với một nỗi buồn mênh mông vì hỏng
thi, không trở lại trường, tự học lấy, sang năm thi
“tự do”.
Thế nhưng Thịnh lại
lấy chồng.
Năm ấy, một người
cùng làng, du học ở Pháp về, đang giữ một chức vụ
lớn ở Saigon, về thăm quê, thăm ba má Thịnh và xin cưới
Thịnh.
Mẹ Thịnh thấy con
đang buồn vì hỏng thi, lại thấy anh ta học hành bên Tây
về, bằng cấp cao, tương lai sáng lạn, nên khuyên Thịnh.
Thịnh đang hối hận
nhiều chuyện. Chuyện tình yêu như lửa cháy, nóng vội
và liều lĩnh, chuyện hỏng thi và những câu nói của bạn
bè “Người tình không phải là người chồng”. Hai
người ấy khác nhau như thế nào? Người tình là người
nghệ sĩ, lãng mạn, đàn giỏi, hát hay, thơ văn bay
bổng…Người chồng thì phải bảo đảm tương lai cho
vợ. Lấy một ông kỹ sư, bác sĩ, có chức vụ cao ở
bệnh viện, ở ngành y tế, có phòng mạch… Chẳng bao
lâu sẽ có xe hơi, có biệt thự… Người tình không bao
giờ có thể đem lại những điều hạnh phúc, sung sướng
như người chồng.
Trong
ý nghĩa đó, Thịnh bằng lòng.
Rồi
Thịnh theo chồng vào Saigon, ít khi về quê, không gặp lại
người cũ. Thịnh đi một mạch trên một đoạn đường
dài. Có thế lực, giàu có, tuần lễ trước ngày 30 tháng
tư 1975, Thịnh đã cùng chồng di tản sang Mỹ.
Anh thân yêu!
Nghe
tin anh ở Đông Hà, Thịnh muốn về thăm anh, dù câu
chuyện cũ đã qua nửa thế kỷ rồi đấy.
Không
phải Thịnh đi tìm chuyện quên hay nhớ, nhưng khi xa anh,
Thịnh cứ nghĩ cuộc đời của mỗi chúng ta như môt
giòng sông chia hai, không bao giờ gặp nhau lại nữa.
Thế
rồi mỗi giòng sông đều có nhiều hạnh phúc và nhiều
nỗi thương đau. Thịnh không có con cái gì cả. Anh ấy
qua đời cũng đã mười năm. Thịnh sống cuộc đời cô
quạnh nơi xứ người, nhưng tất cả rồi cũng quen đi
anh à. Đời sống, dù ở đâu, nó cũng có những nỗi vui
buồn. Nếu Thịnh bỏ xứ Mỹ mà về lại quê nhà, chắc
gì Thịnh sẽ không cảm thấy cô đơn, chắc gì Thịnh sẽ
không có những nỗi vui buồn như khi Thịnh sống ở xứ
Mỹ nầy.
Thịnh
lấy chồng, bỏ xứ đi mất, nhưng Thịnh vẫn nghĩ sâu
trong lòng: “Với anh là Tình, với chồng là Nghĩa”.
Thịnh không thể quên đi, quên đi chứ đừng nói là mau
quên, một mối tình đầu, mối tình độc nhứt, mà cũng
là mối tình đẹp nhất, ít ai có được. Tuy vậy, Thịnh
cứ để kín trong lòng, không thương, không nhớ, không
tiếc, không buồn…
Chỉ
buồn là mới năm ngoái đây, Thịnh lại có được tin
anh.
Anh
cũng rời bỏ ngôi trường anh đang học, nhập ngủ sau
khi “được tin em lấy chồng”.
Cuộc
chiến tàn để lại trên thân thể anh những dấu tích
không bao giờ lành hẵn được. Dấu tích trên thân thể
và cả những dấu tích trong tâm hồn. Rồi sau những năm
tù đầy, anh chẳng còn gì hết, ngoài một tấm thân tàn,
trở về Đông Hà, nơi cố quận, chờ một ngày cuối
đời, như anh nói với người bạn anh. Người ấy cũng
đã kể lại cho Thịnh nghe.
Từ
Mỹ, Thịnh về Saigon, dự tính về Đông Hà gặp anh một
lần nữa, một lần chót, mà trước kia, Thịnh không bao
giờ nghĩ tới. Dù sao, cũng phải thăm anh một lần.
“Về
Huế, Thịnh dự tính ngày mai sẽ về Đông Hà, gặp anh.
“Nhưng
rồi chiều hôm qua, Thịnh lại đi dạo phố Trần Hưng
Đạo, Gia Long như ngày xưa, những ngày nghĩ, Thịnh thường
đi dạo phố vậy. Mùa xuân, Thịnh mặc áo màu hoàng yến.
Cái hình ảnh của Thịnh ngày ấy, anh còn giữ trong lòng
không? Hình ảnh ấy có phải là của một nữ hoàng, một
Lý phu nhân, một Dương Quí Phi, không chịu gặp hoàng
thượng, chỉ cắt một nắm tóc gởi cho hoàng thượng để
tỏ lòng nhớ thương.
Tóc
mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa, thiếp phụ chàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa, thiếp phụ chàng
Anh
thân yêu!
Cái
đẹp của Thinh ngày xưa không còn nữa, tuy tóc chưa bạc
hết, da chưa mồi, nhưng làm sao Thịnh còn được những
đường cong, không có những nếp nhăn trên mặt…
Đang
dạo phố, tự nhìn hình mình trong một tủ kính cửa hàng
nào đó trên đường Trần Hưng Đạo, Thịnh bỗng thấy
sợ nếu gặp lại anh. Màu hoàng yến không còn “ăn”
với màu da của Thịnh nữa. Mái tóc cắt ngang nửa lưng
nay khô vàng, cứng, không còn bay bay theo gió như anh đã
từng ca ngợi. Bước chân Thịnh trên đường phố không
còn thanh thoát nhẹ nhàng mà nặng nề, chậm lụt, nụ
cười không còn tươi mà ủ dột,… Tất cả đã hết
rồi, một thời con gái.
Phi
tần không chịu gặp vua vì nhan sắc đã tàn tạ. Thịnh
có thể gặp anh được không, hoàng thượng cuảa Thịnh,
khi nhan sắc Thịnh đã phai tàn?
Không
anh à!
Một
mối tình đẹp, những hình ảnh đẹp. Sao có thể xóa
nhòa đi được? Hình ảnh Thịnh trong tim anh có phải là
một hình ảnh đẹp không? Sao Thịnh có thể thay vào đó
hình ảnh một … bà già.
&
Vậy
rồi Thịnh trở lại Saigon để sang Mỹ, sau khi gởi lai
bức thư và cái mà Thịnh gọi là “một chút quà mọn”.
Chút quà mọn đó không giống như món tóc mà Dương Quí
Phi đã gởi cho Đường Minh Hoàng./
Và
cũng không có hồi âm!
hoànglonghải
Subscribe to:
Posts (Atom)