văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Monday, June 4, 2012

CHINH NGUYÊN * Thông Cáo Trúng Giải VĂN THƠ LẠC VIỆT 2012


Mục đích của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt là cùng với tất cà người Việt Tỵ Nạm hải Ngoại giữ lại nền văn hoá Sài Gòn cũ sau 1975 và đã đến lúc chúng ta phải nghĩ tới một cách nghiêm túc để chống đối một nền văn hoá Cộng Sản quốc nội lai căng mất gốc vô đạo đức đang dần đi tới sự tàn phá một hê hống ngôn ngữ nhân bản bằng những chữ những câu sáo rỗng vô nghĩa.
Theo truyền thống, cơ sở Văn Thơ Lạc Việt tiếp tục tổ chức Giải Văn Thơ Lạc Việt hàng năm
kể từ năm 2008 đến nay.
Trong năm 2012, các vị cố vấn và giám khào như sau :
Nhà Thơ Hà Thượng Nhân (vừa qua đời).
Nhà báo bình luận gia Sơn Điển Nguyễn Viết Khánh.
Học Giả Đặng Cao Ruyện
Nhà Thơ Dương Huệ Anh
Nhà Văn, Biên Khảo Diệu Tần
Nhà Văn Hồ Nam
Nhà Văn/Thơ Phan Bá Thụy Dương
Nhà Văn Thế Phong
Nhà Văn/Thơ Việt Dương Nhân
Nhà Văn Giao Chỉ
Nhà Thơ Đông Anh
Nhà Báo Thư Sinh
Nhà Thơ Hư Vô
Nhà Thơ Lu Hà 
Cách chấm bài thi giải Văn Thơ Lạc Việt:
Ban biên tập cắt tên tác giả và đánh số mật mã từng bài của mỗi tác giả và chuyễn qua ban sơ khảo. Băn sơ khảo đọc chấm điểm và tuyển lựa những bài cao điểm đúng tiêu chuẩn chuyễn qua ban chung khảo. Ban chung khảo chấm điêm và đưa trở lại cho ban điểu hành.
Ban điều hành lấy trung bình cộng của mỗi bài trên những số điểm giám khào chung khảo đã chấm và ráp tên tác giả vào bài theo số mật mã.
Ban Điều hành lập một buổi họp trình bày cho những giám khảo chung khảo rõ định vị của mỗi bài thi, và tuyến bố tác giả trúng giài.
Hệ thống chấm bài thi giài Văn Thơ Lạc Việt áp dụng cho cà hai môn văn và thơ.
Dựa vào những căn bản hệ thống chấm thi trên xuyên qua buổi họp ngày thứ năm 31 tháng 5 năm 2012 tại nhà hang Cao Nguyên lúc 11 giờ trưa những tác giả có tên dưới dây trúng giải Văn Thơ Lạc Việt 2012 :
Đối Với Văn:
Sống Chết Cho Tình Yêu                  Tác giả : Tâm Ngọc                             Giải nhất.                   
Giáng sinh tên miền đất trọ               Tác giả : Lê Ngọc Huyền                    Giải Nhỉ

Ở Nơi Đất Nước Mặt Trời Lặn          Tác Gỉa : Trần Khải Thanh Thủy         Giải ba

Cám Ơn Chị Việt Nam                       Tác giả : Hồng Thủy                           Giải khuyến khích
Đối Với Thơ :

Theo như tổng kết điểm và buổi họp định vị của giải thi thơ Văn Thơ Lạc Việt 2012.
Các vị giám khảo đều đồng ý quyết định không phát giải NHẤT và NHÌ.
Lòng Vòng                           Tác giả : Trần Đông Phương                           Giải ba.
Hoa Nở Trên Quê Hương       Tác giả : Từ Thanh Hà                                    Giải Khuyến Khich.
Chúng tôi, Ban Điểu Hành thành thật cám ơn quí vị giám khảo và  thông cáo tới quí vị trúng tuyển Giải Văn Thơ Lạc Việt 2012 như danh sách trên, đồng thời xin quí vị liên lạc thẳng với ban điểu hành tại số điện thoại hay e-mail dưới để sắp xêp nhận lãnh giải.:
Nhà Văn Chinh Nguyên  (408) 279-2532  cnchinhnguyen7@gmail.com
Nhà Thơ Đông Anh  (408) 896-0158        
dongandt@2yhoo.com
Ghi chú : xin tác giả TÂM NGỌC "Sống Chết Cho Tình Yêu" liên lạc với ban điều hành gấp.
Kính chúc quí vị luôn an bình.
Thay mặt Ban Đièu Hành

GIAO CHỈ * Kịch bản 75: Xin cùng nhau viết lại lịch sử



Đêm không ngủ:
Khi tiếng kêu tuyệt vọng của đại tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn 23 yêu cầu không quân dội bom trên đầu, thị xã Ban mê Thuột đang ở những giờ phút cuối.
Đó là đêm 13 tháng 3 năm 1975.
Sau khi đánh thăm dò lấy được Phước Long, tiếp theo trận chính thức mở màn hạ xong Ban Mê Thuột, từ cao nguyên Văn Tiến Dũng báo tin chiến thắng về Hà Nội. Lê Duẩn cho lệnh phát động chiến dịch Hồ chí Minh. Bắc quân mở 3 mặt trận tổng tấn công miền Nam. Từ Phước Long đánh xuống Sài Gòn. Từ Cao nguyên cắt ngang duyên hải và từ Hỏa tuyến đánh thẳng vào Thừa thiên.
Đó là đêm 13 tháng 3 năm 1975.

TRẦN VẤN LỆ * Người

 


Biết nói gì đây với biển?  Cảm Ơn!  Chưa đủ một đời.  Nghĩ ngay cả lúc ngậm cười  Biển Vẫn Bờ Môi Thương Nhớ.  Nghĩ ngay cả khi mình lỡ, Biển là Chỗ Tựa Thiên Thu!

Tôi từng ngó biển mà mơ khi xe tù ngang Đại Lãnh.  Biển sóng bạc đầu óng ánh, tôi xanh tóc tới chừng nào?  Xe đổ xuống đèo ào ào, biển sóng trào bờ hô hoán.  Nước non hết hồi tao loạn, ai bày rừng – biển chia ly?

Trên rừng Củng Sơn chim Quy vẫn kêu bạn bè bên suối.  Tôi sáu năm tù chết đuối ôm câu Quy Mã đêm đêm.  Dãy Trường Sơn chia hai bên:  Bên rừng nhiều thằng ngã quỵ.  Bên biển thôi đừng để ý. Đồn canh chuông mõ leng keng…

Nhủ lòng hãy cứ thản nhiên, trước sau gì tù cũng mãn.  Sáu năm tay nằm gác trán, biển luôn vỗ sóng trong lòng.  Thương cho những đứa trên rừng ngàn năm nằm yên trong mộ…

Ra tù tôi là thằng ngố, dừng tay cuốc ngó trùng dương,  ngó lại mình và vợ con:  Tại sao mình không vượt biển?  Bao nhiêu người đi đã đến, bao nhiêu người đi biệt tăm.  Biển ơi biển ơi muôn năm gọi thầm một Niềm Hy Vọng!

Gọi thầm một nơi được sống, biển dìu tôi có-hôm-nay!

Ngó ra đám hải âu bay – những con chim thuyền sãi cánh!  Chao ôi trời chưa mùa lạnh, thuyền người vỡ nát trôi đâu?  Những con hải âu lao xao nhớ chăng một thời xao xác?  Nhớ chăng những dòng nước mắt chảy dài theo những hải lưu…

Tôi ngồi trước biển buồn hiu.  Xin cho tôi lời Xin Lỗi!  Xin cho tôi thêm Lời Trối:  Chết tôi về biển Tạ Ơn!  Biển chứa Tình Yêu Tình Thương, Biển là Quê Hương còn lại muôn năm trong trái tim người  Muôn năm trong trái tim người!

Trần Vấn Lệ

Saturday, June 2, 2012

TRẦN VĂN SƠN * Mưa Trên Những Chùm Chuỗi Ngọc



Trời đang nắng chợt mưa rơi nặng hạt
Mưa mịt mù mưa dai dẵng ngày đêm
Vườn chuỗi ngọc em mưa bay xơ xác
Bầy lá phong trải thãm úa vàng sân


Em ngữa mặt hứng giọt mưa vần vũ
Giọt lệ sầu hiu hắt giấc mơ tan
Quê ngàn dặm nghẹn ngào sương tuyết phũ
Hồn cỏ cây lạ lẫm dấu chân quen


Em đội mưa nâng niu từng lá cỏ
Lạnh đôi tay ấm áp trái tim đời
Mưa ôm ấp quỳng hoa vừa nở rộ
Chuỗi ngọc xanh lấp lánh cuộc tình người

Mưa tí tách tiếng dương cầm réo rắt
Hòa ngũ âm khúc dạ cổ hoài lang
Người xưa đến mang hồn mưa u uất
Nhịp tử sinh cùng vũ trụ xoay vần

Em xuống phố quẫn quanh con phố nhỏ
Bụi mưa bay mơn trớn tóc em mềm
Mưa tầm tã che vầng trăng cố xứ
Trăng phương tây toả sáng xóa màn đêm


Mưa lang thang trong công viên cuồng loạn
Gió thét gào cây trốc gốc chênh vênh
Hồn tượng đá mang mang thiên cổ hận
Vọng cố nhân hề phương đông buồn tênh


Em đóng cửa xa đường mưa ngõ trúc
Bên án thư nghĩ chuyện một dòng sông
Lũ bàn ghế có em thêm hạnh phúc
Ngôi nhà có em sưỡi ấm tình nồng


TRẦN VĂN SƠN

TRẦN VẤN LỆ * Mưa Nghiêng Mái Quán




Bạn về Cố Quận có vui?  Sao không thấy một đôi lời gửi qua?  Bạn về Cố Quận chơi xa?  Hay quanh quẫn mãi ngôi nhà ngày xưa?

Bạn về Cố Quận nắng mưa?  Ở đây mưa nắng bất ngờ nhớ nhung!  Nhớ là nhớ rất viễn vông, nhung là vạt áo mềm lòng câu thơ…



Bạn đi mình chẳng tiễn đưa, hồ nghi tình bạn hững hờ rồi thôi?  Âm thầm mình chúc bạn vui, chắc chi câu chúc gặp người mình thân!
Ở đây hai đứa chẳng gần, bạn giờ Cố Quận muôn trùng thêm xa.  Trăm năm trong cõi người ta, kẻ đi người ở thường là dĩ nhiên?


Chiều nay trời mưa nghiêng nghiêng, mình nghiêng ly ngó mái hiên quán buồn.  Mưa trời nhẹ quá chưa tuôn mà hai con mắt nhớ thương muốn trào! Bạn về hay giấc chiêm bao?  Nhiều đêm mình thức tay quào gối chăn.  Bạn về…đã một trăm năm?  Mình nằm đây…vẫn là nằm Thiên Thu?

Bạn về một cuộc phiêu du chắc đôi khi thấy trời mù chân mây?  Với ai nói tiếng tao, mày?  Với ai, rót rượu cho đầy, uống đi!


Bạn về không phải chia ly bởi chưng Cố Quận có gì cũng thương!  Mưa trời nhẹ hạt như sương, bạn ơi con mắt tôi buồn tôi lau…

Trần Vấn Lệ

TRẦN VĂN NAM * Ði Trên Bình Nguyên Nước PHÙ NAM

tranh Nguyễn văn Bảy


Vị trí thuận lợi khi ngồi trên một xe đò lớn, dọc dài một tỉnh lộ tái thiết trên bờ đê đắp cao; và thời gian cũng thuận lợi khi cơn mưa vừa tạnh buổi xế chiều làm bầu trời quang đãng.
Chuyến xe đang trên tuyến đường Rạch Giá- Sài Gòn, chạy song hành với con kinh đào Cái Sắn thông nước đến bờ Hậu Giang tại Bắc Vàm Cống.
Xe vừa ra khỏi Rạch Giá mười lăm cây số, khách nhìn về phía trái qua bên kia con kinh đào đầy nước, qua những cánh đồng mênh mông tỉnh An Giang, bóng núi Sập của dãy Ba Thê hiện ra dưới tầm mắt, một đỉnh chơ vơ đột khởi chân trời.
Chữ viết của những trang sử đời nhà Lương bên Tàu ghi lại cách nay một ngàn năm trăm năm đã có nói một nước Phù Nam với thủ đô Óc Eo trong địa bàn dãy núi Ba Thê; bình nguyên An Giang- Kiên Giang còn đây mà chủng tộc nào một thời đã ở?
Mấy lớp vỏ sò hầu hến thuộc sinh vật biển hiện hữu ở lưng chừng những vách núi đá vôi tại Hà Tiên là ngôn ngữ địa chất; ngôn ngữ đánh dấu lại mực nước biển dâng cao thời đầu Công Nguyên, xác định Óc Eo bây giờ nằm sâu trên đất liền mà ngày xưa đã trời xanh hải cảng.
Tiếng lặn hụp của bầy trâu len vô số kể từ Ba Thê đi về miệt Bảy Núi trong mùa nước lụt vang vọng từ cuốn sách của nhà văn Sơn Nam đã là ngôn ngữ văn học, khẳng định vương quốc Phù Nam thuộc vùng trũng thấp có thể tiềm tàng cả một đô thị bị bùn đất chôn vùi.
Những đồng tiền La Mã, tượng thần Vishnu và Shiva của Ấn Ðộ, các dòng chữ Phạn trên bia đá, vài đồ gốm từ các xứ Á Ðông, đôi mảnh nữ trang bằng vàng của Ba Tư; đó là ngôn ngữ khảo cổ khai quật tại Óc Eo, làm rập rình trước mắt ta những đội thương thuyền ghé bến, lưu tồn những nét nhân văn.
Ngôn ngữ sử học, ngôn ngữ địa chất, ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ khảo cổ; những dấu hiệu có hệ thống đó có phải đã giúp ta hiện thực hóa một phiếm định, hay chỉ trưng ra bằng chứng một thực thể tồn tại từ hai ngàn năm trước.
Ngồi xe qua bình nguyên Phù Nam cổ, chỉ biết Óc Eo tồn tại vì chất thơ âm vang sóng nước thời nào bến cảng, và bằng phẳng chân mây đột khởi một đỉnh núi đền đài.                                                                    
TRẦN VĂN NAM

phan bá thụy dương * Nếu Mai Em Về















tranh Thanh Trí

1.
nếu mai em có về xóm biển
thả gió về trời cho mây bay
bên con suối ngọc mơ màng ngủ
cho tóc em nồng hương cỏ may

nước mắt mẹ -
có rơi dài đêm tối ?
nỗi niềm cha –
còn u ẩn tháng năm ?
em - em đó sầu dâng mấy độ
ngóng trăng suông và lạnh chỗ nằm



2.
nếu mai em có về quê cũ
đánh thức dùm tôi nhánh ô môi
đang rủ sắc buồn bên song cửa
với giàn bông giấy đắm sương mai

có băng qua bãi,
băng qua suối
theo tiếng thì thầm trong khói mưa
mặc gió hững hờ rung tà áo
đã quên sầu,
hết xót xa chưa



3.
nếu mai em có về xóm biển
hãy thắp dùm tôi mấy nén nhang
cho bạn bè trên đường bỏ xứ
lỡ trầm mình dưới đáy đại dương

thắp thêm nhiều nén trên bia mộ
cho thân bằng quyến thuộc anh em
đã ngã gục qua lằn tên mủi đạn
thủa chiến chinh chia cắt đôi miền



4.
nếu mai em có về quê cũ
đọc lại tình thư đã nhạt màu
mà dư lệ đã lem nhòa trang giấy
với muộn phiền chất ngất lao đao

đò qua xóm vắng ai xuôi ngược
có chở đầy trời thương nhớ không
mộng hồn nào vấn vương tóc rối
gót chân sen em có động chiều hồng ?



Nguyễn Mạnh Trinh * Khi Thi Ca Thành Tôn Giáo: Phạm Công Thiện



Phạm Công Thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời?

Vào những năm thập niên 60 ở Sài gòn, Phạm Công Thiện xuất hiện như một hiện tượng. Sách vở của ông đã được đón đọc nồng nhiệt và trong giới sinh viên học sinh đọc sách của ông là một thời thượng. Họ thích nói về “Ý thức mới trong văn nghệ... triết học”. Họ tán thưởng “Ngày sinh của rắn”. Có người thú nhận thích đọc ông dù chẳng hiểu bao nhiêu. Và trong cái gọi là “họ” ấy có tôi. Một cậu sinh viên mê sách vở và tràn ứ mơ mộng lãng mạn.

Lúc đó, tôi đã nghĩ Phạm Công Thiện là một người viết phê bình như viết tùy bút và viết tùy bút như viết bằng thơ. Tóm lại, với tôi, ông là một thi sĩ dù ông làm thơ không nhiều lắm.

Ðọc lại những bài viết về những nhà thơ của ông, tôi thấy điều đó tới bây giờ vẫn còn chính xác. Ông viết về thơ với cả tâm hồn mình và với những thi sĩ, ông cũng đồng cảm trong cái chia sẽ không cùng của những sợi đàn rung cộng hưởng vì chung tần số.

Tôi đọc thử một đoạn viết về Cung Trầm Tưởng để dẫn tới thơ tình yêu của Appollinaire. Những trang sách cũ đã ố vàng của “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học”.

“...Tôi ngạc nhiên. Tim tôi máy động. Cung Trầm Tưởng là ai mà làm thơ tài hoa vậy. Tôi mơ màng. Tôi hình dung những chiếc lá rơi. Tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi chảy. Kia là tả ngạn River Gaucheà Kia là đường phố Aumont- Thieville và L' Avenue des Ternesà Kia là những quán cà phê và những kẻ tứ chiếng giang hồ... Kia là cầu Mirabeauà Kia là Mùa Thu mưa rơi kia là Pont Neuf. Oi Oparis. Souvenir. Souvenir. Remember to remember.

Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire. Ừ, chỉ có Appollinaire mới có những dòng thơ bất tuyệt để làm sống lại Paris. Nói đến Paris là nói đến Kỷ Niệm, là nói đến Nghệ sĩ, là nói đến tình yêu và tuổi trẻ. Paris là thành phố của những kẻ tứ chiếng giang hồ, của những clochards, của những femmes de joie, của những Henry Miller, những Hemingway, những Gertrude Stein, những Picasso, những Appollinaire.

“Mùa Thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín giỏ trái sầu”.

Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire:
“'J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'Automne est morte souviens t'en
Nous ne nons verrons plus sur terre
Ordeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toique fe attends...”

Cũng vào Mùa Thu, Cung Trầm Tưởng ngóng chờ người yêu “kiên khổ phút giờ” và “chín đỏ trái sầu” ngóng chờ mong đợi như Appollinaire đã ngóng chờ mong đợi giữa hương thời gian và mùi lá cỏ

Ordeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je attends

Trời đã tối hẳn rồi. Tôi bước vào giường nằm ngủ, mắt nhắm lại, những dòng thơ của Hàn, của Cung, của Appollinaire chan hòa thướt tha đưa tôi vào giấc ngủ triền miên...

Viết về thơ, theo như Phạm Công Thiện không phải là phê bình xếp loại mà phải là ca tung khen ngợi thơ. Ông khẳng định “Nói đến Thơ không khác gì nói đến Thượng Ðế. Phê bình Thơ là làm việc phạm thánh là blasphème.”

Những thi sĩ không phải là loài người họ là những Thiên Thần, những thánh hoặc những quỉ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được thì ta phải im lặng; còn nếu chấp nhận họ thì ta phải ca tụng cho hết lời. Ta không được quyền có thái độ của học giả hoặc giáo sư hoặc nhà phê bình. Phải giết hết những nhà phê bình để cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi xanh.

Anh không thể cảm thơ của người ta thì anh hãy im lặng; còn nếu cảm được thì anh hãy thiết tha ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những nhà phê bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người; không có ai làm thầy ai cả. Phê bình văn nghệ ư? Buồn lắm... Thi sĩ ca tụng thi sĩ? Ðúng quá rồi. Và trong cái bí nhiệm như của một tôn giáo, thi ca đã làm cho chúng ta luôn luôn mơ mộng và suy tư.

Như khi nhìn những con sông cạn cợt của quận Cam.

Không hiểu sao mỗi lần lái xe đi ngang qua những con sông cạn ở thành phố Westminster hay Santa Ana tôi lại thấy bồi hồi. Có một liên tưởng nào từ lòng sông tráng xi măng ở giữa chơ vơ một dòng nước chảy nhỏ nhoi cạn cợt. Cái cảm giác của thiên nhiên bị khuất phục ấy của một dòng nước mùa nắng nhắc tôi tới nguồn nước ào ào sục sôi sau những cơn mưa. Một thi sĩ đã viết:

“Ừ, ta bây giờ như sông cạn
Nước vũng làm sao thành biển khơi
Chí lớn dưng không thành chuyện vãn
Mỉm cười còn mất chuyện muôn đời”

Có hay không, cái tượng hình của Dịch Kinh, hà trung vô thủy? Sông mà không có nước, có phải là sông không? Hay chỉ là gợi ý tới những đi mà không đến. Một câu thơ của Seamus Heaney, thi sĩ giải Nobel Văn Chương năm 1995 trong thi tập The Haw Lantern, chỉ có hai câu:

“The riverbed, dried up, half full of leaves
Us, listening to a river in the trees
(Lòng sông, cạn khô, một nửa phủ đầy những chiếc lá
Cho chúng ta, đang lắng nghe một dòng sông chảy trong cây)

Thi sĩ Phạm Công Thiện đã viết như sau về hình ảnh sông cạn rất thơ mộng này mà chúng ta nhiều khi ít quan tâm khi ngang qua trong nhịp đời hối hả mỗi ngày:

“...Tiếng nói của thơ là dòng nước tuôn chảy bất tận, dù lòng sông có cạn khô chăng nữa thì hồn sông vẫn chảy mãi trên cao Sông đang chảy trên cây và trong cây lá, và sự lắng nghe ở đây đã nhập lưu (sơ ư văn trung/nhập lưu vong sở), không phải chúng ta lắng nghe dòng sông mà chính dòng sông đã chảy vào trong thi nhân, lòng sông khô cạn ở dưới đã nhập vào con sông chảy trên cây; lòng sông khô cạn nửa đầy những chiếc lá thả hồn rào rạt với sông lá trên cao (Hồ Dzếnh: “có một nghìn cây rũ rượi buồn/Một nghìn sông rét vạn hoàng hôn.” Vũ Hoàng Chương: “Ðáy sông bừng dựng Lầu Thơ? Giấc mơ Hồ Ðiệp chẳng mơ cũng thành”...) Tại sao phải làm thơ? Tại sao phải lắng nghe một lần như chưa từng biết nghe trọn đời? Tại sao phải nhìn thấy được một lần duy nhất như chưa từng biết thấy bao giờ? Thi nhân đã một lần nhìn thấy; còn chúng ta thì hãy lắng nghe một dòng sông chảy bất tận trong rặng cây rào rạt chiều hôm nay.

Phạm Công Thiện khi viết về kỷ niệm với nhà văn Võ Hồng, trong tập thơ Ngày Sinh Của Rắn có hai câu thơ, tả cảnh mà tả tình, đẹp một cách đơn giản như phong vị của những câu Hai-Ku:

“Mưa chiều Thứ Bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông”

Và, hình như từ hai câu thơ này, Võ Hồng đã viết truyện ngắn “Hoa khế lưng đồi” như một cách thế đáp tạ người tri kỷ.

Trong một lá thư gửi cho tác giả “Hoài Cố Nhân”, thiền sư thi sĩ họ Phạm viết:

“...Anh V.H. ạ, anh có cần gì phải thuyết giảng philo? Tất cả những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm nhượng kia đều tiềm tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn philo nữa, bởi nó là sagesse của quả tim.

Và một Triệu trang giấy Triết Học cũng không đáng giá bằng một tiếng đập của con tim. Anh có nghe rõ chưa? Tôi muốn hét to lên như vậy.

Anh có nghe tim con người đập trong những trang ‘Xuất hành năm mới’, trong ‘Trận đòn hòa giải?’ ‘Xuất hành năm mới’ còn cảm động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn nhất! Những đứa nhỏ Hằng, Hào, và Thủy trong ‘Xuất hành năm mới’ và ‘Trận đòn hòa giải’ là những hình ảnh đau thương nhất trên đời, là những hình ảnh tượng trưng cho tất cả những đứa trẻ ở trần gian này”.

Phạm Công Thiện tâm sự như thế, dù trong ngôn ngữ của ông có một chút gì hơi phấn khích nhưng cũng khá thành thật.

Phạm Công Thiện là một khuôn dáng văn chương rất có ảnh hưởng với những lớp sinh viên học sinh ở miền Nam của thập niên 70, 80. Thời gian ấy, những cuốn sách như “Ý Thức Mới trong Văn Nghệ và Triết Học”, “Hố Thẳm của Tư Tưởng”, “Ngày Sanh của Rắn”, là những cuốn sách cầm tay của giới trẻ. Từ tác phẩm của ông, mở ra nhiều những cánh cửa. Trước hết, ông là một người sáng tạo nhiều suy tư về cái Mới, về những ngả đường có thể khá lạ lùng đến khi kỳ dị nhưng hấp dẫn. Văn học sẽ phải có những thay đổi, nhất là trong hoàn cảnh một đất nước chiến tranh như Việt Nam. Ngay cả khi làm thơ, thi sĩ như người của hành tinh lạ lạc đến, với ngôn từ khá lạ lùng như đoạn VI của tập “Ngày Sanh của Rắn”.

“Tôi chấp chới
Ðắng giọng
Giữa tháng ngày mơ mộng
Nốt ruồi của hương
Hay nốt ruồi của rigvéda
Tôi mửa máu đen
Trên nửa đêm paris
Tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
Tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
Cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
Mặt trời có thai!
Mặt trời có thai!
Sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt”.

Nếu bảo giải thích từng câu từng chữ thì có lẽ chính cả tác giả cũng lúng túng. Thơ là những hình ảnh rải rác, thoạt tưởng không liên quan với nhau nhưng trong trình tự cảm nhận lại có một ý nghĩa nào len vào bất chợt những liên tưởng. Có người cho rằng những từ ngữ như thủ dâm thương đế, giao cấu mặt trời, mặt trời có thai... tạo ra cảm giác tức thì với hình tượng có hơi dung tục ấy. Ðó là một cảm nhận. Nhưng, ngay ở thời điểm bây giờ, đọc lại câu thơ, chúng ta vẫn có thể bắt gặp được nét khai phá một cách rõ ràng. Thơ là một cái gì, khác thường lắm, có lúc rất gần cận cuộc sống mà có lúc lại xa nghìn trùng.

Tôi nhớ có lần nhà thơ Phạm Công Thiện nói chuyện với tôi về kinh nghiệm đọc thơ của ông. Lúc ấy, đêm đã khuya và ông có ngôn ngữ của một Lưu Linh đang trong cơn đồng thiếp. Ông đọc thơ Pháp, thơ Anh, thơ La tinh, thơ Việt Nam tiền chiến và hiện đại. Ðọc xong rồi bình, hình như văn chương đã lôi ông vào một cơn mộng.

Nói về kinh nghiệm để có thể tiếp cận với thơ ông đọc một bài thơ thật nhiều lần và sau mỗi lần đọc như thế đều tìm ra những cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy bắt nguồn từ giây phút rất thiêng liêng để con người bắt gặp được những sáng ngời lộng lẫy. Sự kiện ấy James Joyce đã gọi là “a sudden spiritual manifestation” (biểu hiện tâm linh bất ngờ) hay “epiphany” (sự linh hiện). Tương tự, như Xuân Diệu: “phất phơ hồn của bông hường/trong hơi phiêu bạc còn vương máu hồng/nghe chừng gió thoáng qua song...” đó, chính là hồn của thơ, của những giây phút linh hiện mà chỉ có những người tài tử cảm nhận được.

Ở Phạm công Thiện, cái chất thơ đã thành nét đặc thù tinh tế cho văn chương ông. Viết khảo luận, ông mang cái kiến thức rộng lớn tích tụ từ sách vở cùng với hồn thơ để thành những bước đi lãng mạn vượt qua những khô khan câu thúc. Là một triết gia, cái nhận thức để thành những trang giấy cũng có chút thi ca bồng bềnh vào để thành một triết gia thi sĩ. Cái chất lãng tử trong văn chương là một nét thấy rõ. Phạm Công Thiện viết:

“...Tất cả đời sống văn xuôi tẻ nhạt, những công thức, những danh vọng, những khuôn mòn lối cũ, những địa vị xã hội, những mẫu mực khuôn xếp đã thụt lùi ra đằng sau, chỉ còn lại nước chảy của dòng sông và mây chiều của đại dương: mây ở trên cao trôi dưới dòng nước rong rêu của khe biển nho. Thi nhân từ bỏ tất cả lại đằng sau lưng và bước tới trước băng qua cây cầu gỗ mong manh”.

Viết về thơ Seamus Heaney, nhưng trong dòng chữ có cảm khái riêng của một người mà thi ca đã thành máu xương da thịt cho đời sống. Viết những cuốn sách triết học giữa hồn thơ lai láng, cũng giống như viết những trang tùy bút mà chữ nghĩa đã thành những trân trọng nâng niu nhất. Cầm cây bút trong trạng thái tuy phong trần từng trải nhưng vẫn còn sót nét ngây thơ của một người tin tưởng vào những điều nghĩ rằng cần phải tìm kiếm được bằng suy tưởng. Với đời thường, ông sống như lạc lõng bất kể. Nhưng với văn chương, ông là người tinh tế và có can đảm rũ bỏ tất cả để đi lại những bước khởi đầu.

Nhà thơ Nguyên Sa đã có bài thơ vẽ lại chân dung của một nhà thơ tiêu biểu cho một phong cách sống đặc biệt của một người cũng đặc biệt trong một thời kỳ văn học mà sự khao khát những phương trời mới những vóc dáng mới đã thành động lực mạnh mẽ cho sáng tạo. Bài thơ “Nói chuyện phải quấy với Phạm Công Thiện”:

“Người vào tịnh thất sống ba năm
Cất tiếng không lời để nói năng
Buổi sáng thinh không chiều tới chậm
Tiền kiếp chen vô cạnh chỗ nằm
Ta muốn cùng người một tối nay
Ðầu sông uống rượu cuối sông say
Người từ trên núi ta từ biển
Từ giấc mơ nào đã tới đây
Dưới bóng tường im, giữa nhạc không
Ðời như phía trước bỗng mông lung
Thơ như hữu thể mà vô thể
Có cũng xong mà không cũng xong
Sáng dậy ta nhìn tục lụy ta
Những đi không tới đến không ngờ
Xóa luôn thì dứt những tâm thức
Kinh Pháp Hoa nào dậy cách xa?
Trong chín ngàn âm có hải triều
Còn thêm một kiếp nữa phiêu lưu
Này người bỏ sóng sang thuyền tĩnh
Nhớ đứng chờ ta ở cõi siêu”

Nhưng không phải tất cả thơ ông chỉ chuyên chở ý tưởng. Mà, còn chuyên chở cảm giác nữa. Thơ để mang tới những giây phút linh hiện, để người đọc thơ và làm thơ một giây phút tình cờ nào đó gặp nhau trong giao thoa cảm xúc. Có một bài thơ trong tập thơ mỏng về số trang nhưng dầy về ý tưởng, Ngày sanh của rắn, VIII, có những hình ảnh nối liền nhau để thành một chuỗi sinh động liên tưởng luôn biến dịch. Gió, như một cuộc hành trình đi qua đồi tây, đồi đông, đi qua những chặng thời gian tưởng ngắn như một sát na nhưng dài vô tận. Thế mà, trong cái lãng đãng tâm thức ấy, ngôn ngữ nhẹ nhàng như một hồi tưởng để níu kéo cảm nhận của người đọc trong một cảnh giới mơ hồ:

“Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về ru giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây
Gió thổi đồi tây hay đồi đông
Hiu hắt quê hương bến cỏ bồng
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông”

Với suy nghĩ của tôi, Phạm Công Thiện là một thi sĩ nghệ sĩ. Không phải là cung cách một phù thủy chữ nghĩa hoa tay bùa chú vào hư vô để thành một văn phong khúc mắc khó hiểu. Mà, là một người ôm tất cả những rộng khắp vào lòng và đi vòng quanh để tìm chân lý. Cái tâm thức vốn tịch lặng của một người thâm cứu Phật Giáo pha trộn vào ý thức muốn nổi loạn phá bỏ cung cách cũ khiến văn chương trở thành một hành trình của một người luôn xông tới đằng trước và không dừng lại. Trong đời sống, phong cách du tử, làm những điều mình thích khiến ông thành một người luôn thấy đêm ngày là hoang vu...

Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm”, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:

Sinh ngày 1 Tháng Sáu 1941 tại Mỹ Tho. Trong gia đình, Thiện là người anh cả. “Người anh không giúp ích gì được cho gia đình nhìn thấy mọi người cha mẹ em út đang lâm vào cảnh sa sút túng bấn. Mà mình thì lận đận lao đao chẳng giúp ích được gì.”

Ðó cũng là một lý do, khiến có lúc Thiện bỏ đi tu ngoài Nha Trang. Thiện đã có lần cùng chúng tôi đem bán từng va ly “Anh Ngữ Tinh Âm” của anh soạn để lấy tiền ăn bánh mì trong những lúc đói rách nhất. Mặc dầu lúc đó báo Phổ thông và Dân ta của Nguyễn Vy bán chạy, lương của Thiện trên mười lăm ngàn (bằng khoảng 150 ngàn đồng bây giờ mỗi tháng) tiền lãnh ra, thiện đem uống rượu say rồi gọi tất cả đám trẻ nít đánh giày lại, các bọn bán báo nghèo đói phân phát tất cả cho chúng trong một khắc đã hết sạch. Qua ngày hôm sau, kiếm lại vài chục uống cà phê là sự thường.

Có người cho ông là thần đồng, soạn “Anh Ngữ Tinh Âm” lúc 16 tuổi. Có người cho ông là một triết gia, tư tưởng gia luôn luôn vật vã với suy tư. Có người cho ông có hiểu biết rộng thông hiểu nhiều ngoại ngữ. Có người cho ông là một người đọc sách chuyên cần với óc thông minh và nhớ lâu không quên. Cũng như có người gọi ông là lãng tử, là một người thích gì làm nấy và luôn miệt mài trên con đường độc hành tìm kiếm những điều bất khả trong cuộc sống

Với tôi, ông là một thi sĩ và là người viết về thi ca mà tôi yêu thích. Dù, ông “đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất” để tìm “ý thức mới trong văn nghệ và triết học” qua “hố thẳm của tư tưởng” để “im lặng hố thẳm” và, cứ thế hành trình.

NMT

Friday, June 1, 2012

Tiểu Tử * Nói Ngược Nói Xuôi



Nói

‘‘Nói’’, không  phải dễ. Thật vậy ! Những gì mình nói, gặp ông Mít nghe xuôi tai , ổng gật gù : ‘‘ Thằng !…Nói nghe được à ! ’’. Còn gặp ông Xoài , những gì mình nói đó , ổng lại nghe không…lọt lỗ tai , nên thấy ổng nhăn mặt lắc đầu : ‘‘ Mẹ !…Thằng ăn nói ngược ngạo , nghe vô duyên thấy mụ nội !’’. Rồi, theo…thói quen xưa nay, người ‘‘chịu’’ mình nói chỉ biết làm thinh , còn người không chịu thì tiếp tục chỉ trích phê bình dài dài…Đó ! Để thấy ‘‘ Nói’’, không phải dễ ! Phải tùy đối tượng mà nói , nghĩa là phải…‘‘ bắt gân mặt’’ người nghe , để nói làm sao cho nó xuôi…
Các nhà lãnh đạo chắc đã rành cái ‘‘mánh’’ nầy cho nên họ nói trước công chúng nghe xuôi rót ! Có người xấu miệng nói họ mị dân. Suy cho cùng , họ nói mà dân nghe bùi tai dân khoái cũng là điều tốt thôi !
Nhưng , cũng có những nhà lãnh đạo bước lên diễn đàn cứ tưởng mình là một…‘‘siêu sao’’ trước vô số máy quay của các đài truyền hình thế giới , nên phát  ngôn bừa bãi , nói xuôi nói ngược mà không hay. Tỉ dụ như chủ tịch nước VNXHCN đã nói : ‘‘ Cu-ba thức thì VN nghĩ , Cu-ba ngủ thì VN thức. Chúng ta cùng giữ gìn hoà bình cho thế giới…’’. Nghe…nghịch nhĩ ở chỗ là không thấy lúc nào ‘‘ hai đứa ’’ cùng thức thì lấy gì ‘‘ cùng giữ hoà bình cho thế giới ’’ ? Một tỉ dụ nữa là thủ tướng VNXHCN tuyên bố một cách sung sướng : ‘‘ Toàn dân bước ra biển lớn’’. Chết cha ! Hồi năm 1975 , cả triệu người VN đã ‘‘ bước ra biển lớn’’, bộ ổng thấy chưa đủ sao mà bây giờ ồng biểu toàn dân ra đi nữa ? Rồi đất liền để lại cho ai ? Cho Tàu chắc !
Có lẽ ‘‘ thấu triệt ’’những sơ hở nầy nên các nhà lãnh đạo…‘‘ siêu cấp’’ ở các xứ cộng sản dùng một ‘‘ mánh ’’ khác : đó là nói…tràng giang đại hải để những người nghe không tài nào ‘‘ nắm bắt ’’ những gì họ muốn nói – dĩ nhiên , họ không quên lâu lâu ngừng nói để vỗ tay cho hội trường…giật mình vỗ tay theo kẻo mọi người…ngủ hết còn gì ! – Còn những người nghe cứ ngồi đừ ra đó, lâu lâu được tự do…ngáp !
Đã nói : ‘‘ NÓI ’’, không phải dễ mà !

Nói về “NÓI”

Nói về “NÓI”, ông bà mình ngày xưa dạy con cháu: ” Biết thì thưa thốt , không biết thì dựa cột mà nghe “. Hay quá ! Cái gì mình biết thì mình hãy nói – dĩ nhiên là mình nói những gì mình biết tường tận , có gốc có ngọn , loại hiểu biết có…đóng dấu kiểm chứng đàng hoàng, có… phắc-tuya o-ri-gin chớ không phải đồ dỏm . Còn cái gì mình không biết thì…thọc miệng xía vô làm chi cho nó lòi cái quê cái dốt của mình ra ! Thà là mình làm thinh , lựa…cây cột nào gần chỗ người ta đang nói để “ăn chắc” là nghe cho rõ, rồi chú tâm lắng nghe mà học hỏi thêm , hầu mở mang hiểu biết. Dĩ nhiên , mình không nên “nhắm mắt nghe”, bởi vì mấy…”nói sĩ ” hay có tật “nổ ” để chứng tỏ sự hiểu biết “minh mông thiên địa” của họ , cho nên lắm khi mấy chả cũng nói…”trật bàn đạp” mà không hay ( Mắc lo “nổ” thì làm sao… “nghe” rõ những gì họ nói ?) Nếu mình “nhắm mắt nghe”, nghĩa là mình hoàn toàn tin tưởng vào những gì “nói sĩ” nói, là mình tiếp thâu…”hàm-bà-lằng” cái đúng cái sai , cái hay cái dở , mà trong đầu cứ đinh ninh tất cả là…số dách hết ! Có lẽ tại vì ngày nay có quá nhiều người “dựa cột mà nghe ” theo kiểu đó nên thấy  có “nói sĩ ” đầu hôm sớm mai “biến” thành “Thầy” ngon lành !
Ở các xứ cộng sản , “nói sĩ ” không biến thành “Thầy”, mà biến thành “Lãnh Tụ”. Họ không cần “Biết thì thưa thốt”, bởi vì “Nói” là đặc quyền của họ , cho nên “Biết”, họ nói đã đành , mà “Không biết”, họ cũng…nói tuốt ! ” Tiên sư thằng nào dám nói lãnh tụ nói sai !”. Còn về sự “Dựa cột mà nghe” để mở mang kiến thức thì…”đếch có cần”, bởi vì “Ta đã là đỉnh cao trí tuệ thì còn thứ gì mà ta phải học hỏi thêm? Rõ khỉ ! “.
Nói về “Nói”, đến đây bỗng đụng “lý luận Mác Lê” thành ra…”hết nước nói”. Thôi! Ngừng vậy!

Nói có sách

Mấy cha có tật hay nói thường gặp người khác…nói :” Coi chừng ! Cái gì nó nói , mình phải…xin keo rồi hãy tin ! “. Vì vậy mà những vị nào đã…lỡ mang nghề nói đều huênh hoang rằng mình ” nói có sách ” và trong người lúc nào cũng lận lưng quyển sách…” nghề ” của mình để khi cần thì rút xoạch ra chứng minh ! Hà…Đến đây mới thấy cái quyển sách nó…làm nên con người , chớ không phải giỡn ! Nó…bịt miệng ngay thằng cha bạo phổi đã dám hỏi : ” Thầy nói có sách không mà nói nghe ngon vậy ? “. Cũng giống như tên công an , chỉ cần rút cây súng lục ra đặt lên bàn nghe cái cốp là đối tượng của hắn đang bô bô ” cãi cối cãi chày ” bỗng tịt ngòi ngang xương , chỉ còn nghe tiếng…nuốt nước miếng cái ực thôi !
Để mình ” nói cũng có sách “, hãy nhìn xem : hễ là thầy giáo thì phải ôm sách giáo khoa vào lớp , ông cha nhà thờ giảng đạo luôn luôn cầm quyển thánh kinh , hòa thượng thuyết pháp làm gì mà không mở quyển kinh Phật , ông đạo trưởng hồi giáo nào mà không lận lưng…hai ba quyển Coran ( Kinh hồi giáo ) , ông quan toà ngồi trong phòng xử án tay luôn đặt lên cuốn luật pháp to cỡ bốn viên gạch , mấy lãnh tụ cộng sản cha nào cũng…đội trên đầu quyển ” Tư tưởng Mác Lê  “…
Nhân nói đến cộng sản ” nói có sách “, để kể cho nghe chuyện ” Cán bộ VC lên lớp trong một trại tù cải tạo “. Như thông lệ , cán bộ vào trại để lên lớp lúc nào trong tay cũng cầm một quyển sách . Hắn trịnh trọng đặt sách lên bàn rồi nói , nói thao thao bất tuyệt , rằng là ” Đồng chí Sáu Lê Ninh nói thế nầy…”, rằng là ” Đồng chí Sáu Lê Ninh nói thế kia…”, rằng là “Đồng chí Sáu Lê Ninh…”…vân vân … rằng là…vân vân…Bỗng , một anh tù chắc có…học gồng nên dám đưa tay chận ngang để phát biểu :” Làm sao cán bộ biết Lê Ninh thứ sáu mà gọi ngon lành là đồng chí Sáu Lê Ninh ? “. Tên cán bộ trợn mắt ngạc nhiên nhưng rồi mỉm cười khinh khỉnh :” Các anh dốt , không đọc sách nên không biết đấy thôi ! “. Rồi hắn cầm quyển sách đưa lên , tay chỉ chỉ tên tác giả , nói :” Đây này , in rõ ràng đây này ! “. Đó là quyển “Quốc Gia và Cuộc Cách Mạng ” của Vladimir Ilitch Lénine , tên tác giả được rút ngắn lại như sau :” VI Lénine “, cán bộ đọc ra là số 6 La mã  ! Đúng là ” Nói Có Sách ” !

Học ăn học nói

Ông bà mình ngày xưa dạy con dạy cháu rằng: lúc nào cũng phải học, từ “học ăn học nói” đến ” học gói học mở ” ( Xin lỗi ! Tôi hay đem ” ông bà ngày xưa ” ra … dẫn chứng mà không một lời nhắc nhở đến ” ông bà ngày nay “, bởi vì ở cái thời ” ngày xưa ” đó , con cháu còn biết ngồi nghe ông bà kể chuyện … đời xưa hay dạy dỗ điều hay lẽ phải … v v . Còn ở cái thời bây giờ, ông bà có … ráng gân cổ lên để nói – gọi là để ” giảng mo-ran ” – đã chắc gì con cháu nó nghe ! Nhiều lắm là tụi nó … ” ậm à ậm ừ ” cho lấy có vì đang bận coi télé, gõ PC, gọi điện thoại cầm tay cho bạn bè hay đấu đá nhau trong mấy trò chơi điện tử rộn rã ! Thành ra, ông bà ngày nay chẳng thấy có ” những lời vàng ngọc ” để mình … dựa vào đó mà viết … biếm văn nói ngược nói xuôi ! Xin ông bà ngày nay thông cảm ! )
” Học Ăn ” ! Chắc có người sẽ nói : ” Ăn thì có … khỉ gì mà học ? Cứ ton vô miệng rồi nhai rồi nuốt, ai mà không biết ! “. Ậy ! ” Ăn ” , không phải chỉ vỏn vẹn có nhai rồi nuốt, bởi vì còn phải biết chọn thứ gì để ăn, thứ gì ăn với thứ gì,  rồi ăn làm sao, ăn sống hay ăn chín, ăn nướng hay ăn luộc, rồi ăn lúc nào, sáng trưa chiều tối, đợi đói mới ăn hay cứ … lu bù xín-xái, rồi ăn … ngồi hay ăn đứng hay … ăn nằm ( Đừng cười ! Ngày xưa, dân La-mã vẫn nằm mà ăn. Và ngày nay, ở Việt Nam đã có nhà hàng … nằm rất ăn khách ! ) rồi ăn bóc hay ăn bằng đũa bằng nĩa bằng dao ? … Mới kể sơ sơ thôi mà đã thấy …chóng mặt vì rõ ràng là ” Ăn, phải học ” !
Đúng vậy ! Mới vào bàn ăn đã phải học ” ăn coi nồi ngồi coi hướng “. Nhằm chỗ dành cho ông cả mà ” thằng nhỏ ” tót vô ngồi là bậy, là thiếu giáo dục, nghĩa là phường ” thất học ” ! Rồi, chưa ai cầm đũa hết mà mình đã ” đớp ” lia như ” quân chết đói ” … là không được ! Phải đợi người lớn gắp trước rồi mình mới … thọc đũa vô và phải từ tốn chớ không được gắp ào ào như … múa đũa ! Đó ! Ông bà dạy kỹ như vậy ! Vậy mà bây giờ không biết người ta – những người đã tự hào … được ” học ăn ” ở các xứ cộng sản vĩ đại anh em – đã học ăn làm sao mà sau năm 1975 họ vào miền nam Việt Nam áp dụng cái học …” siêu đẳng ” đến nỗi cái ” Ăn ” – gọn lõn dễ … thương ! – đã biến thể, kéo theo một lô ” phụ chú ” đầy … gút mắt : ăn quịt, ăn gian, ăn cướp, ăn trộm, ăn hối lộ, ăn …! Sau nầy, hỏi ra mới biết họ đã học ăn ở những xứ … không có gì để ăn nên cái ” Ăn ” mà  họ học hoàn toàn là cái ” Ăn ” … ảo, cái ” Ăn ” không có thật ! Cho nên khi vào nam, họ thấy cái gì cũng ăn được hết – kể cả nhà cửa đất đai ruộng vườn – vậy là họ cứ … nhắm mắt đớp như điên ! Cái ăn ” không bài bản ” đó, người ta gọi theo … chữ nghĩa là ” cái ăn của bọn vô học “. Điều lạ là chẳng thấy cha nào ngã ra chết vì … bội thực hết ! Dầu sao, thiên hạ vẫn luôn đề cao cái ” Học Ăn ” mà ông bà mình ngày xưa đã dạy. Để thấy : nó vẫn chưa phải là … quá đát !
Bây giờ, nói đến ” Học Nói “. Xưa nay, người ta hay coi thường sự ” Học nói “, cứ nghĩ là ọ ẹ từ nhỏ riết rồi lớn lên tự nhiên biết nói. Vì không học nói cho nên hễ mở miệng là nói bậy nói bạ, nói trên trời dưới đất, nói … trật đường rầy, nói trây nói tục, nói như ” dùi đục chấm mắm nêm “, nói ” phang ngang bửa củi “, … nói …v v . Vậy, để tránh tình trạng nói như … chó bươi thùng rác, ta phải ” Học Nói ” !
Thông thường, người ta dạy nói cho có lễ độ, biết nói ” dạ thưa “, biết nói ” cám ơn “, biết ” khoanh tay cúi đầu ” ( đây cũng là một cách nói, tuy nó không có lời nhưng nó nói lên sự kính trọng người trưởng thượng ) Rồi còn học nói cho văn vẻ thanh tao, không dùng những từ ngữ … đầu đường xó chợ ( có bực lắm thì cũng biết … xổ nho cho đúng điệu con người có … văn hóa, ví dụ : thay vì ” Đ.Mẹ ! Đ. Bà ! ” thì chỉ nên … khạc ra vài tiếng ” Thằng khốn nạn ! Mầy không biết tao là ai à ? ” rồi đưa tay vào lưng quần làm như sắp rút cái gì ra, vậy là đối tượng … xếp ve ngay ! ) Tiếp theo là học nói  làm sao để nói đúng nơi đúng lúc, đúng chủ đề … v v . Và còn nữa ! ” Học Nói “, không phải chỉ vài câu là … hết bài ! Cho nên đừng ngạc nhiên sao có những người tuổi đời đã … nặng ký mà vẫn lui cui đi học nói !
Ở những nước cộng sản, các lãnh tụ đều thấu triệt cái triết lý vĩ đại của ” Học Nói “, cho nên họ học rất kỹ, thuộc nằm lòng bài bản đến độ khi họ nói – họ gọi là ” phát biểu ” – họ nói … y chang như nhau, cung cách y chang như nhau, từ ngữ y chang như nhau ! Có điều là những gì họ học để nói hoàn toàn không … ” dây mơ rễ má ” gì với những gì ông bà mình day ! Thành ra, sau năm 1975, ở miền nam VN có hai … trường phái ” Học Nói ” : trường phái ” cổ điển ” của ông bà để lại và trường phái ” cách mạng ” du nhập từ các nước ” đồng chí anh em ” ! Dĩ nhiên, hai trường phái không … ăn rơ với nhau cho nên phe nào nói phe nấy nghe ! Mấy cha cán bộ nói – luôn luôn nói tràng giang đại hải – để họ nghe, còn mình nói là để cho mình nghe. Chỉ có … vỗ tay là vỗ tay chung, bởi vì bây giờ cái vỗ tay không còn ý nghĩa gì ráo thì khi nào thấy cán bộ đang nói bỗng ngừng ngang rồi vỗ tay, ta cứ … nhắm mắt vỗ tay ! Cho …nó rồi !
Sau 1975, dân miền nam già trẻ bé lớn gì cũng phải đi ” Học Nói ” hết, bởi vì chánh quyền không muốn thấy dân miền nam … câm !

Học hỏi và học hành

Nói đến,” Học “, người ta nghĩ đến ” Vô nhà trường “. Thật ra, cái ” Học ” không phải chỉ có ở nhà trường, bởi vì một khi mình muốn biết thêm một vấn đề gì đó, một cái nghề gì đó, một lãnh vực nào đó … để đừng bị người khác nhìn mình có ” nửa con mắt ” rồi trề môi chê mình không biết gì hết, mình có thể học bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Cái ” Học ” nó … tràn đồng chớ không phải chỉ ” đóng khung ” trong nhà trường và con người lúc nào cũng dính với cái ” Học ” mà không để ý bởi vì xưa nay vẫn quen nói ” Dốt là không biết chữ ” !
Vậy, ngoài sự không biết chữ, ” Dốt ” là gì ? Một anh nhà quê lên thành phố hiện đại không biết sử dụng bàn ngồi trong cầu tiêu … người ta nói thằng chả dốt. Còn ông tiến sĩ từ thành phố xuống dưới quê chơi, đi tát nước ruộng với người chú, chỉ dụng cụ hỏi là cái gì ? Người chú cười khinh : ” Mầy dốt quá đi ! Cái đó gọi là cái gàu ! Không có gàu thì lấy khỉ gì mà tát ? “. Hai nhân vật vừa kể đều được coi là dốt bởi vì họ kém hiểu biết trong một lãnh vực nào đó. Nếu họ được chỉ dạy, họ học thêm cách sử dụng bàn ngồi trong wc và cái gàu tát nước ngoài đồng, họ sẽ không còn dốt ở hai nơi nầy nữa. Vậy, để khỏi dốt, mình phải chịu khó học, trong cái nghĩa ” học ” là đem thêm những hiểu biết mới vào … kho hiểu biết ở trong đầu mình ( Dĩ nhiên là trong kho chứa loại hiểu biết thật chớ không phải loại dỏm, loại … giả mạo trốn thuế … hay loại mà ở Việt Nam bây giờ người ta gọi là ” ma túy xì ke ” ! )
” Học ” không, chưa đủ ! Trong khi học, phải biết hỏi. ” Hỏi ” để hiểu cho rõ cái mình học. Nếu không biết hỏi hay không chịu hỏi, thì cái học của mình bị gọi là ” học như con két ” nghĩa là nghe sao nói vậy chớ không cần hiểu. Hà ! … Đến đây mới thấy các lãnh tụ công sản rất … ” đỉnh cao trí tụê ” trong đường lối dạy đàn em và quần chúng học : họ bắt học nhưng không cho hỏi, bởi vì hỏi là … ” đặt vấn đề “, mà ” đặt vấn đề ” là ” chưa hoàn toàn tin tưởng và triệt để nhất trí ” với lập trường của đảng ! Học viên phải im lặng nghe, không cần hiểu, chỉ cần biết nói lại đúng những gì cán bộ nói. Vậy là … ” ăn tiền ” ! Nếu có tay nào ” xâm mình, bạo phổi ” nhứt định hỏi thì … ” ta ” chụp cho nó cái mũ ” phản động ” là  … xong ngay thôi !
Để tránh … lòi cái manh tâm dạy ” học không được hỏi “, nghĩa là muốn xóa cụm từ ” Học Hỏi ” trong tiếng nói của miền nam, các lãnh tụ còn ” siêu ” hơn nữa :họ đặt ra một cụm từ mới có tên ” Học Tập “, được dùng … xả láng nên rất phổ thông, ở đâu cũng thấy học tập, làm thứ gì cũng phải học tập, đến nỗi ở tù cũng gọi là học tập nữa ! … Người ta nghĩ đơn giản : học làm sao thì cứ tập làm y chang như vậy. Vậy là … yên thân !
Bây giờ, nói tới ” Học Hành “. Nếu học rồi … lặn luôn thì cái học đó uổng quá ! Phải đem cái học ra ” hành “, nghĩa là thực hiện cái gì mình đã học. Và nhờ ở ” hành ” mà mình biết mình làm đúng hay sai. Càng ” hành “, mình càng có nhiều kinh nghiệm để cái gì mình thực hiện càng ngày càng hay hơn, có giá trị hơn. Và như vậy, con người mới tiến bộ, xứ sở mới phát triển. Ở các xứ tự do, cái ” học ” nó … thiên hình vạn trạng nên cái ” hành ” cũng vô số kể … chớ không bị đóng khung trong ” đường lối chỉ đạo đầy sáng tạo ” của đảng X hay đảng Y gì gì …” Đóng khung ” có nghĩa là đảng dạy ” Hình vuông ” nhưng lại đưa lên ” Hình tròn ” mình vẫn … nhắm mắt hô to ” Vuông “, tiếp theo là mình chỉ biết … cắm đầu tạo hình vuông rồi hình vuông rồi hình vuông … suốt đời !
Ở Việt Nam , cái ” Học Hành ” cũng bị đóng khung như kể ở trên, nhưng là một loại khung chưa từng được kiểm nghiệm, cho nên mặc dầu đã qua mấy chục năm độc lập tự do mà dân chưa giàu nước chưa mạnh như thấy ghi đầy trên đường phố, và khi muốn thực hiện một công trình to to cỡ … mười tấm chiếu, vẩn phải nhờ công ty ngoại quốc …
Ông bà mình dạy con dạy cháu luôn luôn nhắc nhở phải ” Học Hỏi và Học Hành “. Không biết, ở Việt Nam bây giờ, có ai ” biết cất giấu ” hai cụm từ đó trong một … kẹt tủ nào không ? Cất giấu với hy vọng một ngày nào đó sẽ có quyền đem ra áp dụng để thấy quê hương mình vẫn còn có ” một ngày mai tươi sang ” … Hỏi, mà sao tôi nghe ứa nước mắt !

Nói về “Hành”

Nhân nói về ” Học Hành “, tôi nhớ cách đây mấy năm, nước Pháp gởi một phái đoàn chuyên viên qua Nhựt để nghiên cứu cách làm xe hơi, mặc dầu xe hơi Pháp đã đạt vị trí khá tốt trên thị trường quốc tế. Tôi đã … lột nón chào phục mấy nhà sản xuất xe hơi Pháp bởi vì họ đã biết … nhét cái ” tự tôn mặc cảm ” vô túi quần để sáng suốt nhận thấy xe hơi Pháp vẫn chưa đứng ngang hàng với xe Nhựt, và họ chịu khó đi Nhựt ” Học Hỏi ” thêm để về ” Hành ” với những kinh nghiệm mới.
Chuyến qua Nhựt của các kỹ sư Pháp được trực tiếp truyền hình nên tôi đã theo dõi dây chuyền lắp ráp xe hơi, từng khâu từng khâu, một cách thích thú. Nhưng, chuyện đã làm tôi thật ngạc nhiên là ở cuối dây chuyền sản xuất có một người Nhựt kiểm soát từ trong ra ngoài của chiếc xe, mở cửa đóng cửa nghiêng tai nghe tiếng cửa đóng, rồi ông ta đi tới đi lui rờ chiếc xe, không phải chỉ rờ ở một vài chỗ mà là rờ toàn thể chiếc xe ! Một kỹ sư Pháp, chắc cũng ngạc nhiên như tôi, nên nghe hỏi : ” Ông làm gì vậy ? “. Người Nhựt trả lời : ” Tôi rờ ! Ông không thấy sao ? “. Hỏi : ” Rờ chi vậy ? “. Trả lời : ” Rờ để coi còn chỗ nào chưa vừa ý, ví dụ như chỗ có hơi trầy sơn mắt không nhìn thấy nhưng rờ thì thấy, phải cho làm lại “. Trong khi nói, người Nhựt đó không ngừng rờ, mắt vẫn theo sát hai bàn tay, chứng tỏ sự chú tâm đặc biệt. Một lúc sau, ông ta vừa gật gù vừa nói : ” Tốt ! “. Rồi lấy trong túi trước ngực một cuốn sổ rút ra một miếng nhựa nhỏ bằng ba ngón tay mang chữ ” OK ” và hàng mã số, đem dán phía trong kiếng sau của chiếc xe. Ông vừa bấm nút cho dây chuyền đưa xe ra khu ” OK ” vừa nói : ” Tôi làm nghề rờ nầy đã gần mười năm. Tôi rất hãnh diện vì chưa thấy một chiếc xe nào bị trả về, chứng tỏ rằng sản phẩm của nước Nhựt chúng tôi vẫn giữ đúng tiêu chuẩn quốc tế “. Ông mỉm cười, đầu gật gật ra vẻ hài lòng. Đến đây, tôi nhận thấy rằng ngoài cái đầu óc và tay nghề người Nhựt để hết vào công trình chế tạo chiếc xe hơi, họ còn đặt vào đó lòng yêu nước vô biên của họ nữa. Đó là yếu tố chánh đã đưa nước Nhựt lên vị trí ngày hôm nay.
Xin nhắc lại, vào những năm 50, mặc dầu Nhựt đã đóng máy bay tàu chiến rất có giá trị kỹ thuật, nhưng sản phẩm thực dụng khác đều bị coi là đồ dỏm không cạnh tranh nổi trên thị trường quốc tế. Vì vậy, người Nhựt đã phải đi học hỏi mọi ngành nghề ở các xứ tiên tiến, để sau đó về nước thực hành với ý chí ” Mỗi ngày phải hay hơn, hoàn hảo hơn “, làm cho món hàng mang dấu ấn ” Made In Japan ” phải được thế giới mến chuộng. Và, như mình thấy, hôm nay họ đã thành công ! Cái ” Hành ” thực tiễn  nghĩa là không tiểu xảo ngụy tạo và lòng yêu nước của người Nhựt là một bài học lớn …
Bây giờ, thử nhìn lại Việt Nam coi … ra sao ? Xin phép chỉ nhìn ở ” chóp bu ” thôi, bởi vì mọi quyền hành đều tập trung … mút chỉ ở trên đó hết, còn cái khối bần dân thiên hạ thấp lè tè dưới đất tuy mang mỹ từ ” Nhân dân làm chủ ” nhưng lại là hạng … tay trắng thân trần thì có khỉ gì để nhìn !
Nói về ” Học ” – đừng có giỡn – mấy cha lãnh đạo Việt Nam ngày nay đều là dân có học hết ! Không biết họ học ở đâu mà ai cũng có học vị và văn phòng của họ toàn sách là sách. Nhìn số sách trám đầy bốn vách tường là phải biết ngay họ ” học cao hiểu rộng “, dầu không tốt nghiệp cao học thì vẫn là … học cao, bởi vì họ đã … giựt được cái bằng mà họ cho là cao quí nhứt, bằng ” Đỉnh Cao Trí Tuệ Của Loài Người ” ! Bởi cái ” Học ” của họ … ngất ngưởng như vậy nên cái ” Hành ” của họ cũng ” phiêu hốt ở bốn từng mây “, nghĩa là … hai chân không chấm đất ! Nhìn coi : họ đem công ty ngoại quốc vô xây cất cả đống công trình vĩ đại như nhà cao tầng ( 68 tầng ! Hôm nào thang máy ăn-banh, trèo lên là … ná thở ! ) đường cao tốc ( cho xe chạy 50 km/giờ ! ) cầu vượt đồ sộ có đường dành riêng cho người đi bộ (  dân đi bộ vượt được qua cầu cũng … hộc gạch ! ) …v v , trong lúc hệ thống cống rãnh bị nghẹt ứ từ mấy chục năm nên thành phố cứ bị ngập lụt tới rún sau mỗi cơn mưa lớn ! Người dân lội trong nước để đi lại … sinh hoạt hay … chăng lưới bắt cá ngay trên lòng đường như đang ” tham gia lưu thông “, phía trên đầu là biểu ngữ ” Có nước sạch là có sức khỏe ” và ” Quyết tâm thực hiện tốt khu phố văn hóa mới ” ! Người dân chỉ biết than là bị Ông Trời hành chớ không nghe ai dám lớn tiếng : ” Tại mấy cha nội đó không biết … hành ! “
Với cái kiểu ” Hành ” nầy, với cái đà ” Tiến nhanh tiến mạnh ” nầy, và với cái lòng ái quốc … đóng khung ” Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa ” nầy … còn lâu ” ta ” mới  chế tạo nổi chiếc … ” Xe Trâu Made In Việt Nam ” để … xuất cảng … góp mặt với thế giới, chớ đừng nói sản xuất ra xe hơi như nước Nhựt !

Tiểu Tử

Wednesday, May 23, 2012

LUÂN HOÁN * Bướm Bay Thơm Thuở Sách Đèn




chẳng rõ lòng thương chính xác ai
sân trường trắng nõn những áo dài
tà bay tà rũ tà tay nắm
tà ửng vàng hườm hương nắng mai

tình vốn lao chao nhiều bóng hồng
tóc thề tóc kẹp tóc garçon
mắt nâu lấp lánh tròn mắt biếc
môi tẩm hương lài môi mật ong

một dạo si mê Nhỏ xóm Chùa
tan trường lững thững bám nắng trưa
bụi bay cay mắt lo quên dụi
đi lén sau lưng ngỡ được đưa...

theo Bé quận ba liền nửa năm
bàn tay vịn nón, làm sao cầm ?
chưa tìm phương kế làm quen được
qua ngõ mỗi ngày, khó ghé thăm!

vọng mỹ nhân hoài chẳng hụt hơi
thay nhiều thần tượng, nhớ khơi khơi
em quay đầu ngó, lòng hoảng hốt
giả bộ nghiêm trang ngóng đất trời

nhát gái hình như được trời thương
lai rai vai vắt ít hoa hường
suốt thời đèn sách may không tệ
dại gái đương nhiên chuyện bình thường

Luân Hoán
10-5-2012