văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Tuesday, October 9, 2012

NGÔ NGUYÊN NGHIỄM * THƯỢNG HỒNG, MỘT THẾ GIỚI HƯ THỰC HỒN HOANG



Tiểu sử văn học: THƯỢNG HỒNG -
NGƯỜI KHĂN TRẮNG
 
Tên thật: Huỳnh Thượng Đẳng
Năm và nơi sinh: 1938 tại Thoại Sơn, An Giang
Các bút hiệu khác: Hoàng Phương Hùng – Thượng Hồng – Hoàng Huynh – Thượng Vũ.
Thường trú: Sống và làm việc tại Saigon từ 1954 đến nay.

Cuối năm 1954, từ quê hương lên thẳng Saigon, năm 1961 rời trường học và bắt đầu nghề làm báo, viết văn. Qua nhiều năm với nghề phóng viên các hảng tin, nhật báo. viết feuilleton (tiểu thuyết dài kỳ trên báo) trên các báo. Năm 1966 cho ra đời tác phẩm đầu tiên thể loại truyện ma tựa đề Oan Hồn Cô Út Liễu và hàng trăm truyện tiếp theo.
 Từ l975 ngưng viết, cho đến đầu năm 1989 mới bắt đầu viết lại cho các tạp chí Mỹ Thuật Thời Nay, Thế Giới Mới…
Từ 2003 hợp tác với Nhà sách Thiên Vương cho tái xuất hiện dòng truyện ma với bút hiệu Người Khăn Trắng như trước.
Từ đó cho đến nay, liên tục cho ra đời hàng trăm tác phẩm “chuyện không kể lúc nửa đêm” và chỉ duy nhất một thể loại này, một bút danh Người Khăn Trắng, chỉ một nơi phát hành là Công ty Văn hoá Thiên Vương, không có nơi thứ hai.
Cho đến nay đã có vài trăm tác phẩm thuộc thể loại truyên ma có mặt trên thị trường và được đông đảo bạn đọc ủng hộ. Tuy thể loại gọi là truyện ma thuộc dòng văn học dân gian, bình dân, dễ đọc, nhưng nội dung không chạy theo thị hiếu cẩu thả. Người viết luôn trung thành với quan điểm để cao tính nhân văn, cổ suý phong cách sống hướng thiện, sống bằng lương tâm trong sáng, đạo đức, nhân bản, “làm ác gặp ác, ở hiền gặp lành”.
Những tác phẩm cũng gọi là “truyện ma” nhưng viết cẩu thả, dâm ô, rùng rợn quá lố là không phải của Người Khăn Trắng.


THƯỢNG HỒNG, MỘT THẾ GIỚI
HƯ THỰC HỒN HOANG

                                                            Ngô Nguyên nghiỄm

phiêu bạt trong một thế giới hoang tưởng, đậm nét huyền hoặc thực hư khác biệt đời thường, tức là đi vào một cõi du hành tràn đầy ảo mộng. Cảnh vật thoạt biến thoạt hiện, phù ảo như sương như khói, vượt thoát ra ngoài ảnh hưởng vật lý của khoa học thực nghiệm, đã bám chặt đời người suốt lộ trình hóa sinh hữu hạn. Cảnh giới (cõi Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Cu Lô Châu và Nam Thiệm Bộ Châu) phân chia của cổ sử tôn giáo, thì Nam Thiệm Bộ Châu là cõi Trời và Đất của hiện tại. Vạn vật và người đang oằn lưng gánh bao nỗi truân chuyên của kiếp hóa sinh. Trên lộ trình sinh diệt của thế giới con người, có nhiều đẳng cấp của cuộc sống tâm linh và trí tuệ, đưa đẩy sự hoàn thiện của những trùng kiếp, nhân quả luân hồi, tạo lập thiện căn hay ác nghiệp. Chính vậy, rèn luyện bản ngã bước qua vòng sinh tử lục đạo, thì vạn vật phải hòa mình trong mọi tư thế chánh giác của lẽ đạo, lẽ đời và lẽ người. Bao nhiêu tôn giáo từ cổ đại đến hiện tại, là những bước đường tu tĩnh mà vật thể phải bước qua. Mỗi lúc một hoàn chỉnh sai phạm, như điều chỉnh ốc vít cho một công trình cỗ máy khoa học. Ở thế giới loài người, văn thể mỹ là bản chất giúp tinh thần tinh tấn, để sắp xếp cho bước đi vạn vật đồng nhất thể. Thế gian nhiều ngõ ngách, biến thể của vạn vật cũng nhiều hình dáng phù hợp với môi trường sinh hóa, dù là tâm linh hay vật chất thường hằng…Văn chương là một loại hình riêng biệt trong hằng ngàn loại hình, để chỉnh chan cho hướng đi tạo vật hợp thể với bản ngã…đậm đà tính Folklore trong quá trình hoàn thiện sự sống. Hàng ngàn năm qua, những triết thuyết, khoa học, văn chương, xã hội…đều hướng dẫn trực tiếp (hay gián tiếp) siêu hình, đầy quyền năng lập hạnh phúc hay khổ đau. Thuyết thần đạo, bén sâu vào gốc rễ tâm hồn  người dân Việt Nam. Tin tưởng, nghe theo, làm theo, liều mình tử sinh, bảo vệ đức tin, là chuyện không thể bàn luận chối cãi.

Sự thật, họ đã được ấm cúng với lòng tin mà thần thánh ban phát. Tục lệ thờ cúng đình làng, thần hoàng bổn cảnh, miếu hoang ven đường, là một nền văn hóa đặc trưng của bản Việt, không có một quốc gia nào trên thế gian này đa sắc đa diện như đất nước và lòng người nước ta. Văn hóa 5000 - 8000 năm, như Trung Quốc, Hy Lạp, Ấn Độ, Ba Tư… có được bao nhiêu chuyện thần thoại làm giàu chất văn học đầy nhân bản?

Thật ra, mỗi tình tiết của những thế giới siêu hình, có thể đầy những cõi riêng biệt (thế giới thần tiên, thế giới ma trơi,  thế giới phù thủy, thế giới súc sinh ngạ quỷ, thế giới côn trùng thảo hoa…). Tất cả dù hiển hoa hay lõa tử cũng phải nhập thân vào bản thể vi diệu của thế giới nghiệp kiếp của mình, không thể vượt thoát, không thể hóa hiện, nếu không hoàn chỉnh cơ duyên. Các nhà văn viễn tưởng thường dựng cốt truyện cho thông thấu cho các cõi đi - về như khai sinh một đường kỳ ngộ giữa các thế giới thực hư, chỉ chờ dịp bước ngang qua là lọt vào địa phận tồn sinh khác biệt…

Khi tôi đọc Người Khăn Trắng cách đây hơn 40 năm, tâm trí của người đọc trẻ còn mang nặng cuộc sống khoa học đầy kỳ vọng, tôi vẫn có cái nhìn say mê với công trình của nhà văn Thượng Hồng. Trong giai đoạn Người Khăn Trắng xuất bản thật sung mãn, góp mặt đa dạng thể loại liêu trai. Sự đón chào nồng hậu của độc giả, trong thời buổi xem như tiếp nối các Bách Si Ma, Con Tàu Máu, Đau Đớn Phận Nghèo, Hiệp Liệt… còn ấm áp một phương cách văn chương bình dân, với rạch ròi luân hồi, thiện ác… Tác phẩm của Người Khăn Trắng là một cứu cánh mang đầy tính nhân văn.

Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh là một thể hiện  văn phong cho một thế giới  người và khác người, hầu như chiếm lĩnh tâm hồn chân chính và đầy lẽ phải của người phương Đông. Ở văn học Việt Nam thời trước cũng có nhiều loại sách trích quái như vậy, đánh dấu một sự công nhận tương đồng, ngoài thế giới loài người, vạn vật hữu tình hay vô tình, vẫn có một bản thể riêng biệt, và đồng hóa với sự tự do, lẽ phải, và sự sống được tôn trọng. Đó cũng là một câu trả lời cho đạo, cho đời và cho bá quyền phong kiến. Văn học ta, ngoài Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ ở thế kỷ thứ XVI, có thể kể thêm Nam Hải Dị Nhân, Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái. Riêng Cổ Học Tinh Hoa , là bài học nặng chất nho giáo với Liệt Tử, Mặc Tử, Lưu Tử, Mạnh Tử,  Trang Tử, Trương Đông Sơ, Án Tử, gồm Tả Truyện, Dục Hải Từ Hàng, Ngụy Thư Từ Tuân Minh Truyện, Thế Thuyết, Cao Sĩ Truyện, Lã Thị Xuân Thu… thì 4 tác phẩm kể trên mang nặng tính chất Folklore. Nam Hải Dị Nhân ngoài các chương về các bậc Anh Kiệt, Danh Thần, Danh Hiền, Văn Tài, Mãnh Tướng, bậc Danh Tiếng, thì có chương về các vị Thần Linh, và Tiên Tánh… Truyền Kỳ Mạn Lục và Việt Điện U Linh nghiêng hẳn về thế giới siêu hình, mà Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ trong 20 truyện (trừ truyện 12 và 14) thì cốt truyện xoay quanh quỷ thần, ma quái, vạch trần những xấu xa của xã hội phong kiến, công kích tính dị đoan, bài bác quỷ thần trong một xã hội suy hoại, kỷ cương đổ nát. Ví dụ, truyền Đền Hạng Vương, mượn giáo lý của Phật và Đạo lý giải quan niệm luân hồi, báo ứng và nghiệp chướng.

Thông thường, cái gì khác hẳn môi trường đang sống, thì đó có cái nhìn tò mò và được quy nạp một cách hiếu kỳ. Trong thập kỷ gần đây, Harry Potter, với thế giới phù thủy đã chứng minh sự dung nạp một nền văn học sáng hóa thông thái đầy tình người, làm giàu thêm tri thức và lập trình cho cách tân thế giới.

Xuyên suốt hơn vài trăm bộ sách Tân Liêu Trai Chí Dị của nhà văn nhà văn hóa Thượng Hồng, chuyện người và ma vẫn không bao giờ cũ, mọi tình tiết nhân quả gắn chặt trên văn phong nhà văn. Sức sáng tạo kinh hồn, của một cây viết đầy nghị lực và sáng hóa cho dòng văn học riêng mình, độc nhất vô nhị tại Việt Nam, đã giúp ông xuất bản hàng trăm bộ tiểu thuyết liêu trai, mang đầy nét nhân văn, cực kỳ tài hoa. Mang nặng một lý triết đạo đức dù ở thế giới nào, cũng nằm trong cảnh biến luân hồi, nhân quả. Cái tinh túy của tác phẩm liêu trai của nhà văn Thượng Hồng, đi hẳn vào niềm cảm thông với khổ đau muôn loài. Sự băng hoại của cuộc sống, đạo đức và con người là gieo nhiều hệ quả nghiệp chướng, làm hóa đá những hồn ma vất vưởng ở một cõi không âm không dương, phiêu linh, đày ải suốt lộ trình không sống không chết, vì những oan án hoặc bạo lực thủ đoạn xảo trá bất nhân làm nghẹn dòng sinh tử. Hồn oan không bước được trên nẻo đi - về, vất vưởng cùng cực ở cõi vô sinh vô tử, trôi nổi thảm khốc trong nỗi đau nghiệp số.

Hầu như, mỗi truyện của Thượng Hồng Người Khăn Trắng, đều trình bày khúc chiết một hoàn cảnh không trùng lắp nhau, và tư tưởng có hậu của nhà văn nhà văn hóa phương Đông này là một kết cục, làm sáng rực được một chân lý công bằng như ông quan niệm: “Quan điểm nhất quán của tôi từ khởi đầu đến giờ vẫn như một: Dùng chuyện Ma, qua thế giới cõi âm để nói chuyện trần thế. Tôi luôn đứng về phía những người nghèo thấp cổ bé miệng, những con người bị ức hiếp bởi cường hào ác bá, giai cấp bóc lột khi còn sống mà không có điều kiện để phản kháng, khi chết thành Ma để báo oán, đòi công bằng. Điều này, tôi cho là đặc trưng của dòng văn học dân gian Việt Nam”.

Suốt một đời người, ông để hết tâm trí vào con đường được chọn sẵn cho khuynh hướng sáng tác của mình. Bước đi của một người trí không có một giây phút ngập ngừng, và bằng tài hoa sâu sắc càng lúc tác phẩm ra đời đều được nhen nhúm bằng lửa trái tim. Con người mà tâm thức đầy thiện căn, hướng về một xã hội bình yên, công bằng và hạnh phúc dù đó là loài thấp sinh hay quỷ thần, cũng phải quy tông trong hóa hiện chung của vũ trụ.

Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,  mà ông thường soi rọi trong từng tác phẩm liêu trai của ông, đều mang nặng một tính chất phù trợ cho tư tưởng  quả báo nhãn tiền,  mà từng lớp người thấp cổ bé miệng thường bị áp bức, đến cái chết cũng không được thăng hoa. Tôi không nghĩ như sự khiêm tốn của nhà văn nhà văn hóa Thượng Hồng là ghi lại những câu chuyện huyền bí để bạn đọc thưởng lãm. Mà đây là một dòng văn học đã được thừa nhận, qua bao nhiêu danh tác Ma của thế giới như Dracula ghê rợn của châu Âu, huyễn hoặc ảo diệu của Liêu Trai Chí Dị Trung Quốc, Trùm Hắc Ám Voldermort của Harry Potter… nhưng những oan hồn trong tác phẩm của Thượng Hồng đều có vẻ đẹp của bản chất người, ân oán phân minh. Dàn trải hơn mấy trăm tác phẩm, là mấy trăm cốt truyện đầy nhân bản, có tính sáng tạo và không trùng lắp một cốt truyện nào với cốt truyện nào. Tình tiết khơi dựng một cách linh hoạt, lôgic, đầy vẻ khoa học tính, đấu tranh giữa thiện và ác là chủ đề lập dựng, thôi thúc không ngừng nghỉ trong hiện thực và sương khói mơ hồ của cõi đối diện. Ý nghĩa nhân văn dàn trải trong một tư chất văn phong mạch lạc, khiến ông có một thành tựu vĩ đại hơn với công trình đồ sộ này. Dù rằng, khi trò chuyện, Thượng Hồng vẫn khiêm tốn chỉ là người góp nhặt, ghi chép lại các câu chuyện liêu trai khắp vùng đất nước. Ông không xem mình là một nhà văn, mà chỉ gắn liền những sự thu nhận ở khắp miền, vì vậy, văn phong đa dạng gắn chặt vào tiếng nói của từng địa phương vừa mới bước qua.

Thật ra, ngoài hàng trăm bộ truyện Ma, tác giả Thượng Hồng cũng góp mặt khá nhiều tác phẩm khác cho nền văn hóa văn học Việt Nam. Nên khi Inner Sanctum, của VietNam News đặt câu hỏi: “Một tác phẩm văn học được coi là đứa con tinh thần của người viết bởi vì nó phản ảnh một phần tác giả. Làm thế nào cho câu chuyện của ông phản ánh tính cách và cuộc sống của ông? Nhà văn Thượng Hồng bày tỏ: “Truyện ma của tôi phản chiếu những cái nhìn của tôi về cuộc sống và tình yêu.
Tôi vừa mới phát hành bộ sách, Một Phút Làm Thay Đổi Đời Người.  Tôi chia sẻ với độc giả những câu chuyện thật mà tôi có kinh nghiệm bản thân mình.
Cuốn sách bao gồm những câu chuyện có ý nghĩa  và chuyển động  cuộc sống có thể thay đổi chỉ trong một phút,  và nếu bạn bỏ lỡ những phút đó bạn có thể phải hối tiếc. Cuốn sách đề cập đến mối quan hệ xã hội và mang đến cho người đọc những bài học đạo đức, nhưng rất khó khăn cho hạt giống tâm hồn (*). Tôi kể chuyện của người Việt nam”.
Chủ nghĩa nhân đạo được đề cập trong những sách hoàn toàn thuộc về văn hóa Việt Nam.

NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
Viết tại Thư trang Quang Hạnh
Tháng 05/2011

Monday, October 8, 2012

thơ bùi ngọc tuấn

 

 

 

 

 

giấc mộng đêm trăng mùa thu

  
mang theo mối sầu điên của gió
trăng về trút lửa rực đông phương
mùa thu là những cơn cuồng nộ
của trời quằn quại, đất đau thương

đêm rú đêm gào đêm bốc cháy
lửa! lửa từ trăng cháy ngợp trời
khắp cả trần gian trùm máu lệ
muôn đời muôn kiếp mãi chưa thôi

ta một mình ta tắm lửa trăng
mùa thu là vũ trụ nổi cuồng
ma quái từ muôn vàn cõi ảo
trở về nhảy múa giữa không trung

khắp cả trần gian cháy loạn cuồng
thời gian bốc lửa cháy bùng lên
nghìn năm lịch sử đầm đìa máu
thu đến khi trời đất nổi điên

ta một mình ta đứng giữa đồi
nhìn quanh nhân loại cháy không nguôi
bốn phương lửa cuốn thiêu rụi hết
còn lại vầng trăng cháy giữa trời

bùi ngọc tuấn









 
trăng
(tặng nguyễn trọng cảnh)

tôi đứng giữa đồi hú gọi trăng
gió vật vã rú lên điên cuồng
hàng cây hoảng hốt tung mù lá
rồi cả trời đêm chợt rách toang

tôi gọi trăng mà trăng không nghe
trăng bỏ trần gian đi không về
tôi bỏ thiên đường đi biền biệt
đêm ở nơi nào cũng tái tê

hiểu sao ý nghĩa của lời thơ
của ánh trăng và của giấc mơ
tôi giấu hồn sâu vào ảo mộng
những giấc kinh hoàng tự cổ sơ
 
tôi hú gọi trăng  -  trăng không nghe
cành lá bay tung mù bốn bề
khắp cả trần gian sôi trong lửa
đất trời thiêu cháy giữa ảo mê

tôi hú gọi trăng đến lịm người
nghe từng hơi thở thoát lên khơi
và nghe từ cõi nào xa thẳm
một vọng âm chùng như lệ rơi

giữa trời tôi gào trăng rất lâu
trời ơi!  trăng chết ở phương nào
đêm nay gió rú như cuồng nộ
ai xé ngang trời một ánh sao

bùi ngọc tuấn

Nguyễn Đức Nhơn * Núi rừng quê tôi



Chiều ngồi trên Đỉnh Đèo Bay
Ngó về Phan Thiết lòng ray rứt buồn
                                                                   NĐN

1. Đỉnh Đèo Bay

Từ đỉnh đèo nhìn về hướng đông, thành phố Phan Thiết hiện lên rõ ràng, phân biệt được cả những khu phố, vùng ngoại ô và bãi biển. Không biết cái tên “Đỉnh Đèo Bay” có từ bao giờ, nhưng tôi biết chắc nó không thể có trước năm 1975, vì lúc đó cây gỗ còn nhiều, ít ai lên đến nơi này. Đây là đỉnh cao nhất trên cụm núi phụ nằm về phía đông dãy Trường Sơn. Dân làm rừng chỉ có những người bạo gan mới dám lên nơi này. Tôi không gan dạ gì, nhưng có chút liều lĩnh nên cũng từng mò lên tới đây. Ngày đầu tiên đặt chân lên Đỉnh Đèo Bay, đứng trên một mô đá nhô cao, đưa mắt nhìn về biển đông, tự nhiên tôi cảm thấy thương quê hương mình quá đỗi.

“Trông lên núi ngả đầu chào
Trông ra ngoài biển, biển nào cũng sâu!”
                                                                    (Khuyết danh)

Hai câu thơ này không biết của ai và cũng không biết đọc nó ở đâu, nhưng khi đứng trên Đỉnh Đèo Bay, tự nhiên tôi chợt nhớ ra và nhớ mãi đến bây giờ. Đứng trên Đỉnh Đèo Bay nhìn về hướng Tây là núi rừng trùng điệp, nhìn về hướng Đông là biển cả bao la. Ngày xưa ông Thái Thượng Lão Quân vẽ ra bản Thạnh Thế Hồng Đồ để phân chia Trời Đất, chắc có lẽ ông ta có một chút cảm hứng nào đó để “phết” lên quê tôi những nét đẹp lạ lùng.

Trải tấm nylon trên phiến đá bằng phẳng. Một xị rượu, vài con cá khô. Quá đủ. Thật tình quá đủ, tôi cảm thấy như vậy. Và, chính nhờ cái đạm bạc này mà tôi mới thấy hết được cái đẹp đơn sơ, giản dị của núi rừng quê tôi; Cái đẹp vừa uy nghi, kỳ bí vừa phảng phất một chút đa tình, nên thơ, lãng mạn.

Ngồi trên Đỉnh Đèo Bay, hớp một ngụm rượu, khà lên một tiếng thật kêu rồi đưa mắt nhìn ra tám hướng, thả hồn đi khắp bốn phương mới thấy hết cái thú vị của đời người. Hình như cái thú vị của đời người không hẳn hoàn toàn do cảm nhận từ những niềm vui mà đôi khi còn cảm nhận được từ những nỗi buồn.

Chiều ở đây thật buồn
Mây đùn quanh tám hướng
Thung lũng dày sương mù
Tôi ngồi nghe gió hú

Lão tiều phu đốn rừng
Nghe đau từng nhát búa
Có con chim lạc đàn
Xoải cánh chiều qua núi

Rừng ngàn năm vẫn buồn
Chôn sâu niềm u uẩn
Người ngàn năm vẫn còn
Đi trong vòng lẩn quẩn

Rừng ngàn năm còn đó
Tôi trăm năm còn đây
Rừng lắc lay theo gió
Tôi nhìn mưa thu bay

Mưa thì thầm trên lá
Tôi thì thầm với ai!?
                                         (Thơ NĐN)

      Từ làng tôi, dân làm rừng đi lên núi Ông (1) bằng nhiều ngã khác nhau. Tất cả những ngã đường này đều phải băng qua con đường sắt xuyên Việt, đoạn từ ga Mường Mán đến ga Ma Lâm. Mỗi giao điểm của lối mòn xe bò và con đường sắt đều được giới khai thác lâm sản đặt cho mỗi nơi một cái tên nghe rất là “địa phương”: Đồi mồi bàu lon, đồi mồi bàu đá, đầu mồi giếng cỏ v.v… Đầu mồi (2) là nơi xe bò bắt buộc phải đi qua. Thời chiến tranh Việt – Pháp, lính Tây thường phục kích ở các nơi này và gây chết chóc rất nhiều người. Đoạn đường sắt này, hai đầu nối liền với Mường Mán và Ma Lâm, lập thành một khu vực địa dư mà thời chiến tranh được mệnh danh là “chiến trường tam giác”. Sau khi ra tù, tôi trở về sinh sống ở một ngôi làng nhỏ nằm trong khu vực này. Ngoài việc làm cho hợp tác xã nông nghiệp, tôi thường lên rừng đốt củi, hầm than để kiếm sống. Tôi chọn lộ trình “đồi mồi giếng cỏ” để qua con đường sắt. Khi ấy tôi dành dụm được một ít tiền, sắm đươc một chiếc xe bò bánh sắt (3) và, cứ mỗi tuần tôi cùng thằng con trai tý tẹo của tôi lên núi một lần.

Thong dong một chiếc xe bò
Nhạc khua lóc cóc giữa bờ truông sâu
Ngoảnh nhìn phận số ta đâu
Bóng hình xưa đã nhạt vào xa xăm
Ở đâu còn một chỗ nằm
Cho người thua cuộc về thăm núi này!…

(Thơ Trần Yên Thảo)

2. Đèo Vòng Xoay

Trên lộ trình đến Đèo Vòng Xoay, đường núi cheo leo, xe bò bắt buộc phải qua một vài địa thế vô cùng hiểm trở, thường xẩy ra những tai nạn chết người.

“Không đi thì đói thì nghèo
Mà đi thì sợ cái Đèo Vòng Xoay”

Hai câu lục bát dân gian này không biết có từ lúc nào, nhưng cái Đèo Vòng Xoay thì đã có từ lâu đời. Nếu cái tên “Đỉnh Đèo Bay” gợi lên một cảm giác chơi vơi trên một đỉnh núi cao chót vót, thì cái tên “Đèo Vòng Xoay” lại cho ta một cảm giác quay mòng mòng như con vụ. Thực ra thì cũng không đến nỗi như vậy. Đèo Vòng Xoay chỉ là một khúc quanh rất ngặt, nhưng khổ nỗi là khúc quanh này lại nằm giữa hai bờ con sông hẹp nhưng rất sâu. Khi chiếc xe lao xuống dốc, người đánh xe không thể nào điều khiển được hai con bò. Mà trời sanh cũng ngộ, hai con vật tự nó cũng biết phải làm thế nào để bảo đảm an toàn cho chiếc xe (!). Khi gần tới đáy sông thì có một “gôn” đá lớn nằm chắn ngang. Chao ơi! nếu đâm đầu vào đó thì… “tía tôi cũng lìa!”. Nhưng không sao, người đánh xe sau mấy phút đi “six flag” cũng vừa tỉnh hồn, kịp điều khiển hai con bò quay một vòng rất ư là đẹp mắt. Khi qua được bờ bên kia, người đánh xe cảm thấy mình vừa thoát qua một tai nạn! Hú hồn…

3. Đèo Thằng Cuội

Qua khỏi Đèo Vòng Xoay một đỗi thì tới “Đèo Thằng Cuội”. Cái đèo này mới thật “ê ám”. Chiếc xe qua khúc đèo này, gần như chỉ lăn có một bánh, còn cái bánh kia thì nhảy “cà tưng, cà tưng” trên những phiến đá lồi lõm như người ta nhảy đầm. Chiếc xe nghiêng hẳn về một bên. Người ngồi trên xe lại thêm một dịp “thả hồn theo mây gió”. Tại sao lại có cái tên “Đèo Thằng Cuội” nhỉ? Ông Sáu Lầu, người cao tuổi nhất trong làng kể lại.
– Chú Tám à! Cạn hết cái chén đó đi rồi tôi sẽ kể cho chú nghe.
– Dạ được.
– Thực ra, chuyện này tôi cũng nghe tía tôi kể lại, còn sự thật thế nào thì tôi cũng không rõ.
Ông Sáu ngừng lại vài giây, nhấm thêm một ngụm rượu, khà ra một tiếng rồi kể tiếp.
– Nghe nói hồi mới khai thông khúc đèo này, chiếc xe đầu tiên qua đèo bị lật đè chết một người. Người ta không rõ danh tánh người xấu số. Chỉ biết người này dùng sức phụ đỡ chiếc xe cho khỏi lật nên bị chiếc xe đè chết. Những người dùng sức chống đỡ những vật nặng phụ giúp cho một việc gì đó, người làng mình gọi là “cuội”. Nên vì vậy mà mới có cái tên “Đèo Thằng Cuội” đó chú Tám.
– Thưa bác, còn tại sao mỗi chiếc xe qua đây đều phải ném vào cái mô đất một nhánh cây hay một hòn đá vậy bác?
– Ừ, chuyện này kể ra cũng lạ. Nghe nói sau cái tai nạn đó, đêm đêm thằng Cuội hiện về bảo là ai đi ngang qua đèo phải ném vào mộ nó một vật gì đó, coi như vun bồi cho ngôi mộ, nếu không thì lần sau ngang qua đây sẽ bị lật xe. Chuyện đó hư thực thế nào thì không ai rõ, nhưng mọi người đều có một ý nghĩ giống nhau “thà tin có còn hơn không!” và, vì vậy mà cái mô đất mỗi ngày một cao thêm.

4. Râm Tiếng

Qua khỏi đường sắt một đoạn thì phải chui vào một khu rừng dày đặc, dài chừng vài ba cây số. Ban đêm đi vào khu rừng này, người đánh xe không thể nào quan sát được mọi vật chung quanh, nên chỉ nhịp roi “chừng chừng” vào lưng bò, để tự nó theo lối mòn mà đi. Đây cũng là một kinh nghiệm của những người đánh xe. Vì quá rậm rạp, nên nhiều loại thú dữ thường trú ẩn trong khu rừng này, nhất là cọp. Ban đêm chúng thường ra đường chận xe. Chúng dọa trâu bò nhảy tán loạn, người trên xe không may bị té xuống đất là chúng vồ đi ngay. Cũng tại khu rừng này có một con cọp hung tợn vô cùng. Người hay súc vật không may gặp phải nó là vô phương sống sót. Người ta đặt cho nó một cái tên nghe cũng anh hùng hảo hán lắm: “cọp ba dấu”. Nghe nói, một đêm nọ, con cọp này phóng đại vào chiếc xe, chân trước thọc vào bánh xe để kéo lại, không may bị bánh xe nghiền nát, nên từ đó nó chỉ còn ba chân. Người làm rừng thường hay quan sát dấu chân cọp để biết chừng mà tránh, nên mới phát hiện ra con cọp ba dấu này. Nghe nói từ ngày mất một chân, con cọp lại càng hung dữ hơn. Nó “hoành hành bá đạo” ở khu rừng này, nên vì vậy mà khu rừng đâm ra nổi tiếng, rồi dần dà người ta lượt bỏ đi một vài chữ trong cụm từ “khu rừng nổi tiếng” để đặt luôn cho nó cái tên là “Râm Tiếng”.
     Một điểm đặc biệt nữa là khu rừng này có một loài chim mà trong tác phẩm “Đất Rừng Phương Nam”, Đoàn Giỏi gọi là “chim lệnh” (4). Loài chim này có một giọng kêu nghe the thé giống như tiếng trẻ con khóc. Ban đêm mà nghe tiếng kêu của nó, ắt có người “són” ra quần. Đặc biệt hơn nữa là loài chim này thường “ở chung với cọp” bởi vì cọp là loài ăn thịt sống, nên thịt thối ở kẻ răng làm cho nó đau nhức. Chim lệnh biết “khai thác” nhược điểm này, nó cà rà theo cọp để mổ thịt thối ăn. Đang khi răng bị ngứa  nhức khó chịu vô cùng mà có kẻ chịu khó “xỉa răng” giùm thì làm sao mà không biết ơn cho được! Vì vậy mà vô hình trung cọp và chim lệnh trở thành đôi bạn thân, sát cánh bên nhau, nương tựa nhau mà sống (!). Thiên nhiên quả thật có nhiều điều kỳ diệu. Có lẽ người làm rừng mộc mạc không hiểu gì về khoa học tự nhiên, cho chim lệnh là một loài chim linh, muốn giúp người, nên bám sát theo cọp để lên tiếng báo động kịp thời cho người lẩn tránh. Vì vậy người làm rừng mới truyền kinh nghiệm cho nhau bằng một câu nói mà mới nghe qua giống như một câu châm ngôn nhật tụng: “Nơi nào chim lệnh kêu, nơi đó có cọp!”

5. Giếng Tiên

Đến Giếng Tiên thì phải đi bằng một ngã khác, thực ra tôi rất ít đến nơi này, vì không thuận đường.
Câu chuyện dưới đây, tôi cũng chỉ nghe người ta kể lại, không biết đúng sai và cũng không biết còn có câu chuyện nào nữa nói về cái huyền thoại “Giếng Tiên” hay không? Hai chữ “Giếng Tiên” gợi lên cho người đọc một hình ảnh nên thơ thoát tục. Thực ra nó cũng chỉ là một khu rừng bình thường, chỉ khác một điểm là ở đây có một giếng nước rất trong, nhúng tay vào người ta có cảm giác như đang ngâm bàn tay trong nước đá.
      Người ta thường lên núi đốn củi, hầm than vào mùa nắng, nên nước uống là một vấn đề vô cùng phiền toái cho người làm rừng. Thường thì người ta phải mang nước theo để xử dụng, nếu rủi ro bị đổ thì chỉ còn cách quay trở về. Cái nắng nóng hừng hực của núi rừng giữa trưa mà xối lên người một ca nước “Giếng Tiên” lạnh ngắt thì cho dù người phàm cũng biến thành tiên. Tôi có nghe lõm bõm một câu chuyện thần bí về khu rừng này:
     Ngày xưa, có một lão tiều phu đầu tóc bạc phơ, mùa nắng thường hay lảng vảng ở khu rừng Giếng Tiên. Người ta không biết ông ở đâu và cũng không biết ông làm gì. Không ai tới gần ông được. Ông thường ẩn hiện, thấp thoáng trong rừng như một bóng ma. Một hôm có một cô gái làm rừng bị ngất xỉu vì cơ thể thiếu nước, ông già xuất hiện mang cô gái vào một hốc núi rồi hú vang một tiếng. Cô gái giật mình tỉnh lại, nhìn chung quanh không thấy ai, nhưng phát hiện ngay bên chỗ mình nằm là một cái giếng nước trong. Cô gái vì quá khát, nên múc nước lên uống mà không e dè chút nào. Không ngờ vừa uống xong, cô gái thấy toàn thân lạnh như băng và rùng mình một cái, biến thành một nàng tiên xinh đẹp bay bỗng lên trời.
      Nghe tiếng hú kỳ lạ, có một người tiều phu tò mò lần theo vách núi đến nơi thì phát hiện ra nơi này có một bộ quần áo của phái nữ. Người tiều phu tò mò mở ra xem thì thấy trong túi có một bức tượng hình thù quái dị, lớn bằng nắm tay. Người làng biết được chuyện, bèn rủ nhau lên xây một bức tượng cao chừng ba thước, hình dáng giống như bức tượng trong túi áo. Bức tượng đó lâu ngày biến thành một hòn đá thiên nhiên, trông từa tựa như một cố gái đang đứng dựa vào vách núi. Hòn đá đó ngày nay vẫn còn. Truyền thuyết còn cho rằng ông lão kỳ bí ở rừng Giếng Tiên chính là vị thần năm xưa được Thượng Đế sai gánh hai hòn núi từ Bắc vào Nam. Khi bay ngang qua Phan Thiết, không may bị đứt dây, nên hai hòn núi rớt xuống nằm ngay bên cạnh quốc lộ 1 ở hai đầu Nam – Bắc thị xã Phan Thiết (5). Có người còn nói hai hòn núi này là hai ông “tà”, cho nên người xưa mới đặt tên là “Tà Dôn” và “Tà Cú”. Hai ông tà này rất ác ôn, “đì” dân Phan Thiết ngóc đầu không nổi, nên chẳng có ai được làm Vua hoăc làm Tổng Thống (!). Còn ông thần gánh hai hòn núi thì bị Thương đế giáng xuống làm “Giám đốc sở kiểm lâm” canh gác hai ông “Tà”. Ông thần này thích “chạy nhảy lung tung” hết rừng này tới núi nọ và cứ mỗi năm đến mùa nắng nóng thì mò lên Giếng Tiên để tắm. Nghe sao kể vậy, còn đúng sai thế nào thì thật tình tôi đây cũng “bù”.

6. Đồng Cá Sấu

     Qua khỏi Râm Tiếng chừng một đỗi, có một ngã rẽ về bên phải. Đi thêm vài cây số nữa thì đến một cánh đồng hoang nằm gọn lỏn giữa một khu rừng già mênh mông. Giữa cánh đồng có một đầm nước sâu. Người làm rừng gọi cánh đồng này là “Đồng Cá Sấu”. Địa danh thường thường được người ta dựa vào một biểu tượng nào đó để đặt ra. Đồng cá sấu cũng vậy, vì ngay trên mé rừng dọc theo cánh đồng có một hòn đá nổi, hình thù giống hệt một con cá sấu đang nằm. Chiều dài khoảng chừng ba thước, bề ngang khoảng năm tấc. Trên lưng có một vết sẹo dài vắt chéo từ chân trái ở trước đến chân phải phía sau. Ngoài ra bên hông còn có ba dấu chân lõm sâu vào khoảng một lóng tay. Trong một buổi trà dư tửu hậu, tôi nghe người ta kể rằng, khi xưa có một gã nông phu đang cày ruộng, bất chợt có một con cá sấu thật lớn bò đến. Người nông phu này dùng roi cày và đôi chân giết chết con sấu. Con sấu nằm đó lâu năm, biến thành hòn đá với vết tích còn hằn rõ trên lưng. Chuyện thật đấy. Nếu độc giả nào không tin, chịu khó “bao” tôi về Việt Nam một chuyến, tôi bảo đảm sẽ đưa đến tận nơi để xem cho biết (!).

Núi rừng quê tôi còn nhiều chuyện để kể lắm. Nhưng già rồi trí nhớ không còn như xưa, nên nhớ đâu kể đó vài chuyện cho vui, và cũng xin nói rõ đây không phải là một tài liệu biên khảo.

Nguyễn Đức Nhơn
———
(1) Núi Ông nằm phía tây thành phố Phan Thiết,
trong hệ thống dãy Trường Sơn.
(2) Đầu mồi là giao điểm của lối mòn xe bò và con
đường sắt.
(3) Bánh gỗ bọc niền sắt.
(4) Có người nói ngoài Bắc gọi là “chim linh”, còn
ở quê tôi thì gọi là “chim chuông”.
(5) Núi Tà Dôn nằm phía bắc, cách Phan Thiết
chừng vài chục cây số. Núi Tà Cú nằm phía
nam, cách Phan Thiết chừng 30 chục cây số.

Phan Đổng-Lý * Tạ Từ


(Mượn ý bài thơ A Pet’s Prayer của Penny Wallis)            
 Finesse

Quả như có kiếp lai sinh
Mẹ ơi, giọt nắng lung linh, con về..
Lời cún cưng Finesse gửi mẹ

Mẹ ơi, con yếu lắm rồi
Đêm ngày trăn trở đứng ngồi héo hon
Thương con xin mẹ vuông tròn
Ngưng dòng lệ thảm cho con tạ từ

On trời mười bảy năm dư
Âm êm phúc phận dám mơ ước gì
Thương con mẹ để con đi
Đường trần đã trọn có chi bận lòng

Giờ đây con biết mẹ buồn
Cũng xin mẹ chớ lệ tuôn ngắn dài
Phủi tay rủ sạch hình hài
Nhớ thương rồi cũng phôi phai tháng ngày  

Con nay như nhạn lẽ bầy
Tiếng kêu thê thiết biết bay phương nào
Lưng chừng đất thấp trời cao
Trông vời bóng mẹ nổi đau chất chồng

Mai đây mẹ hãy nhủ long
Có ai thoát khỏi được vòng tử sinh?
Sống mà dơ dáng dại hình
Chi bằng đôi ngả mà tình thiên thu

Mẹ ơi!
Đất trời sao bổng mịt mù
Mắt con trĩu nặng thiên thu chập chờn
Dặm trường giá lạnh thân đơn
Cúi đầu lạy mẹ nghĩa ơn trăm đường

Đừng nghe mẹ, đoạn can trường
Ra vào nhung nhớ xót thương con khờ
Bao năm ấp ủ đợi chờ
Mà nay chiếc bóng chơ vơ mõi mòn

Mẹ ơi, hãy đến với con
Om con thật chặc nhìn con cuối đờ
iBên con xin mẹ một lời
Đợi con nhắm mắt hẳn rời xa con!

Phan Đổng-Lý  10.2012

Thursday, October 4, 2012

Đỗ Hồng Ngọc * Thơ điên Nguiễn Ngu Í

Nguien Ngu I

Thơ điên Ngu Í . Nhiều người biết đến ông như một nhà báo, Nguiễn Ngu Í, một “cí jả kông chuiên ngiệb” (ký giả không chuyên nghiệp, theo danh thiếp của ông) như ông tự nhận với loạt bài phỏng vấn văn nghệ sĩ rất tài hoa trên tạp chí Bách Khoa; nhiều người biết đến ông như một nhà giáo dạy văn, dạy sử ở nhiều trường tư thục Sài Gòn, nhưng ông, trước hết là một nhà thơ, một người làm thơ đặc biệt hơn bất cứ một người làm thơ nào khác: thơ điên. Thơ ông là cuộc đời riêng ông. Có khi là một tiếng thét uất hận, có khi là một tiếng lòng thổn thức, có khi là nỗi hờn căm, khi khác lại là những tiếng hát dịu dàng âu yếm thiết tha tùy lúc bài thơ được viết giữa các cơn điên hay trong cơn điên, giữa những ngày tháng nằm vùi trong Bệnh viện tâm thần Chợ Quán hay Dưỡng trí viện Biên Hòa.
Cũng viết về trăng, nhưng là Trăng của ông, năm 19 tuổi, một đêm trong nhà thương điên Chợ Quán:
Ta sẽ đánh đầu ta
Vào mặt Trăng bơ sữa
Thì Trăng ơi, em sẽ ngã ngữa tan tành.
Rồi ta nuốt
Mảnh của Trăng vào ruột
Rồi tống ra
Khỏi cơ thể ta mà…
(Van Trăng, 1940)
Ông viết về cái màu trắng, màu của Bệnh viện vẫn luôn ám ảnh ông:
Nhưng mà lạ quá, ôi là lạ
Ngó phía nào đây Trắng cũng theo
Trắng phủ vây tôi, tôi sợ quá
Làm sao trốn Trắng, hỡi người ôi!
(Trắng, 1940)
Hết Chợ Quán tới Biên Hòa, hết vào rồi lại ra, giữa các đợt lên cơn như vậy, ông sống như một người mộng du, đi trên mặt đất mà như đi trên tường cao, trên mái ngói, nghiêng nghiêng, lảo đảo, lênh khênh, lãng đãng… Ông thân thiết với với tất cả các bác sĩ, nhân viên của Bệnh viện tâm thần, của Dưỡng trí viện:
Cũng tưởng một đi không trở lại
Nào ngờ duyên nợ lại dằng dai
Bỗng nhiên sực tỉnh nằm trong “khám”
Khám của lòng ai, ai của ai…
(Bài thơ tái ngộ Dưỡng trí viện, 1966)

Vâng, ông là một người điên, một người điên thứ thiệt, không phải là người giả điên của buổi nhiễu nhương thường thấy, nên ngay trong thời gian nằm ở Dưỡng trí viện Biên Hòa, ông đã cùng những người đồng bệnh ra một tập thơ có tên là “Thơ điên thứ thiệt” (1970), trong đó có Bùi Giáng cùng nhiều “bạn điên” khác của ông. Một tập thơ rất độc đáo, lạ lùng.


Tập “QE HUONG” do Nguiễn Ngu Í thực hiện năm 1969, được coi là một “kỳ thư” qua Lời giới thiêu của Nguyễn Hiến Lê.
Trong một bài thơ ông viết:
Ta đi lang thang
Ta nói tàng tàng
Ta cười nghinh ngang
Ta chửi đàng hoàng
(Bài thơ tự giết, 1966)
”Chửi đàng hoàng” quả không phải là chuyện dễ, nhưng với ông thì ông làm được. Nhưng chửi ai? ”Chửi cả và thiên hạ, trong đó có mình”, đó là cái tựa của một bài thơ khác của ông.
Nhưng tại sao điên? Dĩ nhiên là có một số tế bào thần kinh nào đó bị rối loạn, bị xáo trộn, nhưng điều đó không quan trọng, điều quan trọng là cái lòng ông, cái chí ông, cái tình ông đối với cõi đời, với con người, với quê hương và đất nước, với gia đình, bè bạn, anh em… Cái tình đó vĩ đại quá, bao la quá, nên không nhốt được trong những sợi dây thần kinh chật hẹp bình thường của một kiếp người.
Chẳng hạn, có lúc tỉnh táo, ông viết:
Kiếp sau xin cứ làm người
Còn bao nhiêu việc trên đời, còn bao…
(Kiếp sau, 1947)
Ông làm câu đối cho cha mình, ông Giáo Hoàn, người đã tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục:
Mắt mở, đã thấy xiềng nô lệ
Hồn đi, còn mơ gió tự do
(Thầy, 1953)
Rồi khi ông dạy sử, ông viết:
Ba trăm quyển sử to dày
Cũng không sánh được một ngày tự do
(Học và hành, 1955)
Ông viết cho mẹ, có lẽ đây là bài thơ viết về mẹ cảm động nhất ở một người con điên:
Má ơi, con má điên rồi
Má còn trông đứng đợi ngồi mà chi
(Má, 1950)
Năm 1960, trong chuyến về quê cải táng mộ cho song thân, đến Nước Nhỉ, khi nằm nghỉ dưới những tán cây dứa đầy gai nhọn, bên cạnh đống gạch đổ vụn, ông viết một bài thơ nhớ về những người bạn thuở thiếu thời của mình ở quê hương ”Núi Cú Hòn Bà”:
Nằm đây mà ngó lên trời
Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa
Nằm đây mà nhớ mơ hồ
Những xanh tóc ấy bây giờ về đâu?
Đó là lúc ông đã vào tuổi bốn mươi. Rồi khi đến Ngãnh Tam Tân, nơi quê ngoại của ông, nơi ông đặt sẵn ngôi mộ cho chính mình, ông cảm khái nhìn ra biển xanh, núi biếc, với những hàng dương vi vút gió:
Em có đến… mà không anh đón tiếp
Cát mịn này sẽ mơn trớn gót chân em
Em có đến mà anh không đứng đợi
Biển khơi này sẽ thỏ thẻ chuyện đời anh

Phải rồi, cái quê hương nhỏ bé đó của ông, quê hương Núi Cú Hòn Bà (nay là Lagi- Hàm Tân), nơi mà từ thuở đôi mươi ông đã mang những lý tưởng độc lập tự do về gieo mầm ánh sáng, ông đã không bao giờ quên, mà những người thân yêu ở nơi chốn heo hút đó cũng đã không bao giờ quên ông.
Có một bài thơ khác của ông mà nhiều người cùng quê không mấy ai không nhớ:
Nhè nhẹ sương bông ôm núi lịm
Êm đềm cây cỏ đắm trong mơ
Tiếng chuông đâu bỗng run lòng đá
Ngó xuống trần ai, thấy: mịt mờ
(Từ chùa Núi Cú nhìn xuống Hòn Bà, 1964)
Thơ của ông có thể người ta thích, có thể người ta không thích, nhưng đọc thơ ông bao giờ cũng có một cảm giác rờn rợn. Ông làm thơ rất nhanh, thơ như tự túa ra, ứa ra, nhiều bài sần sùi đọc cứ nghe ấm ách nhưng có những bài mượt như nhung. Đọc thơ ông mà hiểu ông thì thấy thương, thương một con người có chí, có lòng mà không sao đạt được những ước nguyện. Rồi thôi, rồi thành tro bụi như hai câu thơ viết sẵn cho đời mình:
Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi
Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi

Ông và tôi có tình ruột rà, mẹ tôi và ông là hai chị em con cô cậu ruột. Có lần ông nói hồi tôi mới sinh, ông đã đưa võng và đọc thơ cho tôi nghe! Có lẽ vì vậy mà khi lớn lên, được sống gần gũi ông, tôi luôn được ông sẻ chia những bài thơ, bài văn ông mới viết cùng biết bao chuyện tâm tình không thể ngỏ cùng ai. Nhiều bài thơ ông chép vội trên mảnh giấy gói đồ, phong bì, bao thuốc lá… Nhiều đêm ông lên cơn, đến đập cửa nhà tôi lúc hai ba giờ sáng, đọc thơ cho tôi nghe rồi chửi ”cả và thiên hạ”. Sau đó ông tắm táp, ăn uống chút gì đó rồi khệ nệ ôm một chồng sách ra đi. Trời can cũng không nổi! Hỏi đi đâu, ông nói không biết. Rồi có hôm nghe ông nằm giữa xa lộ Biên Hòa cho xe Mỹ cán, họ bắt ông chở thẳng vào Dưỡng trí viện, hôm khác lại nghe ông bắt đom đóm bọc trong khăn tay làm đèn đi giữa giờ giới nghiêm trong rừng cao su, cũng lại bị bắt đưa vào bệnh viện. Có lần tôi đến thăm ông trong Dưỡng trí viện, thấy ông ngủ say như chết, đưa mấy ngón chân giao chỉ to bè ra ngoáy xoắn vào nhau như tìm hơi ấm, tôi vẽ ngay một bức ký họa, ông thích lắm nhưng đã làm mất tiêu. Có lần tôi đưa ông vào bệnh viện Chợ Quán, người ta làm sốc điện cho ông, ông giựt đùng đùng như con cá nằm trên thớt. Sau đó ông bất tỉnh, xụi lơ, tay chân quặt quẹo, sùi bọt mép… Rồi khi tỉnh dậy, ông lại làm những bài thơ quái dị, nhiều bài rất hay.
Đọc thơ ông mà thương cho một kiếp người tài hoa, bất đắc chí.
Đỗ Hồng Ngọc

Văn Quang * Giã từ Đoàn Xuân Ngọc


Đặc điểm khác là ông không bao giờ tốn tiền đi dancing, không chơi bất cứ thứ “cờ bịch” nào, chỉ lai rai thích nhậu.

Thưa bạn đọc,
Ở vào cái tuổi tôi, cứ vài tuần lại nhận được tin buồn về một người bạn đã “ra đi”. Dù quen thân hay sơ đều thấy nao nao một nỗi ngậm ngùi. Vậy trong bài này, trước hết xin phép bạn đọc cho tôi được gác lại chuyện thời sự vào đoạn sau để được vĩnh biệt một người bạn rất thân của tôi vừa từ trần.
Đó là ông Đoàn Xuân Ngọc, tục gọi là Ngọc Chả Cá, nhưng trong những loạt bài phóng sự của tôi từ trước những năm 1975 đến sau 75, ông là một nhân vật chính, mang “biệt danh” Ngọc Toét. Lại phải xin nói ngay rằng mắt ông không hề toét, sở dĩ tôi tặng ông cái nick name này vì ông thường hay dụi mắt mỗi khi cao hứng đấu láo với bạn bè. Vả lại cũng để dễ dàng phân biệt với nhiều ông Ngọc khác như Ngọc Khùng, Ngọc Ghẻ…
Ông Đoàn Xuân Ngọc từ trần tại San Jose vào lúc 01 giờ 45 sáng 25-9-2012, hưởng thọ 81 tuổi. Ông sinh vào tháng 9 năm 1932, hơn tôi đúng 1 tuổi, tôi cũng sinh vào tháng 9 nhưng là năm 1933. Ông mất sau khi các con ông và bạn bè tổ chức mừng sinh nhật của ông đúng 1 ngày.
Nếu bạn đọc đã từng nghe nói đến món ăn rất nổi tiếng là chả cá Hà Nội, thì đó chính là gia đình ông Ngọc Toét đã khai sinh ra cái cửa hàng ấy và nó còn tồn tại cho đến ngày nay vẫn ở nơi chốn cũ và vẫn là căn nhà cũ. Hiện nay cửa hàng do người em ông trông coi, vẫn đắt khách và vẫn mang hương vị “ngàn xưa”. Thỉnh thoảng ông Ngọc Toét từ Mỹ ghé về “cưỡi ngựa xem... cá thôi”. Hai anh em ông này rất giống nhau, nhìn là biết ngay. Cũng cao cao, gầy gầy, xương xương, mặt cũng hơi dài dài, và… mắt cũng không toét.
Một điều đáng ngạc nhiên là ông Ngọc sinh trưởng trong “môi trường chả cá”, đúng là “con nhà nòi” mà không hề biết ăn mắm tôm. Đặc điểm khác là ông không bao giờ tốn tiền đi dancing, không chơi bất cứ thứ “cờ bịch” nào, chỉ lai rai thích nhậu.

Anh hùng ngõ Chả CáÔng Ngọc nổi danh một thời ở Hà Nội khi còn rất trẻ. Khi chưa quen biết ông, tôi nghe thiên hạ đồn rằng hồi Hà Nội còn thuộc quyền cai trị của Pháp (vào thập niên 40-50), mấy anh Tây lai, Tây thật, dân học trường Tây hay bắt nạt mấy anh học trò Việt. Chúng nó toàn là công tử “nhà mặt phố, bố làm to”, cũng y chang như các con ông cháu cha bây giờ vậy. Có thằng bố là chánh sở mật thám, có thằng là con một chánh sở phủ Toàn Quyền…
Nhưng có lần chúng chui vào ngõ Chả Cá đánh lộn, ông Ngọc liền cắt tai một thằng Tây con khiến cả bọn từ đó không dám vênh váo ở Hà Nội nữa. Thế là ông thành “anh hùng Ngọc Chả Cá”.
Cho đến năm 1953, ông được lệnh động viên vào khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ông ở Đại Đội 2, tôi ở Đại Đội 3, cách nhau một dãy nhà, giữa khu đó có một bãi cỏ, chúng tôi dùng làm sân bóng chuyền. Có những ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật không được đi phép ra Sài Gòn, chúng tôi quần thảo nhau ở bãi cỏ cho đỡ buồn. Tôi gặp “người hùng Ngọc Chả Cá” ở đó. Chẳng hiểu sao ông lại khoái tôi, rủ đi lên câu lạc bộ uống bia. Tôi không uống rượu từ nhỏ nên chỉ ngồi nhâm nhi ly cà phê.
Từ đó chúng tôi thân nhau, ông kể khối chuyện về những ngày thơ ấu. Nét đặc biệt nhất của Ngọc Chả Cá là nói chuyện rất có duyên mà không bao giờ cười. Ông nói thật hay bịa chuyện, nói dóc, chẳng biết đâu mà lần.
Có lần ông ngồi giữa Brodard với khá đông anh em, ông thản nhiên nói: “Tao mới gặp em ca sĩ XX… Em hỏi có biết tại sao mặt em bị rỗ hoa không?”. Anh em lắng nghe, ông nói tiếp: “Em kể, tháng trước mới cãi nhau với anh Hùng, anh ấy cãi hăng quá làm nước bọt bắn vào mặt em, thế là em bị rỗ hoa”. Những câu chuyện “ngất ngưởng” như thế khiến bạn bè rất khoái nghe ông đấu láo.
Từ đó, tôi lại có thêm một nhân vật phóng sự nữa là ông Hùng Sùi. Thật ra trong loạt phóng sự của tôi, có 3 nhân vật “trung tâm” là Ngọc Toét, Hùng Sùi và Mai Hắc Lào (đều là bạn thân của tôi), để làm “đối trọng” với 3 nhân vật ấy có 3 nhân vật “dân sự” là Pôn Húc Con, Pôn Húc Bố và bà Phán Phom.

Trên chuyến tàu ra Bắc
Tôi nhớ rất rõ, trên chuyến tàu Gascogne chở sinh viên sĩ quan từ Sài Gòn ra Bắc học stage cuối khóa vào khoảng cuối tháng 3 năm 1954, Đại Đội tôi và Đại Đội 2 học tại trường Commandos Nord Vietnam ở Bãi Cháy - Hạ Long; còn hai Đại Đội khác học stage ở Đồ Sơn. 3 ngày nằm trên tàu biển, Đại Đội tôi may mắn được nằm ở khoang tàu trên cùng, đỡ bị say sóng. Nhưng ngày 2 buổi đi xuống hầm tàu lấy cơm, vất vả hơn đi hành quân. Phải leo xuống chừng mười cái cầu thang hẹp té vừa đủ một người đi mới đến bếp. Hàng mấy trăm sinh viên sĩ quan chen chúc nhau, sức yếu, tôi lại chỉ nhờ vào tài “xung phong” của ông Ngọc Chả Cá và ông Hùng mới có cơm ăn.
Hai tháng ở trường Commandos quả thật gian nan, lúc đó mới biết cái cầu khỉ nguy hiểm như thế nào. Cơm để trên đỉnh núi, đi cano ra tập leo núi, không leo được đến đỉnh núi với 1 cái dây duy nhất thì nhịn đói. Còn phải học nhiều trò nguy hiểm nữa để trở thành một sĩ quan chỉ huy Commandos (hồi đó chưa gọi là Biệt Động Đội). Chúng tôi vẫn sát cánh bên nhau, chia sẻ những khó khăn và cùng tốt nghiệp khóa này.
Trở lại Trường Sĩ Quan Trừ Bị làm lễ mãn khóa xong là anh em xa nhau. Ông Ngọc về chiến đấu ở Sư Đoàn Bộ Binh, ông Hùng Sùi và Mai Hắc Lào về Nhảy Dù, tôi về làm huấn luyện viên Trường Comandos từ Bãi Cháy mới dọn vào Đồng Đế - Nha Trang (tháng 6-1954). Nhưng lại cái số, chỉ hơn một năm sau, tôi được lệnh về phục vụ tại Nha Chiến Tranh Tâm Lý thuộc Bộ Quốc Phòng.

Bài báo duy nhất của Đoàn Xuân NgọcVào thời kỳ chiến tranh mới bộc phát tại miền Nam Việt Nam (khoảng 1960), chưa có nhiều phóng viên nên tôi và anh em trong tòa soạn mấy tờ báo Quân Đội thường phải đi làm phóng sự chiến trường. Mãi sau này, khi chúng tôi huấn luyện được một khóa Phóng Viên Tiền Tuyến, gửi về công tác tại các sư đoàn, các anh ấy đều rất xuất sắc, lúc đó tôi mới đỡ phải khăn gói ra máy bay bất cứ khi nào cần.
Một lần tôi đáp trực thăng xuống mặt trận vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, trên cánh đồng giữa tỉnh Chương Thiện. Chiến trận chưa kết thúc hoàn toàn, đây đó còn vương mùi khói súng, thỉnh thoảng còn nghe tiếng đạn nổ. Vừa xuống máy bay, đã thấy ông Ngọc Toét chạy tới. Tôi hỏi đùa: “Mày đánh trận này sao?”. Ông Ngọc cười ha hả: “Tao đấm chứ không cần đánh”. Sau đó ông tường thuật lại chi tiết trận đánh này, tôi chưa ghi chép xong thì trực thăng đã cất cánh tới Quân Khu 4. Còn một số chi tiết, về đến tòa soạn, tôi phải điện thoại hỏi lại ông Ngọc. Ông tường thuật, tôi viết bài, sau đó ký tên chung bài “Tường trình của Đoàn Xuân Ngọc và Văn Quang” trên báo Chiến Sĩ Cộng Hòa.
Đó là bài báo duy nhất của ông Đoàn Xuân Ngọc.

Nhân cách đặc biệt của Ngọc Toét
Tôi phải nói thẳng ra là ông Ngọc có một nhân cách rất đặc biệt “không giống ai”. Ông quen biết nhiều, giao thiệp rộng từ “cánh giang hồ” đến “dân chơi Cầu Ba Cẳng” và cả những vị “ăn trên ngồi trước”. Nhưng với ai ông cũng cư xử giống nhau. Tốt là bạn, xấu là thù, rất rõ rệt, không cần màu mè riêu cua. Vợ một “ông lớn” nói ngang, ông “xạc” ngay tại chỗ. Ông luôn hết lòng vì bạn, không nghĩ đến mình. Vì vậy, bạn ông rất nhiều và ai cũng “khoái” ông. Tôi không dùng chữ “quý trọng”, bởi thật sự trong chữ “khoái” có cả lòng quý trọng rồi. Cái tin ông mất khiến anh em khắp nơi thương tiếc vô cùng, những cú điện thoại, những cái e-mail từ khắp nơi gửi đi, gửi đến tới tấp.
Mặc dù chúng tôi đều biết ông bị ung thư đến thời kỳ thứ tư. Vài tháng trước, khi điện thoại cho tôi, ông nói tỉnh bơ: “Tao đi khám, bác sĩ không cho thuốc gì hết, tao hết thuốc chữa rồi. Gửi lá đu đủ cho tao”.
Cháu Thanh, con gái ông về Sài Gòn gặp tôi, mang theo một bao lá đu đủ về Mỹ cho bố. Nhưng có lẽ đã là quá muộn. Tôi thường điện thoại hỏi bệnh tình ông, ông vừa đeo bình oxy vừa trả lời. Có khi khỏe, ông vui như Tết. Vẫn cái giọng “giang hồ”, bất cần đời, ông thản nhiên chấp nhận sự “ra đi”. Có lẽ những người bạn tôi, ở vào cái tuổi 80, ai cũng dễ dàng chấp nhận điều không ai tránh khỏi này. Nhưng ở ông sự chấp nhận ấy có vẻ “bình thường” như đi shopping.

Kỷ niệm cuối cùng
Trước đó một tuần, tôi gửi mail nhờ anh Hồ Đăng Trí sắp về Việt Nam, mua giùm chúng tôi 2 hộp thuốc tim mạch và cũng có lời dặn dò rằng nếu anh không lấy tiền, lần sau tôi không dám nhờ anh nữa. Anh Trí vui chuyện nói với ông Ngọc, ông nhất định đòi trả tiền 2 hộp thuốc. Ông Ngọc gọi điện thoại cho tôi bắt tôi phải nhận. Ông nói: “Tao sắp đi rồi, còn cái gì làm được cho mày thì tao làm”. Buộc tôi phải nhận. Ông linh cảm thấy ngày ra đi của mình nên trước khi Hồ Đăng Trí về Sài Gòn ngày 04-9, ông nói: “Chắc khi Trí về đến San Jose không còn gặp anh nữa đâu”.
Quả đúng như thế, Trí còn ở Sài Gòn, mới 5 giờ sáng đã gọi cho tôi báo tin ông Ngọc mất đêm qua rồi. Tuổi già không ngủ được, tôi thường dậy vào lúc 2-3 giờ sáng, lúc đó tôi đã nhận được hàng chục cái mail báo tin buồn này. Bà xã tôi khóc, tôi ngồi lặng, dù biết trước mọi chuyện sẽ phải đến như thế. Bà xã tôi kể lại là khi ông Ngọc về Sài Gòn ở nhà tôi, ông nói chuyện với một bà cô ở Hà Nội, bà xã tôi thấy ông chẩy nước mắt. Bà tự hào rằng: “Anh chơi với ông Ngọc gần hết cuộc đời mà chưa thấy ông Ngọc khóc. Em thấy rồi. Con người tình cảm của ông ấy sâu sắc lắm”. Có lẽ vì thế, ông có những người con trai và con gái ở bên ông rất có hiếu, rất thương bố. Cậu con trai đi làm về là buổi chiều đến tắm cho bố, con gái phục vụ bất cứ thứ gì ông cần. Mấy người con ông còn ở Việt Nam cũng hết lòng với bố như vậy.

Lời hứa năm trước không thực hiện được
Năm trước, ông về Hà Nội giỗ thân phụ, khi vào Sài Gòn, ông có nhiều bạn bè nhà cao cửa rộng, có ông còn có cả khách sạn, mời ông tới ở. Nhưng ông nhất định chui lên căn phòng nhỏ của tôi ở chung cư cùng chúng tôi. Ông chiếm cái bộ salon nhỏ, đồ đạc để đống dưới gầm bàn ăn, tiếp đủ loại khách ở đó, đêm nằm xem ti vi và nói chuyện đời xưa với tôi. Ông coi đó mới chính là cuộc sống của những anh già. Bảy ngày sau, khi ông gọi taxi ra phi trường về Mỹ, hai anh già cầm tay nhau, ông hứa: “Năm sau tao lại về với mày”.
Nhưng năm nay… không bao giờ ông Ngọc về lại cái chung cư nghèo nàn nhỏ hẹp này nữa! Ngọc ơi, ông ra đi có nhớ lời hứa này không? Hay là chúng ta hẹn gặp nhau ở một nơi vĩnh hằng?

Dân không ngu như các ông tưởng
Đến đây tôi trở lại với câu chuyện hàng tuần.
“Một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp, người dân chưa có hành động quyết liệt trong việc đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, ngược lại còn đồng tình, tiếp tay cho hành vi tiêu cực, tham nhũng để giành được lợi thế trong kinh doanh hoặc được ưu tiên giải quyết công việc”.
Đó là nhận định gần đây nhất, trong buổi báo cáo tại phiên họp của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội Việt Nam đầu tuần trước trong báo cáo công tác phòng chống tham nhũng năm 2012.
Nói rõ ràng hơn là nhận định này đổ tội tham nhũng lên đầu dân. Rõ ràng hơn nữa là tại người dân ngu quá nên mới có tham nhũng hoặc không diệt được tham nhũng vì “mấy anh dân đen”, cứ thích đút tiền cho quan để được giải quyết công việc nhanh chóng, chứ không phải do quan muốn “ăn tiền”. Quả là một nhận định “sâu sắc quái gở”. Có anh dân đen nào lại thích mang tiền mồ hôi nước mắt - có khi là cả máu - của vợ con mình đi dâng cho người khác. Có là khùng! Ông dân này vào nhà thương điên Biên Hòa từ lâu rồi.

Đút lót xong là muốn… chửi!Xin thưa thật một điều rất thật là anh dân đen đút tiền cho quan có chức có quyền, được một chữ ký xong là anh dân đen muốn chửi thề rồi. Chẳng qua anh ta không dám chửi ở nơi công sở vì sợ các ông… bỏ tù thôi, chứ về nhà là ông chửi vung thiên địa, chửi với vợ con, chửi với hàng xóm và ông ta sẽ “ghi nhớ đời đời” vụ đút lót này chứ không thể quên. Nhưng ra đường thì anh dân đen lại sống ngoan ngoãn… dưới pháp luật, dù pháp luật đôi khi vô tình với anh ta. Chẳng qua là anh dân đen không dám nói công khai vì nói công khai thì anh ta tiêu đời, bởi luật pháp quy định rằng người hối lộ cũng có tội, đi tù như chơi.
Quy định hiện hành thực chất đặt người đưa hối lộ và nhận hối lộ vào thế cùng thuyền.
Ông Trần Đức Lượng, phó tổng thanh tra Chính Phủ nói rằng: “Thực tế hiện nay có những trường hợp đưa hối lộ do bị gợi ý, ép buộc nhưng vì sợ ảnh hưởng đến công việc, quyền lợi của mình nên buộc phải chấp nhận. Tuy nhiên, nếu sau đó người đưa hối lộ tố cáo thì lại có thể bị truy tố vì tội đưa hối lộ”. Thật ra người đưa hối lộ hầu hết bị ép buộc chứ chẳng ít có ai tự nguyện, trừ thành phần bị bắt quả tang trộm cướp lừa đảo muốn chạy tội.

Cái sự đời tròng tréo
Mà anh dân đi tù thì đúng ngày đúng tháng mới được tha, chứ còn quan, tiếng là tòa xử đi tù lâu hơn, tội nặng hơn nhưng thường được giảm án tùm lum, có khi còn ra tù trước cả người mang tiền đi hối lộ.
Ấy cái sự đời nó tròng tréo như thế nên anh dân không dám ho he. Không dám ho he không có nghĩa là anh ta ngu, càng không có nghĩa là “dân trí kém”. Anh ta biết hết, hiểu hết, ghi nhớ lâu dài, nhưng không nói ra mà thôi. Chẳng tin thử làm một cuộc khảo sát 100 người dân xem, chắc chắn sẽ được câu trả lời là “bây giờ tham nhũng nhiều quá, đếm không hết, kể không xuể”. Tại sao anh “dân ngu” không nói? Còn một lý do dễ hiểu nhất là nói ra cũng bằng thừa, nó là thứ chuyện ai cũng biết như “đói phải ăn, khát phải uống” chứ có gì lạ đâu.
Cũng may, ngay sau khi báo cáo đọc, phó chủ tịch Quốc Hội Huỳnh Ngọc Sơn đã nói: “Dân không bao giờ muốn bỏ tiền nhà đi đút lót, vì các ông đòi ăn nên dân mới phải đút. Không nên nhận định người dân tiếp tay cho tham nhũng, sẵn sàng bôi trơn. Chỉ vì các ông tham nhũng buộc người dân đưa hối lộ thì người dân mới đưa cho ông”.

Ai được quyền đòi hối lộ?
Một thí dụ cụ thể trong… vô vàn thí dụ, trong tuần này, vụ án vừa được xử tại Bình Dương: “Thư ký tòa vòi tiền người đi kiện”.
Tạ Duy Việt được phân công tham gia vụ xử ông Tống Văn Đoàn (xã Thuận Lợi, huyện Động Phú) kiện đòi ông Lương Viết Chính (cùng xã) trả nợ 160 triệu đồng. Viên thư ký tòa này nhiều lần gọi điện thoại yêu cầu ông Đoàn phải “bồi dưỡng” 15 triệu đồng mới can thiệp cho vụ án mau xét xử.
Ông Đoàn đồng ý đưa 5 triệu đồng nhưng Viết chê ít vì “cả ê kíp làm việc đâu phải chỉ mình tôi, bao nhiêu đó sao đủ”. Thấy thái độ vòi vĩnh của Viết quá quắt, nguyên đơn đã tố cáo.
Sáng 22-5, ông Đoàn báo tin là đã đủ tiền đang đậu xe máy ngay trước cổng toà, Viết liền chạy xe ra nhận 15 triệu đồng thì bị bắt quả tang.

Tha bổng cho người tố cáo tham nhũng
Những sự việc như thế là chuyện quá quen thuộc với người dân. “Cả ê kíp” đều ăn chứ chẳng riêng gì anh thư ký còm. Nhỏ thì vài chục triệu đồng, bắt chẹt từ anh khố rách áo ôm, đến lớn thì vài trăm triệu, vài tỉ đồng là “chuyện tất nhiên”, nhưng hàng trăm vụ mới có một vụ bị lôi ra ánh sáng. Bây giờ đã trở thành quá trắng trợn, quan đòi “đúng giá”, dân xin bớt, cò kè bớt một thêm hai như hàng tôm hàng cá giữa chợ, liêm sỉ không còn chỗ đứng. Người dân bán nhà, bán ruộng “chạy” cho quan ăn. Vậy mà khi tố cáo cũng có tội.
Cho nên, rất có lý khi ông Huỳnh Ngọc Sơn đề nghị: “Bổ sung quy định xem xét giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý đối với người đã đưa hối lộ do bị ép buộc nhưng chủ động khai báo” vào dự án Luật Phòng Chống Tham Nhũng (sửa đổi).
Trong trường hợp ở Việt Nam, nạn tham nhũng đã trở thành “đại quốc nạn”, cần phải có một quan niệm về pháp lý rộng rãi hơn, phù hợp với tình hình hiện tại. Người dân sau khi đã đút lót cho quan, tự đứng ra khai báo thì được tha bổng, miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Đó cũng là một cách khuyến khích người dân mạnh dạn tố tham nhũng, đỡ mất công úp mặt vào lu nước chửi thề cho hả dạ, vợ đỡ phải nghe những đêm ông chồng ấm ức không khác nào bị cướp, làm mất hạnh phúc. Nguy hại hơn nữa là ảnh hưởng tới tương lai của các con, bọn trẻ sẽ mang mãi bộ mặt xấu xa này của xã hội và có thể chúng sẽ nuôi cái mộng bằng mọi cách để được làm quan, để được ăn hối lộ, như thế tương lai của lớp trẻ sẽ bị đầu độc vô cùng tai hại.

Lại đến chuyện ông chủ ngân hàng chê dân trí thấp
Trả lời phỏng vấn của phóng viên báo chí, ngày 25-8-2012 vừa qua, một quan chức ngành ngân hàng nói rằng: “Do dân trí, tập quán ở Việt Nam chưa cao như ở một số nước. Rất nhiều người dân hiện nay đi gửi tiền nhưng cũng không để ý đó là ngân hàng tốt hay xấu. Có khi chỉ vì ngân hàng này ở ngay đầu ngõ nhà mình nên mang tiền đến gửi cho thuận tiện. Nên cách làm của chúng tôi là tái cấu trúc từ bên trong để ngân hàng lành mạnh lên...".
Ông này nói có phần đúng nhưng là đúng với tình hình ngân hàng cách đây một năm, ngân hàng chưa có “vấn đề gì” đáng lo ngại. Còn sau vụ hàng loạt quan chức có dính líu đến ngân hàng bị điều tra khởi tố thì người dân khôn hơn nhiều. Người ta đã tìm đến những ngân hàng lớn hơn, vững vàng hơn, có lời hơn để gửi tiền. Phải nói thẳng là người dân còn khôn hơn ngân hàng của các ông nữa đấy. Bằng cớ là hiện nay hầu hết các ngân hàng đều có những “chiêu” khuyến mãi rất hấp dẫn, ngân hàng lách lãi suất, mời gọi khách hành bằng đủ kiểu kể cả việc gọi điện thoại cho người gửi tiền có số lượng khá lớn từ 1 vài tỉ trở lên. Người dân không dại gì tin ngay vào những lời quảng cáo đường mật này của các ông. Họ còn nghe, còn nhìn, còn so sánh giữa ngân hàng này và ngân hàng khác chán ra rồi mới đem tiền đi gửi. Họ gửi tiền vào những ngân hàng có uy tín, tình hình tài chính lành mạnh. Tuy nhiên, người dân nào cũng nơm nớp đề phòng, có “biến chuyển gì” là tức tốc đến rút tiền ra ngay, dù anh có “mạnh” tới đâu chăng nữa.
Đừng tưởng dân ngu hơn các ông.

Đợi đến bao giờ mới có luật biểu tình?Một số vị khác đổ cho dân trí thấp cũng không phải là ít. Bên lề phiên họp Quốc Hội ngày 17-11-2011, đại biểu Quốc Hội Hoàng Hữu Phước khi trả lời báo chí đã nói rằng: “Khi nào trình độ dân trí cao hơn và kinh tế ổn định hơn thì mới có thể ban hành luật biểu tình”.
Vậy có phải vì dân trí thấp mới bầu ông làm đại biểu? Và ông nói đợi khi nào trình độ dân trí cao và kinh tế ổn định mới ban hành luật biểu tình thì đợi đến bao giờ? Năm sau hay 10 năm nữa? Sao ông không nói luôn rằng khi nào dân trí cao mới nói đến chuyện tự do dân chủ? Bởi sẽ có nhiều “kẻ xấu” lợi dụng tự do dân chủ, phản đối linh tinh. Còn bây giờ, ông cứ ra cái luật nào là người dân cứ cắm đầu thi hành, đừng có lộn xộn vì dân trí còn thấp?
Hàm ý của câu nói này khá rõ ràng nên cũng nhanh chóng vấp phải những phản ứng mạnh mẽ trong dư luận. Ngay chính trên diễn đàn Quốc Hội, nhiều đại biểu Quốc Hội khác khi thảo luận về vấn đề này đã ủng hộ đề nghị của Chính Phủ là cần xây dựng luật biểu tình. Thế thì, hà cớ gì đại biểu Hoàng Hữu Phước lại cho rằng, trình độ dân trí Việt Nam chưa cao để xây dựng dự án luật biểu tình? Nếu có luật và áp dụng đúng luật, ít nhất người dân cũng hiểu được biểu tình thế nào là đúng luật, biểu tình kiểu gì thì bị bỏ tù?
Đừng đổ tội cho dân trí thấp. Hãy nhìn lại xem mình thấp hay cao hơn dân. - (VQ)