văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Friday, December 21, 2012

Võ Thị Điềm Đạm * DẤN THÂN VÀO MIỀN TUYẾT LẠNH






Cõi trần thế lỡ đam mê sa đọa
Mãi rong chơi ta lạc lối quay về.

Phan Bá Thụy Dương



 

Cái mốt từ hàng trăm năm của người Na Uy vào dịp lễ Phục Sinh là lên nghỉ mát ở miền núi, ở khách sạn, thuê nhà nghỉ mát hay gia đình có nhà nghỉ mát riêng. Nghĩ tới chuyện có nhà nghỉ mát riêng, Thanh cứ cười hoài về cái tội "dại khờ" của ngưới Na Uy, trong đó có chồng mình. Ông bà nội, Thanh quen gọi ba mẹ chồng là ông bà nội, vì ngược ý nhau về chuyện tậu nhà nghỉ mát nên không tát được biển Đông. Cậu con trai duy nhất của ông bà lãnh trách nhiệm làm tròn ước mơ lớn nhất đời người của ba mẹ cũng như đa số người Na Uy. May mắn cho cậu quí tử này là cô vợ chẳng quan tâm gì đến cái chuyện sẽ tậu nhà nghỉ mát ở miền biển, miền suối, cạnh sông hồ hay miền núi cao. Cô nàng càng không có cơ hội dành tới dành lui với chồng để cất nhà nghỉ mát gần quê quán mình như ông nội bà nội của lủ con. Bởi một lẽ đương nhiên là quê cô nàng ở tận Việt Nam, chứ không phải cô nàng hiền lành lắm đâu mà khen là: Đi đâu cho thiếp theo cùng, đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo.

Lấy nhau mới được sáu năm, nợ nhà còn chồng chất, chưa có khả năng đi du lịch nước ngoài, thế mà Thanh ngờ nghệch nghe lời dụ ngon dổ ngọt của chồng, thấm lời tán tới tán lui của ông bà nội, Thanh gật đầu ký giấy nợ thứ hai, giấy nợ mua "đồ chơi". Thanh còn cố vớt vát ra điều kiện, như để chứng tỏ cái quyền làm người bạn đường của mình: "Anh phải tự lo mọi chuyện, lo luôn cả mọi chi phí có liên hệ đến căn nhà nghỉ mát này. Nội cái chuyện lo cho anh cho con, em cũng đủ mõi rồi, em không rảnh rang đâu mà chung vai gánh vác với anh ba cái chuyện "ăn chơi" này". Tưởng gì, chuyện này dễ ợt, anh chồng gật đầu cái rụp. Thanh bị lừa, chính mình lừa mình. Với cái tính năng động, mau mắn và hay "tranh quyền", dễ gì Thanh chịu ngồi chơi, gát cẳng lên ghế đẩu đọc báo để anh chồng lo lắng, quyết định mọi chuyện ngay trước mắt mình. Và anh chồng cũng quên luôn lời hứa, hay tảng lờ, hay quen tánh, chuyện gì có liên quan đến "món đồ chơi" này, anh cũng hỏi ý vợ, cũng rủ vợ đi mua sắm, cũng nhờ vợ xăn tay áo phụ. Thế là bản hợp đồng không văn bản, không chữ ký bay theo mây khói trong khi cô vợ tưởng mình khôn ngoan, không chút vấn vương. Thật ra thì... Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi. Giậm ra nát ván, thuyền thì long đanh. Đôi ta lên thác xuống ghềnh. Em ra đứng mũi cho anh chịu sào.

Kỳ lễ Phục Sinh, năm đứa con đầu lòng chưa thôi nôi, đến phiên Eirik được sở làm "tặng" một tuần tự do xử dụng một trong những nhà nghỉ mát cho nhân viên. Đã quen theo chồng đi chơi miền núi từ cái thủa duyên tình mới thấm, chuyện đem đứa con gái chưa biết đi lên miền núi vào mùa tuyết lạnh, đối với Thanh không có gì trở ngại. Với một cái "nôi" bọc kính cách nhiệt, để con bé nằm êm ấm trong hai lớp lông cừu mềm trắng tinh, Eirik kéo, mang con đi khắp vùng núi đồi trùng điệp và Thanh ráng đuổi theo phía sau. Cái nôi hình bầu dục thon dài cở một mét, rộng sáu mươi centimet, lớp nhôm cứng cách nhiệt bao mọi bề, cái nắp bằng nhựa trong cứng, mở chỉ một nửa, lớp đệm dầy lót lưng... mọi thứ, hội đủ điều kiện để làm an lòng bậc cha mẹ muốn đem theo con nhỏ trong những chuyến đi ski miền núi. Hai bên "cái nôi" là hai cần nhôm dài độ ba mét, đường kính hai centimet. Ở đầu kia, một bảng dây nịt da dầy nối hai cần nhôm dài, đeo vào bụng người kéo. Trợt đôi ski phía sau để canh chừng con bé hầu như lúc nào cũng ngủ mê mang trong cái khí lành lạnh trong sạch, trên lớp tuyết như tấm mền nhung khổng lồ trắng toát, nhìn Eirik kéo "cái nôi" lên dốc, xuống dốc, lách cây thông này, cua quẹo đường kia, Thanh cười thầm: Không khác gì cảnh người phu kéo xe ngày xưa, nhưng coi bộ nhẹ nhàng uyển chuyển, không vướng víu chi cả, còn đi nhanh hơn mình nữa. Đã sinh ra kiếp làm trai. Đèo cao núi thẫm, sông dài quản chi!

Sau kỳ lễ Phục Sinh đó, Eirik mê vùng núi này, vùng núi nằm giữa Valdres và Hallingdal, vùng núi tuyết thênh thang trùng điệp, chưa bị loài người mon men tới cất nhà nghỉ mát nhiều. Eirik xây mộng vàng. Để tâm, âm thầm theo dõi thị trường "nhà nghỉ mát", mấy năm trời, đến khi đứa con gái thứ hai được bốn tuổi, vùng núi Fledda với độ cao một ngàn mét được tung ra thị trường, mười tám khu đất được phép cất nhà nghỉ mát. Eirik bắt đầu thổ lộ với vợ giấc mộng vàng của mình, thổ lộ một cách có kế hoạch, đưa vợ vào con đường hoa thơm bóng mát bằng cách lựa đúng thời đúng lúc, ngày chủ nhật. Nịnh vợ chuyện này, giúp vợ chuyện kia, chịu khó hỏi vợ thích xem chương trình TV nào tối nay (chuyện này năm khi mười họa, thường thì Thanh phải thừa cơ hội thủ cái TV-remode để không cho Eirik coi đá banh cuối tuần, dễ gì!), mời vợ dĩa hột đào rang thơm bên cạnh ly bia nhẹ... Và cô vợ dầu đường đời đã dài nhưng lòng vẫn còn non dạ vẫn còn dại, lắng tai nghe, nào là: “Đây là khung trời con gái thứ hai của mình được thành hình, em nhớ không, tính cho đúng ngày đi. Trẻ con được sống hòa đồng với thiên nhiên từ thủa nhỏ sẽ yêu thích cây cỏ thú vật, đời sống sẽ phong phú, biết coi trọng những giá trị của đất trời ban cho. Cơ thể trẻ con phát triển nhanh mạnh khi được hít thở không khí trong lành, chạy chơi thoải mái, vận động hết năng lực đang lớn, làm giàu trí tưởng tượng, óc sáng tạo. Giá nhà nghỉ mát không bao giờ xuống. Xe đậu chỉ cách nhà có hai trăm mét, không phải đi bộ xa như đa số các nhà nghỉ mát miền núi. Mình có thể thay đổi cách thức sắp xếp phòng trong nhà theo ý, có thể lựa chọn nhà lớn nhỏ theo ruột tượng. Thí dụ như chỉ năm mươi mét vuông mà có được hai phòng ngủ là kiến trúc sư giỏi lắm đó. Thời đại tân tiến, cầu tiêu khô nằm trong nhà chứ không phải cách xa nhà cả mười mét như các nhà nghỉ mát đã cất từ lâu. Hệ thống hơi ga để nấu nướng, nấu nước nóng, chạy tủ lạnh. Hệ thống dùng năng lượng mặt trời cho đèn đuốc, TV, radio. Tuần tới mình lên coi địa thế, lựa chọn, ai quyết định trước, người đó được lựa chỗ trước. Chỉ cần ba giờ vừa lái xe vừa nghỉ ngơi là mình tới nơi, không phải qua phà, không phải xuống đường hầm nào hết. Anh đã tính đâu ra đó, không sợ đổ nợ, ông bà nội sẽ dùng căn nhà của ông bà để bảo đảm cho mình mượn tiền nên giá tiền lời thấp. Mình thực hiện được giấc mơ của ông bà nội... ha...ha... con hơn cha là nhà có phước.

Trở lại cái "dại khờ" Thanh gán cho chồng cũng như đa số người Na Uy khi tậu nhà nghỉ mát là: Với đầu óc tự khen là mình giỏi tính toán, Thanh vạch cho Eirik thấy rằng nếu tính tất cả những chi phí, cộng tiền lời nhà băng, cái giá dùng nhà nghỉ mát mỗi ngày bằng tiền ở khách sạn. Lỗ nữa chớ, vì mình phải tự làm giường, tự lau nhà, tự dọn dẹp. Có nhà nghỉ mát rồi, không muốn và không thể đi chơi những nơi khác, vì như thế thì phí của trời quá. Mỗi kỳ nghỉ lễ, mình có cảm tưởng như phải lên nhà nghỉ mát thăm "nó" cho phải đạo, không được du lịch chỗ này chỗ kia. Cái nhà phải có để an cư là đủ lắm rồi, bây giờ đèo thêm "món đồ chơi" này, đèo thêm gánh nặng trên vai, cũng vì "nó" mà ruột tượng lúc nào cũng xẹp lép, cả năm mới được đi ăn nhà hàng vài ba lần. Cái khờ dại lớn nhất của con người là tự ràng buộc cuộc sống tự do mình vào của cải vật chất... để rồi... Vua Ngô băm sáu tàn vàng. Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì. Chúa Chổm uống rượu tỉ ti. Chết xuống âm phủ kém gì vua Ngô!

Những lúc cằn nhằn chồng như thế, Thanh cố tình quên đi những ưu điểm về phần phát triển của con cái mà chính Thanh cũng đồng ý với Eirik từ đầu. Thanh cố tình quên đi cái giá nhà nghỉ mát tăng nhỏ giọt đều đều mỗi năm. Thanh cố tình quên đi những lần họp bạn, họp gia đình đầm ấm bên ánh lửa ngời ngời nổ lách tách trong lò sưởi giữa không khí yên tĩnh núi rừng. Thanh cố tình quên cái hãnh diện ngấm ngầm khi khoe khoang với bạn bè trong sở: Tui là người ngoại quốc, tui cũng có nhà nghỉ mát như ai vậy chớ bộ, tui cũng thuộc vào một phần ba của bốn triệu rưởi này, cái một phần ba những người có nhà nghỉ mát! Chữ rằng "hổ tử lưu bì". Làm người phải để "danh gì" hậu lai!

Nhà nghỉ mát nằm trên vùng núi cao một ngàn mét, ba bề khuất mình giữa những cây thông, cây bạch đàn già mấy trăm năm để tránh gió bão khắt nghiệt miền núi, một bề mở rộng tầm mắt từ khung kính lớn phòng khách là cả một vùng đất trời bao la, núi tiếp nối núi, mặt đất tiếp nối chân trời, màu nâu xám đất đá tiếp nối màu xanh bầu trời. Dòng suối róc rách uốn lượn quanh nhà, cung cấp nước dùng cả năm. Cái đầu óc "đầy sáng tạo" của Thanh nhìn ngay cơ hội, một hồ tắm tí hon cho tụi nhỏ. Nghĩ là làm, nhưng đâu có chịu làm một mình, Eirik thì đương nhiên phải theo (không theo ý vợ, vợ giận lẫy không giúp mình sơn nhà thì buồn lắm!), vợ chồng cô em của Thanh cũng phải theo (chị biểu mà!), 4 đứa nhỏ từ năm tuổi đến chín tuổi cũng phải theo (làm hồ tắm cho mình mà!), theo kế hoạch đào hồ lấp bờ. Một khoảng suối bên hông nhà nở khá rộng, khá sâu, nhưng không đủ sâu để lủ nhỏ quậy quậy tay chân bơi vài sãi cho đỡ ghiền. Thanh điều động mọi người thay quần đùi, nhảy xuống suối lạnh ngắt, khênh những tảng đá dưới lòng suối, đắp ngăn nước, chỉ cho nước thoát qua khe đá. Một buổi trưa chớ mấy, cái hồ bơi thiên nhiên thành hình, sâu một mét, có chỗ sâu đến mét rưởi, dài bốn mét, rộng ba mét, nước luân lưu, lý tưởng quá rồi! Còn được thưởng bữa thịt nướng thơm vàng bên cạnh bờ hồ, ai nấy ngã lưng dựa đá ngồi nghỉ ngơi, ngắm đàn con tung tăng dưới nước, bơi bơi vài sãi, vội nhảy lên bờ trùm khăn co ro vì nước suối miền núi lạnh quá. Để vớt vát sáng kiến lấp núi vá trời của mình, Thanh hứa: "Kỳ tới má mua một cái thuyền nhỏ cho mấy đứa chèo chơi." Và cái hồ bơi này mỗi năm được tụi nhỏ dùng vài ba lần, vài năm, trẻ con cao lên mà mực nước không chịu cao theo, nên... nhưng... có còn hơn không, có còn hơn không.


Sống lâu năm ở cái xứ hoa tuyết, Thanh bị nhiễm cái tính khoe khoang rất ư là "con nít" của người Na Uy: Màu da nâu hồng sau mỗi kỳ lễ Phục Sinh, một chứng minh cho sự dư tiền dư của, một chứng minh ta đây không cô đơn ở nhà một mình trong những ngày lễ. Và cũng vì cái món đồ chơi này, lễ Phục Sinh năm nào gia đình Thanh cũng đi nghỉ ở miền núi. Muốn hay không muốn, cũng phải! "Bao nhiêu người ao ước được đi nghỉ mát miền núi mà không có phương tiện, đừng điệu hạnh!" Eirik mắng Thanh mỗi lần Thanh cự nự than thở. Than thì than Thanh vẫn nhắm mắt theo thời, làm đúng bổn phận người nội trợ, sắp xếp đâu ra đó cho mỗi chuyến lên núi. Thức ăn thức uống đã chuẩn bị từ tuần trước, đồ hộp, món ăn đong đá, bánh mì đong đá, món tráng miệng đong đá, chỉ rau cải, trứng, trái cây, kẹo bánh, thịt nguội và nước uống là tươi. Đường đi từ con lộ liên xã 243 lên núi rất khó chạy xe vì dốc cao, ngoằng nghèo, rất trơn và thường thì vào mùa đông, chỉ loại xe máy mạnh, bánh xe đinh mới lên dốc an toàn. Không muốn mất công lái xe xuống làng để mua thêm thức ăn, Thanh chuẩn bị tất cả, từng bữa ăn, từng ngày, mọi vật dụng nên thùng xe đầy nhóc. Thanh thường tự khen: Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm.

Năm nay đường lên núi không trơn mấy, trời cuối tháng ba đến sáu giờ chiều vẫn còn nắng. Đương nhiên là không thể lái xe đến tận cửa, xe ngừng cách nhà hai trăm mét, Eirik đeo "đôi rổ tre" vào chân, mở đường đi trước. Từ sau kỳ nghỉ lễ mùa đông cách đây bảy tuần, tuyết rơi không biết bao nhiêu bận, con đường mòn được đi tới đi lui nhiều lần nên cứng nền, nay đã mất. Bây giờ phải đi, phải dẫm để làm đường mòn mới. "Đôi rổ tre" là một cứu cánh để từng bước chân không bị lún xuống năm ba chục centimet. “Đôi rổ tre” như cái rế đan bằng tre, bẹt, hình bầu dục, rộng độ ba mươi centimet, dài độ năm mươi centimet. Bề mặt "đôi rổ tre" tiếp xúc với tuyết phải rộng để cái thân thể bảy mươi lăm kilogram lún xuống ít ít thôi, đi đứng dễ dàng hơn. Hai tay xách bịch, lưng đeo ba lô, Eirik dẫm đi từng bước mở đường một mình. Dẫm dẫm trên đường trở lại. Thế là đường mòn được dẫm hai lần, nền tương đối cứng hơn. Lúc này ba mẹ con Thanh mới ra khỏi xe, xông vào nơi tuyết trắng, tay không cho người nhẹ dễ đi, mọi xách bị đều nhường phần Eirik vì chỉ Eirik mới có "đôi giầy rổ tre". Cả ba theo chân Eirik, bước được vài bước, chân phải lún sâu tới đầu gối. Xoay trở rút chân lên, được vài bước, lại lún sâu qua đầu gối. Cứ thế, hụp xuống trồi lên vì lớp tuyết quá dầy, quá mềm, hai lần dẫm tới dẫm lui không đủ cứng. Không thể quay lui để chờ Eirik đi dẫm thêm vài lần nữa được, nhưng lao đao quá, mõi quá, có khi lún cho tới háng, rút được chân này lên thì chân kia lún tiếp, Thanh hô to: "Bò con ơi!" Thế là ba mẹ con dùng chiến thuật bò. Bằng đầu gối và ống quyễn, hai bàn tay chống lấy thế, chiều cao thân hình thấp xuống, phần cơ thể tiếp xúc với mặt tuyết chia làm bốn điểm nên không bị lún nữa. Cứ theo đường mòn mà bò, cũng tới nơi, bò gần hai trăm mét chớ ít sao! Đi một quãng đường, học một sàng khôn!

Eirik tiếp tục theo đường mòn đi tới đi lui để mang tất cả đồ đạc vào nhà, tay xách lưng đeo. Căn nhà nghỉ mát nằm ướp lạnh bảy tuần sau kỳ lễ mùa đông, độ lạnh trong nhà mười độ âm, độ celcius, tương đương mười bốn độ Fahrenheit. Áo khoát, nón len, găng tay chưa được cởi ra, chỉ thay giầy bằng đôi giầy nỉ ấm trong nhà. Công việc đầu tiên của Thanh là đốt lò sưởi, một lò sưởi hơi ga, một lò sưởi củi. Củi đã chất sẳn trong nhà, nếu không là phải ra ngoài đào tuyết mà tìm củi, kinh nghiệm mấy năm trời! Tất cả đồ đạt trong nhà đều lạnh cứng, từ đôi đũa cho tới cái mền, cái ghế, toàn bộ lạnh ngắt. Không phải hơi nóng từ hai lò sưởi chỉ có bổn phận làm ấm không khí trong nhà không thôi mà tất cả mọi thứ đều phải được sưởi ấm thì mức xanh trên hàn thử biểu treo trên tường mới bắt đầu nhúc nhích lên dần dần. Công việc thứ hai Thanh phải làm là đun tan ba cái nồi nước đã được chứa sẵn, nay biến thành đá cục, bằng cách đặt ba nồi nước đá lên lò sưởi củi. Nấu ba ly ca cao nóng, sưởi từ trong ra ngoài! Một tiếng đồng hồ sau, hàn thử biểu chỉ năm độ dương, ba nồi nước đá đã tan thành nước, đủ dùng cho đến bữa điểm tâm hôm sau. Sau một tiếng đồng hồ đốt, bàn sắt trên lò sưởi nóng hừng hực, đụng tay vào là phỏng. Để tiết kiệm hơi ga, Thanh dùng lò sưởi củi làm cơm chiều. Giờ này Eirik vẫn chưa xách hết bị, giỏ từ cái thùng xe, về nhà. Làm thì làm cho trót, gọt thì gọt cho trơn!

Bóng hai cây đèn cày màu vàng lung linh trên bàn ăn, bốn cái dĩa sâu đã được hâm nóng bằng cách để lên lò sưởi củi. Thức ăn chiều chỉ là một nồi lớn gồm nửa lít sữa tươi, khoai tây, cà rốt luột chín, cắt nhỏ chừng bằng con cờ tướng, hai hộp thịt viên Joika, loại thịt nai rừng, món ăn của người Same, một giống dân du mục sống miền thượng du Bắc Âu. Tất cả được quậy nhè nhẹ, quyện với nhau thành sền sệt, nóng hổi, vừa thổi vừa ăn. Qua nhiều năm, món ăn này đã thành một phong tục của gia đình, gọn, nóng, mang vẻ núi rừng của người Same. Đã hai tiếng đồng hồ mà hàn thử biểu chỉ lên mười bảy độ dương. Nón len, găng tay, khăn choàng cổ đã được cởi ra, vẫn mặc áo khoát vào bàn ăn. Căn nhà rộng chỉ năm muơi mét vuông mà phải sưởi ba tiếng đồng hồ thì nhiệt độ trong nhà mới lên tới hai mươi độ dương, và từ đó sẽ không đốt lò sưởi nhiều nữa. Ráng giữ nhiệt độ hai mươi hai, hai mươi ba, đồng thời ánh lửa lung linh trong lò sưởi củi vẫn tiếp tục để tạo không khí ấm cúng giữa núi rừng đã bắt đầu sập tối, mười giờ đêm! Như vậy là nhiệt độ bên trong và bên ngoài cách nhau gần bốn mươi độ Celcius. Bữa cơm chiều mang lại sinh khí: Đầu tôm nấu với ruột bầu. Chồng chang vợ húp, gật đầu khen ngon.

Tám ngày ở đây, sinh hoạt ngày nào cũng như ngày nào, chỉ khác là khác món ăn, món tráng miệng, trò chơi mỗi tối, lộ trình đi ski lên núi. Một luật lệ gắt gao có hiệu lực cho những ngày ở đây được tuyên bố từ đầu: Không TV! Ở cái thời đại này, không TV tám ngày, làm sao tụi nhỏ sống nổi! Vậy mà áp dụng được. Rất có lý nữa đó. Đi ski một ngày bốn hay năm tiếng, vận động toàn cơ thể, đào thải trên dưới một lít mồ hôi, cơm nước xong suôi, mệt đừ, hai người lớn ngủ một chút, hai người nhỏ chơi cờ, chơi bài. Đêm còn quá trẻ, đọc sách cũng đã chán, các món ăn chơi được mang ra, đủ loại bài, đủ loại cờ... Thường ngày, công ăn chuyện làm, trường học, sinh hoạt nhóm này, luyện tập môn kia, ai cũng có những bận rộn riêng tay, khoảng thời gian ngồi chung tất cả lại rất hiếm hoi. Ráng lắm, nghiêm khắc lắm thì được bữa cơm chiều ăn chung mỗi ngày. Lên đây, lẩn quẩn trong cái diện tích ba mươi sáu mét vuông, vừa là phòng khách vừa là bếp. Đây là lúc các quyển sách, tạp chí được tặng, đặt mua, mà không có thì giờ đọc, được chiếu cố tận tình. Ở đây, trong không khí yên tĩnh núi rừng, bên ánh lửa lung linh từ lò sưởi, bốn người mới có thì giờ bàn chuyện này, đặt kế hoạch nọ, kể cho nhau nghe những nặng lòng chất chứa, chia cho nhau những mẫu chuyện vui còn nhớ, tranh luận từ đề tài cỏn con cho đến thế sự. Cho nên TV không có chỗ đứng trong những ngày này. Người lớn không nhắc tới là đúng vai trò người lớn. Hai người nhỏ cũng không nghe cằn nhằn than thở một lời. Ai muốn nghe nhạc thì đeo cái earphone vào tai, không làm phiền người khác, không bị chê nhạc ồn ào chướng tai, không bị chê nhạc eo éo lê thê. Quân vi thần cang. Phụ vi tử cang. Phu vi thê cang. Giả tam cang tối thiện.

Đồng hồ cũng không được ngó tới nhiều. Thức dậy khi đã ngủ chán chê. Ăn khi thấy bụng cào cào, thường là dựa vào cơn đói của người giữ phần cơm nước, mà người này lúc nào cũng lo giữ eo, ai chờ không nổi thì tìm cái gì đó ăn dậm. Vào giường khi mắt mõi mệt. Chẳng ai quan tâm hỏi "Mấy giờ rồi?" Một ngày như mọi ngày, ăn sáng, làm bánh mì đem theo ăn trưa, bình cà phê, bình cacao, cam, chocolate, tất cả xếp gọn gàn vào cái ba lô. Kéo dây cho chặt, Thanh không quên đặt tấm lót ngồi được cuộn tròn, cái xuổng nhẹ để xúc tuyết lên ba lô trước khi đóng khóa cài bên hông ba lô. Xong, coi như công việc của Thanh đến đó là chu tất cho đến khi về nhà sau chuyến đi núi mỗi ngày. Bây giờ là đến công việc của Eirik. Mọi người cặm cụi chuẩn bị ra ngoài. Phải dùng chữ cặm cụi mới diễn tả hết mọi thủ-tục-ra-ngoài. Thoa mặt bằng kem chống nắng số hai mươi loại cô đọng, chỉ cần thoa mặt vì các phần khác trên cơ thể sẽ được bao kín. Quần nhái, áo nhái cao cổ, phải bằng lớp vải len sợi mảnh để thoáng mồ hôi và giữ ấm tốt. Thêm một cái áo len, dầy mỏng, len sợi hay cotton tùy theo nhiệt độ bên ngoài. Nhưng đôi vớ len dầy, nón len, khăn choàng cổ thì bao giờ cũng phải có. Giữ được cái đầu ấm, đôi bàn chân ấm là bảo đảm, một bí quyết của người miền núi tuyết. Sau cùng là bộ quần áo đi ski dầy. Mang xong đôi giầy ski, đeo hai đôi găng tay, một đôi găng tay len năm ngón bên trong, đôi găng tay bao trùm cả bốn ngón và ngón cái bên ngoài, ba mẹ con Thanh ngồi ngoài bậc thềm hong nắng và chờ Eirik làm bổn phận công-dân-đàn-ông. Ghé vai gánh vác sơn hà, sao cho tỏ mặt mới là trượng phu.

Gọi là bổn phận công-dân-đàn-ông chứ thực chuyện này Thanh làm cũng được, nhưng như thế là chạm tự ái nam nhi, Eirik giận lẫy thì phiền lắm. Không biết lý do tại sao, công việc thoa lớp sáp vào bề mặt đôi ski tiếp giáp với tuyết lại là công việc chỉ dành riêng cho đàn ông. Chắc tại từ hồi xưa, loại sáp này thường phải tự làm, khi thoa phải biết tùy theo nhiệt độ mà lựa loại đặc, loại lỏng, thoa dầy, thoa mỏng, đàn bà chỉ lo chuyện cơm nước, biết gì ba cái chuyện này! Ngày nay tân tiến, một hộp gồm đủ loại ống sáp thích hợp cho từng tiết trời, từng tình trạng tuyết khô cứng hay tuyết mềm nhẹ, ai xử dụng lại không được, chỉ cần biết đọc bảng chỉ dẫn. Ống sáp tròn dài, đường kính ba centimet, dài bảy centimet, bên ngoài được bao bằng một lớp giấy kim loại mỏng, màu sắc khác nhau. Màu trắng dùng từ ba mươi độ âm celsius đến hai mươi độ âm, màu xanh lá cây dùng từ hai mươi độ âm đến mươi độ âm, màu xanh dùng từ mười độ âm đến không độ, màu tím dùng khi nhiệt độ thay đổi giữa độ âm và độ dương, màu đỏ dùng cho những ngày trên không độ. Chỉ việc ngắm nhìn bầu trời, cảm cái lạnh len vào da mặt là đoán được nhiệt độ và cứ thế mà chọn màu ống sáp. Chỉ việc chà sáp một khoảng dài sáu mươi, bảy mươi centimet ngay dưới phần đôi giầy ski. Chỉ việc chống dựng đứng đôi ski xuống tuyết chờ vài ba phút là xong. Thế mà cũng tự hào cho là công chuyện dành riêng công-dân-đàn-ông, nhất định không cho vợ, con gái nhúng tay vào. Thanh cười thầm: Muốn làm thì làm, ai thèm dành đâu mà lo nói trước, mà giận lẫy!!! Đấng trượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng oán mới hay.

Những công chuyện này mới đáng gọi là bổn phận công-dân-đàn-ông: Thứ nhất: Đeo cái ba lô với thức ăn, nước uống, trái cây, tấm lót ngồi, cái xuổng xúc tuyết, tất cả nặng độ mười kilogram, vượt dốc, cua đèo, chuyến đi lên cũng như chuyến đi xuống. Thứ hai: Nếu chọn không đi theo dấu đường mòn của những người trước hay đường chính xe đã ủi cho dễ đi vì nền cứng, muốn tự dấn thân vào vùng tuyết trắng chưa có dấu chân người thì Eirik đi trước phá đường. Thứ ba: Khi lên đến một đỉnh núi chọn làm nơi nghỉ trưa, Eirik bắt ngay vào việc đào, đắp một cái sô-pha-tuyết cho cả bốn người. Lớp tuyết dầy cả mét, dùng cái xuổng đào một hố dài hai mét, rộng nửa mét, sâu nửa mét, vừa đủ cho đôi chân ngồi thả xuống. Đắp khối tuyết vừa đào lên làm lưng dựa, trải tấm lót ngồi cách nhiệt màu xanh lá lên, Eirik dùng cái mông, ngồi, nhích từ từ, nhúng nhúng cho toàn "nệm" cứng lại, đứng dậy, xong, cái sô-pha-tuyết. Nghe thì tưởng công chuyện nặng nhọc lắm, chứ thật ra tuyết nhẹ, cây xuổng nhôm nhẹ, loáng cái là xong. Thế cũng gọi là công chuyện dành riêng công-dân-đàn-ông! Ba mẹ con loay hoay mở ski, tháo bớt khăn choàng cổ, găng tay, kiếm chuyện chọc tức Eirik, chờ Eirik đứng lên là dành nhau chỗ ngồi ở giữa, cho ấm! Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh!

Đi ski miền núi mà không có mấy trái cam, kvikklunsj, bình thủy cacao nóng thì không đúng điệu của người Na Uy. Kvikklunsj là loại bánh xốp có lớp chocolate bao chung quanh. Nếu lười và chọn đi tuyến đường không quá hai giờ, không mang theo ba lô cồng kềnh thức ăn, thì thủ trong túi áo khoát một cái kvikklunsj cũng đủ đỡ đói, một trái trái cam cũng đủ đỡ khát. Và đôi kính mát thì không bao giờ, không thể thiếu. Không phải diện đâu. Phải có! Nhất là tuần lễ Phục Sinh. Nắng cả ngày, nắng ấm làm người đi ski phải cởi áo khoát, cột ngang bụng, nhét cái nón vô túi quần, tháo đôi găng tay... Cả một vùng tuyết trắng toát nhìn ngút mắt, long lanh dưới ánh mặt trời, chỉ toàn màu trắng là trắng, thỉnh thoảng mới có một vài cây thông già. Ánh sáng mặt trời phản chiếu từ lớp tuyết hắt lên mặt. Nếu không đeo kính đen vào những ngày nắng chói, đôi mắt nâu to hay xanh thẫm gì cũng dễ bị chứng say nắng. Cả ngày nhìn trực tiếp, nhìn toàn tuyết trắng, trắng toát, trắng óng ả, không một chút sắc xanh cây cối, không chút xám xậm núi đá, chiều về cặp mắt cay xót, không mở được, không chịu được ánh sáng, chỉ có nước trốn vô phòng tối mà khóc thuơng cho số phận. Đành ngủ một giấc dài trong khi bao người khác đã xong món tráng miệng, đã nghỉ ngơi lấy lại sức, bắt đầu món ăn chơi buổi tối, chừng đó đôi mắt mới dịu lại, lò mò ra chung vui. Đời người có một gang tay. Ai hay ngủ ngày, chỉ có nửa gang!!!

Đối với người ngoại quốc, người không mang sẵn đôi ski khi mới lọt lòng mẹ (người Na Uy tự đùa về cái sự đi ski của mình!), tập đi ski cũng như cũng như bắt đầu học một ngôn ngữ mới. Càng lớn tuổi học càng lâu vô, nói càng ngọng nghịu. Càng lớn tuổi, người tập đi ski càng sợ té, chân cứng ngắt, cứ bám chặt xuống, thân hình không biết nương theo nhịp đôi ski trợt, độ dốc cong, dễ mất thăng bằng. Càng cố gắng lựa từ ngữ cho chính xác, phát âm cho đúng thì câu văn càng cứng ngắt, giọng nói càng ngọng nghịu. Càng sợ càng dễ té, càng ráng bám chặt ski xuống mặt tuyết càng té nhiều. Lên dốc thì không đến nỗi khó khăn lắm. Đường bằng bằng trài trài thì đôi ski trợt thẳng. Đường hơi dốc thì cho đôi ski bước theo hình chữ V. Đường lên dốc cao dài thì đôi ski đi theo kiểu xương cá. Đường dốc cao ngắn thì đi người ngang, nhắt từng bảng ski. Đủ kiểu. Trợt xuống mới gay go. Năm này qua năm kia không thấy tài trợt ski của mình được thư thả như người Na Uy, qua bao kinh nghiệm đắng cay, bao kiểu té ngoạn mục, Thanh dùng chiến thuật tâm lý. Mỗi lần nhìn khoảng đường dốc chông gai phía trước, bụng nhủ lòng: Không sao, thả lỏng đầu gối, chống bên trái, nghiêng nghiêng chút nữa, giỏi… giỏi lắm… ôi cái cua ngoặt quá, đặt mông xuống cho té là vừa rồi, không ai thấy cả, tai qua nạn khỏi… dốc lài lại rồi… ha…ha…té mới có một lần. Cứ thế, mười lần thành công chín lần. Xuống tới nơi an toàn. Cũng lạ, đi ski gần hai mươi năm, té sáu trăm hai mươi tám lần, nhưng Thanh chưa hề bị trật chân, gẫy tay, xưng mông chi cả. Cả nhà ai cũng khen nghệ thuật té của Thanh rất điêu luyện, đáng viết thành sách hướng dẫn dân mới tập đi ski. Thì ra mới biết béo gầy. Đến khi cả gió, biết cây cứng mềm.


Bây giờ hai người nhỏ lớn bộn rồi, để tụi nó quyết định hướng đi, quyết định lộ trình, Eirik đi thụt lui, nhường bước cho lớp trẻ. Nhưng bao giờ Thanh cũng là người đi cuối cùng trong đoàn. Đi sau cùng, tự do, nhanh chậm tùy hứng. Có người đi phía sau mình, phải đi nhanh không thôi người đó chờ, phải đi chậm lại, mất hứng. Đi chơi mà phải cố gắng, phải ráng, không ham, dại gì. Và đi sau cùng để được một mình mơ mộng, hưởng thú cô đơn. Ba người kia thỉnh thoảnh nhớ đến người đi sau cùng, dừng chân đứng chờ. Hừm… chờ kiểu gì không biết, đứng đó chờ Thanh vừa đi tới là cả bọn tiếp tục đi lên. Nghĩa là chỉ ba người đó đứng nghỉ còn Thanh thì không được nghỉ chút nào hết... hừm... họ quên hẳn câu ...đường mòn nhơn nghĩa không mòn kia mà!

Mỗi lần nghe tiếng hai người nhỏ cười hét hô…hô… một cách khoái trá ở phía trước, Thanh biết sắp tới một đoạn dốc chông gai, than thầm: "Quỷ sứ! Biết đường sẽ có dốc lớn, trồi lên hụp xuống nên chọn hướng này." Eirik và hai người nhỏ lúc nào cũng tìm những đỉnh núi cao, đường khó khăn, có vậy mới thỏa chí tang bồng. Lên được đỉnh núi như đã dự tính. Ba người tính đường thả xuống. Thanh quyết chí không nằm trong kế hoạnh "xuống" của ba người. Thường thì họ không thèm thả xuống theo đường vừa mới đi lên hay một đường nào đó đã được xe ủi sẵn. Hầu như lần nào ba người cũng chọn hướng trực chỉ xuống, chọn một điểm hẹn cho cả bọn. Lao mình thẳng xuống, tuyết bụi tung cao theo gót ski, càng dốc cao càng khoái chí. Còn Thanh, dại gì bắt chước lao xuống theo ba người đó. Có ngày mang nạng, càng già xương càng dòn dễ gẫy, càng khó lành. Thanh xuống dốc theo hình chữ Z, chữ Z và chữ Z… để giảm bớt tốc độ, lâu hơn, nhưng bảo đảm, bề nào cũng về đến đích. Dù ai nói ngã nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.

Lên tới đỉnh núi không có nghĩa là lên điểm cao nhất. Núi trùng điệp, đỉnh núi này nối tiếp đỉnh núi kia. Lên được đỉnh này thì thấy đỉnh trước mắt, đỉnh bên kia cao hơn, phải chọn một đỉnh núi làm điểm quay lại. Tham lam, đi lên hoài, lên hoài, không bao giờ tới đỉnh cả. Thời tiết trên núi thay đổi bất ngờ, không lường trước được tuyến đường của mình, dễ bị lạc lối, cóng lạnh, mất sức… nguy hiểm, nguy hiểm. Mùa Phục Sinh tương đối ấm, ít gió, ít sương mù và nắng ngày kéo dài từ bốn giờ sáng đến mười giờ tối nên nếu có đi lạc cũng đủ thì giờ tìm về. Tuần lễ mùa Giáng Sinh và lễ Mùa Đông mới khắt nghiệt. Khí trời trở chứng như đôi nhân tình mười sáu tuổi. Ánh nắng mặt trời quyết định cái ấm cái lạnh rất phân minh, mây xám trên trời chỉ cần di chuyển tới chỗ mình đang đứng là nhiệt độ giảm xuống năm độ ngay. Thêm vào đó từ tháng mười hai đến tháng hai, trời mau tối, đừng dại dột mà xông pha giữa vùng mây đen bao phủ, bầu trời gần sát trên đầu, mà đường trở về thì nghìn dặm, không người qua lại, chỉ có nước đào hang tuyết xin trú qua đêm. Vì mây cho núi lên xa, mây còn mù mịt núi nhòa nhòa đen.




Có một lần, vào tuần lễ mùa đông, hôm đó trời hơi mây mù, hơi gió, cả bọn quyết định đi tuyến đường gần hơn. Nhưng đây là lần đầu đi tuyến đường này, cứ cắm cúi mà đi. Đi được chừng hai giờ đồng hồ, trời bỗng nhiên trở gió. Từng cơn gió cắt lạnh rít trong không trung mang theo tuyết bụi quất mạnh vào mặt. Sương mù dầy đặc, chỉ thấy được người đi trước cách chừng vài mét. Thường thì bộ quần áo đi ski chịu được gió. Nhưng với cơn bão tuyết, gió len qua nón len, qua cổ áo, quất mạnh vào người, lạnh cóng, rất khó di chuyển. Lại không thể đứng chờ cơn bão tuyết thương tình dời đi nơi khác, biết đến chừng nào, phải cử động để ấm người. Quyết định quay lại. Nhưng khoảng trước mù mịt, loay hoay chống đỡ cơn bão tuyết, khả năng định hướng trở nên hoang mang. Thôi thì tìm đường xuống dốc, cứ xuống dốc rồi tính sau. Nhưng xuống hướng nào? Đường đi lên hồi nảy đã bị tuyết lấp mất dấu, đi lạng quạng, lọt hố, tuyết chôn như chơi. Đây là lúc Thanh biết thân phận, im miệng, để cho người-công-dân-đàn-ông chứng tỏ cái gọi là đường đường một đấng nam nhi, sợ gì ba cái chuyện nhỏ nhặt này, xoay trở. Tâm lý lắm, người lớn bình tĩnh thì người nhỏ không run. Eirik ra lệnh: "Đi theo màu áo đỏ của ba. Má đi sau hai người nhỏ. Xuống dốc phải ráng kèm lại, đừng vượt qua người trước mặt, té là phải la to để mọi người đứng lại chờ. Ba sẽ xuống thật chậm để dò đường. Thỉnh thoảng ba sẽ ngừng chờ. Đường đi về chắc chắn sẽ rất xa hơn đường đi lên, nhưng mình phải tìm đường xuống." Thế mới biết tại sao khi chọn mua quần áo đi ski, bao giờ Eirik cũng đề nghị có màu đỏ, màu kỵ của Thanh. Màu đỏ dễ nhận ra giữa sương mù núi thẫm. Về đến nhà an toàn, hỏi ra, cả hai người lớn, hai người nhỏ đều thú nhận là rất sợ phải đào hang để trú qua đêm, nhưng ráng giữ trong bụng. Thiệt là... thương nhau tam, tứ núi cũng trèo... thất, bát sông cũng lội, cửu, thập đèo cũng qua.

Lần nào cũng vậy, khi lên đến đỉnh núi, nghỉ ngơi ăn uống, ngữa mặt cho nắng làm má nâu hồng đặng được bạn bè khen đẹp, sau đó là quãng đường tìm về nhà chỉ toàn xuống dốc, xuống dốc và xuống dốc. Quãng đường bù lại cho ba tiếng đồng hồ cong lưng cày cục tay đẩy hai cây chống nhịp nhàng lấy đà đưa chân mang ski lúc bước lúc trợt, đi lên, đi lên, lên mãi, lên mãi, mồ hôi đẫm áo, mồ hôi hòa với lớp kem nắng chảy xuống mắt, sót cay. Khi xuống dốc, để được tự do té đủ kiểu, tự do thắng lại khi thấy cái dốc quá cao phía trước, không cản đường người khác, như một thỏa hiệp đã có từ lâu đời, bao giờ Thanh cũng chờ cho mọi người trong bọn trợt xuống trước một khoảng xa, Thanh mới ra tay đi vào trận địa. Trên đỉnh núi cao, chờ cho màu áo khoát đỏ của Eirik khuất sau đồi, chân đẩy đưa chà bảng ski để không bị tuyết đóng cục phía dưới vì khí trời hơi ẩm, ngắm tới ngắm lui lập ra một lộ trình xuống dốc thật chắc ăn. Thanh kéo tay áo phủ qua khoảng một phần ba cặp găng tay, co ra co vô mấy ngón tay, chỉnh lại đôi kính mát ngay ngắn trên sóng mũi, quyết định: Cuối tháng ba mà lớp tuyết vẫn còn mềm và khá dầy, lý tưởng để giữ được tốc độ theo ý mình. Trước mặt là "đường lộ chính" rộng độ một mét rưởi, đã được xe ủi cho cứng nền. "Đường lộ chính" chỉ tiện lợi lúc đi lên thôi và chỉ làm tăng tốc độ trợt xuống, tăng niềm khoái trá cho những người đã mang ski khi mới lọt lòng mẹ. Đối với Thanh, người đeo đôi ski vào chân ở cái tuổi khi tròn ba mươi, "đường lộ chính" đã lắm người đi lại, nền tuyết cứng trơn, đôi ski cứ theo đó mà vù vù lao xuống, dễ mất thăng bằng ở những cái cua ngặt, không đủ thì giờ định được độ cao của những con dốc trước mặt, té thì cũng đau mông lắm lắm. Thôi thì mở "đường máu", nghĩa là trợt xuống ngoài "đường lộ chính", tự tìm đường xuống tới điểm hẹn với ba cha con nhà nẩu phía dưới. Hơi cúi người ra phía trước, dùng hai cây chống đẩy cho đôi ski trượt tới. Chớ thấy sóng cả mà lo - Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng.

Bề mặt lởm chởm đá lớn, đá nhỏ, những bụi dâu núi... đã được phủ tuyết, lớp này qua lớp kia, ngày này qua tháng nọ, gió thổi tuyết lấp đầy những khoảng trủng nên phẳng bằng như tấm mền nhung trắng toát thênh thang ngập mắt. Và "con đường máu" còn trinh trắng, lớp tuyết kêu khẻ, nửa náo nức, nửa đớn đau vì đôi ski kẻ lãng du xông xáo phá đường. Nghệ thuật, bí quyết thả dốc là hai đầu gối đừng chống gượng kềm chặt, mỗi lần tới cái hụp lên hụp xuống, hơi mất thăng bằng thì bụng phải nhủ lòng: "... không té... không té... x..o..n..g... giỏi lắm... giỏi... lắm... cứ thế mà thong dong ... ô... bụi cây...không sao...quẹo một vòng... mở đường cua rộng rộng cho khỏi té... tuyệt!" Nhắm hướng mà thả dốc. Khí trời lạnh lạnh, hương trời thanh khiết, đường rộng thênh thang, cua bên phải, quẹo bên trái để giảm tốc độ, hưởng thụ thú cô đơn tuyệt dịu giữa thiên nhiên. Cứ thế mà tiến...xuống. Ôi sao mà tuyệt vời, khí trời sao thanh thoát thế này, lớp tuyết sao êm ái lạ, được ngủ một giấc giữa núi đồi mênh mông này chắc thú lắm đây. Thanh mơ mộng... Bịch! Không biết ma quái nào bắt chân! Cái mông nằm gọn gàn xuống mặt tuyết mềm trước, sau đó là cả thân hình lún sâu, hai tay vẫn còn cầm cây chống, hai chân vẫn còn dính chặt cặp ski, theo đà, thoải mái duỗi thẳng. Vị thế nằm thoải mái như khi ta thả nhẹ một cái muỗng xuống bãi cát mịn, cái muỗng nằm dài, hơi lún sâu, như đóng khuông, không muốn cựa quậy, thật yên bình. Ngắm nhìn từng đám mây trắng trôi lơ lững trong nền trời xanh xanh, dõi mắt tìm những đám mây mang vài hình ảnh ngộ nghĩnh, câu hát vang vang trong đầu …mây... mây còn trôi mãi không quay về đây... Thanh thiếp ngủ... Không biết bao nhiêu phút, thức dậy, vẫn còn trong cơn mê ngủ, bầu trời vẫn còn trong thanh, khí trời vẫn còn mát lạnh, nhìn quanh, Thanh than thầm: Hướng nào đây ta? Thôi thì cứ thả xuống chân núi, sai thì đi ngược lại. Chắc ba người dưới chân núi bắt đầu thắc mắc là mình té nặng lắm sao mà lâu vậy, lo gì... Còn trời, còn nước, còn non - Còn trăng, còn gió hãy còn đó đây."

Gọi là chân núi thì không đúng lắm. Núi ở Na Uy trùng trùng điệp điệp, núi này nối tiếp núi kia, có những vùng núi quanh năm tuyết phủ, năm này sang năm kia, lớp này đè ép lớp kia cả trăm ngàn năm, thành vùng băng tuyết rộng lớn. Với diện tích gần bằng Việt Nam, bờ biển dài hơn Việt Nam nhưng dân số chỉ có bốn triệu rưởi, chỉ bằng một phần hai mươi của Việt Nam. Trên bản đồ Na Uy, màu nâu xám chiếm tám phần mười, màu xanh, màu vàng chỉ nằm rãi rát ven bờ biển, ven biên giới Thụy Điển. Đi hết ngọn núi này, thấy ngọn núi kia xuất hiện, không bao giờ chấm dứt. Nhà nghỉ mát miền núi thì dĩ nhiên nằm trên núi, nhưng lại là chân núi của những núi cao khác. Trên cao, đỉnh núi này nối tiếp đỉnh núi kia. Dưới thấp, chân núi này liên kết chân núi kia. Điểm hẹn nơi chân núi không xa nhà mấy, chờ lâu quá, Eirik hơi nóng lòng, định bụng chia nhau đi lên tìm Thanh, sợ Thanh té nặng không ngồi dậy nổi. Bóng áo ai thấp thoáng từ cao. Hai người nhỏ đi ngược lại để đón Thanh với câu hỏi chọc thường lệ: "Má té mấy lần?" Và Thanh ngây thơ hãnh diện khoe: "Có một lần hà." Ba cha con nhà nẩu nháy mắt cười. Khôn ngoan đối đáp người ngoài - Gà cùng một ổ chớ hoài đá nhau.

Eirik cũng như đa số người Na Uy, tiếng là người đạo Cơ Đốc nhưng cả đời chỉ đi nhà thờ cao lắm là bốn lần, bốn lần có liên hệ trực tiếp tới cá nhân mình: Khi rửa tội, khi thêm sức, khi đám cưới và khi đám ma mình. Đạo Cơ Đốc là công giáo của các nước Bắc Âu. Bởi cái tính dễ chịu của Cơ Đốc Giáo, khi sanh ra, được cha mẹ đem vô nhà thờ rửa tội thì đương nhiên thành người Cơ Đốc Giáo. Đến tuổi gần trưởng thành, con cái tự quyết định sẽ làm lễ Thêm Sức ở nhà thờ hay ở toà Thị Chánh. Và khi đám cưới nếu không muốn xin Chúa chứng nhận thì xin ông thơ ký của tòa thị chánh chứng dùm. Nhưng khi chết, cũng như khi được rửa tội, không nói được nên đương nhiên không được quyền có ý kiến, thường thì gia đình muốn giao trả lại cho Chúa. Thanh cũng thuộc loại tự cho mình người đạo Phật nhưng đi chùa khi nào thấy hứng, ăn chay khi thèm, kinh thì chỉ thuộc câu Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bố Tát. Hai người lớn không có lập trường, đương nhiên hai người nhỏ cũng không biết mình người đạo gì. Không rửa tội. Không cúng đầy tháng. Không thôi nôi. Làm lễ Thêm Sức ở tòa thị chánh... sau này nếu có cơ may được làm đám cưới thì chắc tùy người chồng. Lễ Phục Sinh là lễ chính thứ nhì của đạo Thiên Chúa, sau Giáng Sinh. Và cũng như đa số người Na Uy, tuần lễ Phục Sinh là thời gian nghỉ ngơi, chẳng mang một chút màu sắc tôn giáo. Nhưng Thanh vẫn muốn theo một vài phong tục dành riêng cho những ngày lễ Phục Sinh. Một phần thấy hợp tình hợp cảnh, một phần ham vui. Ai ơi chơi lấy kẻo già - Măng mọc có lứa người ta có thì - Chơi xuân kẻo hết xuân đi - Cái già xồng xộc nó thì theo sau.

Bình hoa Phục Sinh vàng tươi trên bàn salong. Hình tượng gà mái, gà con, trứng mới nở... tất cả đều vàng rực, đều mang màu xanh lá cây mượt mà, tượng trưng cho mầm sống mới, được chưng bày khắp phòng khách. Khi chiên trứng ăn sáng, Thanh cẩn thận mở hai lổ nhỏ hai đầu, thổi tròng trắng tròng vàng chảy ra để giữ vỏ trứng được nguyên vẹn, để dành. Tối thứ năm, ai cũng xăng tay áo trổ tài sơn trứng, điểm trang vỏ trứng. Những quả trứng mầu sắc sặc sỡ treo tòn ten các cửa sổ được chiêm ngưỡng không dấu diếm. Qua lại, ngắm nhìn công trình mỹ nghệ của mình năm nay, tự khen. Ham vui là ở chỗ đó. Thứ sáu ngày chay, bao giờ cũng món cá, món tôm. Thứ bảy là ngày trọng đại, mọi thủ tục được áp dụng từ khi mới mở mắt thức dậy. Thủ tục này là tự hai người lớn nghĩ ra để "hành" hai người nhỏ: Cho tụi nó hiểu giá trị món quà! Sáu cái mật thư, nội dung tùy theo trình độ tiến bộ mỗi năm, đã được soạn đêm qua khi hai người nhỏ yên giấc. Hai quả trứng lớn bằng trái dưa hấu dài, chứa đầy kẹo ngọt, là kho tàng, được dấu ngoài rừng. Sáng sớm, Eirik mới đem những mật thư dấu ngoài rừng theo những địa điểm đã định trước đêm qua nhưng phải chờ đến sáng vì sợ gió thổi, tuyết rơi làm mất dấu tích. Sau điểm tâm, quần áo đi ski như thường lệ, nhưng hôm nay sẽ tham gia buổi họp mặt ngoài trời cho toàn thể hơn trăm gia đình có nhà nghỉ mát quanh vùng núi Fledda ở một chân núi cách nhà nửa giờ đi ski. Trước khi rời nhà, trò chơi tìm mật thư được hai người nhỏ dầu đã lớn, hồi hộp chờ mỗi năm, bắt đầu. Mật thư thứ nhất được giải tại nhà. Phải trả lời đúng câu hỏi trong mật thư thứ nhất, mới tìm đến được địa điểm dấu mật thư thứ hai. Cứ thế mà tìm đến kho tàng kẹo ngọt. Có năm, hai người nhỏ ma lanh, không thèm giải mật thư, cứ theo dấu ski mà tìm đến kho tàng. Từ đó, Eirik phải đánh lạc hướng, đi vòng vòng, hai người nhỏ không theo được dấu ski, hai người nhỏ đành phải theo luật chơi. Cá không ăn muối cá ươn - Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.

Buổi họp mặt ngoài trời là do hơn một trăm gia đình có nhà nghỉ mát quanh vùng thay nhau đứng ra lo liệu. Chừng mười lăm năm mới tới phiên gia đình mình một lần. Bãi rộng, mấy thân cây khô chồng chất lên nhau, được đốt cháy, khói bay mịt mù, vừa sưởi ấm, vừa để mọi người nướng thịt xúc xích ăn trưa. Mọi người ngồi từng nhóm riêng gia đình mình hay chung với vài gia đình láng giềng, dọc bìa rừng, mặt hướng phía bãi chơi. Đủ loại trò chơi ngoài trời cho con nít, cho lớp trẻ đá lông nheo (ai cũng đeo kính mát thì làm sao đá lông nheo nhỉ!) Người lớn gặp nhau chào hỏi rộn ràng, ngắm nhìn con cái nhau, khen tụi nhỏ mau lớn... Bao giờ Thanh cũng bị một vài ánh mắt theo dõi vì chỉ có mình Thanh là đầu đen, da nâu đậm. Đó là những người được bà con mời lên núi chơi mấy ngày lễ Phục Sinh nên chưa biết "danh" của Thanh đó thôi. Buổi họp mặt tan, nắng còn tốt, tiếp tục làm một chuyến lên núi cuối cùng của mùa Phục Sinh và cũng là của mùa ski năm nay.

Ngày thứ bảy là ngày ăn mừng, món đùi cừu nướng là món theo phong tục cổ truyền cho hôm nay. Gọi là đùi cho sang chứ chỉ là một khúc của cái đùi. Và vì không có lò nướng, Thanh nướng sẵn ở nhà vài tuần trước, cho đong đá. Bây giờ chỉ việc chiên nhỏ lửa cho nóng thấm tận bên trong. Và món tráng miệng không thể thiếu mỗi năm đã được Thanh bí mật làm từ hai hôm trước, hôm nay mới đem ra: Kem flan!

Sáng chủ nhật, khăn gói trở về xuôi. Còn nghỉ một ngày thứ hai. Thứ ba có họp thường lệ, nhìn ngắm nhau, khen nhau màu da đỏ nâu, khoe nhau nơi mình đi nghỉ mát. Thanh cũng biết khen, nhưng khoe thì điệu nghệ hơn. Người bạn đồng nghiệp ngồi kế bên Thanh, khen:
- Chắc Phục Sinh chị đi chơi núi nên da chị hôm nay đỏ nâu đẹp quá!
Lòng thì thích, mũi thì nở ra, nhưng miệng thì giả bộ khiêm nhường, trả lời thật văn hoa:
- Tại da tôi vốn đậm màu.
Trời phạt kẻ không thực lòng, ông ấy tin, không hỏi gì thêm, Thanh mất dịp khoe. Tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài, ai ngờ giếng cạn tôi tiếc hoài sợi dây!!!
 
Võ thị Điềm Đạm


Nguyễn Mạnh Trinh * Những nhà văn Không Quân



Những nhà văn Không Quân? Đây là một bài tạp ghi nhỏ phác họa sơ sài một vài chân dung của những người KQ cầm bút. Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ như thế này dĩ nhiên không thể đề cập đầy đủ hết tất cà các khuôn mặt văn nghệ của quân chủng. Nên, thôi thì, nhớ ai thì viết nấy, hy vọng có một vài chi tiết lý thú về những người KQ cầm bút. Đáng lẽ phải là "Những nhà văn KQ mà tôi biết" mới đúng. Nhưng cụm từ ấy đã có quá nhiều người xử dụng. Nên, xin như một hiểu ngầm khi dùng nhan đề như ở trên.

Có lẽ KQ là một quân chủng hào hoa nên số người cầm bút rất đông đảo và dù sau này, khi đã mất nước và tan hàng, chất KQ vẫn còn đậm đặc trong tác phẩm. Tính chất trẻ trung, chan chứa sinh lực, nhìn cuộc đời dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng lạc quan và không đầu hàng với số mệnh.

Người KQ của KLVNCH dù viết văn hay làm thơ, dù đang chiến đấu hay không còn dịp để chiến đấu nữa, vẫn một thái độ đẫm chất nhân bản, không đầy chất sắt máu như những tiểu thuyết cũng chung một đề tài KQ nhưng khác chiến tuyến của miền Bắc như Mặt Trận Trên Cao của Nguyễn Đình Thi, hay Vùng Trời của Hữu Mai, hay Chim Én Bay của Nguyễn Trí Huân... Những người KQ miền Nam viết văn làm thơ bằng trái tim rất người của họ và chất lãng mạn, từ đời sống, trong suy nghĩ đã làm văn chương trở thành một nét đặc biệt biểu trưng cho một thời đại nhiều biến cố của dân tộc Việt Nam.
KQ VNCH chỉ có một thời gian ngắn hai chục năm để thành lập và phát triển không lưc. Trong thời gian ấy đã có nhiều tác giả và tác phẩm có những nét riêng của những cuộc sống nhiều thay đổi, của thời thế lịch sử và của những nghịch cảnh của từng đời thường của mỗi cá nhân. Cái chung bàng bạc trong cái riêng, của một nền văn học khai phóng và tự do nên phản ánh được một phần nào nỗi niềm của một thế hệ thanh niên trong chiến tranh.
Một điều khá lạ là trong các vị tư lệnh KQ có tới hai người là nhà văn có tác phẩm và biểu trưng được phần nào tinh hoa của quân chủng. Đó là nhà văn Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh và nhà văn Trần Văn Minh.

Nhà văn Toàn Phong, tức đại tá Nguyễn Xuân Vinh, giữ chức tư lệnh từ tháng 2 năm 1958 đến tháng 8 năm 1962, tác giả của Đời Phi Công, Theo Ánh Tinh Cầu, ngoài một nhà văn còn là một toán học gia, một khoa học gia có nhiều cống hiến cho thế giới. Đời Phi Công là những bức thư của người phi công gửi cho người yêu tên Phượng. Những bức thư kể lại một cuộc sống vừa lãng mạn vừa văn chương chuyên chở được suy tư và mơ ước của một phi công Việt Nam thời chiến. Đọc những trang của Đời Phi Công, không khỏi liên tưởng tới những trang thơ hào hùng của Chinh Phụ Ngâm hay những trang sách của truyện Saint Exupery của những không gian bao la, của những Bay Đêm, của Cậu Hoàng Con, của những giấc mơ đi thăm viếng giải ngân hà.

Đời Phi Công đã ảnh hưởng rất lớn tới tuổi trẻ thời đó và hình ảnh những chàng trai phi công đã là một mơ ước của nhiều người. Đọc Đời Phi Công, như phiêu lãng với nghiệp dĩ một đời và mở ra vòng ôm rộng lớn của tổ quốc không gian. Cuốn sách này đã được tặng giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1961. trong một bài phỏng vấn, tác giả Đời Phi Công đã nói về tác phẩm đầu tay của mình:
"Đời Phi Công là một tuyển tập những bức thư của một phi công viết cho một thiếu nữ còn đang là sinh viên ở đại học để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày bay trên gió mây trời. Tôi bắt đầu viết vào năm 1959 và đăng mỗi tuần một kỳ vào ngày thứ Hai trên báo Tự Do là một nhật báo có nhiều độc giả trên toàn quốc mà giáo sư văn khoa Phạm Việt Tuyền là chủ nhiệm.
Giới trẻ hồi đó hay đón đọc vì ai có một chút mơ mộng cũng có thể tưởng tượng được rằng nếu sau này trở thành phi công thì mình cũng có thể là người viết những bức thư tâm tình đầy thi vị như thế này...
...Nhằm mục đích nêu lên tình người và tình yêu tổ quốc cùng không gian mà tôi viết Đời Phi Công. Nhờ sự phổ biến sâu rộng của cuốn sách này mà giới thanh niên và sinh viên hiểu biết thêm về Không Quân Việt Nam và chúng tôi đã tuyển mộ được nhiều thanh niên ưu tú để gửi sang theo học những khóa huấn luyện bay những phi cơ tối tân của Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ..."
Nhà văn Trần văn Minh, tư lệnh KQ từ năm 1967 đến 1975, tác giả của những tập truyện ngắn Trong Đục và Chết Non ở trong nước và Chốn Lao Xao ở hải ngoại. Theo phần tiểu sử ở cuối tác phẩm Chốn Lao Xao:
"Tác giả Trần Văn Minh là một người lính cầm bút có tên tuổi trong giới văn nghệ sĩ quân đội. Ông viết văn làm thơ đăng trong các tập san Không Quân ký dưới nhiều bút hiệu như Trần Trụ Y, Trần Mộng Thường, Md. Cô Dương... và có hai tác phẩm đã xuất bản với tên thật làm bút hiệu.
Những bài thơ ông sáng tác phản ảnh chất hài hước trong nghịch cảnh, vui tếu trong gian nan, biểu tượng sức sống trẻ trung của một Quân chủng oai hùng hào hoa mà ông từng là cánh chim đầu đàn...".

Từ những truyện ngắn viết ở trong nước đến những bài cảm hứng ngắn viết ở hải ngoại, tác giả Trần Văn Minh dù trải qua nhiều sóng gió trong cuộc sống nhưng vẫn một tâm hồn tiếu ngạo, dù có chất mỉa mai nhưng vẫn đậm đà tình nghĩa nhất là đối với những người đã có chung màu cờ sắc áo.

Trong Chốn Lao Xao, có lần ông cựu tướng nhà văn tâm sự:
"Tôi ấy à?! Mười mấy năm nay, cái lạc hằng ấp ủ của tôi thì thật đơn sơ, là sẽ đưa hường nhan tri kỷ về lấy lại mái nhà xưa trong Tân Sơn Nhứt không có tiếng động cơ phản lực gào rú ngày đêm, đêm mưa nàng gối đầu trên cánh tay tôi, nghiêng người ôm tôi, hai đứa nằm lặng yên trong bóng đêm nghe tiếng mưa rơi rạt rào trên mái ngói, nặng chĩu tầu tiêu ngoài vườn cũ sau hè, nghe tiếng kêu thương của con nhạn lạc ngang trời trong gió mưa, để... để làm gì tôi không biết nữa! Chỉ thế thôi! Có chút xíu thế thôi, mà, hỡi ôi, mười mấy mùa mưa đã về trên trại Phi Long dập vùi tả tơi hoa cỏ mà mộng nhỏ chưa thành đầu đã bạc, gối đã mỏi lưng đã chùn người đã xác xơ!."

Một người KQ làm thơ nổi tiếng là Cung Trầm Tưởng, một người đã đem hình ảnh rất Paris, rất Tây Phương mang vào thi ca Việt Nam:

"Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút giờ
Mùa thu âm thầm
Trong vườn Lục Xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm
Mùa thu nơi đâu?
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu"

Cung trầm Tưởng tên thật là Cung Thúc Cần, sinh năm 1932 tại Hà Nội, gia nhập Không Quân năm 1952 và du học tại Pháp và tốt nghiệp học viện hàng không quân sự nổi tiếng Salon của Pháp nơi xuất thân của hầu hết các cấp chỉ huy cao cấp của Không lực sau này. Sau năm 1975 ông bị cải tạo 10 năm và hiện nay đang định cư tại tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Thời kỳ 20 năm văn học miền Nam, ông là một nhà thơ có nét đặc biệt riêng và ông cũng là người chủ trương tủ sách Con Đuông nhằm phổ biến tác phẩm trong vòng hạn hẹp và gạn lọc. Sang sống ở hải ngoại ông xuất bản 3 thi phẩm: Bài ca Níu Quan Tài, Lời Viết Hai Tay, và Những Dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Định. Hơi thơ của ông viết ở hải ngoại rất khác biệt với thơ của ông thời trong nước. Thơ lục bát của ông thời kỳ trước 1975 mở ra những phương trời lạ, những ý tưởng độc đáo. Còn, bây giờ, ở những tập thơ xuất bản, ông viết thơ lại khác biệt lúc trước cả từ ý lẫn lời. Thơ, mang theo nhiều suy tưởng, nên chất cảm ít đi nhưng chất luận lý lại tràn đầy và nét khai phá dường như phong phú trong cung cách sáng tạo. Có người nói thơ nhiều khi dị ứng với lý luận mà chất cảm phải có nhiều để tạo được sự chia sẻ. Đó cũng là một ý kiến. Nhưng, thi sĩ làm sao không suy tư cho được khi cuộc đời đầy những biến cố làm thay đổi nhiều khi toàn bộ con người. Hình như, tới bây giờ những bài thơ như Chưa Bao Giờ Buồn Thế của Cung Trầm Tưởng vẫn là một khuôn khổ đẹp cho những bản tình ca muôn thuở:

"Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông paris
Suốt đời làm chia ly
Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng..."

Nhà văn Huy Quang Vũ Đức Vinh cũng là một cây bút KQ kỳ cựu, dù rằng ông là người đi song hành giữa chính trị và văn chương ở Việt Nam và giữa công việc xã hội và văn học ở hải ngoại. Ông đã viết những tiểu thuyết như Đôi Ngả và Những Mái Đầu Xanh từ năm 1952 xuất bản ở Hà Nội. Ông cũng có thời làm Tổng giám đốc hệ thống Truyền Thanh Quốc Gia và là một người có nhiều cải cách trong nhiệm vụ này. Qua hải ngoại ông là người chủ trương bán nguyệt san Đất Mới xuất bản từ năm 1975 đến năm 1984. Trong quân chủng KQ, ông là một cây bút chủ trương và chủ lực của tập san Lý Tưởng, một nơi quy tụ nhiều cây bút nổi tiếng của văn học Việt Nam. Dù là người đi song hành trên nhiều lãnh vực, nhưng ở nhiều mặt ông đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Là một người lãnh đạo ngành truyền thông, ông làm việc hiệu quả và có nhiều cải tổ có kết quả tốt đến mãi thời gian sau. Là nhà văn, ông viết với cái tâm của mình cùng với sự chân thực. Đọc những bài ghi chép lại như những dòng hồi ký của những giây phút lịchsử trong cuốn sách Về Một Người Đã Khuất: Huy Quang Vũ Đức Vinh" mới thấy được sự cẩn trọng của một người kể lại như vai trò của một chứng nhân lịch sử. Viết về những giây phút cực kỳ sôi động của biến cố Tết Mậu Thân hay viết về những phi vụ Bắc phạt, ông đã cho độc giả những chi tiết thực độc đáo và biểu trưng được những giây phút đầy chất quyết định thua được của thời thế lịch sử.

Không phải ông KQ Vũ Đức Vinh chỉ viết về những người đồng đội của ông mà ông còn viết về Huyền Vũ, về Phan Nghị khi ở trong nước hay Thanh Nam ở hải ngoại. Dù viết về bất cứ nhân vật nào ông cũng tìm ra được những nét biểu trưng được cá tính riêng biệt cũng như những thời thế, không gian, thời gian họ đã sống. Thí dụ như ông viết về Thanh Nam:
"...Qua thơ Thanh Nam người đọc cảm thấy hồn thơ man mác trên từng ý, từng lời. Thơ của ông còn một đặc điểm là được viết bằng men rượu, qua hơi rươu. Không phải là hơi rượu cuồng say của Lý Bạch, hay hơi rượu ngạo thế khinh đời của Vũ Hoàng Chương, mà là hơi rượu đủ ngát để tỏa hồn thơ. Có thể nói rượu xuất hiện hầu khắp thơ của Thanh Nam.

"Tiễn bạn phải có rượu:
Hãy uống cho say trời sắp sáng
Mai này hai đứa đã hai phương.
Nhớ bạn, phải có rượu:
Bạn cũ hay nương theo rét lạnh
Về đây cùng nhập một cơn say.
Chờ bạn, lại càng phải thêm rượu:
Rượu mời ta rót cho ta
Bạn gần không tới bạn xa chưa về
Rồi để tống tiễn năm cũ, ông cũng tìm đến rượu:
Rót thêm ly nữa chào năm cũ
Tuổi bốn mươi rồi thương lắm thay
Mà đón mừng xuân mới, ông cũng không quên được rượu:
Đất khách năm tàn vẫn gió mưa
Ngồi bên ly rượu đón giao thừa."

Thanh Nam có đủ mọi cớ để nhắc đến rươu tìm về rượu thậm chí ngay cả lúc ru con:

"Bố uống cho con ly rượu này
Ly rượu mừng con tròn mộng đẹp
Niềm vui hoa nở ngày tháng dài
Ngủ đi con hỡi mai khôn lớn
Đời sẽ bình yên không lửa gai..."

Nhà văn Huy Quang Vũ Đức Vinh đã viết một đoạn về nhà văn Dương Hùng Cường khá lý thú:
"Anh Dương Hùng Cường là một trong những ứng viên hoa tiêu ngay trong thời kỳ KQVNCH mới thành lập nhưng chắc sinh cùng ngày giờ với nhà thơ Tú Xương nên khoa cử lận đận anh đã không qua khỏi kỳ tuyển chọn để cuối cùng trở thành một chuyên viên điều hành không lưu. Ngành này cũng như các ngành hành chính, tài chính, tiếp liệu, vũ khí, kỹ thuật, thông tin, xã hội, an ninh, phòng thủ, được liệt vào các ngành mang chức năng hỗ trợ và kêu là không phi hành, tức không bay. Nhà văn nhà báo họ Dương thành chim không bay hay Không Quân Bò, rồi thành dê - Dê Húc Càn. Anh ví mình với kiếp Kiwi để tự diễu, rồi cũng từ đó chọc chơi mấy ông hoa tiêu có cánh mà ngán bay thì cũng không hơn gì Kiwi. Có lúc anh còn đi xa hơn, chọc quê, chọc phá mấy ông lớn ngoài Không Quân trong giới "chính trị chính em" khiến Phủ Đầu Rồng nổi nóng và tư lệnh Trần Văn minh than trời vì cứu không nổi. Dê Húc Càn lần đó đã khăn gói giã từ Tân Sơn Nhất của sư đoàn 5 KQ ra chân núi Sơn Trà của sư đoàn 1 KQ gặm cỏ gần một niên..."

Đọc "Buồn Vui Phi Trường" thấy được đời sống những người lính mũ xanh của một thời kỳ có nhiều biến cố của dân tộc. Lúc ấy quân chủng còn những bước chập chững sơ khai. Những người trẻ tuổi xuất thân từ Rochefort, Salon, Marakech,... đã đặt nền móng cho một không lực hùng hậu gồm hơn năm chục ngàn chiến sĩ trong hàng ngũ và hai ngàn máy bay đủ loại về sau này. Những phi trường lúc ấy còn nhỏ bé lắm và sinh hoạt cũng trong nhịp rời rạc không như về sau này nhộn nhịp cùng với nhịp độ của chiến tranh.

Tác phẩm thứ hai của Dương Hùng Cường là "Vĩnh Biệt Phượng", một chuyện tình thời chiến của những chàng phi công. Tâm và Dương là hai bạn thân cùng đơn vị, là cặp bài trùng của phi đoàn khu trục ở Biên Hòa. Dương trong một phi vụ hành quân đã bị bắn rớt và trải qua những giây phút thập tử nhất sinh để mưu sinh thoát hiểm. Trong khi đó ở trên trời, Tâm đã nhất quyết không rời vùng để cover cho bạn. Kết cuộc là Dương thoát hiểm trở về được căn cứ. Rồi, đến khi Tâm bị bắn rớt và Dương đau đớn khi bị mất một người thân.

Họa vô đơn chí với gia đình Tâm, Thư Hương, em gái của Tâm, bị một anh chàng bác sĩ sở khanh dụ dỗ đến mang thai và Dương vì tình bạn đã cưu mang cái bào thai ấy và nhận lấy Thư Hương làm vợ dù đã có người yêu là Phượng, một mối tình trong sáng và thánh thiện. Kết quả, là Vĩnh Biệt Phượng:
"Phượng bàng hoàng như bị ai đập mạnh một nhát búa. Bàng hoàng hơn cả sáng nay, nghe tin Tâm chết. Tai Phượng như ù đi, không còn nghe thấy Dương nói gì nữa. Hình như Dương còn nói nhiều lắm nhưng Phượng như bềnh bồng lao đao muốn ngã. Nàng phải vịn vào một thân cây để đứng vững. Dương muốn đỡ lấy Phượng, nhưng rồi lại thôi, sau một giây ngập ngừng.

Như thế mối tình ấy tới đây là hết rồi. Trong một khoảnh khắc Phượng thấy như trên thế gian này có hai người chết, một người là Tâm nằm trong kia và một người là Phượng đang đứng ở đây. Mắt nàng mở lớn nhìn vào khoảng trống trước mặt và nàng biết rằng bây giờ chỉ cần nhẹ chớp mắt là nước mắt sẽ ào ào tuôn ra. Tiếng dương thoảng như tiếng gió: Thôi, vĩnh biệt Phượng!.."
Trong hai tác phẩm, Dương Hùng Cường đều lấy khung cảnh của nghĩa trang để cho những nhân vật của mình chia tay nhau. Ở "Buồn Vui Phi Trường" cũng là nghĩa trang, khi người đàn bà vừa mất chồng nắm tay đứa con thơ đi trên con đường nghĩa trang của buổi chiều nạt nắng. Bóng dáng ấy cô đơn và buồn thảm qúa.

Hình ảnh của người phi công hào hùng dường như bị nhòe đi bởi những dòng lệ thương xót. Tôi đọc truyện của Dương Hùng Cường trong sự chia sẻ, bởi tôi biết, tác giả đã ảnh hưởng rất nhiều của sự thực. Bàng bạc trong truyện, là tâm cảm của một người lính rất yêu quân chủng của mình, và những nhân vật là tổng hợp của nhiều khuôn mặt có thực của đời quân ngũ. Cái đặc thù ấy, là của riêng của những người cầm bút Không quân.
Nhà thơ Hoàng Song Liêm cũng là một vóc dáng thi sĩ quen thuộc của quân chủng KQ. Trong hai tập thơ vừa xuất bản ở hải ngoại, thơ trở thành một cống hiến cho đời để văn chương được trân trọng...

Tách bạch từng bài thơ, vẫn là bàng bạc mối sầu thương nhà nhớ nước. Nỗi buồn của một người, đứng trên bờ nhìn dòng nước mải miết trôi, thấy quá khứ chập chờn và hiện tại chông chênh. Có một tiếng thở dài, trầm và sâu. Nhưng, trong kiếp người và trong cuộc đời, có điều gì vượt qua được cái hữu hạn của cuộc nhân sinh. Đọc bài thơ "Rồi một ngày qua đi", để thấy cái chạnh lòng của một người thơ nhiều suy tưởng:

"Rồi ngày và tháng cũng qua đi như chưa bao giờ có thật
Anh còn gì trong nắm tay xuôi?
Tuổi và năm cũng trôi về nẻo khuất
Nỗi nhớ trong Em rồi cũng phai phôi
Mặt trời chiều nay vẫn đấy
Hỏi thầm bóng cũ ta đâu
Vầng nguyệt đêm nay vẫn vậy
Còn không hai bóng chung đầu?
Ngày và tháng cũng qua đi như chưa bao giờ có thật
Hăm bốn giờ qua có nghĩa gì chăng?
Giây và phút cũng theo nhau đuổi bắt
Đông sẽ tàn và Xuân lại sang Xuân
Ngày lênh đênh và tháng cũng lênh đênh
Kỷ niệm cũ sẽ chôn vùi đáy mộ.
Em chưa về cỏ dại vẫn vây quanh
Ôm hữu hạn ta xuôi miền ảo tưởng
Ngẩn ngơ tìm, tìm mãi, ngẩn ngơ thôi
Ta hiện diện nào hay vô sắc tướng
Mây chiều bay, chìm nổi cuối chân trời"

Hình như, thơ ngân vang những rung cảm, những sợi dây căng lên từ miền cảm xúc. Tôi muốn hỏi tự mình: Đây có phải bài thơ hay? Và, hình như có một người cũng cảm được từ ngôn ngữ và vần điệu ấy để mượn những cung bậc âm thanh phổ nhạc bài thơ...

Có những bài thơ sống mãi với quê hương, những bài thơ của Tế Hanh, Bàng bá Lân, Anh Thơ, Thanh Tinh,... Tôi nhớ đã đọc những bài thơ ấy cách nay mấy chục năm đến bây giờ vẫn còn in trong óc từng câu từng chữ và cả nỗi nao nao trong tâm, trong trí. Những bài học thuộc lòng của tuổi thơ ấu nào thật xa mà cũng thật gần gũi. Bây giờ, đọc bài thơ "Về Làng Cũ" của Hoàng Song Liêm, tôi lại còn nguyên cảm xúc cũ:

"Ôi nhớ quá bừng lên từng tuổi dại
Như gã tiều phu tìm trầm ngậm ngải
Tôi trở về như một khách hành hương
Tôi chắt chiu từng mảnh vỡ thiên đường
Thành chuỗi ngọc tuổi
hồn nhiên sắc biếc
Tiếng cu gáy vườn xưa ngày tiễn biệt
Lời chim sâu ríu rít ngọn tre già
Bên ao đình còn đó gốc đa xưa
Chùm khế ngọt giậu
mướp vàng xóm giếng
Mảnh sân cuông qua mấy mùa dâu biển
Gót chân về mòn vẹt gót phiêu du
Cội soan già, hàng cau biếc non tơ
Ôi nhớ quá hắt hiu chiều ngõ trúc
Con chuồn chuồn còn đậu đó ngu ngơ
Trái sấu xanh thuở đầu đời đi học
Vị trên môi còn chát chát chua chua..."

Nhà văn Thế Phong đã nổi tiếng từ trước khi gia nhập vào quân chủng Không Quân cũng là một vóc dáng lạ của văn học. Ông đã viết những tác phẩm như Nửa Đường Đi Xuống, Thế Phong, Nhà Văn, Tác Phẩm, Cuộc Đời... với giọng văn khác thường đã kể lại những bất toàn của chính bản thân mình bằng một giọng văn thật tự nhiên và tương tự như thế với những người ông biết hoặc có liên hệ. Ông chủ trương nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến và cũng là một thi sĩ có lối suy nghĩ khác thường và là người phê phán chiến tranh bằng thi ca. Gần đây ông viết Hồi ký Ngoài Văn Chương có đề cập đến nhiều khuôn mặt quen thuộc của KQ. Một điều đáng tiếc là ông nêu ra quá nhiều những dữ kiện không đẹp hay đã có những nhận xét không được trong sáng lắm về nhân vật này, tác phẩm nọ. Viết hồi ký, có lẽ là dịp để cho ông giãi bày ra tất cả những ấm ức về cuộc đời mình nên người đọc chỉ thấy nhiều những nét bi quan hơn là lạc quan của văn chương.

Trong khuôn khổ của một bài tạp ghi, tôi không thể nào viết đầy đủ về những khuôn mặt văn chương của KQ. Có lẽ, tôi phải cố gắng để tiếp tục viết về Kiêm Thêm, Phan Lạc Giang Đông, Trần Ngọc Tự, Đỗ Quuốc Anh Thư, Đào Vũ Anh Hùng, Hoàng Khai Nhan, Đào Quang Bình, Trường Sơn Lê Xuân Nhị, Võ Ý, Lê Bá Định... trong một bài kế tiếp nếu có cơ hội...

KQ VNCH có rất nhiều nghệ sĩ, ở tất cả các bộ môn. Như về nhạc có Ngô Mạnh Thu, Nguyễn Trung Cang... hội họa có Ngy cao Uyên, Cao Bá Minh... làm thơ làm văn chuyên nghiệp hoặc tài tử thì vô số. Tôi cũng là một KQ nên khi viết những trang chữ này trong lòng cũng lây thầm cái hãnh diện của một người được chia sẻ... và tôi nghĩ tiếp, có lẽ tinh hoa của dân tộc đã đổ vào quân đội chăng nên mới có những sự kiện tốt đẹp này?

Nguyễn Mạnh Trinh

Tiểu Tử * Chị Tư Ù



Chợ cá hồi đó nằm trên khoảng đất tráng xi măng giữa bờ sông và nhà lồng chợ, chung với hàng rau cải và trái cây. Về sau, thấy việc bơm nước rửa chợ cá vẫn không làm trôi hết mùi tanh của nhớt cá thấm vào xi măng, nhà chức trách trong làng cho xây chợ cá chờm hẳn ra sông, bằng gỗ theo điệu nhà sàn chống chân xuống nước nhưng bề mặt rộng như một cầu tàu. Như vậy, nhứt cử lưỡng tiện, bởi vì vừa rửa chợ ngay trên mặt sông, vừa có chỗ cho ghe thuyền cập vào để lên hàng. Ngoài ra, còn thêm một tam tiện nữa là chiều chiều người ta hay ra đó để câu cá hoặc hóng mát bởi vì chợ chỉ nhóm có buổi sáng thôi.

Ở chợ cá, chị Tư Ù là xếp sòng ! Không phải chỉ tại vì cái sự to thuyền lớn bánh của chị, mà còn tại vì chị thuộc vào gia đình bán cá bán mắm lâu đời nhứt trong làng. Bắt đầu là bà ngoại của chị từ thuở chưa có chợ nhà lồng (hồi đó chợ còn nhóm lộ thiên ở dưới xóm lò heo). Kế đó là má của chị. Thời này, ở nhà không còn làm mắm bán mắm, chỉ bán cá thôi và đã dọn về căn phố trệt nằm ngang hông chợ. Và bây giờ là đến phiên chị Tư. Trong gia đình, con Tư học hành thì dở nhưng lại chịu cực giỏi. Lại biết bươn chải làm ăn. Chỉ có nó mới nối nghiệp tao được. Cũng như tao đối với bà ngoại bây hồi đó. ...Má chị Tư thường nói như vậy, hồi còn sanh tiền, hồi lũ con vừa mới lớn. Về sau, quả đúng như vậy: mấy đứa kia sau khi dựng vợ gả chồng, xuống Sài Gòn làm việc cho nhà nước, có đứa làm cho hãng tư ở đâu tuốt ngoài Trung xa lắc xa lơ. Chị Tư ở lại nối nghiệp sau khi bà già nằm xuống. Rồi bởi vì có sự mẹ truyền con nối ba đời như vậy mà không riêng gì ở chợ cá, trong làng ai cũng biết tiếng chị Tư và bạn hàng cá cũng nể nang một phần.

Hỗn danh Tư Ù không phải mới có sau này, mà đã có từ hồi chị Tư còn nhỏ. Trong nhà chỉ có mình con Tư là sổ sữa hơn hết má chị thường nhắc chuyện này, vì bà rất hãnh diện đã làm một việc không phải ai cũng làm được . Bà kể: Hồi sanh nó ra, tao rặn muốn bứt hơi luôn ! Tưởng đâu tao ngủm rồi chớ. May nhờ bà mụ cũng giỏi, bả rặn phụ tiếp sức mấy lần, con nhỏ mới chịu lọt ra. Y¨... nó lì từ còn trong bụng chớ phải mới đây đâu bây ơi! . Bà hay ngừng ở đó một chút, xỉa cục thuốc qua lại mấy lần, làm như để nhớ lại cái đau thuở đó và cái nhẹ sau khi đã sổ lòng đứa con... Rồi lúc nào bà cũng tiếp: Bà mụ mà còn phải công nhận là cả làng này chưa ai sanh đứa nhỏ nào bự bằng nó hết ! Ai tới thăm khi bồng nó lên cũng nói là nó nặng như con Tây ! Tía bây đi ruộng về thấy cũng phải hết hồn! . Rồi cũng vì cái sự nặng như con Tây mà mấy bà mấy cô xóm Chợ hay tới lui ẵm bồng nựng nịu bé Tư . Bé Tư mau ăn chóng lớn, lúc nào cũng ú na ú nần , hay cười dễ ngủ nên trong xóm ai cũng thương. Mãi đến khi vào trường tiểu học, trẻ con trong trường mới đặt cho danh hiệu Tư Ù . Từ đó, thành tên luôn.

Hồi đó trong lớp, hai đứa học dở nổi danh là con Tư Ù và thằng Út Cón. Thằng này người Tàu, tên Lý Cón, con trai út của chú Phấn thợ bạc. Vợ chồng chú Phấn sanh một bầy con gái rồi ngưng ngang. Tám năm sau thiếm Phấn bỗng lại có bầu. Lần này, hai vợ chồng đưa nhau về Chợ Lớn đi mấy chùa chiền cầu nguyện cúng vái dữ lắm. Sau đó, sanh Út Cón. Cho nên, cả nhà chú Phấn cưng nó như vàng. Nó muốn gì được nấy. Ðến nỗi, khi đến tuổi đi học, nó không chịu đi, là cả nhà cũng làm thinh. Cho tới lúc thấy nó lớn đại rồi mới tìm cách dụ dỗ, nói khích để nó cắp cặp vào lớp. Vì vậy khi nó đi học với Tư Ù thì nó đã lớn hơn tới bốn năm tuổi !

Trái với Tư Ù, Út Cón gầy nhom trắng nhách. Tánh tình thì hay hờn hay giận trong lúc Tư Ù lại xông xáo du côn như con trai. Vậy mà hai đứa lại thích nhau, lúc nào cũng đi chung chơi chung, và gọi nhau bằng bồ .

Tiệm vàng của chú Phấn nằm ở dãy phố trệt phía bên kia nhà lồng chợ, thành ra đối diện với nhà má Tư Ù. Và vì hai nhà nằm trịch về phìa bờ sông ngang sân xi măng nên từ nhà này có thể nhìn thẳng qua nhà bên kia mà nói chuyện cũng được. Chỉ cần nói lớn tiếng một chút là nghe rõ. Sáng nào, Tư Ù cũng lon ton chạy qua tiệm vàng để cùng đi học với Út Cón chớ không đi chung với mấy đứa trong nhà. Lâu lâu, con Tư bị kẹt gì đó thì thằng Cón ra trước cửa tiệm réo: Ù ơi! Ơ¨... Ù ! Bồ làm khỉ gì bển mà chưa chịu qua ? . Có hôm, cả hai đứa cùng trễ, nghe tiếng trống trường đánh thúc tới mới hè nhau chạy mà cười hắc hắc, giống như... chạy đua vào lớp.

Những ngày nghỉ, tụi nó hay rũ nhau lên chùa ăn cắp nhãn . Thật ra tụi nó còn quá nhỏ để trèo lên mấy cây nhãn trong vườn sau của chùa, nên đến đó chỉ để lượm nhãn dơi ăn làm rớt rải rác dưới đất. Nhưng vẫn nói là đi ăn cắp cho nó oai! Út Cón hay đem hột nhãn về nhà lấy dao cắt khoanh, móc bỏ ruột, còn lại cái vỏ đen huyền bóng lưởng làm nhẫn đeo vào ngón tay của bồ nó. Nó đã phải lựa những hột nhãn thật to để chiếc nhẫn đủ rộng cho vừa ngón tay...

... Lật bật rồi hai đứa cũng học hết lớp nhì. Ðến đây, Út Cón sang qua học trường Tàu vừa mới mở ở xóm chùa Cao Ðài trên lộ cái. Còn lại một mình, Tư Ù ráng kéo hết năm lớp nhứt rồi nghỉ học luôn, ở nhà giúp việc nhà và tập tành bán cá với mẹ. Lúc này, con Tư bắt đầu trổ mã. Da dẻ mơn mởn, má hồng hồng, mắt trong vắt, tóc đen mướt thả dài đến ngang lưng, và giọng nói thật là lảnh lót. Thân hình có thay đổi, có trở thành con gái , nhưng vẫn... tròn trịa nặng cân.

Út Cón cũng nhổ giò, cao lêu khêu, nói tiếng trống tiếng mái. Tuy hai đứa không còn học chung, nhưng vẫn qua lại gặp nhau thường và vẫn gọi nhau bằng bồ . Tiếng bồ từ thuở bé bây giờ không còn nét vô tư nữa, nhứt là tiếng bồ của Tư Ù gọi Út Cón. Nó có cái gì... khác khác. Một cái gì nhẹ nhẹ. Một cái gì mà chỉ có con gái gọi người con trai mình thích mới gọi được như vậy thôi !

Bây giờ Út Cón đi học bằng xe đạp. Sáng nào, nó cũng đảo một vòng xuống bờ sông để đạp ngược trở lên ở dãy phố bên kia, bởi vì sân xi măng đã đầy bạn hàng. Và sáng nào vào giờ đó con Tư cũng quét nhà vừa ra đến cửa để chào Út Cón: Ði học hả bồ ? . Thằng con trai vừa Ừa vừa nhấn mạnh lên bàn đạp làm tiếng Ừa như bị kéo dài ra, giống như cái nhìn của con Tư đang kéo dài theo sau lưng bồ nó.

Lâu lâu, tụi nó rủ nhau đào trùng đi câu ở bến gỗ thầy Cai, và luôn luôn đi chung với mấy đứa nữa. Chỉ có hẹn nhau lên chùa là tụi nó đi riêng. Làm như khu vườn sau chùa là một thế giới khác, một thế giới mà tụi nó đã xí từ hồi còn học lớp chót. Ở đó có mấy gốc nhãn mấy gốc sung gốc mít và vô số ổi, vây quanh bởi một hàng rào tre tươi. Trẻ con trong làng đều biết khu vườn đó nhưng chúng không vào được vì phải bước hẳn vào ngôi tam bảo mới có ngõ để đi qua đó, mà ông thầy cả thì khó tánh không cho trẻ con vào chùa sợ mất nét tôn nghiêm. Ông thầy này là bà con bạn dì với má con Tư, nhờ vậy mà Tư Ù Út Cón được ra vào vườn thông thả. Dĩ nhiên, chúng nó chẳng bao giờ dám lớn tiếng làm ồn. Ngoài ra, khi gặp dịp, hai đứa cũng biết phụ thầy hay mấy chú tiểu làm những chuyện lặt vặt như quét dọn bàn Phật, chưng bông,nấu nước. Thành ra trong chùa coi tụi nó như... người nhà ! Lâu rồi thành quen, chẳng ai để ý rằng hai đứa nhỏ đã bắt đầu lớn...

Những lúc lên chùa sau này không còn ý nghĩa ngây thơ đi ăn cắp nhãn như hồi còn lớp năm lớp tư . Lên chùa bây giờ giống như đi về nhà của tụi nó hay đi về cái ổ của tụi nó . Cái khu vườn sau mà tụi nó thuộc từng gốc cây bờ cỏ, thuộc từng lối đi quanh quẹo để tránh hòn non bộ, tránh mấy chậu kiểng, tránh mấy cái đôn bằng sành... Ở đó, chia nhau mấy trái ổi chua, mấy trái dái mít chát... để chấm muối ớt mang theo từ nhà, vừa ăn vừa hít hà vì cay chảy nước mắt, vậy mà sao thấy ngon, thấy vui. Chẳng nói chuyện gì nhiều, vậy mà sao thấy đầy thấy đủ. Ở đó, chỉ có hai đứa...

... Mấy năm sau, Út Cón nghỉ học, ở nhà làm thợ bạc. Mấy năm sau, Tư Ù đi lên đi xuống Sài Gòn Chợ Lớn bổ hàng về phân phối lại bạn hàng trong chợ, để bà già bán cá một mình. Mấy đứa khác trong gia đình đã xuống ở hẳn nhà người dì ở Sài Gòn để đi học. Út Cón bây giờ bảnh trai ra, người dong dỏng cao, mặt mũi khôi ngô trắng trẻo. Tư Ù thì thân thể đẫy đà, chỉ đẹp gái ở giọng nói nước da và mái tóc! Vẫn hay cười, dễ ngủ và vẫn lanh lẹ tay bằng miệng, miệng bằng tay . Hai người vẫn qua lại với nhau như thuở nhỏ. Vẫn gọi nhau bằng bồ , tiếng bồ bây giờ thật đậm đà tình bạn mà cả hai chỉ dành riêng cho nhau. Lâu lâu, thấy quần áo gì lạ lạ mới mẻ ở Sài Gòn Chợ Lớn, Tư Ù mua về tặng Út Cón bận chơi để lấy le với bạn bè . Ðể trả lại, Út Cón âm thầm vẽ kiểu chạm trổ một chiếc nhẫn bạc. Mấy hôm sau gọi Tư Ù qua tiệm nói: Bồ cho tôi nhiều thứ quá. Bữa nay, tới phiên tôi cho bồ cái này . Rồi cầm bàn tay Tư Ù lên xỏ chiếc nhẫn vào ngón áp út. Xong, nghiêng bàn tay qua lại để nhìn: Tôi nhắm chừng vậy mà cũng vừa ghê. Hồi nhỏ, tôi hay làm vòng hột nhãn cho bồ, bồ còn nhớ không? . Tư Ù xúc động đến không nói được một lời. Út Cón vẫn cầm bàn tay nghiêng qua nghiêng lại để nhìn, theo thói quen thợ bạc: Bây giờ có muốn làm vòng hột nhãn cũng không kiếm đâu ra hột to để cho vừa với bàn tay tổ nái này ! . Tư Ù rút nhanh tay về đánh lên vai Út Cón cái bốp, nói: Quỉ . Rồi cả hai cười vang tự nhiên, làm như thuở ấu thời hãy còn nguyên vẹn đó. Và có lẽ trong thâm tâm mỗi người đều cũng muốn như vậy. Ðể đừng có gì thay đổi.

... Vậy rồi Út Cón đi cưới con Doành, con gái út của ông bang Ky. Ðám hỏi và đám cưới làm cùng một lúc theo lời yêu cầu của đàng gái vì ông bang Ky phải về Tàu gấp sau đó. Hay tin đám cưới, Tư Ù bỗng chết điếng trong lòng, đang ngồi trên bộ ván gõ mà tưởng chừng như chìm sâu dưới nước. Nằm dài xuống bộ ván, Tư Ù lấy khăn lông úp lên mặt để nước mắt thú nhận tình yêu giấu kín từ bao nhiêu năm...

Thời gian sau, Tư Ù lấy tài xế Cước lái xe Thiên Thành chạy lên chạy xuống Sài Gòn... Chuyện này cả làng đều hay. Bà già chửi tắt bếp . Tư Ù đổ lì chịu trận, và hay vừa cười vừa giải thích: Ði bổ hàng riết rồi dính luôn, gỡ không ra ! Chắc tại cái số... . Rồi tài xế Cước dọn về ở chung trong nhà như hai vợ chồng. Bà già mới đầu buồn lắm, nhưng lần hồi quen đi, nên cũng chẳng có lời qua tiếng lại. Bên tiệm vàng Út Cón cũng buồn lắm, thương cho người bạn gái chẳng gặp duyên may, làm cho hàng xóm dị nghị mà mình thì không biết giúp cách nào hết. Có hôm Út Cón ngừng tay, nhìn ngang tủ kiếng sang nhà bên kia, thấy thấp thoáng bóng Tư Ù mà có cảm giác như hình ảnh đó mỗi ngày một xa lần mà mình thì vẫn ngồi đây bất động, chẳng một với tay, chẳng một vẫy tay... Chẳng bằng hồi đó, cái hồi mà còn đi chơi chung với nhau, hai đứa cùng ngồi trên nhánh ổi, chỉ một cái nghiêng người của Tư Ù mà mình đã đưa tay chụp lấy nó vì sợ nó té làm nó cười lên hăng hắc. Chẳng bằng hồi đó... Chẳng bằng hồi đó... Út Cón thở dài quay về với công việc mà nghe lòng se lại. Chụp hộp quẹt máy đốt đầu cây đèn khò, chân đạp cái bơm gió, Út Cón điều chỉnh ngọn lửa đèn khò mà trong đầu hiện về biết bao nhiêu kỷ niệm. Ðể rồi tiếp tục so sánh cái hồi đó với cái bây giờ . So sánh để vừa tiếc nuối vừa ân hận. Bỗng Út Cón thốt lên nho nhỏ, giọng như tự trách mình: Vậy mà gọi nhau bằng bồ cái nỗi gì ?... . Y¨ nghĩ đó làm Út Cón muốn chảy nước mắt. Vội vã cầm đèn khò đưa ngọn lửa tạt qua tạt lại trên cục vàng nhỏ như hột bắp nằm gọn trong lòng khuôn. Ðể đừng nghĩ gì nữa. Vậy mà vẫn nghĩ rằng mình đang muốn đốt cho chảy ra để làm tinh khiết lại một cái gì cũng quí như cục vàng nằm ngay trước mặt...

Ăn ở với tài xế Cước không bao lâu Tư Ù mang bầu rồi sanh con trai. Bà già cưng như trứng mỏng. Vậy mà tài xế Cước kiếm chuyện gây gổ mấy lần rồi xách gói ra đi . Ra đi khơi khơi dễ dàng làm như chuyện đầu ấp tay gối, đứa con hòn máu chẳng có giá trị gì hơn chuyện quá giang xe đò của người hành khách ! Cũng chẳng thấy Tư Ù buồn. Có ai hỏi thì trả lời: Thằng chả nói nhà tôi tanh cá quá, thằng chả chịu không nổi . Nói rồi Tư Ù cười lên ha hả. Có ai trách thì tự an ủi: Ôi !... Thằng chả lái xe đò quen rồi. Tấp vô bến này một chút rồi đi, rồi tấp vô bến khác. Hơi đâu mà trách? Chớ như tôi đây ú na ú nần xấu xa xấu xí có thằng đàn ông nào thèm rớ. Vậy mà thằng chả chiếu cố hết mấy năm, coi thấy bạc nghĩa vậy chớ vẫn còn có tình. Còn phiền trách nhau chi ? . Từ ngày tài xế Cước bỏ đi, vợ chồng Út Cón vẫn chưa có con hay qua lại nhà Tư Ù ẵm bồng nựng nịu thằng nhỏ và lâu lâu mượn nó về tiệm vàng chơi cả buổi, gọi là để lấy hên . Thật ra, đó chỉ là một cái cớ để Út Cón nối lại sợi dây tình cảm bị gián đoạn từ ngày có mặt tài xế Cước và để tiếng bồ vẫn là tiếng nói từ trong lòng của hai người. Vợ Út Cón cũng mến Tư Ù ở tánh bộc trực nên thường tới lui chị chị em em như đã quen thân nhau từ trước. Tư Ù chẳng những không thấy ganh ghét vợ Út Cón mà còn thấy con nhỏ thiệt dễ thương, nết na đằm thắm, lo cho chồng từng tí từng ly... . Ðối với Tư Ù, mọi sự đều dễ dàng: Không thành duyên nợ thì thôi, tình thương mình để vào lòng chớ làm khó khăn rắc rối nhau chi cho chúng ghét . Còn về chữ tình , quan niệm của Tư Ù cũng rất là đôn hậu rõ rệt: Hể mình thương ai thì mình muốn người đó sung sướng hạnh phúc. Người đó vui, mình vui. Người đó buồn, mình buồn. Chớ còn nói thương người ta mà cứ đeo theo làm khổ người ta, thì đâu phải gọi là thương ! . Có lẽ nhờ nghĩ như vậy mà tiếng bồ của Tư Ù gọi Út Cón lúc nào cũng thấy trong veo mát rượi như giọt sương trên tàu lá buổi sáng...
Mặc dù tâm sự đã gói ghém kỹ để trong lòng, lâu lâu Tư Ù vẫn thấy thèm được nói lên tiếng nói của con tim . Ðó là những buổi trưa rỗi rảnh, nằm một mình trên võng đong đưa, ngẵm nghĩ viễn vong để cuối cùng lại trở về hoàn cảnh của hai người. Không kềm được trào lòng, Tư Ù ngân nga một câu vọng cổ: Anh Hai ôi... Cái mối tình của em đối với anh... nó tợ như trời cao biển rộng&&...ư&.&&&..sông... à.&..dài... .

Xuống hò ø thật ngọt, và nghe như nỗi niềm trắc ẩn cũng theo chữ dài mà tuôn ra nhè nhẹ. Mấy tiếng Anh Hai ôi... được vô một cách tình tứ. Sợ thiên hạ biết, chớ nếu dám vô bằng Anh Út ôi... chắc phải mùi hơn nhiều... Và chỉ có như vậy thôi, và chỉ cần có như vậy thôi, Tư Ù cũng đã thấy nhẹ, thấy thỏa mãn, thấy như đã nói hết những gì mình muốn nói!

* * *

Khi chị Tư nối nghiệp bà già, chợ cá hãy còn nhóm mỗi sáng trên sân xi măng. Hồi đó thằng con trai đã lớn, đang đi quân dịch, và vợ chồng chú Út cũng đã có hai cô con gái. Người trong làng kêu Tư Ù bằng chị Tư , nhưng lại gọi Út Cón bằng chú Út . Có lẽ tại cái gốc Tàu. Bởi vì họ đã có thói quen gọi người Tàu bằng chú chú chệt và vẫn gọi tiếp tục như vậy cho dù chú chệt đó lần hồi đã già bảy tám mươi tuổi. (Thành ra trong tiệm vàng đã có chú Phấn , bây giờ tấn lên có chú Út Cón . Hai cha con đều được gọi bằng chú , ngang nhau !)

Mỗi sáng chị Tư dọn hàng ra chợ, ngay trước nhà, nên cũng tiện và nhanh. Hàng cá của chị gồm có hai thau nhôm thật to đầy cá, nước trong veo, mộït tấm thớt gỗ dầy, hơi trũng xuống ở phần giữa vì đã được sử dụng lâu năm, một con dao yếm để đánh vảy mổ bụng cá, một con dao phay để chặt khúc cá, một cái thau nhôm nhỏ để bắt cá cho khách hàng coi và một cái cân xách. Ðặc biệt trong chợ cá, chỉ có chị Tư là không có cái chài vồ. Dụng cụ này bằng gỗ, thường được dùng để đập lên sóng dao phay khi muốn chặt con cá to ra từng khứa và nhứt là khi cần bổ hai cái đầu cá để đừng bị dập và để mỗi miếng coi cho nó ngon . Khách hàng không ưa những khúc cá bầy nhầy , cho nên hàng cá nào cũng phải có dao bén ngót, và khi rả con cá cở bằng bắp chân trở lên, phải biết dùng dao yếm để khứa và dao phay với cái chài vồ để xả . Vậy mà chị Tư không cần tới cây chài vồ. Bởi vì chị mạnh tay lắm và chị nhắm đâu là chặt đúng ngay đó, không xê xích một ly . Khách hàng ai cũng phục chị Tư ở chỗ đó. Họ nói: Con Tư nó múa dao như Sơn Ðông. Mình chỉ ở đâu là nó phụp ở đó, ngay bon ngọt xớt... Chớ không phải như mấy con mẹ kia, cầm chài vồ đập bom bớp nghe mà phát nhức đầu .

Dọn hàng xong, chị ngồi lên cái hộp gỗ cao bằng hai viên gạch có cái hộc như hộc tủ. Chị kéo hộc ra để tiền lẻ vào đó, rồi bắt đầu chào hỏi bạn hàng cá và rau cải. Trong làng, và nhứt là trong chợ, phần đông đều quen biết nhau hết, nên câu chuyện trao qua trao lại dễ dãng thoải mái. Ðó là giờ thông tin của các bạn hàng trong khi người đi chợ còn rải rác lưa thưa. A... để nói này nghe, đừng nói ai hết nghen ! Con gái của dì Năm Ðôi có bầu với thầy giáo Thái. Họ giấu dữ lắm đó ... Chèn ơi! Tội nghiệp con nhỏ hôn ! ... Thầy bà gì mà ác nhơn. Vợ con cả đống cả lèng rồi mà còn dê con nhỏ làm chi cho nó khổ ... Nè ! Nghe nói ông Xả Bảy mới rinh về một con vợ bé. Không biết phải hôn ? ... Ðâu nà ! Cháu gái của ổng đó. Ðừng nói bậy ổng cào nhà bây giờ ... Ờ... Con mẹ Sáu bánh lọt sao hổm rày đâu mất hổng thấy há ? ... vv. Trong lúc bạn hàng vải, hay bạn hàng xén, đều có nhà hay cửa tiệm nằm vây quanh chợ nhà lồng nghĩa là qui tụ lại một chỗ thì những người bán cá lại có nhà ở rải rác trong mấy xóm xa chợ như xóm Giếng, xóm Chùa, xóm Lò Gạch, xóm Nhà Máy... Thành ra bạn hàng cá có tai mắt ở khắp nơi. Cho nên họ là giới biết nhiều tin tức trong làng nhứt. Và họ thông tin ăn bứt Phòng Thông Tin !

Khi chợ đã bắt đầu đông, bắt đầu ồn ào, thì mạnh ai nấy rao hàng mời khách. Chị Tư cầm cái cán cân nhắc lên để xuống đều đặn làm cho ba sợi xích sắt rơi nhịp nhàng vào cái dĩa cân, kêu rèn rẹt rèn rẹt, miệng mời tía lia: Cá cô Hai... Cá dì Tám . Chị nhớ từng sở thích của khách hàng, như Dì Sáu Lộc ưa cá trê vàng, còn cô Năm Ngự lại không ăn được cá không có vảy. Chị Hai Bia thì hay ăn đầu cá lóc, mà coi chừng, phải có đủ đùm ruột và gan mật còn nguyên chỉ mới chịu... . Lâu lâu, chị Tư thọc tay vào thau vuốt ve mấy con cá giống như vuốt ve con mèo con chó ! Vậy mà chẳng có con cá nào chém bàn tay của chỉ hết! Và khi mà chị Tư muốn bắt con nào là chị luồng thật nhanh ngón tay cái và ngón tay trỏ vào hai mang cá, nhấc bổng ra khỏi nước. Mấy con cá lốc bằng bắp đùi, chị cũng chỉ bắt có một tay. Mạnh như vậy nên bạn hàng cá ai cũng nể mặt, dù xưa nay họ nổi tiếng là giới thô lỗ hỗn ẩu.

Một hôm, chợ vừa nhóm, chị Tư mặt hầm hầm, cầm con dao phay chém xuống thớt nghe cái cốp rồi chỉ mũi dao về phía một bạn hàng cá ngồi cách xa mấy thước phía đối diện, giọng lanh lảnh:
- Lia ! Tao nghe nói mầy đang rêu rao vụ gì đó phải không?
Tiếng không được nhịp bằng tiếng dao chém xuống thớt. Cô gái tên Lia vừa sang nước cá vừa trả lời:
- Chuyện gì đâu ai biết !
Chị Tư vẫn nhịp dao xuống thớt:
- Vậy chớ đứa nào đi nói cùng đồng là thằng cha Út Cón gian lận, bán vàng giả mà la vàng thiệt ? Hả ? Hả ?
Bỗng con Lia đứng sọc lên, tay chống nạnh, mặt gân gân:
- Ờ ! Tôi nói đó ! Rồi có sao không ?
Chị Tư cũng đứng lên, tay vẫn cầm dao phay điểm điểm:
- Có, chớ sao không ! Tao hỏi mầy vậy chớ Út Cón có lường gạt mầy không ? Mầy nói cho bà con nghe coi !
Con Lia khựng một chút rồi cũng gân gân:
- Thì thằng chả làm đồ giả tôi nói làm đồ giả. Mắc mớ gì chị mà chị xía vô ?
Chị Tư nổi nóng, la lớn:
- Mắc mớ chớ sao không mắc mớ ! Út Cón là bạn của tao, tao không muốn ai nói xấu thằng chả hết. Nếu mầy có bằng cớ thì trưng ra cho bà con coi, rồi đem lên hội đồng xã mà thưa thằng chả. Chớ còn không có gì hết mà cứ đi rêu rao nói xấu người ta là tự mày muốn sanh chuyện chớ ai vô đây ?
Thấy quá căng, mấy bà bán cá vội vã xúm lại can gián, mỗi người vài câu, ồn ào hỗn tạp. Trước khi ngồi xuống, chị Tư còn bồi thêm một câu, gọi là để dằn mặt :
- Nè ! Tao nói cho mầy biết. Mầy mà còn kiếm chuyện nữa thì con dao này nó không tha mầy đâu ! Cái thứ ăn ở bất nhơn thất đức không chém cũng uổng...
Con Lia vừa sợ, vừa đuối lý, làm thinh ngồi xuống nhưng trong lòng thề sẽ có ngày nó rửa nhục . Nghe lộn xộn, chú Út Cón từ sau nhà bước ra trước cửa tiệm để nhìn. Lúc đó, cuộc cãi vã cũng vừa chấm dứt. Thiên hạ đi chợ đã bắt đầu đông. Thành ra chú không biết rằng bồ của chú vừa mới binh chú.

* * *

Về sau chợ cá nhóm trên sàn gỗ xây chờm ra sông. Chị Tư mỗi lần dọn hàng phải đi xa hơn một chút. Chị vẫn to thuyền lớn bánh , vẫn hay cười, dễ ngủ, mặc dù thằng con duy nhứt của chị đã chết trận ở ngoài Kontum. Chị nói: Sống chết tại số. Có khóc mấy, nó cũng không sống lại được ! . Trên bàn thờ, cạnh hình ông bà già, chị để hình thằng con mặc quân phục, ngực đeo huy chương. Chị thích cái ảnh đó lắm bởi vì chị thấy nó giống kép Hùng Cường !

Trưa trưa, chị vẫn nằm đong đưa trên võng. Chị thích nằm võng bởi vì nó mát lưng. Cái võng của chị được thắt bằng sợi cây gai đập tơi ra rồi tết lại mịn màng, thân tau vừa to vừa dẹp lại không có gút thành ra nằm êm và không cấn làm ngứa lưng như võng lưới. Chị cũng chê võng nhà binh, tuy nằm êm nhưng khi trở mình nó lại kêu sột soạt !
Và lâu lâu, chị vẫn ngân nga câu vọng cổ của chị để thấy cuộc đời này hãy còn cái gì để nói ...

* * *

Biến cố tháng tư 1975...
Cả làng treo cờ đỏ. Khắp nơi căng biểu ngữ đỏ. Tất cả bảng hiệu đều được sơn lại bằng màu đỏ. Coi hực hỡ như ngày xưa làng xã làm đám cúng ở miễu ông Tà !
Loa được bắt trên cành cây đầu cột, ngã tư ngã ba, phát thanh nghe rồ rồ như có tiếng máy xe đò Thiên Thành nằm trong đó ! Không có phát thanh cải lương nên nghe riết cũng nhàm. Rồi mạnh loa loa nói, mạnh người người nói.
Bây giờ người ta không còn thời giờ rảnh nữa. Hội họp, học tập, hoạt động đoàn thể liên miên, chưa kể đi lao động đều đặn...

Chợ cá vẫn họp buổi sáng. Giờ thông tin cố hữu của bạn hàng cá cũng thấy được tiếp tục nhưng có thâu ngắn lại và nhứt là bây giờ thấy nói nhỏ chuyền cho nhau nghe, chớ không bô bô như hồi trước. Cho nên người ta biết là con Lia bây giờ theo tụi cách mạng dữ lắm. Nó nghỉ bán cá để tổ chức phụ nữ này phụ nữ nọ gì đó và hay tới lui với thằng cha Bắc kỳ công an ở nhà thầy giáo Thái (nhà này cách mạng tịch thâu vì thầy giáo và gia đình đã bỏ chạy mấy ngày cuối tháng tư bảy mươi lăm). Và họ nói: Con nhỏ lúc này lên chưn lắm, bà con! Thấy có đội nón cối nữa! .

Một hôm vào xế chiều, tên công an dựng xe đạp trước nhà chị Tư, nhìn quanh rồi bước vào nhà. Trong nhà lu khạp chứa cá đứng dài dài từ nửa nhà trên chạy tuốt ra phía sau. Nhà không có vách ngăn nên nhìn thấy trống bốc xuống bếp. Chị Tư đang lúi húi nhúm lửa ở đó, thấy khách vội chạy lên. Chị khoác vội cái áo bà ba, cầm chổi lông gà quét nhanh mặt ván gõ, rồi mời:
- Mời anh ngồi. Có chuyện gì không ?
Tên công an ghé đít bên mép ván, nhìn quanh:
- Chị ở có một mình à ?
Chị Tư cũng nhìn quanh:
- Thì anh thấy đó. Còn ai nữa đâu ?
Rồi như sực nhớ ra, chị tiếp:
- À ! Còn... ông Táo. Nhưng ổng không nằm trong hộ khẩu, ổng nằm trong bếp !
Rồi chị cười tự nhiên thích thú với hình ảnh hài hước đó. Tên công an làm thinh. Dưới bếp, lửa nhúm khi nãy không bắt , làm khói lên um tùm. Chị Tư xin lỗi rồi chạy xuống bếp vùi nhanh mấy cây củi xuống tro. Xong, trở lên, vừa đi vừa nói:
- Lúc sau này dầu hôi bị hạn chế, mỗi hộ chỉ mua được có một xị để dành thắp đèn thành ra không dùng lò dầu hôi. Phải chụm bằng củi, khói thôi là khói ! .
Tên công an cũng nói đẩy đưa:
- Ðấy là buổi đầu thôi chị ạ ! Tại vì khâu phân phối vật tư chưa hoàn tất mạng lưới đấy chứ. Rồi chị xem. Vài hôm nữa xăng dầu sẽ được đưa về đây cả khối !
Chị Tư vừa cười vừa nói:
- Gì thì tôi không biết. Chớ hôm rồi bà Tám Liệt Sĩ... xin lỗi anh, trong làng bây giờ kêu bà Tám Tiếu là bà Tám Liệt Sĩ, chớ không phải tôi đặt ra như vậy đâu.
Tên công an gật gật đầu:
- Tôi biết. Gia đình bà má đó theo cách mạng từ thời bốn mươi nhăm. Sau này đều hy sinh cả. Giải phóng rồi ít lâu sau chính tôi đã đưa bà má lên tỉnh để lảnh bằng liệt sĩ và huân chương...
Chị Tư gật đầu tiếp:
- Phải rồi. Ðúng là bà đó. Hôm rồi, sau khi mua phần dầu hôi của bả, bả đưa xị dầu hôi lên cao, vừa đi dọc theo cái đuôi đồng bào đang đợi tới phiên mình, vừa nói...
Chị Tư đưa bàn tay trái lên trên không, ngón cái và ngón trỏ ra bộ kẹp cổ chai xị tưởng tượng, cất giọng the thé nhái bà Tám Liệt Sĩ:
- Nè... Ðồng bào coi đây nè ! Cái này là dầu hôi nghe không. Dầu hôi của Nhà Nước ta bán cho nhân dân. Quí lắm đó ! Không phải để thắp đèn. Mà để nhỏ vô con mắt cho nó sáng ra, nghe chưa ?
Nói xong, chị Tư cười thích thú. Tên công an chỉ nhếch mép. Không biết anh ta ráng kềm cái cười đang muốn bật ra hay anh ta đang cố tạo một nét cười để chứng tỏ rằng mình cũng biết thưởng thức khía cạnh trào phúng ý nhị của câu chuyện ? Anh ta bước lại bàn thờ, nhìn mấy tấm ảnh, hất hàm hỏi:
- Ai thế ?
Chị Tư trở ngược cây chổi lông gà chỉ từng tấm ảnh:
- Ðây là ông già tôi, hồi ổng còn trẻ. Chớ ổng chết hồi ổng trên sáu mươi lận. Ðây là bà già, chụp hình xòe đủ mười ngón tay !
Chị ngừng ở đó để cười rồi mới tiếp:
- Còn đây là thằng con tôi, liệt sĩ ở Kontum !
Tên công an cãi:
- Chị dùng từ sai. Lính ngụy không thể nào là liệt sĩ cả. Bị giết thì cứ nói là bị giết. Phải cho rõ ràng ở điểm đó.
Chị Tư ngạc nhiên:
- Coi ! Ði dánh giặc rồi chết ngoài mặt trận, mấy anh không gọi là liệt sĩ thì gọi là khỉ gì ?
Anh ta giải thích:
- Chị không hiểu. Giữa ta với ngụy khác nhau chứ. Ta, vì nhân dân vì Tổ quốc mà hy sinh, thế mới gọi là liệt sĩ. Còn ngụy là lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ...
Chị Tư đưa một tay lên chận lại:
- À ! À ! Ðến đây tôi xin lỗi anh. Chính anh mới không hiểu gì hết. Thằng con tôi chưa hề đánh thuê chém mướn. Nó đi quân dịch thì giống như ngoài đó mấy anh gọi là đi nghĩa vụ gì gì đó. Nó cũng vì đồng bào của nó, vì xứ sở của nó mà hy sinh, chớ nó có đánh giặc để giữ gìn đất đai xứ Mỹ bao giờ ?
Trong lúc tên công an chưa kịp mở miệng thì chị Tư đã nói tiếp, tay cầm cây chổi lông gà trở ngược quơ qua quơ lại trên không, để vẽ cho câu nói:
- Ngoài đó đánh vô thì trong này phải đánh ra chớ bộ ngu dại gì mà đứng làm thinh đưa đầu cho thiên hạ đập ? Phải không? Như vậy gọi là đánh thuê chém mướn à ?
Thấy tình hình sắp đi vào ngõ bí và con mụ hàng tôm hàng cá này cũng không phải tay vừa, tên công an đâm đại một câu:
- Chắc là con chị phải ác ôn lắm nên mới có đến hai huân chương.
Chị Tư cười ha hả:
- Nếu nói như anh vậy thì mấy đồng chí cao cấp của anh phải ác ôn gấp mấy chục lần thằng con tôi. Bởi vì người nào người nấy chụp hình thấy đeo một ngực mề đai !
Rồi sực nhớ ra, chị Tư hỏi:
- À ! Chút xíu nữa quên mất. Anh muốn gặp tôi có chuyện gì không ?
Tên công an như nắm được cái phao, vội vã đổi giọng ra chiều thân mật:
- Chuyện này xin chị giữ kín cho. Người ta nói với tôi rằng Út Cón còn giấu vàng, không kê khai hết trong kỳ kiểm kê vừa rồi. Tôi cũng nghi như vậy bởi vì thấy anh ta... thế nào ấy.
Chị Tư nghiêm nghị:
- Chuyện này... Anh là chánh quyền, anh phải đi hỏi ảnh chớ sao lại hỏi tôi ?
Tên công an thấp giọng:
- Người ta nói với tôi rằng chị thân với Út Cón lắm. Tôi muốn nhờ chị nói với anh ấy một tiếng để anh ấy mang nạp cho Nhà Nước số vàng còn cất giấu. Tôi sẽ giữ kín chuyện này và sẽ không báo cáo lên cấp trên. Tôi muốn giải quyết như trong gia đình thôi. Chị hiểu không ?
Suy nghĩ một lúc, chị Tư trả lời:
- Thiệt tình với anh: tôi với Út Cón là bạn nhưng tôi chưa hề biết chuyện làm ăn trong nhà của ảnh ra làm sao hết. Và cũng không bao giờ chen vô. Nhưng tôi nhứt quyết với anh là Út Cón xưa nay không có gian xảo. Bà con ở đây ai cũng biết hết. Tánh ảnh lại hiền khô và... hơi nhát nữa. Chắc không dám làm chuyện động trời như anh nói đâu.
Chị Tư mỉm cười, nhớ lại hồi nhỏ lần đầu rủ Út Cón vào vườn sau chùa " ăn cáp nhãn", Út Cón khoát khoát tay từ chối mà mặt mày xanh dờn làm như đã bị bắt tại trận. Vậy mà đã mấy mươi năm... Tên công an đưa tay xem đồng hồ, rồi vừa bước ra cửa vừa nói:
- Tôi về đây. Xin chị giúp tôi và nhớ giữ kín chuyện này nhá.
Chị Tư làm thinh, nhìn theo tên công an, rồi sẵn đó nhìn sang nhà bên kia. Bên kia, chắc vừa ăn gì xong nên thấy chú Út đứng xỉa răng trước cửa tiệm.
Ðợi tên công an đạp xe đi một lúc, chị Tư mới bước ra ngoài cửa ngoắc chú Út. Chú đủng đỉnh đi qua tay vẫn tiếp tục xỉa răng. Vào nhà, chú hỏi:
- Chuyện gì vậy bồ?
Chị Tư thấp giọng:
- Thằng cha công an nó nghi bồ còn giấu vàng đó.
Chú Út cười như mếu:
- Giấu khỉ gì. Hồi kiểm kê, họ nói nghe ngon lắm: cứ kê khai đầy đủ để làm tài liệu thống kê trong mỗi ngành nghề, chớ còn của ai nấy giữ để tiếp tục hành nghề như cũ, không có gì thay đổi. Vậy rồi... hốt hết của người ta ! Không còn tới một chỉ để làm thuốc, lấy gì mà giấu ?

Chị Tư suy nghĩ một lúc mới nói:
- Chắc có đứa nào đâm thọc gì đây. Gặp bọn này là thứ đa nghi nên dễ tin lắm. Bồ cũng nên coi chừng đó nghe ! Thời bây giờ không biết ai là ai hết. Thôi ! Bồ về đi, kẻo tụi nó thấy, tụi nó nghi bồ qua... gởi vàng cho tôi giấu thì oan tôi lắm, nghe bồ.
Nói xong, cười hăng hắc làm chú Út đang rầu thúi ruột cũng bật cười theo. Làm như chẳng có gì phải quan tâm hết.

Tuần lễ sau, vào quá ngọ sau khi tan chợ, công an đưa bộ đội tới xét nhà chú Út Cón. Xét kỹ đến nỗi giường chiếu tủ bàn cà ràng ông Táo, quần áo sách vở gì gì cũng lôi tung ra. Họ còn bắt thang trèo lên nóc lật một số ngói trong lúc dưới đất một tốp khác cầm búa gõ từng viên gạch, từng mảng tường. Thậm chí còn cạy mấy chục viên gạch và đào quật lên mấy thước đường cống.

Bên ngoài hàng xóm bu lại coi thật đông, kẻ nói vô người nói ra ồn ào không thua gì trận chiến ở bên trong. Chị Tư can thiệp mấy lần với tên công an nhưng anh ta làm như không biết chị Tư là ai . Mặt lạnh như tiền, anh ta chỉ huy cuộc khám xét giống như đang bươi một đống rác. Cuối cùng, không tìm thấy gì hết, mặt anh ta còn lạnh... hơn tiền. Anh ta ra lịnh bắt chú Út dẫn đi, để lại người nhà thím Út và hai con gái gào khóc như đám ma và để lại căn nhà bây giờ thật sự giống như một đống rác !

* * *

Chú Út bị giam trên tỉnh. Ở đâu, người nhà không được biết. Chỉ biết tin tức qua tên công an lúc này tới lui thường xuyên nhà thím Út, gọi là đến thăm viếng an ủi gia đình và giải thích đường lối chủ trương rõ rệt sáng suốt của Ðảng và nhà Nước . Lâu lâu, thấy anh ta dẫn tới một vài anh bộ đội, ngồi lê la nói chuyện. Chị Tư để ý nhiều lần như vậy nên phân vân tự hỏi: Không biết cái thằng Trời đánh này nó muốn cái gì ? Nhà tinh là đàn bà con gái không... .

Người ta bắt đầu xì xào bàn tán...
... Chiều hôm đó, tắm xong, chị Tư vừa chải tóc vừa bước lên nhà trên. Chợt nhìn thấy thiên hạ bu đông ở nhà chú Út và có tiếng khóc than trong đó. Chị bước ra cửa thì vừa gặp bà Năm Chia. Vội hỏi:
- Chuyện gì ở bển vậy thím Năm ?
Bà Năm Chia nhìn chị Tư với cặp mắt đỏ hoe, nói bằng một giọng trống rỗng:
- Thằng Út chết rồi !
Chị Tư nghe choáng váng mày mặt, trời đất bỗng tối sầm lại. Chị tì người vào khuôn cửa, cái lược sừng rơi xuống đất. Mắt mở to, ráo hoảnh. Miệng há ra để thở, nhịp thở dồn dập như muốn bứt hơi. Làm như bên trong con người chị chẳng còn gì hết, chẳng giữ được gì hết. Và cũng không còn cảm giác gì hết...

Một lúc lâu sau, chị lảo đảo bước vào trong nhà, lần theo mép bộ ván mà đi, lần theo lu khạp mà đi, lần theo vách mà đi. Trong đầu loáng thoáng ý nghĩ phải tới một nơi nào đó kín đáo hơn là ngoài cửa, kín đáo hơn là trong nhà. Một nơi nào đó chẳng còn ai hết. Một nơi nào đó chẳng có gì hết. Một nơi nào đó chỉ có một mình mình. Một cái kẹt. Một cái hốc. Không biết để làm gì. Chỉ thấy cần làm như vậy, cần được như vậy. Chẳng có gì rõ rệt hết. Lơ mơ lơ mơ...

Cuối cùng, chị bước vào nhà tắm đóng cửa lại. Gài then xông, chị chỉ còn đủ sức dán lưng vào tường và cảm thấy hai chân mềm như bún. Thân chị tuột lần xuống đến khi đụng mặt gạch còn ướt nước tắm khi nãy. Chị ngồi bẹp ở đó mà nghe trong người có cái gì đang dồn căng lên cổ họng từng cơn làm chị đau thắt. Chị cố nuốt xuống, nhưng càng nuốt, cái gì đó càng dồn mạnh lên. Ðể rồi, chịu không nổi nữa, chị nấc lên mấy tiếng, gục đầu xuống mà nghe nước mắt tuôn ra như suối...
Lâu thật lâu sau, chị Tư đứng lên, vẫn để nguyên quần áo thọc gáo vào lu múc nước xối ào ào. Nước mát lạnh làm cho chị tĩnh hẳn. Chị lau mình thật chậm rãi, thay đồ cũng thật chậm rãi. Làm như để có thời gian lấy một quyết định. Xong chị qua nhà thím Út Cón.
Vừa thấy chị Tư bước vào, thím Út òa lên khóc:
- Tụi nó giết anh Út rồi, chị Tư ơi...
Chị Tư bước lại ôm thân hình mảnh khảnh của thím Út, tay vuốt vuốt lưng như đang dỗ về người em gái. Hai đứa con chú Út từ nhà sau chạy ra, vừa khóc vừa xà vào người chị:
- Cô Tư ơi...
Chị dang tay ôm hết ba mẹ con, ôm hết những gì còn lại của Út Cón. Không còn nước mắt để khóc nhưng còn đủ tĩnh táo để nhận thấy rằng từ đây, mình phải thay Út Cón để bảo vệ gia đình này mặc dù không ai gởi gắm hết.

Nửa khuya đêm đó, chị Tư trở dậy. Trong bóng tối, chị mò mẫm khoác áo bà ba đen máng sẵn trên cây cột từ đầu hôm, cập nách con dao phay quấn trong cái bao bố nhỏ đặt sẵn cạnh chân bộ ván gõ, bước ra đóng nhẹ cửa lại. Bên ngoài, trời đầy sao. Gió sông nhè nhẹ mát rượi. Chị bước đi tự nhiên, chẳng chậm rãi chẳng gấp rút. Giống như đi công chuyện bình thường. Ngoài đường, vắng teo. Mấy con chó hoang ngủ dưới dãy thớt thịt trong nhà lồng chợ ngóc đầu lên nhìn, sủa vu vơ mấy tiếng rồi lại nằm xuống. Chẳng có gì phải bận tâm.

Nhà thầy giáo Thái nằm xéo xéo trường tiểu học, Ðiểm đặc biệt ở đây là nhà bếp và sàn nước nằm ngay sân trước bởi vì ở đó có cái giếng. Thành ra hồi xưa vào giờ ra chơi, học trò hay chạy qua đó uống nước. Lâu lâu còn được thím giáo cho mấy cái bánh men vì thím làm bánh men bánh kẹp để bỏ mối ở xóm dưới đầu trên... Từ ngày công an dọn về đó, chẳng thấy đứa nào chạy qua hết.

Chị Tư bước vào hàng ba, thấy trong nhà có ánh đèn. Nghĩ: Chắc thằng Trời đánh đó đang làm báo cáo. Không biết nó đang muốn hại ai nữa đây ? . Chị đưa tay gõ cửa. Có tiếng người hỏi:
- Ai đấy ?
Chị Tư trả lời như không trả lời:
- Tôi !
Nghe giọng đàn bà, tên công an yên chí:
- Chờ tí !
Có tiếng khóa lọc cọc rồi cánh cửa mở ra. A¨nh đèn dầu từ bên trong hắt lên người chị Tư, tuy không sáng lắm nhưng vẫn thấy rõ nét trầm tĩnh tự nhiên trên gương mặt tròn trịa. Ở đó vừa hiện lên một nụ cười mà tên công an giàu tưởng tượng cho là đầy nhiệt tình cách mạng . Anh ta bước ra đảo mắt nhìn quanh rồi mới mời:
- Vào đi !
Tiếng đi vừa dứt là chị Tư đã bổ con dao phay vào ngay giữa đầu, nhanh gọn và chính xác như chị bổ cái đầu cá. Xong, chị bước vào thổi tắt cây đèn dầu rồi ra sàn nước rửa ráy tay chân mình mẫy và con dao. Trước khi ra về chị nhìn lại hàng ba: trong bóng tối chị vẫn thấy được thằng Trời đánh nằm một đống, không nhúc nhích.

Hôm sau, cả làng đều biết tin tên công an bị chém. Vậy là bàn tán xôn xao... Nhờ mấy con chó bu lại giành giựt ở hàng ba nhà thầy giáo Thái người ta mới để ý. Chớ không thì cầu tới trưa trờ mới hay ... Thiên hạ đồn tại thằng chả lấy vợ người ta ... Ông Sáu Lịch dạy võ ở xóm Lò Heo quả quyết rằng thằng cha nào chém nhứt định phải có nghề. Chớ người thường thì sức mấy mà chém ngọt như vậy ... Ai mà giỏi vậy không biết ? ... Còn gan nữa chớ ! Chém cách mạng mà... . Có người vốn đã thù ghét sẵn trong lòng, buột miệng nói: Chớ phải là tôi, tôi chặt cha nó ra làm ba khúc cho nó đáng ! ...

Trong làng, chỉ có một người biết ai đã chém tên công an. Người đó là con Lia bán cá hồi trước cách mạng . Nhưng nó đã bỏ làng trốn mất ngay ngày hôm đó, bỏ lại mấy bộ đồ màu cỏ úa và cái nón cối. Chánh quyền nghi ngay cho nó. Vậy rồi họp hành liên miên để xem có phát hiện gì thêm không bởi vì tên phản động ác ôn do ngụy cài vào hàng ngủ của ta từ ngày cách mạng thành công, nhất định phải để lại nhiều dấu vết hay bè lũ của nó, ta cần phải nâng cao cảnh giác! .

Trưa đó, nằm đong đưa trên võng, chị Tư suy nghĩ viễn vong rồi đưa bàn tay trái lên nhìn chiếc nhẫn bạc của Uùt Cón chạm trổ cho hồi đó, thuở Út Cón chưa vợ, thuở hai người còn thật bồ với nhau... Chị bồi hồi nhận thấy tiếng bồ quen thuộc, từ nay sẽ không còn dùng tới nữa. Tiếng bồ gọi nhau thuở nhỏ. Tiếng bồ nhè nhẹ êm êm của tuổi dậy thì. Tiếng bồ mang mểng yêu thương giấu kín, về sau, khi chẳng thành duyên chẳng thành nợ. Và tiếng bồ già dặn, đậm đà của bây giờ, mới đây, trước khi Út Cón bị bắt. Tiếng bồ của mấy chục năm đó, còn ai để mà gọi, từ nay ? Chị bỗng thèm hát lại câu vọng cổ. Lần này, chị vô Bồ ơi... . Tiếng ơi bị ngẹn ngang. Chị ngừng ở đó một lúc để kềm xúc động. Rồi chị bắt trở lại, nhanh nhanh dồn dập chớ không ngân nga sợ trào lòng cắt đôi câu hát: Bồ ơi ! Cái mối tình của em đối với bồ... nó tợ như trời cao biển rộng&...ư...sông...à ...dài . Tiếng dài không còn ngọt như xưa. Tiếng dài bị đứt khoảng. Giống như khúc đuôi còn nằm kẹt đâu trong lòng. Chị vói tay lên đầu võng rút cái khăn lông đắp vội lên mặt, bởi vì chị vừa nghe mí mắt mình mọng nước !
Từ đó chị Tư Ù thôi ca vọng cổ.


Tiểu Tử
 

Thursday, December 20, 2012

LAN ĐÀM * TIỂU TRUYỆN TRƯƠNG CHI-MỴ NƯƠNG



BÀI TRƯƠNG CHI

Ta về rũ sạch phồn hoa,
Đập tiêu, gõ nhịp trăng tà nghêu ngao.
Rượu say, đếm rụng nghìn sao,
Nghe con nước chẩy, quên đào nguyên xưa.
Thuyền trôi theo lớp sóng đưa,
Nửa khuya bình cạn, tóc mưa sương dầy.
Mịt mùng mái đỏ lầu tây,
Cũng xong- tình đó chưa đầy đã vơi.
Mắt người thôi hết lệ rơi,
Hồn ta vỡ mấy mảnh đời xót xa.

*
Ta về rũ sạch phồn hoa,
Đập tiêu, gõ nhịp trăng tà nghêu ngao.
Bến này thu nặng chiêm bao,
Mai ôm muôn đợt ba đào, nhẹ tênh.


BÀI MỴ NƯƠNG

Anh gác chèo chưa, đêm thủy tinh,
Ngoài song hoa nguyệt đã giao tình.
Em như mây lạc hờn hiu quạnh,
Thèm khúc tiêu sầu gợn tử sinh.

Anh gác chèo chưa, trời mù sương,
Lẻ loi cánh vạc động canh trường.
Em theo con nước ròng mê mải,
Chờ chuỗi âm buồn dậy tiếc thương.

Anh gác chèo chưa, khuya trăng phai,
Lầu son lệ nến đọng thêm dài.
Em nương gió lộng lùa khe cửa,
Tìm chút cung trầm biệt thiên thai.

Anh gác chèo chưa, ngày hừng đông,
Đầu hiên rộn rã đám chim lồng.
Em ôm gối mộng tim mòn mỏi,
Đợi tiếng ân tình vọng cuối sông.

Anh gác chèo chưa, chiều mưa đan,
Bãi xa heo hút sếu gọi đàn.
Em vẫn một mình bên bến lở,
Vắng thuyền, khói sóng lạnh không gian.


KINH CHIỀU

Từ đó giòng sông buồn,
Mây ngại ngùng soi bóng.
Lầu cũ đầy hoàng hôn,
Bờ hoa chìm khói sóng.

Từ đó giòng sông buồn,
Tiếng tiêu sầu đã lặng.
Người ôm gối cô đơn,
Phòng the nghìn hiu quạnh.

Từ đó giòng sông buồn,
Thuyền xưa còn trong mộng.
Ăn năn tình vô ngôn,
Bầy sếu đùa bến vắng.

Từ đó giòng sông buồn,
Lời kinh chiều đồng vọng.


LAN ĐÀM

Wednesday, December 19, 2012

Viên Linh * Bằng hữu cuối trời: Thi sĩ Trần Tuấn Kiệt

trantuankiet




Cứ mỗi cuối năm, người làm báo chuyên ngành của miền Nam cũ thường phải làm một công việc tuy là ước lệ, mà phải có, đó là “tính sổ một năm qua.”