So với các rạch khác ở ven
vịnh Xiêm La, vùng Xẽo Bần thuộc vào hàng tương đối
sung túc. Dân ở đấy sanh sống bằng hai nghề : phá rừng
lấy củi và khi tiết trời thuận tiện, họ ra biển đánh
lưới tôm. Tiền bán củi vừa đủ cho họ mua gạo ăn,
thuốc hút ; nghề đi lưới thì chỉ đem lợi riêng cho
một số người có ghe, có lưới. Người đi bạn thường
lãnh tiền buổi, tùy theo lưới trúng hoặc thất - tay làm
hàm nhai.
Ðôi
mươi mái nhà lá, vài ba gốc dừa không trái : ngọn Xẽo
Bần xơ rơ như vậy đó. Chung quanh là cánh đồng cò bay
thẳng cánh nhưng đầy năng kim, ô rô, cỏ ống. Cò lông
bông, trích, cúm núm bay lượn tối ngày.
Dân
làng nào tha thiết đến vùng đất phù sa nê địa ! Vì
vậy, khi ông bác vật X. đến xây nền đúc, cất nhà
ngói, tự xưng là chủ đất thì không một ai xao xuyến
cảm thấy quyền lợi mình bị đụng chạm.
Trái
lại, họ rất vui mừng.
Trước
tiên, ông bác vật đích thân đến thăm từng nhà trong
xóm. Hễ gặp ai chào hỏi quá khúm núm, ông can gián :
-
Bà con cứ bình đẳng, đừng nên gọi tôi bằng ông, tôi
còn nhỏ tuổi lắm. Cứ gọi tôi bằng dượng Hai. Ðất
này của bên vợ ; vợ tôi thứ hai.
Hỏi
qua vấn đề nền nhà, ông bác vật trả lời :
-
Ai lỡ cất nhà nơi đâu, cứ yên lòng ở đó. Tôi không
bao giờ có ý đuổi bà con. Tôi còn muốn kêu gọi bà con
đến thêm, ở đông chừng nào vui chừng nấy. thỉnh
thoảng mời bà con vô nhà tôi chơi. Lúc nào tôi cũng ở
nhà để lo việc khoa học. Tánh tôi bình dân lắm, ai có
chuyện gì khó hiểu tôi sẵn sàng giải thích.
Kể
từ đó, buổi trưa hoặc buổi tối, nhà ông bác vật
luôn luôn tấp nập. Ði rừng bắt được rùa, săn được
heo rừng là bà con nghĩ đến ông, đem lại tặng. Ðáp tạ
thạnh tình ấy, ông bác vật dắt từng người vào phòng
làm việc của mình. Trên vách, hai hàng kệ đầy sách mỗi
quyển dày hơn tấc tây, lưng da mạ chữ vàng lấp lánh.
Một cái bàn tròn chiếm giữa phòng. Trên đó đủ kiểu
ly, hũ, bầu... Toàn bằng pha lê trong vắt : cái thì méo
miệng, cái thì tròn như trái dừa, có cổ dài uốn éo
như cổ cò. Lại thêm chiếc đũa bằng pha lê dựng đứng
trong ống, dài theo ống có lằn đỏ như vạch đo từng
phân, từng ly tỉ mỉ.
-
Thứ gì ngộ quá vậy, dượng Hai.
Ðáp
:
-
Ðồ dùng để thí nghiệm hóa học.
-
Hóa học là chi vậy, thưa dượng.
Ông
bác vật mỉm cười :
-
Khó cắt nghĩa lắm. Thủng thỉnh, bà con sẽ rõ. Hóa là
biến hóa... Các chất hóa học hiện nay còn thiếu mới
mua được chút ít. E nguy hiểm, tôi chưa dám cho bà con
xem.
Mãn
buổi thăm viếng, bà con xóm ngọn Xẽo Bần vô cùng thắc
mắc. Ban nãy, còn biết bao nhiêu câu hỏi mà họ không
dám hở môi thố lộ ra. Giờ đây, họ xúm xít lại bàn
tán cho hả hơi :
-
Bà con biết không ? Nghe tới hóa học tôi điếng hồn.
Rủi ro nó nổ bất tử. Nội mấy cái ly, cái bầu của
ổng cũng đủ ghim miểng nát bấy thi thể bà con mình.
-
Ðừng nói bậy ! Người ta dùng nó được nên mới dám
chứa chấp. Tôi nghi dượng Hai mình làm... Quốc sự. Nhè
ổng chế tạo bom đạn, dân chúng ở đây, ắt phải liên
can.
-
Ừ, tôi coi ổng là người có kỳ tài.
-
Kỳ tài gì ? Thực lộc chi thê. Chắc ổng có bằng cấp
bên Tây. Nhờ vậy...
-
Bằng cấp gì ? Có thì ổng nói rồi. Chắc là "nhảy
đầm" ở bển rồi về đây. Năm ngoái tôi đi Trà
Vinh gặp ông nọ xưng là bác vật canh nông. Ổng trồng
mười cây đu đủ ; lớn lên toàn là đu đủ đực...
-
Nói xấu thiên hạ đi ! Biết đâu ổng muốn trồng đu đủ
đực để thí nghiệm.
-
Ối thôi ! Hơi đâu mà cãi. Xứ mình không bao giờ có
nhơn tài được. Ði qua học bên Tây, nếu người Việt
Nam nào trổ tài thì Tây ám sát hết. Tụi nó "muối
nước đá" bắt nhơn tài của mình đem ướp cho chết,
không cần đâm chém hoặc chích thuốc cho loạn óc, tê
bại... Dầu sao Dượng Hai mình cũng là người dễ thương
biết chữ nghĩa nhiều hơn mình.
Rồi
thì ai về nhà nầy, sáng thì đi lưới, tối lại phá
rừng. Công việc sanh nhai của họ ngày thêm đình trệ.
Làm ra được, ngặt bán không ai mua. Vải bô giá càng
mắc, kiếm không ra. Có điều lạ là dạo ấy thuốc ký
ninh mua rất rẻ, thứ ký ninh bọc đường uống ngọt
ngọt. Thiên hạ bảo đó là phát minh của Nhựt Bổn,
thuộc giòng giống da vàng như người Việt Nam mình, nhưng
họ biết chế thứ máy bay có mặt trời đỏ sau đuôi,
thường bay lượn dài theo ven biển này.
***
Dượng
Hai bỗng trở nên vui vẻ lạ thường, kể từ ngày đi
Bến Tre về.
Trước
mặt bà con chòm xóm, dượng tuyên bố :
-
Mình ở đây sống trên kho vàng mà không hay. Nay mai, ai
nấy đều có công ăn chuyện làm. Tôi sẽ cất một cái
xưởng lớn.Thời Trời giúp tôi.
Có
người hỏi :
-
Mình dùng hóa học để chế tạo ra vàng, phải không ?
Dượng
im lặng mỉm cười rồi mở tủ, lấy cho mọi người xem
một khối vuông, màu vàng như đất sét :
-
Ðây là xà bông của tôi mới chế tạo như ở Bến Tre.
Cỡ này, nó lên giá gấp ba vì không nhập cảng nguyên
liệu hóa học được. Tôi hy vọng giúp bà con công ăn
việc làm, xưởng xà bông của tôi sẽ cất tại đây
thật gấp, cần dùng hàng trăm nhân công.
Họ
trố mắt nhìn cho biết thứ xà bông mới lạ đó. Hồi
nào tới giờ, ở đâu ít ai cần dùng đến xà bông nên
không mua về. Họ dùng cám hoặc vỏ trái khóm chà vào
bàn tay là bao nhiêu bụi bặm, dầu mỡ đều trôi hết.
Dượng
Hai nói tiếp :
-
Lúc này Nhựt Bổn đánh giặc với Ðồng Minh. Ðường
giao thông tiếp tế bị ngăn cản. Vì vậy, thiếu xà
bông. Giá xà bông từ hai cắc một kí lô đến sáu cắc.
Nay mình chế tạo xà bông bổn xứ, bán chừng bốn cắc
thì thiên hạ xúm lại giành mua như tôm tươi, mặc dầu
xấu hơn chút ít !
-
Ở Xẽo Bần nầy, làm sao đủ vật dụng ?
-
Sao không đủ ! Mình cần dùng có hai món : dầu dừa với
nước tro. Dầu dừa đã sẵn sàng : Ra Hòn Tre mua dừa khô
về thắng lại. Nước tro thì nào là tro than đước, tro
bẹ dừa, tro cây mắm. Nhứt là cây mắm, mọc đầy bãi
biển, tro nó mặn hơn hết và rẻ vốn hơn hết.
-
Nấu cách nào vậy dượng ? Ðể tụi tôi về nấu thử.
"Ðể
tụi tôi về nấu thử". Mấy tiếng đó khiến cho
vầng trán của dượng Hai nhăn lên, thoáng qua chút gì lo
ngại. Nhưng chỉ thoáng qua thôi ! Dượng cười to, lấy
trong tủ đem ra một cái ống thiếc.
Mở
ống, bên trong ló ra một vật khác bằng thủy tinh nhỏ
hơn chiếc đũa, bề dài cũng ngắn hơn, một đầu thì
tròn vo. Dượng nói :
-
Ðây là... Cái ống thủy. Phải có nó mới nấu xà bông
được. Dùng để cân nước tro.
-
Cân là làm sao dượng ?
-
Cân là đo lường sức nặng của nước. Thí dụ như chén
nước tro này : muốn biết mặn hay lạt, phải thả cái
ống thủy vô coi thử nó mặn tới mấy độ.
Nói
xong, dượng bỏ ống thủy vào nước tro. Lạ thay ! Ống
thủy dựng đứng. Dượng nói :
-
Số 32, bà con thấy chưa. Bây giờ tôi đổ nước lạnh
từ từ. Nước tro bớt mặn, ống thủy nổi không phải
ngay số 32 mà thấp hơn : con số 31, 30, 29. Phải mặn đủ
chữ nước tro mới hiệp với dầu dừa để thành xà
bông. Bằng không hai thứ ấy cứ lỏng bỏng. Ống thủy
này bây giờ mắc lắm, bên Tây không còn gởi qua được.
Bí mật của nghề làm xà bông là vậy... Thôi, mai này bà
con lại đây, tôi nấu thử cho coi.
Buổi
gặp gỡ khi nãy mở đầu cho bao nhiêu hậu quả tai hại
mà dượng Hai không đoán trước được. Dân chúng ở
ngọn Xẽo Bần suy nghĩ : nếu mình chế tạo được xà
bông thì tội gì đi làm mướn cho dượng Hai. Bà con lối
xóm có thể tự ý mở ra mỗi người một xưởng nhỏ.
Diều quan trọng là nấu một lần coi nó có đặc không,
thay vì dùng ống thủy để cân nước tro, họ dùng lưỡi
mà nếm thử.
Trong
khi Dượng Hai thí nghiệm xà bông tại nhà, đằng này bà
con xóm Ngọn cũng bỏ hết công việc làm để... "nấu"
với kiến thức tối thiểu của mình. Nước tro cây mắm,
dầu dừa và nước lạnh trộn trong chảo, bắc lên bếp.
Họ ngóng xem kết quả. Nhắm chừng xà bông có thể đặc,
họ cho nhiễu vài giọt trên giấy hút thuốc. Nhưng lạ
thay ! khi đổ ra khuôn, xà bông chỉ đặc trên mặt, lớp
dưới lỏng bỏng toàn nước tro mặn đắng.
-
Tại mình thiếu cái ống thủy để cân nước tro - Một
người nói.
-
Phải đó ! Tro cây mắm mặn không đồng đều, cây già
mặn hơn cây non, khúc gốc mặn hơn khúc ngọn, tôi chắc
như vậy.
Có
người thỏ thẻ :
-
Hay là... để tôi lại đẳng lén ăn cắp cái ống thủy
đem về đây cho bà con mình xài.
Người
khác can gián :
-
Ở tù chết. Hơn nữa, đem về đây mình biết xài nó
theo cách nào ? Ai biết số, biết chữ ? Tôi tưởng mình
nên ăn cắp một chút nước tro, thứ nước tro mà ổng
đã thí nghiệm, được coi là đúng chữ. Ðem chén nước
đó về đây, mình cứ chế tạo một cái ống thủy khác,
không cần mua ở bên Tây như ổng.
-
Làm cách nào ?
-
Mình kiếm cái chai dầu gió cũ, bỏ dằn vào đó một hột
chì rồi đậy nút lại, để chai nọ không nằm ngang khi
nổi trên mặt nước. Ðó là ống thủy của mình tạm
chế tạo. Bấy giờ mình thả chai dầu gió nọ vô nước
tro, thứ nước tro mà dượng Hai đã cân rồi, đúng chữ.
Hễ chai dầu gió chìm xuống đến mức nào, mình ghi lằn
mặt nước ấy vào hông chai.
Ý
kiến đó được hoan nghinh và thi hành.
Thế
là vài ngày sau mỗi người đều có một ống thủy riêng
biệt. Dượng Hai nào hay biết chuyện gì, ngày hai buổi,
dượng đinh ninh rằng với một kế hoạch châu đáo, theo
qui mô to lớn, xóm ngọn Xẽo Bần sẽ trở thành một
trung tâm quan trọng.
Nhưng có điều
khiến dượng khó hiểu : Từ nửa tháng qua, bà con lối
xóm ít lại đây để nói chuyện như mọi lần.
***
Một
buổi sáng, chú Xồi bơi chiếc xuồng "tạp hóa"
đến bến, mời dượng :
-
Dượng Hai mua xà bông không ? Xóm mình chế tạo thứ này
nhiều quá rồi. Ðem giặt quần áo bọt cũng nhiều như
xà bông bên Tây.
Dượng
Hai thất sắc :
-
Ai chế tạo vậy ?
Chú
Xồi đáp :
-
Nhà nào cũng có nấu. Không tin dượng đi dạo coi thử.
Ðến
bây giờ, dượng Hai mới hiểu tại sao hổm rày mấy
người trong xóm khi gặp dượng là họ chào hỏi sơ qua
rồi kiếu từ lập tức, sắc mặt không được tự
nhiên.
Dượng
thở dài :
-
Trách ai bây giờ ! Tại mình "sanh bất phùng thời"
Bao
nhiêu xà bông sản xuất ở ngọn Xẽo Bần được tung ra
khắp thị trường miền Hậu Giang. Cạnh tranh có hiệu
quả với loại xà bông chế tạo bằng tro dừa ở Bến
Tre vì tro cây mắm ở đây mặn hơn. Mỗi khi đi bán từ
xa trở về, họ không quên mua tặng cho dượng vài gói
trà Kỳ Chưởng.
-
Trăm sự cũng nhờ khoa học của dượng đó, dượng ạ !
Dượng
Hai đáp :
-
Tôi mừng giùm bà con. Bà con đi dọc đường có gặp ai
nấu xà bông như xóm mình đây không ? Phải thận trọng,
giấu nghề...
-
Có. Nhưng xấu hơn xà bông mình nhiều. Họ bán chạy nhờ
có hiệu. Kỳ này tôi tính khắc con dấu Việt Tân, Việt
Hưng gì đó để đóng vô, kèm theo hình mặt trời cho cục
xà bông nó "mạnh" một chút.
...Năm
1945, cả xóm ngọn Xẽo Bần không nấu xà bông nữa. Họ
phải lo những chuyện khác cao cả hơn. Nhưng ý nghĩa của
cuộc chiến đấu mới nào có gì lạ hơn là làm cho dân
giàu nước mạnh, phát triển nội hóa. Có lẽ vì lý do
đó mà họ hăng hái hơn ai hết. Vì họ đã thấy rõ một
lần rồi.