Người
thanh niên dần dần hồi tỉnh sau khi ngất đi vì bị một trận đòn hội chợ
bằng dùi cui và báng súng. Anh mở hé cặp mắt nặng trĩu sưng húp, trước
mắt có một cái bóng chờn vờn che khuất, hơi thở nóng của một người nào
đó phả nhè nhẹ và những sợi tóc dài lòa xòa trên mặt làm anh nhột nhạt.
- Minh tỉnh rồi! Tiếng người con gái thốt lên vui mừng. Một bàn tay mịn, mát rượi đặt lên làn trán nóng hâm hấp của anh.
- Chị Lan hả? Gã liếm làn môi khô, cố cất tiếng hỏi. Còn mấy người kia đâu? Anh thốt nhớ đến các bạn.
- Ở cả đây, trong khám, người con gái tên Lan đáp, giọng đượm vẻ bởn cợt. Bị hốt cả rồi.
Người
thanh niên bật ngay dậy, nhưng một cơn nhức đầu khủng khiếp vật ngã anh
trở lại. Anh có cảm tưởng bị hai gọng kìm nhọn kẹp chặt vào hai bên
thái dương. Đầu anh giật lên từng cơn đau buốt làm mắt anh đổ lửa.
-
Minh nằm xuống nghỉ đi! Người con gái vội đỡ cho anh từ từ nằm xuống.
“Bị hốt cả rồi”, anh nghe mơ hồ lời người bạn gái nói, nước mắt bỗng
trào ra khỏi hai khóe mắt nhắm.
Lúc sau anh lại mở mắt ra.
- Minh thấy trong người thế nào? Vẫn giọng trong trẻo dịu dàng ấm áp của người con gái.
-
Cám ơn chị, đã khá. Người thanh niên trả lời sau một giây im lặng. Chưa
chết đâu chị, đừng sợ. Anh trở mình ra thấy toàn thân đau như dần.
Anh nằm trên nền xi măng lạnh ẩm, một mùi hôi thối xông lên trong căn phòng tối mờ. Khi đôi mắt anh quen dần
với bóng tối, nhận ra gương mặt đẹp của cô bạn gái, nhem nhuốc và mái
tóc rũ rượi, nhưng đôi mắt vẫn trong sáng vẻ ngạo nghễ, đang trìu mến
nhìn anh lo âu. Hai vành môi đỏ thắm hơi khô, nhưng hình như đang mỉm
cười.
-
Minh bị ngất đi có hơn hai giờ rồi. Nàng nói. Họ xúm lại đánh Minh dữ
quá. Đủ các loại cớm chìm nổi. Minh vừa ngất đi thì hàng ngũ cũng tan
rã, cả bọn bị hốt vất lên xe GMC.
-
Cho tôi ngồi lên – Anh nói. Người con gái khó khăn xê dịch đỡ anh tựa
vào vách. Anh nghe tiếng kim khí va chạm cùng phòng, hai chân anh không
nhúc nhích được – Anh đưa tay vuốt ve chiếc còng sắt lạnh lẽo.
- Còn chị Lan? Anh chỉ đưa mắt hỏi.
- Cũng thế! Người con gái mỉm cười đáp. Thì cùng là tội đồ mà! Nàng thốt cười lên nho nhỏ. Minh cũng cười.
Tuổi
trẻ thật đáng yêu biết mấy. Nghịch cảnh không làm nản chí họ được vì
lòng họ tràn đầy những ước vọng tinh khiết. Với bầu máu nóng, họ lao vào
hành động. Chết cho lý tưởng không nao núng, có một niềm hân hoan và
nên thơ. Trái tim luôn giữ niềm hy vọng chói sáng. Trái tim chứa những
búng máu tươi đỏ thắm đọng lại thành hồng ngọc.
Anh
nhìn những người bạn đang ngủ trên bậc xi măng cao hơn, họ ngủ say bình
thản như đang nằm trong chăn ấm dưới mái gia đình. Một niềm thương yêu
bao la lớn lên trong lòng anh.
“Bạo lực có thể tiêu diệt thể xác nhưng không thể
tiêu ý chí”. Anh thầm nghĩ. “Bạo lực sẽ nguội lạnh còn ý chí tuổi trẻ
luôn luôn được nối tiếp nung nấu. Tuổi trẻ như măng rừng. Người ta có thể đốn ngã những thân tre, nhưng rừng măng từ lòng đất vẫn tiếp tục mọc lên không ngớt. Rừng măng tua tủa như rừng gươm.
“Tuổi trẻ như lửa, ý chí như gió lớn”. Lửa ngọn có thể bị dập tắt, nhưng không thể dập tắt lửa âm ỉ cháy trong muôn triệu trái tim trẻ. Và không thể
ngăn cho gió đừng thổi. Gió bất tận rẽ đưa lửa đi, thứ lửa của nhiệt
huyết tiềm tàng, thiêu cháy rụi kim cương”...Trái tim anh bỗng đập mạnh.
Máu chảy nhanh trong các huyết quản làm thân thể anh trở nên ấm nóng. Trước
mắt anh lại hiện ra những gương mặt trẻ, mắt sáng ngời, lòng háo hức.
Những đêm thức ròng rã đánh máy, quay ronéo, viết biểu ngữ. Những chữ
Hòa bình – Tự do, cơm áo... được tô đậm nét trên nền vải trắng đỏ chói
như viết bằng máu thơm đẹp tuyệt vời...
Đoàn người hăm hở kéo đi như một thác lũ, như cuồng lưu, sắp sửa quét
sạch những rác rưới nhơ bẩn. Nhưng một bức tường đã chắn lối. Đoàn người
quyết vượt qua bức tường kẽm gai, mặc cho những mũi gai nhọn đâm tuôn
máu.
Những
quái vật hình người mặt thú xuất hiện. Quái vật phun nọc độc mù mịt.
Nọc độc làm cho những đôi mắt sáng chợt tối tăm. Nọc độc làm cho bao tử
cồn cào, nôn mửa, rồi ngất xỉu. Nọc độc thấm ướt áo quần làm cho ngứa
ngáy, lở da bỏng thịt. Đoàn quái vật tiến lên, những người trai trẻ bị
chúng cắn, cấu xé chảy máu. Họ thất thế. Các quái vật mang họ về sào huyệt.
Tất cả đã tỉnh dậy. Họ nhìn nhau, im lặng cười. Những nụ cười hồn hậu như lóe sáng trên những gương mặt thư sinh.
Cánh
cửa sắt nặng nề bỗng vụt mở. Ánh chiều tà dọi vào làm sáng hẳn căn
phòng. Người thanh niên nhìn rõ quanh miệng lỗ tròn của hầm tiêu phân
người khô đóng lớp dày mà với ánh sáng ít ỏi từ một lỗ vuông gần trần
nhà soi vào không nhận ra được.
Gương mặt một người đàn ông ló vào.
- Đói chưa? Gã hỏi, giọng khô khan. Đó là cái giọng đặc biệt của người cầm dao đối với lũ cá trên thớt.
- Đói! Đói! Đói! Những cái miệng tranh nhau nói lẫn với những cái miệng cười đùa cợt.
- Đợi! Y nói, rồi đóng mạnh cửa lại.
Một
lúc những vắt cơm nguội nhét muối, nước lã được đưa vào qua một lỗ nhỏ ở
cửa sắt. Tất cả ăn ngon lành. Họ hát đồng ca những “bài hát cho quê
hương” vang dội trong phòng kín. Không phải tuổi trẻ, không mang bầu
nhiệt huyết sôi sục, người ta không thể
cất lên tiếng hát hùng tráng đó. Tiếng hát sẽ bay qua bốn bức tường,
vang tiếng tận mỗi trái tim những người trai trẻ khác. Và họ sẽ bắt
giọng cất lên hát theo.
Nửa đêm, trong khi mọi người đang ngủ, họ bị đánh thức dậy đột ngột. Ánh sáng một ngọn đèn chói chang như xỉa xói vào mắt họ.
- Ai tên Minh. Tiếng một người đàn ông hỏi.
- Có tôi. Người thanh niên lên tiếng.
- Ngồi riêng ra. Ai tên Lan?
- Tôi. Người con gái đáp nho nhỏ, mắt dịu dàng nhìn thẳng vào mặt gã.
Gã đàn ông nhìn cô xoi mói, khèo một ngón tay làm dấu...
- Hai người theo tôi..
Những
vòng sắt được đưa từ cổ chân lên cổ tay. Cánh cửa đóng ập lại. Một lúc,
mở ra, đóng ập lại. Rồi lại được mở ra, nhiều lần. Lần cuối cùng khi
cánh cửa nặng nề nằm im thì căn phòng hoàn toàn vắng vẻ.
Nhật ký của Minh.
Mãi
sau này tôi mới nhận ra, thuở nhỏ tôi là một đứa trẻ độc ác. Nhưng sự
độc ác đó, có lẽ cũng giống như hầu hết những đứa trẻ cùng tuổi khác
vậy.
Khi
đã khôn lớn, có lần tôi bắt được một con chuồn chuồn rất đẹp, đem cho
đứa em nhỏ nhất nhà, yên trí rằng nó cũng nhận thấy như tôi là con vật
đẹp đẽ dễ thương và nó sẽ nâng niu. Tôi hoàn toàn lầm lẫn về điều đó,
tôi vừa quay đi nó đã tẩn mẩn bứt cánh, ngắt đầu, xé manh xé mún con vật
ra, vất tứ tung. Thoạt tiên, tôi giận, định mắng nó một trận, nhưng
bỗng nó ngước mắt lên nhìn tôi cười, nụ cười ngây thơ với đôi mắt long
lanh đen láy như hai hạt nhãn nằm trên một nền trời xanh trong ngọc
bích. Một tình cảm đối nghịch liền đến làm cho cơn giận tôi an đi. Đó là
hình ảnh của tôi. Phải, chẳng khác tí chút nào.
Hành động đó đâu phải là tội ác, nó làm vậy mà nào biết rằng đó là một tội ác đối với con vật? Không thể
đem một qui tắc luân lý nào để kết tội nó. Không có một mục đích, một
mưu toan, hay suy tính nào trong hành động đó mà chỉ dưới mắt tôi, mới
có tính cách độc ác mà thôi. Nhắc lại nó không cảm thấy đó là tội ác, nó
làm không chút hối hận, cứ trông nụ cười hồn nhiên và đôi mắt ngây thơ
vô tội của nó thì biết.
Lúc
nhỏ, tôi rất mê chơi đá cá thia thia. Tôi thường bỏ buổi học, giấu cặp
sách trong các bụi rậm, lội xuống những đám ruộng cỏ mọc thấp, nước xấp
xấp, đi “đâm” cá thia thia.
Cá thia thia là một giống cá nhỏ, có nhiều màu sắc xanh, đen, đỏ,
lục, biếc rất đẹp, đặc tính của nó rất hiếu chiến. Chúng thường ở chỗ
nước đọng, trong những bụi cỏ kín đáo. Cá đực nhả bọt trắng phau như một
bãi nước miếng đặc làm tổ cho cá cái đẻ vào đó. Cá đực ở lại giữ cho ca
cái khỏi ăn và ở lại trông coi cho đến khi trứng nở, sau đó lại giữ cho
đến lúc cá con rẽ bầy. Đi dậm cá chúng tôi chỉ cần tìm những nơi cá
đóng bạt, dùng một cái rổ nhỏ xúc là bắt được những con cá đực, đem về
nuôi trong những cái keo hay chai thủy tinh trắng. Cá ăn cung quăn hay
trùn chỉ, nuôi khoảng ba bốn hôm thì cá sung sức, lên nước mun đen, trổ
hết các mầu sắc lấp lánh và cá bắt đầu đá bóng trong gương soi. Có khi
chỉ cần để một ngón tay vào cá cũng phùng mang, xòe đuôi, giương kỳ xấn
tới tấn công rất hung hăng, có thể cáp độ đá được rồi.
Cá
thia thia hiếu chiến một cách kỳ lạ. Có lẽ vì cái tánh hiếu chiến đó
nên người ta mới lợi dụng xua chúng vào cuộc để mua vui trong trò đen
đỏ. Chúng đá rất hăng, gặp nhau là sấn vào cắn nhau tơi bời hoa lá, cho
đến khi có một con chạy hoặc “đâu mỏ”, rồi cả hai kiệt sức mà chết. Gặp
trường hợp này cử tọa vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt và hai chủ cá cũng
cảm thấy hảnh diện đã nuôi được một con cá anh dũng gan lì.
Những con thắng cuộc được đem về o bế, săn sóc kỹ lưỡng. Con nào thua tôi đem ra xử tội ngay.
Tôi
không biết cái cách thức giết những con cá bại trận đáng thương một
cách độc ác như vậy do ai bày ra, chỉ thấy mấy đứa trẻ khác làm, tôi bắt
chước theo.
Tôi
để những con cá “sọc dưa” vào một chai nhỏ đầy nước, đậy nút lại thật
chặt, lấy một cái que nhỏ gõ vào chai. Gõ mạnh thì chỉ cần một hai lần
là cá đã dẫy lên mà chết tốt, nhưng như tôi đã nói, tôi là một đứa trẻ
độc ác, tôi thích kéo dài thời gian làm tình làm tội con vật, theo tôi,
đã phạm một trọng tội: thua cuộc! Tôi chỉ gõ nhẹ nhẹ từng cái một, mỗi
lần gõ con cá nhỏ như bị điện giật, nẩy lên lật ngữa ra, bất tỉnh một
lúc. Tôi chờ cho cá tỉnh lại rồi gõ tiếp, tôi gõ như vậy có đến vài chục
lần con cá mới chết hẳn. Như thế chưa hả, tôi còn lấy xác cá ra bắt đầu
ngắt hết kỳ vi, đuôi, mọi thứ rồi bóp con cá giữa hai ngón tay đến nát
nhầy ra.
Còn
một lối giết cá khác nữa. Tôi cũng cho cá vào một chai nước đầy nong
một ngón tay vào miệng rồi giật mạnh ra. Cách này tàn bạo hơn cách
trước, tuy nhiên, con cá tránh được thời gian kéo dài sợ đau đớn. Nó
chết ngay.
Khi
ngón tay rút ra khỏi miệng chai, một tiếng “póc” nhỏ vang lên như tiếng
mở rượu sâm banh. Con cá từ dưới đáy vọt lên miệng chai như một mũi
tên, lật ngữa cái bụng trắng hếu ra tức nước, chết tươi. Sức ép của nước
do cái rút tay tạo nên có khi làm vỡ cả cái chai nữa. Tôi nhìn xác nó,
từ từ nhìn xuống, cảm thấy hả dạ.
Nhớ
lại, tôi thấy quả thật tôi là một đứa trẻ quá sức độc ác khi tôi thưởng
thức một cách thích thú sự quằn quại của con cá bị tôi hành hạ.
Bây giờ chính tôi đóng vai một con cá thua cuộc. Tôi không ngạc nhiên nhưng tôi cảm thấy một nỗi đau đớn về tinh thần.
Tội
ác của tôi, dẫu sao cũng có thể tha thứ được, tôi chỉ hành hạ một con
vật nhỏ bé thôi mà, lại ở trong lứa tuổi chưa có ý thức về lẽ thiện ác.
Tôi không thể tưởng tượng nổi nếu như tôi cùng là giống cá thia thia như chúng mà tôi lại có thể
hành hạ chúng như vậy. Còn tôi, tôi bị chính những đồng loại mình hành
hạ. Chai nước đổi thành thùng phuy nước xà phòng và cái que nhỏ đổi ra
một thanh gỗ to.
Làm sao có thể
để biện minh một cứu cánh coi như lý tưởng để hành hạ một cá nhân có
những tư tưởng đối lập? Phương chi cứu cánh đó chỉ là một hoài vọng nông
nổi – nếu không muốn nói là ngụy tạo và vụ lợi – và sự hành hạ thì hoàn
toàn, có tính cách đàn áp tiếng nói đối lập chính đáng, phản kháng
những tệ trạng hậu quả của những chính sách hư mê?
Dập tắt tiếng nói đối lập bằng bạo lực chỉ có thể
là phương thức của những chế độ độc tài quân phiệt. Những tay sai ngu
xuẫn thì coi sự hành hạ đó như một sự trả thù, một sự bỏ tức vô lý ngây
thơ – nếu nghĩ có một tí ti lý tưởng nào trong những hành vi tàn nhẫn
của họ thì khôi hài hết sức – họ chỉ làm cho đã cái nư giận của
họ vì chúng tôi đã làm rầy rà họ – nếu không thì họ sẽ có thì giờ nhiều
hơn để giải trí – không cư xử tàn nhẫn với tôi một cách vô tội vạ và vô
trách nhiệm – đó chính là điều làm cho tôi cảm thấy một nỗi đau đớn sâu
xa. Một nỗi hổ thẹn không kềm chế.
Nhật ký của Lan
Anh yêu dấu,
Em sẽ kể anh nghe cơn ác mộng em vừa trải qua.
Em
buồn rầu vùi mình vào lòng anh để xin anh tha lỗi. Mọi sự xảy ra, chắc
chắn không do tự nơi em, trong một cơn ác mộng em hoàn toàn phải đóng
vai thụ động. Em đau đớn về cả thể xác lẫn tâm hồn, và nỗi đau lớn lao
quá đã làm cho lòng em trở nên dửng dưng một cách kỳ lạ, như em cam chịu
phần số không may cùng với lòng khinh bỉ.
Hẳn
là em còn nhớ rất rõ ràng điều nhục nhã xảy đến cho em, vậy mà lúc đó
cũng như giờ đây, em không nhỏ ra được một giọt nước mắt. Nhưng anh đừng
đột ngột hiện ra bên em mới được, vì nếu anh có mặt ngay bây giờ ở đây,
thì em không thể giữ mình được,
dẫu em có bị trói bằng dây sắt, em cũng phá tan để lết tới bằng đầu gối
ngã vào lòng anh mà khóc như dông bão, và em tưởng chừng nước mắt em
hoàn toàn làm ngập lụt ướt đẫm hai thân thể chúng ta. Chúng ta sẽ tắm bằng nước mắt của em, để gột sạch những xúc động nhơ nhớp mà người ta đã gieo lên thân thể em với ác tâm. Vâng, em sẽ khóc, khóc để tẩy uế.
Anh yêu,
Anh
còn nhớ cây đào tiên với đôi quả kề nhau mới chín tới của em không? Cây
đào hiếm hoi quí báu mà cha em đã công khó vun trồng, săn sóc, gìn giữ
suốt hai mươi năm nay và từ khi em biết được sự quí giá chúng em cũng đã
góp công gìn giữ. Hai quả đào tiên đó là của hồi môn duy nhất cha mẹ em
để lại cho em. Em tâm niệm dành thức ăn quí hiếm đó cho anh, người
chồng tương lai yêu dấu của em. Anh không biết được rằng em yêu anh đến
chứng nào và em quyết rằng khi chúng ta đã thành chồng vợ em sẽ hiến
dâng cho mình anh tận hưởng của hồi môn của em: đôi quả đào tiên đó. Em
chỉ nhận sự sung sướng khi nhìn anh cấu vào làn da hồng căng rạn mịn
màng của quả đào chất nước thơm ngọt ngào sẽ tiết ra thắm đượm từng kẻ
răng anh, chan hòa lưỡi mềm mại của anh. Em chỉ tham dự vào khoái cảm
của anh thụ động, nhưng em vô cùng sung sướng, sự sung sướng em tìm thấy
trong đôi mắt nhắm ngây ngất của anh, ở những ngón tay tham lam quờ
quạng run rẩy của anh.
Đó
là lý do duy nhất vì sao em từ chối chưa trao tặng anh đôi quả đào tiên
ấy để đến nỗi đôi khi em phải đau lòng vì sự buồn bã lộ ra trên gương
mặt khả ái của anh. Vả chăng nếu anh biết rằng, có khi giá trị của nó
chính ở nơi lòng mong mỏi, ở thời gian đằng đẵng của chờ mong mà mà
không do phẩm chất của nó. Con người dẫu ở tuổi trưởng thành vẫn còn giữ
tâm lý của trẻ con, chúng chỉ mơ ước những điều mới lạ. Và khi đã thỏa
mãn rồi chúng không còn lòng ham muốn thèm thuồng nôn nả nữa.
Chớ
có giận em, anh cũng chỉ là một trong những đứa trẻ con đó thôi. Nhìn
thấy hai quả đào hồng mơn mởn treo bên cạnh, những chiếc lá xanh anh đem
lòng mơ ước xôn xao, và sự mơ ước không được thỏa mãn sẽ tạo ra nơi anh
một nỗi đam mê thắm thiết. Em cần lòng đam mê đó của anh. Anh có quyền
nhìn ngắm nó thỏa thuê, nhưng em vẫn xin anh đừng vội ăn quá sớm. Nó
chưa chín đủ. Có thể nó sẽ có
một vị chua, đắng, lúc ấy... lúc ấy anh sẽ đối với em ra sao? Chính vì
thế, do lòng vị kỷ rất đáng yêu của giống cái, phần nào em đã cư xử với
anh như đối với một đứa trẻ con. Để khuyến khích sự say mê của nó trong
việc học, người lớn chỉ hứa cho nó sự sở hữu món đồ chơi nó thích, và nó
cần phải đạt đến một mong muốn nào đó của họ thì nó mới được sở hữu
trọn vẹn, hoặc thi đậu hoặc đứng đầu lớp. Ở anh chính là sự thử thách
bằng thời gian.
Thực
tế đã đánh đổ tất cả khi cơn ác mộng xảy đến. Tuy nhiên, thử thách đó
vẫn còn đúng trên suy luận. Suy luận, đó là một chứng bệnh trầm trọng
của thời đại chúng ta. Hành động theo một tiêu chuẩn đinh ninh do suy
luận, bất chấp những hậu quả thảm khốc. Một loại hành động mù quáng đem
cứu cánh biện minh cho phương tiện, trong khi cứu cánh, thực ra chỉ là
sâu thẳm què quặt của cá nhân, chứ không phải của quần chúng. Em lầm
lỗi, phải không anh? Và dù mọi sự đã xảy ra như vậy, đối với anh, trong
suy luận của em, vẫn chưa có gì quan trọng lắm để khiến em không còn ao
ước được gặp lại anh đâu. Ân hận đôi chút, nhưng em giống như những
người có tinh thần bảo thủ – có lý tưởng chứ không vì quyền lợi – em
nghĩ rằng em không nên có thái độ bi lụy quá đối với anh, dầu là em đã
trải qua cơn ác mộng đó. Vì cơn ác mộng chỉ có thể xúc phạm đến thể
xác em mà thôi, trong khi tình yêu của em dành cho anh đã cô đọng thành
một khối kim cương sáng chói trong tâm hồn em không một sức nóng nào có thể
làm cho nó tan chảy – ngay khi sự phản bội của anh đi nữa, yêu anh là
em đã sống đến mức của sự sống, chính là sự chết, vậy thì còn gì có thể huỷ diệt được tình yêu đó nữa? – đó là khối ngưng đọng của tinh thần, của tình yêu tuyệt đối.
Anh yêu,
Anh
biết không, gã đàn ông dơ dáy, bẩn thỉu, tàn nhẫn, có gương mặt mất hẳn
nhân tính, đã dùng hơi độc làm em mê man, đưa em vào cơn mộng dữ, cưỡng
bức em bằng một phương pháp hết sức lạ lùng.
Gã
tàn bạo xé rách quần áo em ra với hai bàn tay gân guốc thô bạo của gã.
Em trần truồng như nhộng trước mắt gã, đôi mắt đỏ ngầu rực lên ánh lửa
thèm thuồng. Dưới tia nhìn bốc lửa của con quỷ dâm dục, da thịt em, tấm
thân trong trắng hoàn toàn trống trải của em như bị muôn ngàn tia đèn
pha cực sáng dọi vào thiêu cháy. Em cảm thấy một nỗi xấu hổ kinh tởm tột
độ, cũng bằng như em bị bắt khỏa thân trên một khán đài mà bên dưới có
hàng triệu tia mắt của những tên “”sa đích” rạo rực nhìn lên. Sự kinh
tởm lẫn với lòng sợ hãi đã khiến cho làn da thịt của em mềm nhũn mát
rượi dưới bàn tay êm ái nóng ấm của anh trở nên đông cứng lại giá buốt.
Ôi!
Phải chi em là một người đã từng qua trong cảnh trần truồng trước mắt
những con quỉ thèm thịt sống, anh ơi, em là một gái trinh, anh ơi, em
chỉ là một trinh nữ. Và em rùng mình chờ đợi.
Gã
đàn ông thô bỉ đứng bên cạnh gốc đào, đôi môi thâm dày ngậm chặt điếu
thuốc cháy đỏ, mỉm cười nham hiểm. Gã nói với em bằng ngôn ngữ của chúng
ta, nhưng em hoàn toàn không hiểu được gã muốn nói điều gì với những
câu như phù chú đó. Và em im lặng. Sự im lặng của em như một thách thức
làm cho gã tức giận. Nên thay vì đưa hai tay sần sùi mân mê hai quả đào
như gã đã làm trước đó, thình lình gã bấu chặt lấy chúng. Những ngón tay
cứng bóp mạnh làn da căng nỏn nà với hết sức lực, như tay kẻ sát nhân
trên cổ tử thù.
Hành
động đó đưa đến một hậu quả tích cực, gã thấu hiểu. Cây đào với đôi quả
trong thời kỳ chín mọng, gã biết em quí đến chừng nào. Sự hành hạ từ
núm cuống hai quả đào đến tận gốc rễ của thân cây sẽ làm cho em cực kỳ
đau đớn em cắn chặt răng lại, chịu đựng không thốt lên một lời kêu than
và mê man đi trong một thời gian ngắn. Khi em tỉnh dậy đã thấy gương mặt
hắn úp vào hai quả đào, hai tay nâng lên sờ mó, hàm răng nhơ bợn của gã
cắn nhẹ lên núm đào, và cái lưỡi rắn nhám tanh tưởi của gã lè ra, mơn
trớn khắp trên làn da. Em phải thú thật với anh điều này vì nếu không sẽ
là một xúc phạm lớn đối với anh và anh không sao tha thứ được.
Em
phải nói cho anh biết, giữa hai quả đào và thể xác em có một liên hệ
xúc cảm mật thiết, chỉ cần một hơi gió thoảng qua trên da thịt chúng
cũng đủ làm cho em thoắt rùng mình – chiếc lưỡi nhám liếm lên cuống đào,
rà khắp lên thân hai quả đào mà làn da cực kỳ nhạy bén đã tạo ra luồng
điện êm ái nhưng mãnh liệt truyền vào thân thể
em, khiến thân xác em bủn rủn, em không làm chủ được cảm xúc thuần thể
xác của mình nữa, trong giây lát xúc cảm do sự mơn trớn trên cơ thể, em
quên mất sự dơ bẩn của cái miệng hôi hám nhờm gớm kia, buông mình vào
cơn đê mê ngây ngất.
Nhưng
như em đã nói, đó chỉ là xúc cảm tác động lên thân xác em. Không gây
một ảnh hưởng tâm lý xấu xa nào đến phần tinh thần em, mà chính tinh
thần mới là thành lũy cuối cùng của em. Thứ nhục cảm em thụ hưởng thụ
động do gã đàn ông gieo trên thân thể
em giống như chất thuốc mê, và sự đê mê của em giống như sự mê man của
một người bị đánh thuốc mê vậy – Em là nạn nhân, hoàn toàn không tham
dự. Phương chi, đó chỉ là một cách thức thi hành độc thủ?
Một
lúc, gã đàn ông ngẩng đầu lên khỏi hai quả đào nói với em bằng ngôn ngữ
quen thuộc nhưng em không sao hiểu được điều gã nói.
Thoát
ra khỏi cơn đê mê, em trố mắt nhìn gã trân trối như để nhận diện một
con quái vật. Gã đốt thuốc, gương mặt lầm lì của gã hiện lên những nét
cực kỳ hiểm độc. Gã rít liên tiếp những hơi thuốc dài, điếu thuốc đỏ rực
lên trong bóng tối. Gã thong thả dí đầu lửa đỏ lên núm cuốn hai quả đào
và kề miệng rít cho lửa rực lên thêm. Một mùi khét lẹt từ đó bay ra
cùng với tiếng réo xèo xèo, như mùi khét của da thịt người bị đốt cháy.
Còn em thì ngất đi. Em tỉnh dậy rồi lại ngất đi nhiều lần với trò chơi
ác độc đó. Hai quả đào với làn da căng hồng mơn mởn bị lửa đầu thuốc đốt
cháy đen bầm. Nhựa từ vết thương rỉ ra đỏ thắm như máu.
Cuối cùng, trước khi bỏ đi – vì gã biết rằng không thể
thuyết phục nổi một ý chí sắt đá – gã đã dùng những ngón tay cào mặt
đất – nơi một kẻ nứt có những rễ nhỏ bám sâu và dí làn thuốc vào kẻ nứt
đốt cháy những rễ con, khói bốc ra như mùi tóc đốt. Em bất tỉnh. Và đó
là cảm giác đau đớn cùng tuyệt gã đàn ông đã gieo vào cây đào – có liên
hệ xúc giác đối với cơ thể em – trước khi gã bất lực bỏ đi.
Gã không nhận được nơi em những gì gã mong mỏi. Nhận một tội lỗi mà em không hề phạm.
Giật
mình thoát ra khỏi cơn mộng kinh hoàng, giữa đêm, em chạy ra gốc đào,
đưa tay lên mò mẩm trong bóng tối, hai tay hai chân em ngượng ngập như
vừa được mở cổng. Nhựa từ hai quả đào rây ra tay em nhầy nhụa. Em thảng
thốt nhận ra cơn ác mộng, cùng lúc đã xảy ra trong thực tế.
Anh ơi! Nói lên tiếng nói phản kháng của những kẻ bị đàn áp phải chăng là một tội lỗi?
Nào
em có tội tình gì cho cam. Em và đồng bào em lâm vào cảnh đói rách nhọc
nhằn. Một buổi sáng, dưới ánh nắng rực rỡ của mặt trời – mặt trời là
mắt công bình xa vời phải không anh? – em cùng với những bọn trẻ đồng
cảnh ngộ, chúng em đã họp nhau lại kéo nhau ra phố hát lên nỗi thống khổ
của mình. Nhưng chung quanh chúng ta, có những kẻ sống một cách vương
giả nhờ vào sự bần cùng của chúng ta. Họ muốn chúng ta im lặng, chết rục
trong sự khốn cùng đó, họ không muốn chúng em, những kẻ bạo gan dám cất
lên tiếng nói phản kháng, và họ, chối tai vì những giọng hát kèn đồng
đã cất cao lên, bởi tiếng hét ấy đã phát ra từ ngõ động mạch những trái
tim sôi sục lửa căm thù, tiếng hét ấy đã làm cho họ run sợ bị tiêu diệt,
tiếng hát đã đốt tiêu ra tro than bọn người nhơ nhớp, tồn tại được nhờ
những dòng mồ hôi chảy ràn rụa trên trán, trên lưng của lớp người cùng
đinh, nhờ vào suối máu từ những thân thể trẻ trung của các thanh niên tuôn ra trên khắp các mặt trận.
Chúng ta không lạ gì, bởi chúng ta đã sinh ra và lớn lên trong một thời đại mà quyền tự do của con người được tấn phong để rao bán như một món hàng hào nhoáng mặt ngoài mà đục ruỗng bên trong.
Bọn
người dùng quyền rao bán đó bắt mọi người phải trả một giá đắt, bị bó
buộc phải mua và phải tin rằng đó là một báu vật họ có nhã ý trao tặng
chúng ta. Nhưng bổn phận của chúng ta là phải nói cho tất cả mọi người
trên thế giới biết rằng đó chỉ là một sự lừa bịp trắng trợn vĩ đại, một
âm mưu trục lợi, tin vào đó là tự tiêu diệt đời mình.
Chính
vì thế mà chúng em đã cất lên tiếng hát đồng ca và bọn người có uy thế
kia đã xua lũ tay sai ngu dốt chúng thuê mướn – với một món tiền ít oi, cũng là những đồng bào chúng ta mà, phải không anh? – đến dập tắt tiếng hát ấy.
Nói
sự thật là một tội trọng, đó là một châm ngôn mọi người đều học được
trong thời buổi mạt thế này. Nhưng bổn phận chúng ta là phải nói lên sự thật, phải rao giảng chân lý dù chúng ta có bị bạo lực ngàn lần đàn áp đi nữa.
Cuối
cùng chân lý bao giờ cũng tỏ lộ dưới ánh sáng huy hoàng của chính nó.
Tất cả những gì không phải là chân lý, giả ngụy sẽ bị tiêu diệt.
Anh yêu,
Em
đã trở về căn phòng nhỏ tăm tối của em, đốt lên một cây nến trắng. Ánh
nến bừng lên soi rõ bức hình anh với đôi mắt sáng trầm tĩnh đầy cương
nghị.
Em
nhìn vào bức hình như nhìn vào gương mặt thật của anh, đang ngồi trước
em. Đôi mắt anh nhìn em âu yếm, bao dung, em soi mặt mình vào đó để tìm
thấy chân dung em: tuy vừa trải qua cơn ác mộng, gương mặt vẫn còn giữ
được vẻ đẹp ngây thơ, dịu dàng với đôi mắt bồ câu long lanh. Em đã hôn
lên đôi môi anh trong bức ảnh để thấy lòng mình bình yên trở lại, vì em
vẫn còn cảm thấy kinh hoàng khi nhớ lại những gì đã xảy đến cho em.
Có
điều lạ lùng, là khi đem thuật lại giấc mộng cho những người bạn gái
của em nghe, họ xác nhận là cũng đã trải qua trong cùng đêm đó, giống
như những gì em đã kể, tuy nhiên các chi tiết không đồng nhất và gương
mặt, hình dáng gã đàn ông mỗi người đã trông thấy hoàn toàn khác biệt.
Em đã kể cho anh cơn ác mộng xảy đến cho em, những ảnh hưởng.
Chắc
chắn là anh phải làm một cái gì cho em, tựa như những vuốt ve êm ái.
Anh hãy về ngay với em, để trông thấy hai trái đào vưu vật của anh đã bị
gã đàn ông xâm phạm. Chúng đang cần hơi hám của bàn tay anh ấp ủ để những
vết thương chóng se mặt, những tế bào mới có thêm sinh lực nẩy nở nhanh
chóng, những vết sẹo mau biến đi nhường chỗ lại cho làn da hồng căng
mơn mỡn như xưa.
Hôn anh, Lan.
Nhật ký của R... bạn của Minh và Lan
Trong
quảng đời tuổi thơ của quí vị, hẳn là có đôi lần, quí vị thích thú cởi
trần truồng dầm mình trong những cơn mưa lớn. Từ đầu, khi những hạt nước
thưa thớt rớt xuống từ một bầu trời mây đen vần vũ, rơi lộp độp trên
mái nhà, quí vị đã cỡi bỏ áo quần ra đứng giữa trời nhảy nhót, hay chạy
dong dong la hét ầm ĩ, chờ cơn mưa tới. Nhưng ngay trong lúc đó, khi cơn
mưa còn xa, gió mạnh đã đẩy những hạt nước rơi sớm, bay tới rơi lên da
trần của quí vị, gây một cảm giác rát nhẹ như những cái tát liên tiếp
của một bàn tay nhỏ. Không thích thú gì, vì nhiều cái tát như vậy liên
tiếp nhưng thưa thớt, vả vào khắp người khiến quí vị cảm thấy khó chịu?
Chính tôi đã trải qua những cảm giác đó. Tôi không thưởng thức những cái
tát nhỏ, tôi chờ đợi một cơn mưa lớn nhưng với những hạt nước mịn. Nhà
tôi ở gần một bờ biển, vì thế tôi có nhiều dịp quan sát sự xâm thực của
sóng nước vào chân các núi đá và những giòng nước nhỏ chảy qua một mặt
đá phẳng.
Nếu
có một so sánh về thể chất giữa nước và đá, việc làm đó đưa đến kết
luận có một khác biệt lớn đến trở thành khôi hài, như nếu có người bày
tỏ ý định sẽ lấy nước để bổ đôi, hay để đập tan một tảng đá. Ý định đó
không còn gì điên vì thiếu thực tế cho bằng, chúng ta tất sẽ nghĩ như
vậy. Nhưng nếu ai cho đó là một ý nghĩ có tính cách khôi hài, có lẽ
những người đó đã không chú ý đến yếu tố thời gian.
Chân
núi đá vững chải dường nào thì đợt sóng đánh vào có hề hấn gì! Thoạt
nghe có vẻ chí lý, cũng như giòng nước nhỏ chảy qua một mặt đá thì làm
thế nào có thể bổ đôi tảng đá ra được.
Đó là một ý tưởng nông cạn và sai lầm.
Sự
thật, đợt sóng đã có một tác động tích cực trong cùng đích của nó và
giòng nước chảy qua mặt đá kia cũng vậy. Chúng ta không nhìn thấy sự xê
dịch của kim đồng hồ, phải đâu là chúng không di chuyển? Một nụ hoa
phong kín đâu phải không nẩy nở để đến lúc mãn khai và vẻ đẹp trông như
rực rỡ kia đâu phải không đang tiến dần đến vẻ héo tàn? Tôi đã từng thấy
những chân núi đá bị sóng nước đục thủng vào, và những núi đá gẫy gục
xuống vỡ ra thành những đống đá vụn, những khe lõm sâu trên mặt đá chỗ
giòng nước chảy qua. Đó là sự xâm thực nhẹ nhàng bị lãng quên trong thời
gian, giống như sự cháy ngầm của không khí tác dụng vào sắt thép trông
có vẻ vô hại ban đầu nhưng đưa đến một hậu quả hủy hoại khôn lường về
sau.
Bây
giờ, chúng ta lấy một miếng vải nhung – nhung thì êm ái biết bao! – chà
nhẹ lên một khoảng da nhất định. Ở những lần đầu, sự va chạm nhẹ nhàng
của nhung vào làn da sẽ khiến chúng ta có một cảm giác được vuốt ve. Tôi
tin rằng, chỗ da nhận sự ve vuốt nhẹ nhàng đó sẽ đỏ rần rồi phồng lên
nếu chúng ta cứ tiếp tục lập lại sự va chạm êm ái đến một lúc nào đó.
Lúc đầu, nếu có người cam đoan, với những cái ve vuốt nhẹ nhàng của một
miếng nhung, sẽ làm cho da chúng ta phồng lên, hẳn chúng ta sẽ mỉm một
nụ cười tha thứ rất ngạo mạn. Gần gũi hơn, chúng ta có thể
nhìn thấy những lỗ thủng sâu xuống dưới mặt đất, ngay dưới mái hiên
nhà. Có lẽ một vài người đã vội nghĩ đến những giòng nước của một cơn
mưa rào. Không đâu, cần gì đến những giòng nước nặng đó, chỉ là nước
sương đọng nhỏ xuống từng giọt một trong suốt những đêm của mùa sương mù
thôi. Những cái lỗ cũng đủ sâu hàng năm phân dưới mặt đất rắn.
Hắn cố vặn vẹo cái thân thể
trần truồng mà tay chân đã bị cột chặt vào những khoen sắt chôn sâu,
gắn xuống nền xi măng lạnh, ẩm ướt. Hắn muốn xê dịch đi một chút, chỉ
một phân thôi cũng được để tránh những giọt nước lạnh buốt từ một độ
cao, đang rơi xuống nhất định trên khoảng xương che tiểu não. Nhưng hắn
bị hai bục gỗ với những đinh sắt nhọn tua tủa giữ chặt sát hai bên đầu
và mặt úp xuống nền xi măng. Hắn muốn cất đầu lên để đập xuống cho vỡ
tan nhưng một thanh gỗ chắn ngang sát vào làn da trên gáy khiến hắn
không thể cựa quậy xê xích được,
dù chỉ một ly. Hắn muốn ấn thái dương vào những mẫu đinh nhọn nhưng cảm
giác đau đớn đã khiến hắn phải hủy bỏ ngay ý định.
Đã
liên tiếp ba hôm nay, người ta bắt hắn chịu hình phạt lạ lùng này buộc
hắn khai thêm những bạn bè hắn mà người ta gọi là “những phần tử phản
động”, tiếp tay cho giặc phá rối công cuộc trị an, đã ngăn trở bước tiến
của toàn quân toàn dân trên đường xây dựng chế độ tự do dân chủ.
Thoạt
tiên, người ta cho những giọt nước rơi xuống trên ngực hắn. Thật lạ
lùng và khôi hài, hắn nghĩ, hắn tưởng rằng với tội lỗi mà người ta đã
gán cho hắn, hắn phải chịu những hình phạt kinh khủng mới phải, sao họ
lại bày ra cái trò tắm hắn với những giọt nước hà tiện! Và trong lúc
những giọt nước đầu tiên rơi xuống, hắn đã yên tâm chợp đi một giấc
ngắn... Nhưng sau đó, không rõ bao lâu, đột ngột hắn bị đánh thức dậy
trong một cảm giác toàn thần rúng động vì một cơn đau đớn như vừa nhận
một nhát búa bổ mạnh trên lồng ngực. Hắn mở choàng mắt trong lúc ngơ
ngác chưa hiểu rõ nguyên nhân cơn đau thì một giọt nước rơi xuống trên
lồng ngực hắn.
- Ôi! Hắn nẩy người, kêu lên thảng thốt mở mắt trừng trừng nhìn lên nóc nhà và hắn hiểu ra.
Sự
đau đớn như bị một nhát búa đập chẳng qua chỉ là tác động của những
giọt nước kia được lập lại mà lúc đầu hắn cảm thấy hết sức vô nghĩa. Hắn
cảm thấy thân thể trở nên lạnh buốt, từng miếng thịt thoát khỏi sự kềm
chế, tự do run lên. Những giọt nước cứ tiếp tục rơi xuống, đập lên ngực
hắn như những nhát búa. Hắn mở mắt thao láo, kinh hãi nhìn giọt nước
đang dần dần tụ lại, long lanh. Hắn tưởng như thấy rõ những lượng nước
nhỏ từ từ rỉ ra cho đến khi giọt nước thành hình. Khoảng thời gian đợi
chờ càng lúc càng trở nên nặng nề nghẹn thở... giọt nước vừa rời khỏi
đáy thùng, đang rơi xuống. Hắn nhắm mắt lại. Một, hai, ba. Giọt nước đập
vào ngực.
- Giết tôi đi! Giết tôi chết đi! Trời ơi!...tiếng thét kinh hoàng của hắn vang âm trong bốn bức tường,.
Giọt nước lại đang tụ dần dần. Giọt nước trong vắt lung linh, đôi mắt quáng của hắn nhận ra vô số những giọt nước.
-
Rơi xuống đi! Rơi xuống mau đi! Hắn rên rỉ. Nhưng giọt nước vô tri
không vội vã hãy còn đong đưa, đợi thêm một lượng nước nhỏ nữa cho đủ
nặng. Vào lúc hắn không còn đủ sức đợi chờ nữa, bất ngờ giọt nước buông
mình rơi xuống.
- Độp! Hắn rủn người:
- Giết tôi đi! Giết tôi chết đi! Hắn thét lên vang dội cả căn phòng.
Cánh
cửa sắt mở hé, một người lách mình vào, tiến đến đứng bên hắn, chống
tay lên cạnh sườn, nhìn lên trần nhà, gã chiếu tia mắt lạnh lùng lên
thân thể nạn nhân:
- Hãy giết tôi đi! Hắn nói gần như rên rỉ, nhìn người vừa vào với đôi mắt van lơn. Hắn muốn được chết.
- Hãy giết tôi ngay đi! Hắn phẫn nộ thét lên thất thanh.
- Thế nào, nhóc con? Người kia hỏi. Mày đã chịu nói thằng nào chủ mưu vụ nhịn ăn phá rối chưa?
- Giết tôi đi! Tôi không biết! Hắn đáp.
Phải
khai với ông thế nào đây, hắn nghĩ. Làm gì có người chủ mưu? Làm sao có
đủ chỗ giam giữ tất cả số người đông đảo vô kể gồm 90% dân số dân tộc
kia chứ?
- Mày muốn phá rối chế độ hả? Người kia hỏi gằn.
- Tôi muốn cho chế độ khá hơn.
- Khá hơn cái con đĩ mẹ mày!
Gã rít lên lời mắng mỏ tức tối, sút một cú mỏ nhọn như trời giáng vào sườn hắn.
- Ngoan cố hả? Phản động hả? Y càu nhàu. Ông sẽ cho mày chết rục.
Y hối hả trở ra, đóng ập cánh cửa khóa tự động lại. Hắn không nghe y nói gì. Hắn đã ngất đi khi nhận cú đá sút.
Hắn
tỉnh dậy trong một căn phòng khác. Trong bóng tối mờ mờ, dần dần hắn
nhận ra những người bạn. Tình trạng của họ không kém hắn, nhưng trong vẻ
mệt mỏi dường như họ không để mất đi thứ ý chí bất khuất trong những
tia mắt sáng. Căn phòng hoàn toàn im lặng. Ngoài những hơi thở đều nhè
nhẹ, hắn có cảm tưởng như đã bị đưa đến một nôi hoang vu, xa hẳn thế
giới loài người. Hắn trở mình định ngồi dậy nhưng người đau như dần, tay
chân, những khúc xương trong thân thể như sắp sửa rời ra.
Hôm sau, người ta cho những giọt nước rơi trên trán hắn, hôm sau nữa trên ngay đỉnh đầu và bây giờ ...
Những giọt nước rơi trên xương che tiểu não dần dần làm cho hắn mê thiếp đi.
Tôi đã trở về nhà với một tấm thân thể tiều tụy. Một cái gì bất ổn ghê gớm đã xảy ra trong ngũ tạng tôi,
tựa như từng mỗi cơ phận nhỏ đã bị dần cũ kỹ, nát nhũn ra, lõng lẻo.
Đầu tôi với óc não như chảy ra, lỏng bỏng. Trí nhớ tôi mỗi ngày giảm sút
đi và tình trạng đó gia tăng từ hơn ba tháng nay. Tôi không thể
gọi đúng tên những đồ dùng thông thường chung quanh tôi nữa. Ban đêm
giữa giấc ngủ tôi thường bị đánh thức dậy, cảm thấy như có người đập búa
tạ lên ngực tôi, lên trán tôi, lên sọ tôi, ngực tôi đau ran như sắp vỡ.
Những cơn nhức đầu tưởng chừng làm cho những mảnh sọ tôi nứt rạn. Bác
sĩ cho tôi biết rằng, thân thể
tôi đang ở vào thời kỳ suy yếu trầm trọng cần phải bồi bổ, thần kinh tôi
đã rối loạn, cần phải chạy chữa kịp thời. Nếu để tình trạng mất trí nhớ
tiếp tục, tôi sẽ bị điên.
Cha
tôi chỉ là một công nhân. Cả gia đình sống nhờ vào số lương ít ỏi của
ông. Trong tình trạng kinh tế suy đồi này, số lương của ông không đủ để
ăn hai bữa cháo qua ngày thì còn lấy tiền đâu chạy chữa cho tôi?
Tôi chờ đợi thân thể
tôi suy nhược dần dần sức lực. Tôi chờ đợi máu tôi khô cạn, tôi chờ đợi
cơn bệnh thần kinh tăng dần đưa đến trạng thái điên cuồng, có lẽ sẽ xảy
đến một ngày không xa. Cả hai yếu tố đó hợp lại đưa tôi về cõi chết./.
|
Tuesday, March 5, 2013
Kinh Dương Vương * Những Giọt Nước
Minh Nguyễn * Tháng Ba Tây Bắc Hoa Ban Nở
Không
biết từ lúc nào tôi bỗng quan tâm tới các loài
hoa. Điều này kể ra e có người sẽ mỉm cười cho
rằng: đàn ông ai lại quan tâm tới mấy chuyện hoa
hòe hoa sói; trừ trường hợp sinh nhật cha mẹ, bạn
bè hay người yêu.
Tưởng
chuyện đơn giản, vậy mà tôi đã phải chưng hửng
trước câu hỏi đầy sự đánh đố nơi cô
bạn vì, biết tôi đã nhiều lần đi lên vùng Tây
Bắc : ngoài mùa hoa đào hoa mận ra, nghe nói trên
vùng Tây Bắc còn có mùa hoa gì đặc biệt lắm,
anh có biết không ?
Tôi
chợt nhớ lần ghé lên Lào Cai,đi cùng Mây vượt
chặng đường dài qua hàng ngàn bâc đá, đặt chân
lên vườn hoa thiên nhiên Sapa trên đỉnh núi Hàm Rồng.
Ở đó ngoài việc ngắm thỏa thuê hàng trăm loài
hoa lan đẹp lộng lẫy quí hiếm, trước khi ghé sang
vườn Châu Âu kỳ thú nhìn thấy cơ man hoa hồng, hoa
thươc dược, tuy-líp, lay-ơn để, cuối cùng dừng
chân lại bên rừng hoa đào hoa mận bạt ngàn; tuyệt
nhiên không nghe nhắc tới loài hoa nào khác. Đem thắc
mắc hỏi Mây, cô cười thật xinh bên hai chiếc răng
vàng bắt nắng sáng lấp lánh, khiến tôi mỗi lần
nhìn thấy phải phát ghen lên với mấy tay thợ Trung
Quốc, cô cho biết : tuy cùng ở vùng Tây Bắc tổ
quốc nhưng người H’ Mông ở Lào Cai hay Hà Giang
chỉ trồng hoa đào hoa mận. Còn muốn khám phá mùa
hoa Ban, phải chờ cho đến tháng ba đi qua Sơn La - Điện
Biện, ở đó tha hồ ngắm mùa hoa trắng ngần nở
khắp trên đỉnh núi, ở lưng chừng đồi hay bên
những vách đá dựng đứng.
Hoa
ban. Có thật, có một mùa hoa ban trên vùng Tây Bắc,
tôi chưa hề biết đến? Nhất định, tôi tự nhủ
mình sẽ lên đó một lần, nhìn tận mắt mùa hoa
ban này mới được. Tiếc thay, thời gian chưa đến
tháng ba, nếu trở về Sàigòn lúc này e chẳng bỏ
công sau chuyến đi dài ngày, trong khi tôi đang có mặt
ở Hà Nội. Nghĩ vậy, tôi a-lô về Nam Định rủ
mấy anh chị bên gia đình bác Tiển, lấy xe ô-tô đi
thăm đền phủ Dầy- Vân Cát, thưởng thức ba mươi
sáu giá đồng cùng với các nghệ sĩ hát văn, sau
đó xuôi về bến Đục, đi thuyền trên suối Yến,
lên động Hương Tích đọc bài thơ chữ nôm do Chu
Mạnh Trinh đề trên vách đá.
Đi
chơi hết một vòng quê hương, đến khi quay về Hà
Nội, tôi vẫn còn thừa thời gian để ghé lên Tây
Bắc xem mùa hoa ban nở. Trong lúc đang do dự chưa
biết đi bằng phương tiện gì, may sao có người
mang xe máy kèm theo bản đồ đến cho tôi thuê xe.
Không phải chần chờ gì nữa, tôi xuôi đường Thăng
Long ra Xuân Mai, qua Lương Sơn, lên Hòa Bình thả hồn
trong khung cảnh thiên nhiên mướt xanh từ hai bên đường
dẩn lên miền sơn cước. Con đường đi qua khiến
tôi không khỏi bồi hồi nhớ tới những câu thơ
“ Sông Mã xa rồi tây tiến ơi!/ Nhớ về
rừng núi nhớ chơi vơi/ Sài Khao sương lấp đoàn
quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm hơi/ Dốc lên
khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng
ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
“(*)
Vượt
qua chặng đường heo hút cồn mây với rừng núi
chơi vơi, với dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
với ngàn thước lên cao ngàn thước xuống; chẳng
mấy chốc tôi đã chạy xe lên tới Hòa Bình. Thay
vì chạy vòng tới hồ thủy điện ngắm cảnh hùng
vĩ sông Đà, tôi lái xe thẳng tuột tới dốc Cun.
Mới đầu, nhìn con dốc tôi tưởng bình thường
như bao con dốc tôi từng đi qua, nhưng khi đặt chân
lên con đường uốn lượn ngoằn ngoèo, tôi có cảm
giác như đang trôi bồng bềnh trong mây hoặc chìm sâu
dưới nhiều đoạn cua gấp khúc. Ở đó, một bên
vách đá cheo leo, một bên vực sâu trắng xóa một
mùa hoa lạ lẫm đang nở trắng trời trắng đất.
Xứ sở hoa ban đây rồi? Loài hoa đẹp tựa những
bông tuyết bám trên đỉnh Phăn-Xi-Păng vào những hôm
nhiệt độ xuống dưới không độ. Hoa trắng trước
mặt, hoa trắng sau lưng, hoa trắng trên đầu, hoa
trắng dưới chân, hoa trắng đuổi theo tôi chạy miết
tới con đường mới bạt núi, nhằm làm
giảm độ cao nguy hiểm. Bất ngờ, từ một bên
vách núi còn lởm chởm đá, mấy chị em
phụ nữ đầu chít khăn len (**), mặc áo “xửa
cóm” bỏ trong váy ống đen, ngồi bên những chiếc
bàn làm từ vỏ cây rừng, buôn bán hàng quà đặc
trưng: cơm lam, mía lùi, ngô luộc, rau rừng ngay trên
đỉnh đèo Thung khe. Đứng trước hình ảnh khá ấn
tượng giữa môt bên là các phụ nữ người Thái
trắng, một bên là cảnh vật thiên nhiên trắng xóa
màu hoa ban, buột tôi không thể nhắm mắt làm ngơ,
dừng xe chụp vội mấy bức hình về hoa ban, đồng
thời thưởng thức những món ăn đặc sản “ năm
thì mười thuở “ mới gặp, để lấy sức đi
tiếp lên đèo Thung Nhuối. Ngọn đèo cuối cùng
trong số những ngọn đèo nguy hiểm nằm trên cung
đường dài mười hai cây số. Và, khi đã đứng
trên đỉnh đèo cuối cùng này, nhìn xuống thung
lũng bạt ngàn màu hoa trắng muốt nở đầy bên
dưới ruộng đồng, bên mươi nếp nhà sàn mái đỏ
xinh xinh ẩn hiện bên các bản làng người Mường
người Thái, toát lên vẻ đẹp thanh bình mà tôi chưa
biết nơi đây là đâu? Kịp khi quay nhìn, tôi nhận ra
đám người gồm đàn ông mặc áo cánh màu chàm
có hai túi dưới, cổ tròn xẻ trước ngực cài
những chiếc nút làm bằng vải hoặc làm từ
xương, tay dắt ngựa hoặc cặp nách gia súc mới
mua, đi lẫn vào đám phụ nữ mặc áo cổ xẻ chữ
V, đính hàng nút bạc hình những con vật có cánh
chạy dài từ cổ xuống tới cạp váy màu mạ non
trông thật gợi cảm. Họ đi lẫn vào nhau nói cười
vui vẻ, sau buổi tan chợ trở về thôn bản. Hỏi
thăm, mới hay thung lũng đang nở tràn một mùa hoa
ban bên dưới là “ Mai Châu mùa em thêm nếp xôi”.
(***). Nơi hàng năm có tục lệ mở hội xên Bản, xên
Mường vào dịp hoa ban nở nên có tên gọi “ hội
hoa ban “. Hội hoa ban tổ chức với qui mô lớn nhỏ
tùy thuộc vào điều kiện thời tiết có liên quan
tới sự được mùa hay mất mùa trong năm. Là cơ
hội dành cho thanh niên nam nữ thi tài, vui chơi, tìm
hiểu tâm tình của nhau. Từ sáng sớm tinh mơ của
ngày hội, tiếng trống, tiếng chiêng âm vang khắp
núi rừng. Các bếp lửa trong các ngôi nhà sàn bập
bùng lửa đỏ đồ xôi, luộc gà, thái măng, mổ
lợn bày cổ. Rượu cần từng vò lớn được
mang ra đãi khách. Riêng đám thanh niên nam nữ áo váy
chỉnh tề, gọi nhau đi đến những cánh rừng có
nhiều hoa ban nở nhất. Ở đó họ chọn ra những
cánh hoa đẹp nhất tặng người yêu để tượng
trưng cho sự chung thủy và một ít mang về nhà biếu
bố mẹ để chứng tỏ lòng hiếu thảo cùng sự
biết ơn.
Do
háo hức muốn khám phá ngay một mùa hoa ban, tôi
hỏi thăm đường rẻ xuống thung lũng Mai Châu. Con
đường dẩn vào huyện lị thơ mộng chẳng kém bao
con đường phố núi tôi từng đặt chân đến. Con
đường chạy suốt chiều dài huyện lỵ với một
bên núi đá chấp chùng, một bên là những cánh
đồng xanh mởn lúa non. Để chiêm ngưỡng tận mắt
màu hoa ban giữa núi rừng Tây Bắc, tôi nhờ cô gái
người Thái con chủ nhà trọ bản Lát, hướng dẩn
đi chơi núi. Trên đường đi, cô vui vẻ cho biết hoa
ban có nhiều loại : hoa ban đỏ, hoa ban tím; đặc
biệt vào tháng ba trên đường từ Hòa Bình đi Lai
Châu, Sơn La, đặt chân đến bất cứ nơi nào trên
miền sơn cước này, người ta cũng đều bắt gặp
màu trắng hoa ban báo hiệu mùa nương rẫy,hội hè,
đình đám. Và, lần đầu tiên trong cơn gió nhẹ
thoảng đưa đến bên cánh mũi, tôi biết thế nào
là thứ hương thơm khó phân biệt được với mùi
cỏ cây, hoa lá mọc ven đường. Tôi giữ chặt những
chiếc hoa ban do cô gái trao cho. Hoa ban. Từ khi mới
còn là nụ, cho đến lúc mọc dài thành búp mãn
khai, hoa trông chẳng khác gì ngón tay búp măng nơi cô
gái trẻ. Đến khi trưởng thành, hoa mọc ra năm cánh
hoặc đôi khi chỉ còn bốn, riêng một cánh để ý
thấy nổi lên chùm tia màu hồng đỏ ở về phía
cuối cuốn; thoạt trông cứ tưởng đó là
những mạch máu nhỏ li ti. Chỉ cần một cơn gió
nhẹ thoảng qua cũng đủ làm cho những chiếc tua mang
đầy nhụy hoa, khẻ lay động theo điệu luân vũ của
gió, làm nổi bật hai chiếc lá xanh tượng hình
nửa trái tim của nàng Ban và chàng Khun ghép thành
đôi qua câu hát: “ Nàng Ban xinh đẹp/ Yêu chàng trai
Khun/ Tình duyên không thành/ Chết hóa thành Ban “ .
Theo
truyền thuyết của dân tộc Thái: “ ngày xửa ngày
xưa có chàng trai Khun, giỏi nghề nương rẩy lại có
tài săn bắn đã, đem lòng yêu cô gái tên Ban xinh
đẹp hát hay dệt giỏi. Thế nhưng, vì ham
giàu cha Ban đem gả cô cho con trai nhà tạo Mường, vốn
là một thanh niên lười biếng lại có tật gù
lưng. Mặc cho cô van xin hết lời nhưng cha cô quyết
không từ bỏ ý định. Ông bàn với nhà tạo Mường
sữa sọan lễ cưới sớm cho hai người.Trong bước
đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản núi tìm
tới nhà chàng Khun để cầu cứu. Đến nơi, nàng
nghe tin chàng đã đi mua trâu ở những bản làng thật
xa. Để làm tin nàng lấy chiếc khăn Piêu đội đầu,
buộc vào tay cầu thang nhà rồi bươn bả ra đi tìm
chàng. Nàng đi hết ngọn núi này đến ngọn núi
khác, ngày này qua ngày khác, cuối cùng vì quá đau
khổ, mệt mỏi nàng đã gục chết trước một cửa
hang nơi lưng chừng núi. Thương tình, dân làng xúm
nhau đắp đất lo cho nàng có được nấm mộ giữa
rừng. Trong khi đó Khun cũng vừa đi mua bán về đến
nhà. Chàng bất ngờ nhìn thấy chiếc khăn của Ban
vắt trên cầu thang,chàng biết ngay đã xảy ra chuyện
chẳng lành cho nàng nên vội đi tìm. Dò hỏi khắp
nơi, Khun biết nàng đã bỏ nhà ra đi tìm chàng ở
tận trong rừng sâu núi thẳm. Chàng vội băng rừng,
vượt suối, trèo hết núi này sang núi kia vẫn
tìm không thấy nàng. Cuối cùng do kiệt sức, chàng
ngã xuống trên một mô đất ở trước cửa hang.
Ngay lúc đó, mặt đất bỗng dưng lay động phủ
kín lấy người chàng. Sau này, từ trên ngôi mộ
thấy mọc lên một cái cây có những chiếc lá xanh
thẩm mang hình hai nữa trái tim ghép lại. Và, đến
mùa đông lạnh giá cây trút hết lá, dệt thành
tấm thảm che kín lấy ngôi mộ, đợi đến tháng
ba trổ lộc non và cho ra những chiếc hoa trắng như
làn da nàng Ban. Người dân vùng Tây Bắc cảm thương
cho mối tình chung thủy của hai người, bèn lấy tên
nàng Ban đặt cho loài hoa này.Từ đó,ngoài vẻ đẹp
thuần khiết ra hoa ban còn có vai trò quan trọng trong
đời sống vật chất, tinh thần người Thái. Cho
nên mỗi khi đi rừng thấy hoa ban là biết sắp đến
bản làng của họ với những nếp nhà sàn xinh xinh
quyện lấy làn khói bếp, bốc lên hương vị thơm
lừng của món hoa ban đồ chõ xôi.
Sau
buổi đi ngắm hoa ban trở về, tôi được chủ nhà
hiếu khách mời ăn bữa cơm tối. Ngồi trên sàn
nhà lót bằng tre nứa, trải chiếu hoa, bên cạnh bếp
lửa ấm cúng; uống rượu cần được ủ những
lúa nếp, lá hính ho,gừng cùng với ngực mèo ngon
tuyệt vời. Đặc biệt các món ăn được thể
hiện đầy bản sắc văn hóa ẩm thực của người
Thái qua việc sử dụng lá non hay hoa ban nấu các
món ăn như: Hoa ban xào thịt lợn rừng. Hoa ban nộm
củ riềng. Hoa ban hầm thịt chân giò. Hoa ban đồ chõ
xôi. Hoặc lá hoa ban non đồ chấm chéo cá. . . ăn
nhớ đời.
Sáng
ra, tôi chào tạm biệt những ngôi nhà sàn, những
hàng cây cọ, những thửa ruộng lúa non đẹp như
bức tranh đặc tả về Mai Châu xuôi đường quốc
lộ sáu đi lên Sơn La bên cái nắng hanh vàng vắt
hờ hững bên sườn đồi, bên lưng chừng vách núi
cùng với màu trắng hoa ban đang nở trắng trời
trắng đất, chạy đuổi theo ngay sau lưng.
Tự
dưng, tôi cảm thấy mất đi sự hào hứng ban đầu,
cho dù cảnh quan thiên nhiên ở Sơn La nghe nói xinh đẹp,
thơ mộng không thua gì Đà Lạt phương Nam với hai cao
nguyên Mộc Châu, Nà Sản nổi tiếng cùng cây trà
cây cà phê và chăn nuôi bò sữa.
Vì
sao ư. Có lẽ do tôi đã khám phá đầy đủ về một
mùa hoa ban nở trắng ngần trên vùng trời Tây Bắc
?
(*)(***)
Tây Tiến ( trong tập thơ Mây Đầu ô của Quang Dũng
(**)
Để phân biệt với phụ nữ Thái đen đầu đội
khăn Piêu
thơ TRÚC THANH TÂM
NỬA
DÒNG SÔNG NƯỚC MẮT
Anh bên nầy Hiền Lương
Em bên kia Bến Hải
Đất nước mình nhiễu nhương
Anh bên nầy Hiền Lương
Em bên kia Bến Hải
Đất nước mình nhiễu nhương
Chiều
co ro nằm ngủ
Trên
đồi dựng máu tươi
Những hình hài ung mủ
Dân ta còn lầm than
Một quê hương nhược tiểu
Ôi, những vành khăn tang
Hỏa châu vàng ánh mắt
Mẹ nhỏ giọt lệ trần
Nghẹn ngào từng tiếng nấc
Những hình hài ung mủ
Dân ta còn lầm than
Một quê hương nhược tiểu
Ôi, những vành khăn tang
Hỏa châu vàng ánh mắt
Mẹ nhỏ giọt lệ trần
Nghẹn ngào từng tiếng nấc
Đời
còn lắm trái ngang
Vĩ tuyến sầu vạn cổ
Trong hình hài Việt Nam !
Vĩ tuyến sầu vạn cổ
Trong hình hài Việt Nam !
Tây Đô, 1968
BA
MƯƠI NĂM, BIỀN BIỆT CÀ MAU
Hơn
ba mươi năm, biền biệt Cà Mau
Bến tàu đó, em biết còn chốn cũ
Mái trường tỉnh tôi chưa lần được học
Rồi chiến tranh, từ đó cách xa mình !
Bến tàu đó, em biết còn chốn cũ
Mái trường tỉnh tôi chưa lần được học
Rồi chiến tranh, từ đó cách xa mình !
Nước nổi nơi nầy, nhớ gió U Minh
Điên điển bông vàng nhớ tràm bông trắng
Mắm Châu Đốc hương vị còn sâu đậm
Than đước Cà Mau âm ấm nỗi lòng !
Hơn ba mươi năm, dấu bụi mù tăm
Nhưng dĩ vãng vẫn còn trong hơi thở
Cầu quay đó cũng một lần bỡ ngỡ
Mắt nhìn nhau, thương nhớ đến bây giờ !
Cà Mau em, là nét đẹp trong thơ
Châu Đốc tôi, dòng phù sa bồi mãi
Có thổn thức mới thấy lòng trống trải
Có xa quê mới thấu hiểu bao điều !
Châu
Đốc, 1989
Monday, March 4, 2013
thơ H Ả I P H Ư Ơ N G
-
L ụ c B á t C h o Q u e e n
Queen ơita thưởng thứcembên trênbên dướihai bênbên nàocả hồn xáctrộn chiêm baocả xưasau nữalạc vào thiên thu .
Bởi vìtrời đã sương mùđất ơiđất hẹntrùng tu địa đàng .
Một ngàynhật thực sáng trăngthơ ta nguyệt thựcđêm vànghồng nhan .
Queen ơita ở với nàngmột thiên thu vớirộn ràngđời nhau .
Bức tranh tươi róisắc màulà hồn biển đãruộng dâuxanh rì .
Khi ở Sillicon ValleyTháng giêng 2013H A I P H Ư Ơ N G
m ù a t h u h o a v à n g *cho Queen
chúa nhật này trẫm không đến đượckhanh có buồn lên mắt lên môitrời nắng phía hiên trường nội trúcó hanh vàng lên mái tóc rẽ đường ngôi
xin mượn hồn thu cho hoa cúc nởcốc nước đầy làm giếng mắt trongcần chút thời gian kết khung cửa sổcho hoa vàng cho hoa vàng cùng thi sĩ yêu nhau
chúa nhật này anh không đến đượcxin đừng buồn mái tóc úp vômùa thu năm ni hoa vàng hơn trướctrời cho anh làm thi sĩ hát bi bô
lại muốn giận hờn anh nữa đó saođể nhớ để thương mái tóc úp vàolàm con gái vô tình thường kiêu hãnhthả xuân thì thời tiết mỏng bay cao
thôi để mai này anh sẽ đếnnăm ngón tay làm một dòng sôngnăm dòng sông xuôi về một bếnxuôi về xuôi về một ngả biển mênh môngthôi để mai này anh đếnanh đến rồi hờn giận cũng như không
chúa nhật này trẫm không đến đượckhanh có buồn lên mắt lên môimùa thu năm ni hoa vàng hơn trướckhanh làm hoàng hậu không lên ngôi
*trích tập thơ Tuổi Tình Yêu của Hải Phương ,Queen xuất bản ,Saigon VN ,1964Tập thơ này thi sĩ Thành Tôn mua ở chợ sách saigon , Thành Tôn viết :‘’Sau quốc nạn đốt sách , bị bỏ tù về , sưu tập lại 9 / 9 /1986Thân tặng lại tác giả Hải Phương, ở Mỹ quốc 10 /18 /2011 ‘’
H Ả I P H Ư Ơ N G
Sunday, March 3, 2013
TRẦN VẤN LỆ * đường lên núi rừng chập chùng
Đầu
năm, nắng mới, cảnh quan đâu cũng đẹp. Biển
đẹp, Núi đẹp. Sông đẹp. Cả những con
đường mòn cũng đẹp. Chúng ta đi xa hơn những nơi
đang trước mặt chúng ta, được không? Được chớ
gì! Ai cấm mình đâu nào…
Bạn
nhé, chúng ta đi lên núi chơi! Đường lên núi rừng
chập chùng…Chập Chùng hay Trập Trùng? Chập Chùng
nghe hay hơn. Cái gì hay, đẹp, chúng ta nên hưởng,
trăm năm nào có bao lăm! Nhưng mà Kho Tàng Thiên Nhiên
vô tận, không ai giành giật hết của ai…Chúng ta không
nên ích kỷ!
Mời
bạn đọc bài thơ này…coi như bước khởi hành:
Vợ
Chồng Đi Chợ Xuân
Núi
rừng xa mờ xanh với xanh
Đường
non như lưng rồng uốn khúc
Vợ
ngồi lưng ngựa vợ đi trước
Chồng
nắm đuôi ngựa chân theo nhanh.
Vợ
chồng xuống núi đi chợ Xuân
Sương
sớm còn che như lấp lối
Vó
ngựa cuốn nhanh chồng ríu chân
Vợ
thương dừng cương ghìm ngựa lại.
Một
dãy rừng mai hoa ướt sương
Đường
Xuân đưa vợ chồng xuống núi
Váy
vợ phồng căng đầy gió đồng
Đuổi
theo vó ngựa mỏi chân chồng.
Vào
chợ đổi hang mua vải muối
Mắt
đưa nhìn quanh thấy rượu nồng
Chồng
ghé vào hang say mấy chén
Vợ
bán mua xong dắt ngựa đến.
Thấy
chồng dim mắt cười nắng Xuân
Ngã
nón tu lờ đưa chồng gối
Xòe
quạt bên chồng vợ phe phẩy
Chen
chân trong chợ người đi lại.
Rực
rỡ đường thêu vòng bạc rung
Gió
mát nằm lâu chưa hết say
Nâng
chồng lên ngựa chất hang đầy
Vợ
đi thong thả theo sau ngựa…
Về
núi tay cương chồng lỏng tay…
Bài
thơ trên, Vợ Chồng Đi Chợ Xuân, là một bài thơ rất
dễ thương của Bàng Sĩ Nguyên, quê Hà Nam, sinh năm 1925,
không biết hiện nay, năm 2013, còn sống hay đã khuất.
Dù gì thì bài thơ này sẽ còn mãi…Bàng Sĩ Nguyên là
một người tài hoa, vừa là thi sĩ (đã có bảy tập
thơ), vừa là văn sĩ (đã có hai truyện dài, ba truyện
ngắn), vừa là họa sĩ (có hơn một lần triển lãm
tranh). Tôi không “rành” lai lịch của Bàng Sĩ
Nguyên, nhưng tôi biết Bàng Sĩ Nguyên là người miền Bắc
của nước Việt Nam mình, Bàng Sĩ Nguyên sinh hoạt trong
vùng cai trị của chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, đối đầu với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa bị xóa sổ,
những tác phẩm miền Nam người miền Bắc mới có và
ngược lại những gì người miền Bắc làm ra xinh xắn
thì người miền Nam tiếp thu vui vẻ. Tôi gọi bài
thơ Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên là một
bài thơ xinh xắn. Nó không chỉ là trang chữ mà nó
còn là bức tranh. Chữ là tiếng nói, là sự thuyết
mình lọt vào lỗ tai người. Tranh…không cần mở
mắt nhìn mà thấy khi mình nhắm mắt và tưởng tượng,
thì đó cũng là một bức tranh sống động vậy. Dân
tộc mình, Kinh hay Thượng, người Miền Xuôi hay Mạn
Ngược, Bắc hay Nam…đều “ấn tượng” cả!
Sẵn
đây tôi cũng xin có chút ý kiến về Người Kinh / Người
Thượng, Người Miền Xuôi / Người Mạn Ngược.
Người Kinh / Người Thượng là cách phân biệt đồng bào
mình ở miền Trung, nơi đặt Kinh Đô Triều Nguyễn, Thần
Kinh / Huế. Thần Kinh là Kinh Đô Đẹp Đẽ, các Vua
triều Nguyễn ở đây từ năm 1802 khi vua Gia Long lên
Ngôi. Chúa Nguyễn còn lại để nối dõi duy nhất
sau cuộc chiến Trịnh Nguyễn Phân Tranh là Nguyễn Phúc
Ánh.
Cuộc
chiến Phân Tranh kéo dài suốt 400 năm, cậu bé Nguyễn
Phúc Ánh là người của Tộc Nguyễn duy nhất sống sót
(Phúc chớ không phải Phước nha, Phúc và Phước viết và
nói khác nhau để phân biệt Vua và Dân – dân nói
nói với nhau thì Phước, khi nói về Vua phải là Phúc,
một cách kỵ húy). Chúa Nguyễn Phúc Ánh vừa chạy
trốn quân Tây Sơn, vừa mở mang bờ cõi. Vào Ninh
Thuận, Bình Thuận trà trộn với người Chiêm Thành rồi
lấn lướt họ, đồng hóa họ, gọi họ là Người Thổ,
tức Dân Bản Thổ, Bản Địa, không phá hủy phong tục
và truyền thống của họ. Cũng thế khi vào Nam, qua
Biên Hòa, xuống Định Tường, lên Châu Đốc, ra Sóc
Trăng, Trà Vinh…hòa đồng với người Thủy Chân Lạp
(một dân tộc anh em / cùng huyết thống với dân tộc
Thượng Chân Lạp, tức là người Khờ Me trên vùng cao
(ngày xưa ta gọi Cambodge là xứ Cao Mên rồi Cao Miên, nằm
trong ý nghĩa của chữ Cao Man – bọn rợ ở vùng cao, Man
là Man Di). Vua Sihanouk của Cambodge (tên nước do Thực
Dân Pháp đặt) gửi văn thư ngoại giao yêu cầu Tổng
Thống Ngô Đình Diệm phải nói đúng tên nước láng
giềng của Việt Nam Cộng Hòa là Cambodge, không được
dùng chữ Cao Miên nữa; năm 1975, Pol Pot bỏ chữ Cambodge
đổi lại là Kampuchea, thời Hunsen bây giờ thì nước này
tên là Cambodia viết theo lối Mỹ) Người Miên ở
trên nước ta không thích về sống với người vùng cao,
họ nhận là Người Thổ như người mình gọi họ và bây
giờ thì là Người Khờ Me Kờ Rôm, coi như một Bộ Tộc
Miên có truyền thống và tập tục địa phương riêng như
hồi xưa…. Các Vua Nguyễn không chủ trương đanh
phá để cướp đất của các dân tộc miền núi dãy
Trường Sơn, họ, những dân tộc Gia Rai, Kờ Ho, Mờ Nông,
Mạ, Chu Ru, Sì Tiêng… tự động xin triều đình Huế cho
họ sống bình yên và triều cống hàng năm. Vua
Nguyễn, kề từ Minh Mạng đồng ý, và gọi họ là Người
Thượng – dân trên núi, phân biệt với dân đồng bằng
nằm trong quản lý của triều đình thì gọi là Người
Kinh. Ở miền Bắc, dân tộc nào sống yên theo dân
tộc đó, tuyệt nhiên không có xích mích gì. Người
đồng bằng, tức vùng châu thổ sông Hồng, ở miền xuôi
thì là Người Miền Xuôi. Đi ngược lên thì gặp
người Mèo (nay là Hờ Mông), người Thái, người
Dao…Riêng người Nùng, gốc là người Tàu (bọn Rợ Hán
phía Bắc nay tự xưng là Trung Quốc) đói quá tràn xuống
đất nước ta, sống riêng và dân ta gọi là Người
Nùng, nay gọi là Người Tày, bọn này có thời đánh phá
triều Nguyễn, thời Minh Mạng, Tự Đức, cầm đầu là
Nông Văn Vân, về thời hậu Tự Đức thì có Giặc Cờ
Đen do Lưu Vĩnh Phúc cầm đầu. Dân đồng bằng miền
Bắc, đông nhất thì gọi là Người Miền Xuôi, theo triều
đình Huế, không gọi là Người Kinh. Người sống
trên miền núi, Trung Du và Thượng Du thì được gọi là
Người Mạn Ngược. Người Pháp thì gọi họ là
Người Thiểu Số. Hiện nay tất cả dân sinh sống
trên lãnh thổ Việt Nam thì đều là Người Việt Nam, tuy
nhiên mỗi miền Người có Sinh Hoạt Riêng tùy theo Mùa
Màng và Lễ Hội, chính quyền Trung Ương không can thiếp
mà chỉ giúp đỡ, khuyến khích…hay chấp nhận cho qua
biền! Cũng là một cách “mị dân”!
Nhân
“tào lao xịt bộp” chỗ này, tôi cũng muốn bày tỏ
thêm cái chuyện Lạc Long Quân buộc vợ là Âu Cơ chia bầy
con, nửa theo Lạc Long Quân ra biển, nửa theo Âu Cơ lên
núi. Bầy con theo Lạc Long Quân thật lộn xộn, nay
hòa mai nghịch, chiến tranh triền miên, trong khi bầy con
theo Âu Cơ thì hòa thuận, ai lo phận nấy, không tranh
giành cãi cọ (ngoại trừ Người Nùng gốc gác bền
Tàu). Người mình rất yêu kính bà Âu Cơ, từng gọi
Bà là Bà Chúa Ngàn, lạ thay Bà Hiền Từ thế lại không
được sử sách ghi là Đức Mẹ Âu Cơ, chúng ta khiếp
nhược quá ư? Chúng ta chỉ gọi mẹ Maria, mẹ của Chúa
Giê Su là Đức Mẹ thôi, chúng ta Vọng Ngoại đến thế
à? Ngộ nhỉ!
Hiện
tại, theo thống kê thì dân tộc ta đang sống chung nhau
gồm có sáu mươi ba Dân Tộc, thế là gần đủ Một Trăm
tức Nòi Bách Việt. Chúng ta qua Lào, qua Thái, lên
Miến Điện xuống Malaysia, sang Indonesia…vẫn thấy có
người nói một phần nào tiếng Việt và phong tục hao
hao người Việt, hỏi ra thì tổ tiên họ di cư từ xưa,
từ trên xuống, từ Tây qua…Vậy là…ta có đủ Một
Trăm Dân Tộc rồi nhé!
Tôi
có hồi ngạc nhiên, thời chính phủ Ngô Đình Diệm, thấy
một phái đoàn người Xiêm, tức là Thái Lan, sang thăm
Việt Nam gọi là Giao Hảo, ghé Tùng Nghĩa, phía Nam cách
Đà Lạt 27 cây số, nơi tập trung người Thái di cư nắm
1954, nói chuyện với người mình thật rôm rả bằng
tiếng Thái và cât cho đồng bào mình ở đây một ngôi
chùa, nay vẫn còn, gọi là Chùa Thái. Té ra người
Thái ở Thái Lan và người Thái ở Việt Nam cùng một
tiếng nói, là cùng “Một Mẹ Mà Ra”! Dễ thương
ghê nơi phải không bạn?
*
Thôi,
dài dòng quá không khéo lòng thòng lượt bược, tôi trở
lại bài thơ hồi nãy…Bài Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của
Bàng Sĩ Nguyên là một Bài Thơ Hay. Hay ở chỗ nó
không phải là bài thơ Rất Thơ (như bài Nguyệt Cầm của
Xuân Diệu hay bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm) mà nó
hay ở chỗ Mộc Mạc, Dung Dị - thấy sao thì nói vậy,
nghĩ sao thì tỏ bày như vậy, không màu mè, không đẽo
gọt. Đây là một bài-thơ-hình-ảnh. Nó là một
Cảnh Sinh Hoạt hơn là bài ca du dương…Nó cho ta thấy
cách sinh hoạt của đồng bào mạn ngược ra sao, cái hiền
hòa của họ và cái Tình Yêu Tuyệt Vời…không ảnh
hưởng game hay computer chút nào…
Một
bài thơ lồng khung một Thiên Đường Hạ Giới, ta tu ngàn
đời chắc chi có được (bởi ta không có Tình Yêu Chân
Chính, không có Niềm Mơ Ước Hồn Nhiên). Cũng sợ
lắm nếu mai kia mốt nọ mà trên núi non ta có những phi
trường, có những bến xe, và đường núi có nhiều xa
lộ, liệu cái Văn Minh Miệt Vườn có còn không đây?
Cái cảnh Chồng thương Vợ để vợ trên ngựa kẻo vợ
mỏi chân, cái cảnh Vợ thương Chồng phe phẩy quạt cho
bay hơi rượu cho chồng ngủ ngon, tìm đâu ở Người Kinh
nhỉ! Ở Người Kinh: gây lộn và gây lộn!
Cãi nhau và cãi nhau! Có theo đạo Thiên Chúa thì cũng
cứ ly dị đếch sợ…ông Vua nào! Do đó mà chiến
tranh và chiến tranh! Do đó mà chỗ nào cũng là chốn
Gió Tanh Mưa Máu!
Bàng
Sĩ Nguyên làm thơ tưng tửng thế mà không chê được.
Có lẽ nhà thơ để hết cái tình mình vào thơ? Để
hết tấm lòng mình vào thơ? Ôi Thơ là một cái Nhà
Kho chưa cái Tình và Tấm Lòng người ta…đã là nên Thơ
rồi.
Tôi
“khen” bài thơ của Bàng Sĩ Nguyên, mong bạn đọc đọc
bài tôi viết đây cũng nên nhất trí cho tôi vui với.
Đừng đọc bài thơ của Bàng Sĩ Nguyên rồi bĩu môi,
miệng nhai ngấu nghiến mấy câu của Trần Thy Nhã Ca
nhen:
Đời
sống ôi buồn như cỏ khô
Này
anh, em cũng tựa sương mù
Khi
về tay nhỏ che trời rét
Nghe
giá băng mòn hết tuổi thơ!
*
Tôi
hoàn toàn không bình phẩm bài thơ Vợ Chồng Đi Chợ Xuân
của Bàng Sĩ Nguyên theo cách của nhà phê bình nào.
Bởi bài thơ đó quá dễ thương, tôi muốn nhân đây mời
bạn đọc thêm vài bài khác…để thấy thơ nói về rừng
núi rất là đáng đọc. Đường lên núi rừng quả
thật chập chùng…
Đây,
hai bài “duy nhất” của Đỗ Hữu. Gọi là Duy Nhất
vì có-một-không-còn-hai…lần để thấy Đỗ Hữu khoe
thêm thơ của ông. Đỗ Hữu chết rồi, chắc chết
đâu hồi cuối thập niên 1940 của thế kỷ trước. trong
cuộc chiến tranh Đông Dương… nếu Bùi Giáng không gom
nhặt được thì chúng ta mất đi hai bài thơ rất là dễ
thương!
Đây
này, thưa bạn đọc:
Sầu
Ai Lao
Đỗ
Hữu
Đã lâu trăng cứ vàng hiu hắt
Mây
cứ sầu tuôn núi võ vàng
Lá
vẫn phai chàm trên sắc áo
Mưa
nguồn thác đổ đá mù sương.
Giữa
ngày lạc lõng trên rừng rậm
Với
nắng bâng khuâng mây thuở nào
Với
núi xanh lơ chiều tím nhạt
Mây
trời bàng bạc sầu Ai Lao.
Lưng
đèo quán gió mờ hun hút
Thôn
bản nằm trơ dưới nắng chiều
Tai
vẫn nghe đều dòng thác đổ
Người
ơi, thương nhớ biết bao nhiêu!
Ở
đây hơi đá chiều vây khắp
Khép
chặt mình tôi giữa núi rừng
Buồn
quá ngày đi đêm trở lại
Hoàng
hôn hoa bản phấn rưng rưng.
Người
có theo tôi lên dốc nắng
Nhìn
xem hoa rải sắc trên đường
Chiều
nay gió thổi buồn ghê lắm
Lá
đổ sau chân một lối vàng.---
Và…
Chiều
Việt Bắc
Đỗ
Hữu
Nắng
xuống phương nào người thấy không?
Mà
đây chiều tím rụng song song
Vàng
tuôn mấy lối ngày thu quạnh
Ai
liệm hoàng hôn kín mắt trong?
Khói
thuốc lên mờ xanh bóng ai
Phương
xa chiều xuống ngút sông dài
Đường
kia có phải sầu xưa đọng?
Trở
bước hoa lau trắng ngập đồi.
Con
đường đất đỏ mờ sau bản
Thung
lũng vàng tơ nắng trở chiều
Núi
biếc chập chùng vây ải lạnh
Dặm
về lá đổ phận tàn xiêu…
Rừng
núi âm u chiều Việt Bắc
Chầy
ngày lạc bước ai ngồi than
Buồn
xưa chiều đọng sầu lau lách
Chòi
cũ nằm nghe gió dặm trường…
*
Hai
bài thơ của Đỗ Hữu không dính dấp gì tới bài Vợ
Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên, sở dĩ tôi đưa
vào đây là…đổi món ăn tinh thần đãi bạn đấy mờ.
Nhưng bài nào thì cũng là Đường Lên Núi Rừng Chập
Chùng…Những ngày Tết sẽ không bao giờ chấm dứt khi
chúng ta cứ còn gần gũi nhau! Bạn ơi, hãy nhìn ra
bầu trời xem kìa, nắng Xuân rất đẹp. Những bài
thơ tôi mời bạn hôm nay với mỹ ý của tôi muốn bạn
thấy tôi là người-có-ích ít nhất cũng cho một thiểu
số người-còn-yêu thơ!
Hãy
mở lòng ra, ta có Tết. Hãy mở lòng ra, ta với Xuân!
Trần
Vấn Lệ
Nguyễn Văn Lục * Đã một thời như thế: Hiện tượng Phạm Công Thiện
Đỗ Hồng Ngọc * Thư gởi bạn xa xôi
Tình
cờ thôi, Phan Đổng Lý (PĐL) ở Melbourne gởi về tặng
mình một bài thơ, có tựa là Hành Y (viết cho Đỗ
Hồng Ngọc) trùng với ngày Thầy thuốc Việt Nam.
Trùng hợp vì PĐL không hề biết ở VN có một ngày Thầy
thuốc như thế. PĐL là bạn bọn mình từ 60 năm về
trước, lúc cùng vào đệ thất (lớp 6) Phan Bội Châu
Phan Thiết- À, mà chưa, mới 59 năm thôi, vì đó là năm
1954- Không biết PĐL đã “gieo trồng” mầm thơ thế nào
mà bây giờ tuổi trên 70 bỗng nổi hứng làm thơ “vịnh”
bạn bè, mà bài nào cũng… hay, cũng bộc lộ “bản sắc”
của từng đứa!
Phan
Đổng Lý có bài thơ “vịnh” Phan Bá Thụy Dương chỉ
bằng vài nét chấm phá đủ cho thấy một Phan Bá Thụy
Dương khinh bạc, ngang tàng, tài hoa:
… Trích
tiên tại thế, vấy bụi trần hụp lặn kiếp đam mê!
Nay
quỳnh tương đối ẩm, mai hương sắc giao kề
Lỡ
ngồi ôm góc núi, mỉm môi cười nhân thế
Ánh
dương quang rực rỡ, sao lại lạc đường về?
…………..
Rồi
bài thơ PĐL “vịnh” Trần Vấn Lệ, thấy ngay một
chàng thi sĩ hào hoa phong nhã, “mơ theo trăng và vơ vẩn
cùng mây”:
………..
Ta
vốn mịt mờ đường về bến cũ
Nên
thuyền tình lơ lửng mãi dòng sông
Ta
nào phải kẽ thả mồi bắt bóng
Mệnh
an bài nên tình kiếp long đong
Và
bài thứ ba, dành cho bạn bè, PĐL ưu tiên “viết cho Đỗ
Hồng Ngọc”. Nói ưu tiên vì các bạn người ở Mỹ,
người ở Úc, thỉnh thoảng gặp nhau, đầu này, với Đỗ
Hồng Ngọc, đã gần 60 năm chưa hề biết mặt, thế mà
“thần giao cách cảm”, đọc văn thơ thấy rõ con người.
Có lẽ PĐL nhớ Đỗ Hồng Ngọc qua tập thơ “Thư cho bé
sơ sinh và những bài thơ khác” mà Trần Vấn Lệ bảo
khi đọc “…vui vì nghe trái tim mình đập”. PĐL nghĩ
đến cuộc đời “hành y” của người bạn thầy thuốc
của mình từ y đạo vào tâm đạo. Lấy
đạo tâm làm thế đạo tu thân
/ Mang y đạo vào luân
hồi chuyển thế .
HÀNH
Y
(Viết
cho Đỗ Hồng Ngọc)
Là
một kẻ phụng thừa y đạo
Mang
huyết tâm trả nợ nhân sinh
Nhìn
thai nhi tượng hình trong bụng mẹ
Ta
thấy được gì trong cõi u minh
Tiếng
u oa, em chừng vừa tỉnh giấc
Mang
vào đời chút âm vọng bi ai
Mắt
ngấn lệ em nhìn quanh ngơ ngác
Nợ
tiền thân có trĩu nặng bờ vai
Ta
nhìn em lòng bâng khuâng thương cảm
Mai
đây rồi xuôi ngược biết về đâu
Đường
vạn lý ta chúc em nhẹ bước
Có
hoa vàng nắng rải, ngợp trăng sao
Ta
nào phải kẻ bi quan yếm thế
Chỉ
xót thương cho tuổi trẻ bạc phần
Vòng
tay ta đã bao lần ôm ấp
Những
mãnh đời, ôi, ngắn ngủi mệnh căn!
Ta
chọn hành y, cứu nhân độ thế
Ta
độ được gì, đã cứu được ai!
Đêm
chập chờn ta nằm đợi ban mai
Ngày
thoi thóp ta lại chờ đêm xuống
Ta
đã lớn lên giữa thời lửa loạn
Gió
bụi mịt mù Nam Bắc phân ranh
Tim
quặn thắt trước cảnh đời tang tóc
Hồn
đớn đau cho thân phận Lạc Hồng
Ta
vẫn biết hữu sinh thì hữu diệt
Nhưng
đầu xanh nào đã tội tình gì
Một
chữ Nghiệp có vơi niềm oán khí
Một
hồi Kinh có dịu nỗi sầu bi
Ta
đã một lần rong chơi địa phủ
Cầu
Nại Hà, nhìn sóng gợn lăn tăn
Tâm
tĩnh lặng giữa hai bờ sinh tử
Hồn
nổi trôi theo con nước bập bềnh
Một
kiếp nhân sinh chưa tròn cuộc nợ
Ngày
tiếp ngày cười khóc với thế nhân
Lấy
đạo tâm làm thế đạo tu thân
Mang
y đạo vào luân hồi chuyển thế .
Phan
Đổng-Lý
Melbourne
Feb. 2013
PĐL
quá dễ thương phải không. Xa xôi ngàn dặm vậy mà hiểu
bạn mình như đi… guốc! Nhưng mình ấn tượng nhất với
PĐL là cái tính bộc trực, đôi khi có vẻ như “ngổ
ngáo” mà trong lòng tràn đầy cảm xúc của anh. PĐL có
lần thư cho Phan Bá Thụy Dương kể chuyện hồi đi học,
anh rất ghét thầy Hiệu trưởng LT “ gặp mặt thì làm
ngơ” nhưng với cô con gái của Thầy thì anh “gặp mặt
mê mẩn ngó theo”. Cái đó anh gọi là “Thù cha mà không
ghét con”! Cô bé đó vào trường sau bọn mình vài năm
thì phải, nay chắc cũng đã 70 nhưng kiểu này gặp lại,
có khi PĐL vẫn còn ngó theo mải miết chớ chẳng chơi!
Phan Bá Thụy Dương còn kể cho mình và Huỳnh Ngọc Hùng
nghe chuyện hồi đó mỗi lần chào cờ hát bài “Suy tôn”
thì PĐL đã sửa lời thành: “PĐL, PĐL muôn năm!” rồi
còn hát to lên nên bị thầy bắt phạt!…
*****
Chiều
qua ghé thăm nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, con cụ Ưng Bình
Thúc Dạ Thị. Nhà thơ Hỷ Khương đột nhiên bị điếc
tai phải, không còn nghe gì được nữa, phải đi
bệnh viện Tai Mũi Họng truyền thuốc mỗi ngày, lại vừa
châm cứu, kết hợp đông tây y!
Mình
đùa cho chị vui: Trời cho mình có 2 tai, điếc tai phải
còn tai trái. Vui lên mới phải chứ! Ai nói gì dễ ghét
thì đưa tai phải ra nghe. Ai nói gì dễ thương thì đưa
tai trái ra nghe. Càng hay chớ sao!
Tôn
Nữ Hỷ Khương có nhiều thơ, nhưng mấy câu này thì được
rất nhiều người nhớ:
Còn
gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện
đời như nước chảy hoa trôi
Lợi
danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ
có tình thương để lại đời!
Phải,
chỉ có tình thương để lại đời thôi. Và bạn bè mà
còn gặp nhau, dù trên văn thơ cũng đã tốt quá rồi phải
không?
Hẹn
thư sau,
Đỗ
Hồng Ngọc.
Subscribe to:
Posts (Atom)