văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Tuesday, March 5, 2013

Kinh Dương Vương * Những Giọt Nước

 
Người thanh niên dần dần hồi tỉnh sau khi ngất đi vì bị một trận đòn hội chợ bằng dùi cui và báng súng. Anh mở hé cặp mắt nặng trĩu sưng húp, trước mắt có một cái bóng chờn vờn che khuất, hơi thở nóng của một người nào đó phả nhè nhẹ và những sợi tóc dài lòa xòa trên mặt làm anh nhột nhạt.
- Minh tỉnh rồi! Tiếng người con gái thốt lên vui mừng. Một bàn tay mịn, mát rượi đặt lên làn trán nóng hâm hấp của anh.
- Chị Lan hả? Gã liếm làn môi khô, cố cất tiếng hỏi. Còn mấy người kia đâu? Anh thốt nhớ đến các bạn.
- Ở cả đây, trong khám, người con gái tên Lan đáp, giọng đượm vẻ bởn cợt. Bị hốt cả rồi.
Người thanh niên bật ngay dậy, nhưng một cơn nhức đầu khủng khiếp vật ngã anh trở lại. Anh có cảm tưởng bị hai gọng kìm nhọn kẹp chặt vào hai bên thái dương. Đầu anh giật lên từng cơn đau buốt làm mắt anh đổ lửa.
- Minh nằm xuống nghỉ đi! Người con gái vội đỡ cho anh từ từ nằm xuống. “Bị hốt cả rồi”, anh nghe mơ hồ lời người bạn gái nói, nước mắt bỗng trào ra khỏi hai khóe mắt nhắm.
Lúc sau anh lại mở mắt ra.
- Minh thấy trong người thế nào? Vẫn giọng trong trẻo dịu dàng ấm áp của người con gái.
- Cám ơn chị, đã khá. Người thanh niên trả lời sau một giây im lặng. Chưa chết đâu chị, đừng sợ. Anh trở mình ra thấy toàn thân đau như dần.

Anh nằm trên nền xi măng lạnh ẩm, một mùi hôi thối xông lên trong căn phòng tối mờ. Khi đôi mắt anh quen  dần với bóng tối, nhận ra gương mặt đẹp của cô bạn gái, nhem nhuốc và mái tóc rũ rượi, nhưng đôi mắt vẫn trong sáng vẻ ngạo nghễ, đang trìu mến nhìn anh lo âu. Hai vành môi đỏ thắm hơi khô, nhưng hình như đang mỉm cười.
- Minh bị ngất đi có hơn hai giờ rồi. Nàng nói. Họ xúm lại đánh Minh dữ quá. Đủ các loại cớm chìm nổi. Minh vừa ngất đi thì hàng ngũ cũng tan rã, cả bọn bị hốt vất lên xe GMC.
- Cho tôi ngồi lên – Anh nói. Người con gái khó khăn xê dịch đỡ anh tựa vào vách. Anh nghe tiếng kim khí va chạm cùng phòng, hai chân anh không nhúc nhích được – Anh đưa tay vuốt ve chiếc còng sắt lạnh lẽo.
- Còn chị  Lan? Anh chỉ đưa mắt hỏi.
- Cũng thế! Người con gái mỉm cười đáp. Thì cùng là tội đồ mà! Nàng thốt cười lên nho nhỏ. Minh cũng cười.

Tuổi trẻ thật đáng yêu biết mấy. Nghịch cảnh không làm nản chí họ được vì lòng họ tràn đầy những ước vọng tinh khiết. Với bầu máu nóng, họ lao vào hành động. Chết cho lý tưởng không nao núng, có một niềm hân hoan và nên thơ. Trái tim luôn giữ niềm hy vọng chói sáng. Trái tim chứa những búng máu tươi đỏ thắm đọng lại thành hồng ngọc.

Anh nhìn những người bạn đang ngủ trên bậc xi măng cao hơn, họ ngủ say bình thản như đang nằm trong chăn ấm dưới mái gia đình. Một niềm thương yêu bao la lớn lên trong lòng anh.
“Bạo lực có  thể tiêu diệt  thể xác nhưng không  thể tiêu ý chí”. Anh thầm nghĩ. “Bạo lực sẽ nguội lạnh còn ý chí tuổi trẻ luôn luôn được nối tiếp nung nấu. Tuổi trẻ như măng rừng. Người ta có  thể đốn ngã những thân tre, nhưng rừng măng từ lòng đất vẫn tiếp tục mọc lên  không ngớt. Rừng măng tua tủa như rừng gươm.

“Tuổi trẻ như lửa, ý chí như gió lớn”. Lửa ngọn có  thể bị dập tắt, nhưng không  thể dập tắt lửa âm ỉ cháy trong muôn triệu trái tim trẻ. Và không  thể ngăn cho gió đừng thổi. Gió bất tận rẽ đưa lửa đi, thứ lửa của nhiệt huyết tiềm tàng, thiêu cháy rụi kim cương”...Trái tim anh bỗng đập mạnh. Máu chảy nhanh trong các huyết quản làm thân  thể anh trở nên ấm nóng.  Trước mắt anh lại hiện ra những gương mặt trẻ, mắt sáng ngời, lòng háo hức. Những đêm thức ròng rã đánh máy, quay ronéo, viết biểu ngữ. Những chữ Hòa bình – Tự do, cơm áo... được tô đậm nét trên nền vải trắng đỏ chói như viết bằng máu thơm đẹp tuyệt  vời... Đoàn người hăm hở kéo đi như một thác lũ, như cuồng lưu, sắp sửa quét sạch những rác rưới nhơ bẩn. Nhưng một bức tường đã chắn lối. Đoàn người quyết vượt qua bức tường kẽm gai, mặc cho những mũi gai nhọn đâm tuôn máu.

Những quái vật hình người mặt thú xuất hiện. Quái vật phun nọc độc mù mịt. Nọc độc làm cho những đôi mắt sáng chợt tối tăm. Nọc độc làm cho bao tử cồn cào, nôn mửa, rồi ngất xỉu. Nọc độc thấm ướt áo quần làm cho ngứa ngáy, lở da bỏng thịt. Đoàn quái vật tiến lên, những người trai trẻ bị chúng cắn, cấu xé chảy máu. Họ thất thế. Các quái vật  mang họ về sào huyệt.
Tất cả đã tỉnh dậy. Họ nhìn nhau, im lặng cười. Những nụ cười hồn hậu như lóe sáng trên những gương mặt thư sinh.
 Cánh cửa sắt nặng nề bỗng vụt mở. Ánh chiều tà dọi vào làm sáng hẳn căn phòng. Người thanh niên nhìn rõ quanh miệng lỗ tròn của hầm tiêu phân người khô đóng lớp dày mà với ánh sáng ít ỏi từ một lỗ vuông gần trần nhà soi vào không nhận ra được.
Gương mặt một người đàn ông ló vào.
- Đói chưa? Gã hỏi, giọng khô khan. Đó là cái giọng đặc biệt của người cầm dao đối với lũ cá trên thớt.
- Đói! Đói! Đói!  Những cái miệng tranh nhau nói lẫn với những cái miệng cười đùa cợt.
- Đợi! Y nói, rồi đóng mạnh cửa lại.
Một lúc những vắt cơm nguội nhét muối, nước lã được đưa vào qua một lỗ nhỏ ở cửa sắt. Tất cả ăn ngon lành. Họ hát đồng ca những “bài hát cho quê hương” vang dội trong phòng kín. Không phải tuổi trẻ, không mang bầu nhiệt huyết sôi sục, người ta không  thể cất lên tiếng hát hùng tráng đó. Tiếng hát sẽ bay qua bốn bức tường, vang tiếng tận mỗi trái tim những người trai trẻ khác. Và họ sẽ bắt giọng cất lên hát theo. 

Nửa đêm, trong khi mọi người đang ngủ, họ bị đánh thức dậy đột ngột. Ánh sáng một ngọn đèn chói chang như xỉa xói vào mắt họ.
- Ai tên Minh. Tiếng một người đàn ông hỏi.
- Có tôi. Người thanh niên lên tiếng.
- Ngồi riêng ra. Ai tên  Lan?
- Tôi. Người con gái đáp nho nhỏ, mắt dịu dàng nhìn thẳng vào mặt gã.
Gã đàn ông nhìn cô xoi mói, khèo một ngón tay làm dấu...
- Hai người theo tôi..
Những vòng sắt được đưa từ cổ chân lên cổ tay. Cánh cửa đóng ập lại. Một lúc, mở ra, đóng ập lại. Rồi lại được mở ra, nhiều lần. Lần cuối cùng khi cánh cửa nặng nề nằm im thì căn phòng hoàn toàn vắng vẻ.

Nhật ký của Minh.
Mãi sau này tôi mới nhận ra, thuở nhỏ tôi là một đứa trẻ độc ác. Nhưng sự độc ác đó, có lẽ cũng giống như hầu hết những đứa trẻ cùng tuổi khác vậy.

Khi đã khôn lớn, có lần tôi bắt được một con chuồn chuồn rất đẹp, đem cho đứa em nhỏ nhất nhà, yên trí rằng nó cũng nhận thấy như tôi là con vật đẹp đẽ dễ thương và nó sẽ nâng niu. Tôi hoàn toàn lầm lẫn về điều đó, tôi vừa quay đi nó đã tẩn mẩn bứt cánh, ngắt đầu, xé manh xé mún con vật ra, vất tứ tung. Thoạt tiên, tôi giận, định mắng nó một trận, nhưng bỗng nó ngước mắt lên nhìn tôi cười, nụ cười ngây thơ với đôi mắt long lanh đen láy như hai hạt nhãn nằm trên một nền trời xanh trong ngọc bích. Một tình cảm đối nghịch liền đến làm cho cơn giận tôi an đi. Đó là hình ảnh của tôi. Phải, chẳng khác tí chút nào.

Hành động đó đâu phải là tội ác, nó làm vậy mà nào biết rằng đó là một tội ác đối với con vật? Không  thể đem một qui tắc luân lý nào để kết tội nó. Không có một mục đích, một mưu toan, hay suy tính nào trong hành động đó mà chỉ dưới mắt tôi, mới có tính cách độc ác mà thôi. Nhắc lại nó không cảm thấy đó là tội ác, nó làm không chút hối hận, cứ trông nụ cười hồn nhiên và đôi mắt ngây thơ vô tội của nó thì biết.

Lúc nhỏ, tôi rất mê chơi đá cá thia thia. Tôi thường bỏ buổi học, giấu cặp sách trong các bụi rậm, lội xuống những đám ruộng cỏ mọc thấp, nước xấp xấp, đi “đâm” cá thia thia.

Cá thia thia là một giống cá nhỏ, có nhiều màu sắc xanh, đen,  đỏ, lục, biếc rất đẹp, đặc tính của nó rất hiếu chiến. Chúng thường ở chỗ nước đọng, trong những bụi cỏ kín đáo. Cá đực nhả bọt trắng phau như một bãi nước miếng đặc làm tổ cho cá cái đẻ vào đó. Cá đực ở lại giữ cho ca cái khỏi ăn và ở lại trông coi cho đến khi trứng nở, sau đó lại giữ cho đến lúc cá con rẽ bầy. Đi dậm cá chúng tôi chỉ cần tìm những nơi cá đóng bạt, dùng một cái rổ nhỏ xúc là bắt được những con cá đực, đem về nuôi trong những cái keo hay chai thủy tinh trắng. Cá ăn cung quăn hay trùn chỉ, nuôi khoảng ba bốn hôm thì cá sung sức, lên nước mun đen, trổ hết các mầu sắc lấp lánh và cá bắt đầu đá bóng trong gương soi. Có khi chỉ cần để một ngón tay vào cá cũng phùng mang, xòe đuôi, giương kỳ xấn tới tấn công rất hung hăng, có thể cáp độ đá được rồi.

Cá thia thia hiếu chiến một cách kỳ lạ. Có lẽ vì cái tánh hiếu chiến đó nên người ta mới lợi dụng xua chúng vào cuộc để mua vui trong trò đen đỏ. Chúng đá rất hăng, gặp nhau là sấn vào cắn nhau tơi bời hoa lá, cho đến khi có một con chạy hoặc “đâu mỏ”, rồi cả hai kiệt sức mà chết. Gặp trường hợp này cử tọa vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt và hai chủ cá cũng cảm thấy hảnh diện đã nuôi được một con cá anh dũng gan lì.

Những con thắng cuộc được đem về o bế, săn sóc kỹ lưỡng. Con nào thua tôi đem ra xử tội ngay.

Tôi không biết cái cách thức giết những con cá bại trận đáng thương một cách độc ác như vậy do ai bày ra, chỉ thấy mấy đứa trẻ khác làm, tôi bắt chước theo.

Tôi để những con cá “sọc dưa” vào một chai nhỏ đầy nước, đậy nút lại thật chặt, lấy một cái que nhỏ gõ vào chai. Gõ mạnh thì chỉ cần một hai lần là cá đã dẫy lên mà chết tốt, nhưng như tôi đã nói, tôi là một đứa trẻ độc ác, tôi thích kéo dài thời gian làm tình làm tội con vật, theo tôi, đã phạm một trọng tội: thua cuộc! Tôi chỉ gõ nhẹ nhẹ từng cái một, mỗi lần gõ con cá nhỏ như bị điện giật, nẩy lên lật ngữa ra, bất tỉnh một lúc. Tôi chờ cho cá tỉnh lại rồi gõ tiếp, tôi gõ như vậy có đến vài chục lần con cá mới chết hẳn. Như thế chưa hả, tôi còn lấy xác cá ra bắt đầu ngắt hết kỳ vi, đuôi, mọi thứ rồi bóp con cá giữa hai ngón tay đến nát nhầy ra.

Còn một lối giết cá khác nữa. Tôi cũng cho cá vào một chai nước đầy nong một ngón tay vào miệng rồi giật mạnh ra. Cách này tàn bạo hơn cách trước, tuy nhiên, con cá tránh được thời gian kéo dài sợ đau đớn. Nó chết ngay.

Khi ngón tay rút ra khỏi miệng chai, một tiếng “póc” nhỏ vang lên như tiếng mở rượu sâm banh. Con cá từ dưới đáy vọt lên miệng chai như một mũi tên, lật ngữa cái bụng trắng hếu ra tức nước, chết tươi. Sức ép của nước do cái rút tay tạo nên có khi làm vỡ cả cái chai nữa. Tôi nhìn xác nó, từ từ nhìn xuống, cảm thấy hả dạ.

Nhớ lại, tôi thấy quả thật tôi là một đứa trẻ quá sức độc ác khi tôi thưởng thức một cách thích thú sự quằn quại của con cá bị tôi hành hạ.

Bây giờ chính tôi đóng vai một con cá thua cuộc. Tôi không ngạc nhiên nhưng tôi cảm thấy một nỗi đau đớn về tinh thần.

Tội ác của tôi, dẫu sao cũng có thể tha thứ được, tôi chỉ hành hạ một con vật nhỏ bé thôi mà, lại ở trong lứa tuổi chưa có ý thức về lẽ thiện ác. Tôi không  thể tưởng tượng nổi nếu như tôi cùng là giống cá thia thia như chúng mà tôi lại có  thể hành hạ chúng như vậy. Còn tôi, tôi bị chính những đồng loại mình hành hạ. Chai nước đổi thành thùng phuy nước xà phòng và cái que nhỏ đổi ra một thanh gỗ to.

Làm sao có  thể để biện minh một cứu cánh coi như lý tưởng để hành hạ một cá nhân có những tư tưởng đối lập? Phương chi cứu cánh đó chỉ là một hoài vọng nông nổi – nếu không muốn nói là ngụy tạo và vụ lợi – và sự hành hạ thì hoàn toàn, có tính cách đàn áp tiếng nói đối lập chính đáng, phản kháng những tệ trạng hậu quả của những chính sách hư mê?

Dập tắt tiếng nói đối lập bằng bạo lực chỉ có  thể là phương thức của những chế độ độc tài quân phiệt. Những tay sai ngu xuẫn thì coi sự hành hạ đó như một sự trả thù, một sự bỏ tức vô lý ngây thơ – nếu nghĩ có một tí ti lý tưởng nào trong những hành vi tàn nhẫn của họ thì khôi hài hết sức – họ chỉ làm cho đã cái nư giận  của họ vì chúng tôi đã làm rầy rà họ – nếu không thì họ sẽ có thì giờ nhiều hơn để giải trí – không cư xử tàn nhẫn với tôi một cách vô tội vạ và vô trách nhiệm – đó chính là điều làm cho tôi cảm thấy một nỗi đau đớn sâu xa. Một nỗi hổ thẹn không kềm chế.


Nhật ký của  Lan

Anh yêu dấu,
Em sẽ kể anh nghe cơn ác mộng em vừa trải qua.
Em buồn rầu vùi mình vào lòng anh để xin anh tha lỗi. Mọi sự xảy ra, chắc chắn không do tự nơi em, trong một cơn ác mộng em hoàn toàn phải đóng vai thụ động. Em đau đớn về cả thể xác lẫn tâm hồn, và nỗi đau lớn lao quá đã làm cho lòng em trở nên dửng dưng một cách kỳ lạ, như em cam chịu phần số không may cùng với lòng khinh bỉ.

Hẳn là em còn nhớ rất rõ ràng điều nhục nhã xảy đến cho em, vậy mà lúc đó cũng như giờ đây, em không nhỏ ra được một giọt nước mắt. Nhưng anh đừng đột ngột hiện ra bên em mới được, vì nếu anh có mặt ngay bây giờ ở đây, thì em không  thể giữ mình được, dẫu em có bị trói bằng dây sắt, em cũng phá tan để lết tới bằng đầu gối ngã vào lòng anh mà khóc như dông bão, và em tưởng chừng nước mắt em hoàn toàn làm ngập lụt  ướt đẫm hai thân  thể chúng ta. Chúng ta sẽ tắm bằng nước mắt của em, để gột sạch những xúc động nhơ nhớp mà người ta đã gieo lên thân  thể em với ác tâm. Vâng, em sẽ khóc, khóc để tẩy uế.

Anh yêu,
Anh còn nhớ cây đào tiên với đôi quả kề nhau mới chín tới của em không? Cây đào hiếm hoi quí báu mà cha em đã công khó vun trồng, săn sóc, gìn giữ suốt hai mươi năm nay và từ khi em biết được sự quí giá chúng em cũng đã góp công gìn giữ. Hai quả đào tiên đó là của hồi môn duy nhất cha mẹ em để lại cho em. Em tâm niệm dành thức ăn quí hiếm đó cho anh, người chồng tương lai yêu dấu của em. Anh không biết được rằng em yêu anh đến chứng nào và em quyết rằng khi chúng ta đã thành chồng vợ em sẽ hiến dâng cho mình anh tận hưởng của hồi môn của em: đôi quả đào tiên đó. Em chỉ nhận sự sung sướng khi nhìn anh cấu vào làn da hồng căng rạn mịn màng của quả đào chất nước thơm ngọt ngào sẽ tiết ra thắm đượm từng kẻ răng anh, chan hòa lưỡi mềm mại của anh. Em chỉ tham dự vào khoái cảm của anh thụ động, nhưng em vô cùng sung sướng, sự sung sướng em tìm thấy trong đôi mắt nhắm ngây ngất của anh, ở những ngón tay tham lam quờ quạng run rẩy của anh.

Đó là lý do duy nhất vì sao em từ chối chưa trao tặng anh đôi quả đào tiên ấy để đến nỗi đôi khi em phải đau lòng vì sự buồn bã lộ ra trên gương mặt khả ái của anh. Vả chăng nếu anh biết rằng, có khi giá trị của nó chính ở nơi lòng mong mỏi, ở thời gian đằng đẵng của chờ mong mà mà không do phẩm chất của nó. Con người dẫu ở tuổi trưởng thành vẫn còn giữ tâm lý của trẻ con, chúng chỉ mơ ước những điều mới lạ. Và khi đã thỏa mãn rồi chúng không còn lòng ham muốn thèm thuồng nôn nả nữa.

Chớ có giận em, anh cũng chỉ là một trong những đứa trẻ con đó thôi. Nhìn thấy hai quả đào hồng mơn mởn treo bên cạnh, những chiếc lá xanh anh đem lòng mơ ước xôn xao, và sự mơ ước không được thỏa mãn sẽ tạo ra nơi anh một nỗi đam mê thắm thiết. Em cần lòng đam mê đó của anh. Anh có quyền nhìn ngắm nó thỏa thuê, nhưng em vẫn xin anh đừng vội ăn quá sớm. Nó chưa chín đủ. Có  thể nó sẽ có một vị chua, đắng, lúc ấy... lúc ấy anh sẽ đối với em ra sao? Chính vì thế, do lòng vị kỷ rất đáng yêu của giống cái, phần nào em đã cư xử với anh như đối với một đứa trẻ con. Để khuyến khích sự say mê của nó trong việc học, người lớn chỉ hứa cho nó sự sở hữu món đồ chơi nó thích, và nó cần phải đạt đến một mong muốn nào đó của họ thì nó mới được sở hữu trọn vẹn, hoặc thi đậu hoặc đứng đầu lớp. Ở anh chính là sự thử thách bằng thời gian.

Thực tế đã đánh đổ tất cả khi cơn ác mộng xảy đến. Tuy nhiên, thử thách đó vẫn còn đúng trên suy luận. Suy luận, đó là một chứng bệnh trầm trọng của thời đại chúng ta. Hành động theo một tiêu chuẩn đinh ninh do suy luận, bất chấp những hậu quả thảm khốc. Một loại hành động mù quáng đem cứu cánh biện minh cho phương tiện, trong khi cứu cánh, thực ra chỉ là sâu thẳm què quặt của cá nhân, chứ không phải của quần chúng. Em lầm lỗi, phải không anh? Và dù mọi sự đã xảy ra như vậy, đối với anh, trong suy luận của em, vẫn chưa có gì quan trọng lắm để khiến em không còn ao ước được gặp lại anh đâu. Ân hận đôi chút, nhưng em giống như những người có tinh thần bảo thủ – có lý tưởng chứ không vì quyền lợi – em nghĩ rằng em không nên có thái độ bi lụy quá đối với anh, dầu là em đã trải qua cơn ác mộng đó. Vì cơn ác mộng chỉ có  thể xúc phạm đến  thể xác em mà thôi, trong khi tình yêu của em dành cho anh đã cô đọng thành một khối kim cương sáng chói trong tâm hồn em không một sức nóng nào có  thể làm cho nó tan chảy – ngay khi sự phản bội của anh đi nữa, yêu anh là em đã sống đến mức của sự sống, chính là sự chết, vậy thì còn gì có  thể huỷ diệt được tình yêu đó nữa? – đó là khối ngưng đọng của tinh thần, của tình yêu tuyệt đối.
Anh yêu,
Anh biết không, gã đàn ông dơ dáy, bẩn thỉu, tàn nhẫn, có gương mặt mất hẳn nhân tính, đã dùng hơi độc làm em mê man, đưa em vào cơn mộng dữ, cưỡng bức em bằng một phương pháp hết sức lạ lùng.

Gã tàn bạo xé rách quần áo em ra với hai bàn tay gân guốc thô bạo của gã. Em trần truồng như nhộng trước mắt gã, đôi mắt đỏ ngầu rực lên ánh lửa thèm thuồng. Dưới tia nhìn bốc lửa của con quỷ dâm dục, da thịt em, tấm thân trong trắng hoàn toàn trống trải của em như bị muôn ngàn tia đèn pha cực sáng dọi vào thiêu cháy. Em cảm thấy một nỗi xấu hổ kinh tởm tột độ, cũng bằng như em bị bắt khỏa thân trên một khán đài mà bên dưới có hàng triệu tia mắt của những tên “”sa đích” rạo rực nhìn lên. Sự kinh tởm lẫn với lòng sợ hãi đã khiến cho làn da thịt của em mềm nhũn mát rượi dưới bàn tay êm ái nóng ấm của anh trở nên đông cứng lại giá buốt.

Ôi! Phải chi em là một người đã từng qua trong cảnh trần truồng trước mắt những con quỉ thèm thịt sống, anh ơi, em là một gái trinh, anh ơi, em chỉ là một trinh nữ. Và em rùng mình chờ đợi.

Gã đàn ông thô bỉ đứng bên cạnh gốc đào, đôi môi thâm dày ngậm chặt điếu thuốc cháy đỏ, mỉm cười nham hiểm. Gã nói với em bằng ngôn ngữ của chúng ta, nhưng em hoàn toàn không hiểu được gã muốn nói điều gì với những câu như phù chú đó. Và em im lặng. Sự im lặng của em như một thách thức làm cho gã tức giận. Nên thay vì đưa hai tay sần sùi mân mê hai quả đào như gã đã làm trước đó, thình lình gã bấu chặt lấy chúng. Những ngón tay cứng bóp mạnh làn da căng nỏn nà với hết sức lực, như tay kẻ sát nhân trên cổ tử thù.

Hành động đó đưa đến một hậu quả tích cực, gã thấu hiểu. Cây đào với đôi quả trong thời kỳ chín mọng, gã biết em quí đến chừng nào. Sự hành hạ từ núm cuống hai quả đào đến tận gốc rễ của thân cây sẽ làm cho em cực kỳ đau đớn em cắn chặt răng lại, chịu đựng không thốt lên một lời kêu than và mê man đi trong một thời gian ngắn. Khi em tỉnh dậy đã thấy gương mặt hắn úp vào hai quả đào, hai tay nâng lên sờ mó, hàm răng nhơ bợn của gã cắn nhẹ lên núm đào, và cái lưỡi rắn nhám tanh tưởi của gã lè ra, mơn trớn khắp trên làn da. Em phải thú thật với anh điều này vì nếu không sẽ là một xúc phạm lớn đối với anh và anh không sao tha thứ được.

Em phải nói cho anh biết, giữa hai quả đào và thể xác em có một liên hệ xúc cảm mật thiết, chỉ cần một hơi gió thoảng qua trên da thịt chúng cũng đủ làm cho em thoắt rùng mình – chiếc lưỡi nhám liếm lên cuống đào, rà khắp lên thân hai quả đào mà làn da cực kỳ nhạy bén đã tạo ra luồng điện êm ái nhưng mãnh liệt truyền vào thân  thể em, khiến thân xác em bủn rủn, em không làm chủ được cảm xúc thuần thể xác của mình nữa, trong giây lát xúc cảm do sự mơn trớn trên cơ thể, em quên mất sự dơ bẩn của cái miệng hôi hám nhờm gớm kia, buông mình vào cơn đê mê ngây ngất.

Nhưng như em đã nói, đó chỉ là xúc cảm tác động lên thân xác em. Không gây một ảnh hưởng tâm lý xấu xa nào đến phần tinh thần em, mà chính tinh thần mới là thành lũy cuối cùng của em. Thứ nhục cảm em thụ hưởng thụ động do gã đàn ông gieo trên thân  thể em giống như chất thuốc mê, và sự đê mê của em giống như sự mê man của một người bị đánh thuốc mê vậy – Em là nạn nhân, hoàn toàn không tham dự. Phương chi, đó chỉ là một cách thức thi hành độc thủ?
Một lúc, gã đàn ông ngẩng đầu lên khỏi hai quả đào nói với em bằng ngôn ngữ quen thuộc nhưng em không sao hiểu được điều gã nói.

Thoát ra khỏi cơn đê mê, em trố mắt nhìn gã trân trối như để nhận diện một con quái vật. Gã đốt thuốc, gương mặt lầm lì của gã hiện lên những nét cực kỳ hiểm độc. Gã rít liên tiếp những hơi thuốc dài, điếu thuốc đỏ rực lên trong bóng tối. Gã thong thả dí đầu lửa đỏ lên núm cuốn hai quả đào và kề miệng rít cho lửa rực lên thêm. Một mùi khét lẹt từ đó bay ra cùng với tiếng réo xèo xèo, như mùi khét của da thịt người bị đốt cháy. Còn em thì ngất đi. Em tỉnh dậy rồi lại ngất đi nhiều lần với trò chơi ác độc đó. Hai quả đào với làn da căng hồng mơn mởn bị lửa đầu thuốc đốt cháy đen bầm. Nhựa từ vết thương rỉ ra đỏ thắm như máu.

Cuối cùng, trước khi bỏ đi – vì gã biết rằng không  thể thuyết phục nổi một ý chí sắt đá – gã đã dùng những ngón tay cào mặt đất – nơi một kẻ nứt có những rễ nhỏ bám sâu và dí làn thuốc vào kẻ nứt đốt cháy những rễ con, khói bốc ra như mùi tóc đốt. Em bất tỉnh. Và đó là cảm giác đau đớn cùng tuyệt gã đàn ông đã gieo vào cây đào – có liên hệ xúc giác đối với cơ  thể em – trước khi gã bất lực bỏ đi.

Gã không nhận được nơi em những gì gã mong mỏi. Nhận một tội lỗi mà em không hề phạm.
Giật mình thoát ra khỏi cơn mộng kinh hoàng, giữa đêm, em chạy ra gốc đào, đưa tay lên mò mẩm trong bóng tối, hai tay hai chân em ngượng ngập như vừa được mở cổng. Nhựa từ hai quả đào rây ra tay em nhầy nhụa. Em thảng thốt nhận ra cơn ác mộng, cùng lúc đã xảy ra trong thực tế.

Anh ơi! Nói lên tiếng nói phản kháng của những kẻ bị đàn áp phải chăng là một tội lỗi?
Nào em có tội tình gì cho cam. Em và đồng bào em lâm vào cảnh đói rách nhọc nhằn. Một buổi sáng, dưới ánh nắng rực rỡ của mặt trời – mặt trời là mắt công bình xa vời phải không anh? – em cùng với những bọn trẻ đồng cảnh ngộ, chúng em đã họp nhau lại kéo nhau ra phố hát lên nỗi thống khổ của mình. Nhưng chung quanh chúng ta, có những kẻ sống một cách vương giả nhờ vào sự bần cùng của chúng ta. Họ muốn chúng ta im lặng, chết rục trong sự khốn cùng đó, họ không muốn chúng em, những kẻ bạo gan dám cất lên tiếng nói phản kháng, và họ, chối tai vì những giọng hát kèn đồng đã cất cao lên, bởi tiếng hét ấy đã phát ra từ ngõ động mạch những trái tim sôi sục lửa căm thù, tiếng hét ấy đã làm cho họ run sợ bị tiêu diệt, tiếng hát đã đốt tiêu ra tro than bọn người nhơ nhớp, tồn tại được nhờ những dòng mồ hôi chảy ràn rụa trên trán, trên lưng của lớp người cùng đinh, nhờ vào suối máu từ những thân  thể trẻ trung của các thanh niên tuôn ra trên khắp các mặt trận.

Chúng ta không lạ gì, bởi chúng ta đã sinh ra và lớn lên trong một thời đại mà quyền tự do  của con người được tấn phong để rao bán như một món hàng hào nhoáng mặt ngoài mà đục ruỗng bên trong.

Bọn người dùng quyền rao bán đó bắt mọi người phải trả một giá đắt, bị bó buộc phải mua và phải tin rằng đó là một báu vật họ có nhã ý trao tặng chúng ta. Nhưng bổn phận của chúng ta là phải nói cho tất cả mọi người trên thế giới biết rằng đó chỉ là một sự lừa bịp trắng trợn vĩ đại, một âm mưu trục lợi, tin vào đó là tự tiêu diệt đời mình.

Chính vì thế mà chúng em đã cất lên tiếng hát đồng ca và bọn người có uy thế kia đã xua lũ tay sai ngu dốt chúng thuê mướn – với một món tiền  ít oi, cũng là những đồng bào chúng ta mà, phải không anh? – đến dập tắt tiếng hát ấy.

Nói sự thật là một tội trọng, đó là một châm ngôn mọi người đều học được trong thời buổi mạt thế này. Nhưng bổn phận chúng ta là phải nói lên sự  thật, phải rao giảng chân lý dù chúng ta có bị bạo lực ngàn lần đàn áp đi nữa.

Cuối cùng chân lý bao giờ cũng tỏ lộ dưới ánh sáng huy hoàng của chính nó. Tất cả những gì không phải là chân lý, giả ngụy sẽ bị tiêu diệt.

Anh yêu,
Em đã trở về căn phòng nhỏ tăm tối của em, đốt lên một cây nến trắng. Ánh nến bừng lên soi rõ bức hình anh với đôi mắt sáng trầm tĩnh đầy cương nghị.

Em nhìn vào bức hình như nhìn vào gương mặt thật của anh, đang ngồi trước em. Đôi mắt anh nhìn em âu yếm, bao dung, em soi mặt mình vào đó để tìm thấy chân dung em: tuy vừa trải qua cơn ác mộng, gương mặt vẫn còn giữ được vẻ đẹp ngây thơ, dịu dàng với đôi mắt bồ câu long lanh. Em đã hôn lên đôi môi anh trong bức ảnh để thấy lòng mình bình yên trở lại, vì em vẫn còn cảm thấy kinh hoàng khi nhớ lại những gì đã xảy đến cho em.

Có điều lạ lùng, là khi đem thuật lại giấc mộng cho những người bạn gái của em nghe, họ xác nhận là cũng đã trải qua trong cùng đêm đó, giống như những gì em đã kể, tuy nhiên các chi tiết không đồng nhất và gương mặt, hình dáng gã đàn ông mỗi người đã trông thấy hoàn toàn khác biệt.

Em đã kể cho anh cơn ác mộng xảy đến cho em, những ảnh hưởng.
Chắc chắn là anh phải làm một cái gì cho em, tựa như những vuốt ve êm ái. Anh hãy về ngay với em, để trông thấy hai trái đào vưu vật của anh đã bị gã đàn ông xâm phạm. Chúng đang cần hơi hám của bàn tay anh ấp ủ để  những vết thương chóng se mặt, những tế bào mới có thêm sinh lực nẩy nở nhanh chóng, những vết sẹo mau biến đi nhường chỗ lại cho làn da hồng căng mơn mỡn như xưa.
Hôn anh, Lan.

Nhật ký của R... bạn của Minh và Lan
Trong quảng đời tuổi thơ của quí vị, hẳn là có đôi lần, quí vị thích thú cởi trần truồng dầm mình trong những cơn mưa lớn. Từ đầu, khi những hạt nước thưa thớt rớt xuống từ một bầu trời mây đen vần vũ, rơi lộp độp trên mái nhà, quí vị đã cỡi bỏ áo quần ra đứng giữa trời nhảy nhót, hay chạy dong dong la hét ầm ĩ, chờ cơn mưa tới. Nhưng ngay trong lúc đó, khi cơn mưa còn xa, gió mạnh đã đẩy những hạt nước rơi sớm, bay tới rơi lên da trần của quí vị, gây một cảm giác rát nhẹ như những cái tát liên tiếp của một bàn tay nhỏ. Không thích thú gì, vì nhiều cái tát như vậy liên tiếp nhưng thưa thớt, vả vào khắp người khiến quí vị cảm thấy khó chịu? Chính tôi đã trải qua những cảm giác đó. Tôi không thưởng thức những cái tát nhỏ, tôi chờ đợi một cơn mưa lớn nhưng với những hạt nước mịn. Nhà tôi ở gần một bờ biển, vì thế tôi có nhiều dịp quan sát sự xâm thực của sóng nước vào chân các núi đá và những giòng nước nhỏ chảy qua một mặt đá phẳng.

Nếu có một so sánh về thể chất giữa nước và đá, việc làm đó đưa đến kết luận có một khác biệt lớn đến trở thành khôi hài, như nếu có người bày tỏ ý định sẽ lấy nước để bổ đôi, hay để đập tan một tảng đá. Ý định đó không còn gì điên vì thiếu thực tế cho bằng, chúng ta tất sẽ nghĩ như vậy. Nhưng nếu ai cho đó là một ý nghĩ có tính cách khôi hài, có lẽ những người đó đã không chú ý đến yếu tố thời gian.

Chân núi đá vững chải dường nào thì đợt sóng đánh vào có hề hấn gì! Thoạt nghe có vẻ chí lý, cũng như giòng nước nhỏ chảy qua một mặt đá thì làm thế nào có  thể bổ đôi tảng đá ra được.
Đó là một ý tưởng nông cạn và sai lầm.

Sự thật, đợt sóng đã có một tác động tích cực trong cùng đích của nó và giòng nước chảy qua mặt đá kia cũng vậy. Chúng ta không nhìn thấy sự xê dịch của kim đồng hồ, phải đâu là chúng không di chuyển? Một nụ hoa phong kín đâu phải không nẩy nở để đến lúc mãn khai và vẻ đẹp trông như rực rỡ kia đâu phải không đang tiến dần đến vẻ héo tàn? Tôi đã từng thấy những chân núi đá bị sóng nước đục thủng vào, và những núi đá gẫy gục xuống vỡ ra thành những đống đá vụn, những khe lõm sâu trên mặt đá chỗ giòng nước chảy qua. Đó là sự xâm thực nhẹ nhàng bị lãng quên trong thời gian, giống như sự cháy ngầm của không khí tác dụng vào sắt thép trông có vẻ vô hại ban đầu nhưng đưa đến một hậu quả hủy hoại khôn lường về sau.

Bây giờ, chúng ta lấy một miếng vải nhung – nhung thì êm ái biết bao! – chà nhẹ lên một khoảng da nhất định. Ở những lần đầu, sự va chạm nhẹ nhàng của nhung vào làn da sẽ khiến chúng ta có một cảm giác được vuốt ve. Tôi tin rằng, chỗ da nhận sự ve vuốt nhẹ nhàng đó sẽ đỏ rần rồi phồng lên nếu chúng ta cứ tiếp tục lập lại sự va chạm êm ái đến một lúc nào đó. Lúc đầu, nếu có người cam đoan, với những cái ve vuốt nhẹ nhàng của một miếng nhung, sẽ làm cho da chúng ta phồng lên, hẳn chúng ta sẽ mỉm một nụ cười tha thứ rất ngạo mạn. Gần gũi hơn, chúng ta có  thể nhìn thấy những lỗ thủng sâu xuống dưới mặt đất, ngay dưới mái hiên nhà. Có lẽ một vài người đã vội nghĩ đến những giòng nước của một cơn mưa rào. Không đâu, cần gì đến những giòng nước nặng đó, chỉ là nước sương đọng nhỏ xuống từng giọt một trong suốt những đêm của mùa sương mù thôi. Những cái lỗ cũng đủ sâu hàng năm phân dưới mặt đất rắn.
Hắn cố vặn vẹo cái thân  thể trần truồng mà tay chân đã bị cột chặt vào những khoen sắt chôn sâu, gắn xuống nền xi măng lạnh, ẩm ướt. Hắn muốn xê dịch đi một chút, chỉ một phân thôi cũng được để tránh những giọt nước lạnh buốt từ một độ cao, đang rơi xuống nhất định trên khoảng xương che tiểu não. Nhưng hắn bị hai bục gỗ với những đinh sắt nhọn tua tủa giữ chặt sát hai bên đầu và mặt úp xuống nền xi măng. Hắn muốn cất đầu lên để đập xuống cho vỡ tan nhưng một thanh gỗ chắn ngang sát vào làn da trên gáy khiến hắn không  thể cựa quậy xê xích được, dù chỉ một ly. Hắn muốn ấn thái dương vào những mẫu đinh nhọn nhưng cảm giác đau đớn đã khiến hắn phải hủy bỏ ngay ý định.

Đã liên tiếp ba hôm nay, người ta bắt hắn chịu hình phạt lạ lùng này buộc hắn khai thêm những bạn bè hắn mà người ta gọi là “những phần tử phản động”, tiếp tay cho giặc phá rối công cuộc trị an, đã ngăn trở bước tiến của toàn quân toàn dân trên đường xây dựng chế độ tự do dân chủ.
Thoạt tiên, người ta cho những giọt nước rơi xuống trên ngực hắn. Thật lạ lùng và khôi hài, hắn nghĩ, hắn tưởng rằng với tội lỗi mà người ta đã gán cho hắn, hắn phải chịu những hình phạt kinh khủng mới phải, sao họ lại bày ra cái trò tắm hắn với những giọt nước hà tiện! Và trong lúc những giọt nước đầu tiên rơi xuống, hắn đã yên tâm chợp đi một giấc ngắn... Nhưng sau đó, không rõ bao lâu, đột ngột hắn bị đánh thức dậy trong một cảm giác toàn thần rúng động vì một cơn đau đớn như vừa nhận một nhát búa bổ mạnh trên lồng ngực. Hắn mở choàng mắt trong lúc ngơ ngác chưa hiểu rõ nguyên nhân cơn đau thì một giọt nước rơi xuống trên lồng ngực hắn.
- Ôi! Hắn nẩy người, kêu lên thảng thốt mở mắt trừng trừng nhìn lên nóc nhà và hắn hiểu ra.
Sự đau đớn như bị một nhát búa đập chẳng qua chỉ là tác động của những giọt nước kia được lập lại mà lúc đầu hắn cảm thấy hết sức vô nghĩa. Hắn cảm thấy thân thể trở nên lạnh buốt, từng miếng thịt thoát khỏi sự kềm chế, tự do run lên. Những giọt nước cứ tiếp tục rơi xuống, đập lên ngực hắn như những nhát búa. Hắn mở mắt thao láo, kinh hãi nhìn giọt nước đang dần dần tụ lại, long lanh. Hắn tưởng như thấy rõ những lượng nước nhỏ từ từ rỉ ra cho đến khi giọt nước thành hình. Khoảng thời gian đợi chờ càng lúc càng trở nên nặng nề nghẹn thở... giọt nước vừa rời khỏi đáy thùng, đang rơi xuống. Hắn nhắm mắt lại. Một, hai, ba. Giọt nước đập vào ngực.
- Giết tôi đi! Giết tôi chết đi! Trời ơi!...tiếng thét kinh hoàng của hắn vang âm trong bốn bức tường,.

Giọt nước lại đang tụ dần dần. Giọt nước trong vắt lung linh, đôi mắt quáng của hắn nhận ra vô số những giọt nước.
- Rơi xuống đi! Rơi xuống mau đi! Hắn rên rỉ. Nhưng giọt nước vô tri không vội vã hãy còn đong đưa, đợi thêm một lượng nước nhỏ nữa cho đủ nặng. Vào lúc hắn không còn đủ sức đợi chờ nữa, bất ngờ giọt nước buông mình rơi xuống.
- Độp! Hắn rủn người:
- Giết tôi đi! Giết tôi chết đi! Hắn thét lên vang dội cả căn phòng.
Cánh cửa sắt mở hé, một người lách mình vào, tiến đến đứng bên hắn, chống tay lên cạnh sườn, nhìn lên trần nhà, gã chiếu tia mắt lạnh lùng lên thân  thể nạn nhân:
- Hãy giết tôi đi! Hắn nói gần như rên rỉ, nhìn người vừa vào với đôi mắt van lơn. Hắn muốn được chết.
- Hãy giết tôi ngay đi! Hắn phẫn nộ thét lên thất thanh.
- Thế nào, nhóc con? Người kia hỏi. Mày đã chịu nói thằng nào chủ mưu vụ nhịn ăn phá rối chưa?
- Giết tôi đi! Tôi không biết! Hắn đáp.
Phải khai với ông thế nào đây, hắn nghĩ. Làm gì có người chủ mưu? Làm sao có đủ chỗ giam giữ tất cả số người đông đảo vô kể gồm 90% dân số dân tộc kia chứ?
- Mày muốn phá rối chế độ hả? Người kia hỏi gằn.
- Tôi muốn cho chế độ khá hơn.
- Khá hơn cái con đĩ mẹ mày!
Gã rít lên lời mắng mỏ tức tối, sút một cú mỏ nhọn như trời giáng vào sườn hắn.
- Ngoan cố hả? Phản động hả? Y càu nhàu. Ông sẽ cho mày chết rục.
Y hối hả trở ra, đóng ập cánh cửa khóa tự động lại. Hắn không nghe y nói gì. Hắn đã ngất đi khi nhận cú đá sút.

Hắn tỉnh dậy trong một căn phòng khác. Trong bóng tối mờ mờ, dần dần hắn nhận ra những người bạn. Tình trạng của họ không kém hắn, nhưng trong vẻ mệt mỏi dường như họ không để mất đi thứ ý chí bất khuất trong những tia mắt sáng. Căn phòng hoàn toàn im lặng. Ngoài những hơi thở đều nhè nhẹ, hắn có cảm tưởng như đã bị đưa đến một nôi hoang vu, xa hẳn thế giới loài người. Hắn trở mình định ngồi dậy nhưng người đau như dần, tay chân, những khúc xương trong thân  thể như sắp sửa rời ra.

Hôm sau, người ta cho những giọt nước rơi trên trán hắn, hôm sau nữa trên ngay đỉnh đầu và bây giờ ...

Những giọt nước rơi trên xương che tiểu não dần dần làm cho hắn mê thiếp đi.
Tôi đã trở về nhà với một tấm thân  thể tiều tụy. Một cái gì  bất ổn ghê gớm đã xảy ra trong ngũ tạng  tôi, tựa như từng mỗi cơ phận nhỏ đã bị dần cũ kỹ, nát nhũn ra, lõng lẻo. Đầu tôi với óc não như chảy ra, lỏng bỏng. Trí nhớ tôi mỗi ngày giảm sút đi và tình trạng đó gia tăng từ hơn ba tháng nay. Tôi không  thể gọi đúng tên những đồ dùng thông thường chung quanh tôi nữa. Ban đêm giữa giấc ngủ tôi thường bị đánh thức dậy, cảm thấy như có người đập búa tạ lên ngực tôi, lên trán tôi, lên sọ tôi, ngực tôi đau ran như sắp vỡ. Những cơn nhức đầu tưởng chừng làm cho những mảnh sọ tôi nứt rạn. Bác sĩ cho tôi biết rằng, thân  thể tôi đang ở vào thời kỳ suy yếu trầm trọng cần phải bồi bổ, thần kinh tôi đã rối loạn, cần phải chạy chữa kịp thời. Nếu để tình trạng mất trí nhớ tiếp tục, tôi sẽ bị điên.

Cha tôi chỉ là một công nhân. Cả gia đình sống nhờ vào số lương ít ỏi của ông. Trong tình trạng kinh tế suy đồi này, số lương của ông không đủ để ăn hai bữa cháo qua ngày thì còn lấy tiền đâu chạy chữa cho tôi?

Tôi chờ đợi thân  thể tôi suy nhược dần dần sức lực. Tôi chờ đợi máu tôi khô cạn, tôi chờ đợi cơn bệnh thần kinh tăng dần đưa đến trạng thái điên cuồng, có lẽ sẽ xảy đến một ngày không xa. Cả hai yếu tố đó hợp lại đưa tôi về cõi chết./.
                                                                       

Minh Nguyễn * Tháng Ba Tây Bắc Hoa Ban Nở


Không biết từ lúc nào tôi bỗng quan tâm tới các loài hoa. Điều này kể ra e có người sẽ mỉm cười cho rằng: đàn ông ai lại quan tâm tới mấy chuyện hoa hòe hoa sói; trừ trường hợp sinh nhật cha mẹ, bạn bè hay người yêu.

Tưởng chuyện đơn giản, vậy mà tôi đã phải chưng hửng trước câu hỏi đầy sự đánh đố  nơi cô bạn vì, biết tôi đã nhiều lần đi lên vùng Tây Bắc : ngoài mùa hoa đào hoa mận ra, nghe nói trên vùng Tây Bắc còn có mùa hoa gì đặc biệt lắm, anh có biết không ?

Tôi chợt nhớ lần ghé lên Lào Cai,đi cùng Mây vượt chặng đường dài qua hàng ngàn bâc đá, đặt chân lên vườn hoa thiên nhiên Sapa trên đỉnh núi Hàm Rồng. Ở đó ngoài việc ngắm thỏa thuê hàng trăm loài hoa lan đẹp lộng lẫy quí hiếm, trước khi ghé sang vườn Châu Âu kỳ thú nhìn thấy cơ man hoa hồng, hoa thươc dược, tuy-líp, lay-ơn để, cuối cùng dừng chân lại bên rừng hoa đào hoa mận bạt ngàn; tuyệt nhiên không nghe nhắc tới loài hoa nào khác. Đem thắc mắc hỏi Mây, cô cười thật xinh bên hai chiếc răng vàng bắt nắng sáng lấp lánh, khiến tôi mỗi lần nhìn thấy phải phát ghen lên với mấy tay thợ Trung Quốc, cô cho biết : tuy cùng ở vùng Tây Bắc tổ quốc nhưng người H’ Mông ở Lào Cai hay Hà Giang chỉ trồng hoa đào hoa mận. Còn muốn khám phá mùa hoa Ban, phải chờ cho đến tháng ba đi qua Sơn La - Điện Biện, ở đó tha hồ ngắm mùa hoa trắng ngần nở khắp trên đỉnh núi, ở lưng chừng đồi hay bên những vách đá dựng đứng.

Hoa ban. Có thật, có một mùa hoa ban trên vùng Tây Bắc, tôi chưa hề biết đến? Nhất định, tôi tự nhủ mình sẽ lên đó một lần, nhìn tận mắt mùa hoa ban này mới được. Tiếc thay, thời gian chưa đến tháng ba, nếu trở về Sàigòn lúc này e chẳng bỏ công sau chuyến đi dài ngày, trong khi tôi đang có mặt ở Hà Nội. Nghĩ vậy, tôi a-lô về Nam Định rủ mấy anh chị bên gia đình bác Tiển, lấy xe ô-tô đi thăm đền phủ Dầy- Vân Cát, thưởng thức ba mươi sáu giá đồng cùng với các nghệ sĩ hát văn, sau đó xuôi về bến Đục, đi thuyền trên suối Yến, lên động Hương Tích đọc bài thơ chữ nôm do Chu Mạnh Trinh đề trên vách đá.
Đi chơi hết một vòng quê hương, đến khi quay về Hà Nội, tôi vẫn còn thừa thời gian để ghé lên Tây Bắc xem mùa hoa ban nở. Trong lúc đang do dự chưa biết đi bằng phương tiện gì, may sao có người mang xe máy kèm theo bản đồ đến cho tôi thuê xe. Không phải chần chờ gì nữa, tôi xuôi đường Thăng Long ra Xuân Mai, qua Lương Sơn, lên Hòa Bình thả hồn trong khung cảnh thiên nhiên mướt xanh từ hai bên đường dẩn lên miền sơn cước. Con đường đi qua khiến tôi không khỏi bồi hồi nhớ tới những câu thơ “  Sông Mã xa rồi tây tiến ơi!/ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi/ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm hơi/ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống “(*)

Vượt qua chặng đường heo hút cồn mây với rừng núi chơi vơi, với dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, với ngàn thước lên cao ngàn thước xuống; chẳng mấy chốc tôi đã chạy xe lên tới Hòa Bình. Thay vì chạy vòng tới hồ thủy điện ngắm cảnh hùng vĩ sông Đà, tôi lái xe thẳng tuột tới dốc Cun. Mới đầu, nhìn con dốc tôi tưởng bình thường như bao con dốc tôi từng đi qua, nhưng khi đặt chân lên con đường uốn lượn ngoằn ngoèo, tôi có cảm giác như đang trôi bồng bềnh trong mây hoặc chìm sâu dưới nhiều đoạn cua gấp khúc. Ở đó, một bên vách đá cheo leo, một bên vực sâu trắng xóa một mùa hoa lạ lẫm đang nở trắng trời trắng đất. Xứ sở hoa ban đây rồi? Loài hoa đẹp tựa những bông tuyết bám trên đỉnh Phăn-Xi-Păng vào những hôm nhiệt độ xuống dưới không độ. Hoa trắng trước mặt, hoa trắng sau lưng, hoa trắng trên đầu, hoa trắng dưới chân, hoa trắng đuổi theo tôi chạy miết tới con đường mới  bạt núi, nhằm làm giảm độ cao nguy hiểm. Bất ngờ, từ một bên vách núi còn lởm chởm đá,  mấy chị em phụ nữ đầu chít khăn len (**), mặc áo “xửa cóm” bỏ trong váy ống đen, ngồi bên những chiếc bàn làm từ vỏ cây rừng, buôn bán hàng quà đặc trưng: cơm lam, mía lùi, ngô luộc, rau rừng ngay trên đỉnh đèo Thung khe. Đứng trước hình ảnh khá ấn tượng giữa môt bên là các phụ nữ người Thái trắng, một bên là cảnh vật thiên nhiên trắng xóa màu hoa ban, buột tôi không thể nhắm mắt làm ngơ, dừng xe chụp vội mấy bức hình về hoa ban, đồng thời thưởng thức những món ăn đặc sản “ năm thì mười thuở “ mới gặp, để lấy sức đi tiếp lên đèo Thung Nhuối. Ngọn đèo cuối cùng trong số những ngọn đèo nguy hiểm nằm trên cung đường dài mười hai cây số. Và, khi đã đứng trên đỉnh đèo cuối cùng này, nhìn xuống thung lũng bạt ngàn màu hoa trắng muốt nở đầy bên dưới ruộng đồng, bên mươi nếp nhà sàn mái đỏ xinh xinh ẩn hiện bên các bản làng người Mường người Thái, toát lên vẻ đẹp thanh bình mà tôi chưa biết nơi đây là đâu? Kịp khi quay nhìn, tôi nhận ra đám người gồm đàn ông mặc áo cánh màu chàm có hai túi dưới, cổ tròn xẻ trước ngực cài những chiếc nút làm bằng vải hoặc làm từ xương, tay dắt ngựa hoặc cặp nách gia súc mới mua, đi lẫn vào đám phụ nữ mặc áo cổ xẻ chữ V, đính hàng nút bạc hình những con vật có cánh chạy dài từ cổ xuống tới cạp váy màu mạ non trông thật gợi cảm. Họ đi lẫn vào nhau nói cười vui vẻ, sau buổi tan chợ trở về thôn bản. Hỏi thăm, mới hay thung lũng đang nở tràn một mùa hoa ban bên dưới là “ Mai Châu mùa em thêm nếp xôi”. (***). Nơi hàng năm có tục lệ mở hội xên Bản, xên Mường vào dịp hoa ban nở nên có tên gọi “ hội hoa ban “. Hội hoa ban tổ chức với qui mô lớn nhỏ tùy thuộc vào điều kiện thời tiết có liên quan tới sự được mùa hay mất mùa trong năm. Là cơ hội dành cho thanh niên nam nữ thi tài, vui chơi, tìm hiểu tâm tình của nhau. Từ sáng sớm tinh mơ của ngày hội, tiếng trống, tiếng chiêng âm vang khắp núi rừng. Các bếp lửa trong các ngôi nhà sàn bập bùng lửa đỏ đồ xôi, luộc gà, thái măng, mổ lợn bày cổ. Rượu cần từng vò lớn được mang ra đãi khách. Riêng đám thanh niên nam nữ áo  váy chỉnh tề, gọi nhau đi đến những cánh rừng có nhiều hoa ban nở nhất. Ở đó họ chọn ra những cánh hoa đẹp nhất tặng người yêu để tượng trưng cho sự chung thủy và một ít mang về nhà biếu bố mẹ để chứng tỏ lòng hiếu thảo cùng sự biết ơn.   

Do háo hức muốn khám phá ngay một mùa hoa ban, tôi hỏi thăm đường rẻ xuống thung lũng Mai Châu. Con đường dẩn vào huyện lị thơ mộng chẳng kém bao con đường phố núi tôi từng đặt chân đến. Con đường chạy suốt chiều dài huyện lỵ với một bên núi đá chấp chùng, một bên là những cánh đồng xanh mởn lúa non. Để chiêm ngưỡng tận mắt màu hoa ban giữa núi rừng Tây Bắc, tôi nhờ cô gái người Thái con chủ nhà trọ bản Lát, hướng dẩn đi chơi núi. Trên đường đi, cô vui vẻ cho biết hoa ban có nhiều loại : hoa ban đỏ, hoa ban tím; đặc biệt vào tháng ba trên đường từ Hòa Bình đi Lai Châu, Sơn La, đặt chân đến bất cứ nơi nào trên miền sơn cước này, người ta cũng đều bắt gặp màu trắng hoa ban báo hiệu mùa nương rẫy,hội hè, đình đám. Và, lần đầu tiên trong cơn gió nhẹ thoảng đưa đến bên cánh mũi, tôi biết thế nào là thứ hương thơm khó phân biệt được với mùi cỏ cây, hoa lá mọc ven đường. Tôi giữ chặt những chiếc hoa ban do cô gái trao cho. Hoa ban. Từ khi mới còn là nụ, cho đến lúc mọc dài thành búp mãn khai, hoa trông chẳng khác gì ngón tay búp măng nơi cô gái trẻ. Đến khi trưởng thành, hoa mọc ra năm cánh hoặc đôi khi chỉ còn bốn, riêng một cánh để ý thấy nổi lên chùm tia màu hồng đỏ ở về phía cuối cuốn; thoạt trông cứ  tưởng đó là những mạch máu nhỏ li ti. Chỉ cần một cơn gió nhẹ thoảng qua cũng đủ làm cho những chiếc tua mang đầy nhụy hoa, khẻ lay động theo điệu luân vũ của gió, làm nổi bật hai chiếc lá xanh tượng hình nửa trái tim của nàng Ban và chàng Khun ghép thành đôi qua câu hát: “ Nàng Ban xinh đẹp/ Yêu chàng trai Khun/ Tình duyên không thành/ Chết hóa thành Ban “ .

Theo truyền thuyết của dân tộc Thái: “ ngày xửa ngày xưa có chàng trai Khun, giỏi nghề nương rẩy lại có tài săn bắn đã, đem lòng yêu cô gái tên Ban xinh đẹp hát hay dệt  giỏi. Thế nhưng, vì ham giàu cha Ban đem gả cô cho con trai nhà tạo Mường, vốn là một thanh niên lười biếng lại có tật gù lưng. Mặc cho cô van xin hết lời nhưng cha cô quyết không từ bỏ ý định. Ông bàn với nhà tạo Mường sữa sọan lễ cưới sớm cho hai người.Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản núi tìm tới nhà chàng Khun để cầu cứu. Đến nơi, nàng nghe tin chàng đã đi mua trâu ở những bản làng thật xa. Để làm tin nàng lấy chiếc khăn Piêu đội đầu, buộc vào tay cầu thang nhà rồi bươn bả ra đi tìm chàng. Nàng đi hết ngọn núi này đến ngọn núi khác, ngày này qua ngày khác, cuối cùng vì quá đau khổ, mệt mỏi nàng đã gục chết trước một cửa hang nơi lưng chừng núi. Thương tình, dân làng xúm nhau đắp đất lo cho nàng có được nấm mộ giữa rừng. Trong khi đó Khun cũng vừa đi mua bán về đến nhà. Chàng bất ngờ nhìn thấy chiếc khăn của Ban vắt trên cầu thang,chàng biết ngay đã xảy ra chuyện chẳng lành cho nàng nên vội đi tìm. Dò hỏi khắp nơi, Khun biết nàng đã bỏ nhà ra đi tìm chàng ở tận trong rừng sâu núi thẳm. Chàng vội băng rừng, vượt suối, trèo hết núi này sang núi kia vẫn tìm không thấy nàng. Cuối cùng do kiệt sức, chàng ngã xuống trên một mô đất ở trước cửa hang. Ngay lúc đó, mặt đất bỗng dưng lay động phủ kín lấy người chàng. Sau này, từ trên ngôi mộ thấy mọc lên một cái cây có những chiếc lá xanh thẩm mang hình hai nữa trái tim ghép lại. Và, đến mùa đông lạnh giá cây trút hết lá, dệt thành tấm thảm che kín lấy ngôi mộ, đợi đến tháng ba trổ lộc non và cho ra những chiếc hoa trắng như làn da nàng Ban. Người dân vùng Tây Bắc cảm thương cho mối tình chung thủy của hai người, bèn lấy tên nàng Ban đặt cho loài hoa này.Từ đó,ngoài vẻ đẹp thuần khiết ra hoa ban còn có vai trò quan trọng trong đời sống vật chất, tinh thần người Thái. Cho nên mỗi khi đi rừng thấy hoa ban là biết sắp đến bản làng của họ với những nếp nhà sàn xinh xinh quyện lấy làn khói bếp, bốc lên hương vị thơm lừng của món hoa ban đồ chõ xôi.

Sau buổi đi ngắm hoa ban trở về, tôi được chủ nhà hiếu khách mời ăn bữa cơm tối. Ngồi trên sàn nhà lót bằng tre nứa, trải chiếu hoa, bên cạnh bếp lửa ấm cúng; uống rượu cần được ủ những lúa nếp, lá hính ho,gừng cùng với ngực mèo ngon tuyệt vời. Đặc biệt các món ăn được thể hiện đầy bản sắc văn hóa ẩm thực của người Thái qua việc sử dụng lá non hay hoa ban nấu các món ăn như: Hoa ban xào thịt lợn rừng. Hoa ban nộm củ riềng. Hoa ban hầm thịt chân giò. Hoa ban đồ chõ xôi. Hoặc lá hoa ban non đồ chấm chéo cá. . . ăn nhớ đời.

Sáng ra, tôi chào tạm biệt những ngôi nhà sàn, những hàng cây cọ, những thửa ruộng lúa non đẹp như bức tranh đặc tả về Mai Châu xuôi đường quốc lộ sáu đi lên Sơn La bên cái nắng hanh vàng vắt hờ hững bên sườn đồi, bên lưng chừng vách núi cùng với màu trắng hoa ban đang nở trắng trời trắng đất, chạy đuổi theo ngay sau lưng.

Tự dưng, tôi cảm thấy mất đi sự hào hứng ban đầu, cho dù cảnh quan thiên nhiên ở Sơn La nghe nói xinh đẹp, thơ mộng không thua gì Đà Lạt phương Nam với hai cao nguyên Mộc Châu, Nà Sản nổi tiếng cùng cây trà cây cà phê và chăn nuôi bò sữa.

Vì sao ư. Có lẽ do tôi đã khám phá đầy đủ về một mùa hoa ban nở trắng ngần trên vùng trời Tây Bắc ?     


(*)(***) Tây Tiến ( trong tập thơ Mây Đầu ô của Quang Dũng

(**) Để phân biệt với phụ nữ Thái đen đầu đội khăn Piêu

thơ TRÚC THANH TÂM


NỬA DÒNG SÔNG NƯỚC MẮT

Anh bên nầy Hiền Lương
Em bên kia Bến Hải
Đất nước mình nhiễu nhương

Chiều co ro nằm ngủ
Trên đồi dựng máu tươi
Những hình hài ung mủ

Dân ta còn lầm than
Một quê hương nhược tiểu
Ôi, những vành khăn tang

Hỏa châu vàng ánh mắt
Mẹ nhỏ giọt lệ trần
Nghẹn ngào từng tiếng nấc

Đời còn lắm trái ngang
Vĩ tuyến sầu vạn cổ
Trong hình hài Việt Nam !

Tây Đô, 1968

BA MƯƠI NĂM, BIỀN BIỆT CÀ MAU

Hơn ba mươi năm, biền biệt Cà Mau
Bến tàu đó, em biết còn chốn cũ
Mái trường tỉnh tôi chưa lần được học
Rồi chiến tranh, từ đó cách xa mình !

Nước nổi nơi nầy, nhớ gió U Minh
Điên điển bông vàng nhớ tràm bông trắng
Mắm Châu Đốc hương vị còn sâu đậm
Than đước Cà Mau âm ấm nỗi lòng  !

Hơn ba mươi năm, dấu bụi mù tăm
Nhưng dĩ vãng vẫn còn trong hơi thở
Cầu quay đó cũng một lần bỡ ngỡ
Mắt nhìn nhau, thương nhớ đến bây giờ !

Cà Mau em, là nét đẹp trong thơ
Châu Đốc tôi, dòng phù sa bồi mãi
Có thổn thức mới thấy lòng trống trải
Có xa quê mới thấu hiểu bao điều !

Châu Đốc, 1989

Monday, March 4, 2013

thơ H Ả I P H Ư Ơ N G

  
L ụ c B á t C h o Q u e e n

Queen ơi
ta thưởng thức
em
bên trên
bên dưới
hai bên
bên nào
cả hồn xác
trộn chiêm bao
cả xưa
sau nữa
lạc vào thiên thu .

Bởi vì
trời đã sương mù
đất ơi
đất hẹn
trùng tu địa đàng .

Một ngày
nhật thực sáng trăng
thơ ta nguyệt thực
đêm vàng
hồng nhan .

Queen ơi
ta ở với nàng
một thiên thu với
rộn ràng
đời nhau .

Bức tranh tươi rói
sắc màu
là hồn biển đã
ruộng dâu
xanh rì .

Khi ở Sillicon Valley
Tháng giêng 2013
H A I P H Ư Ơ N G

m ù a t h u h o a v à n g *
cho Queen

chúa nhật này trẫm không đến được
khanh có buồn lên mắt lên môi
trời nắng phía hiên trường nội trú
có hanh vàng lên mái tóc rẽ đường ngôi

xin mượn hồn thu cho hoa cúc nở
cốc nước đầy làm giếng mắt trong
cần chút thời gian kết khung cửa sổ
cho hoa vàng cho hoa vàng cùng thi sĩ yêu nhau

chúa nhật này anh không đến được
xin đừng buồn mái tóc úp vô
mùa thu năm ni hoa vàng hơn trước
trời cho anh làm thi sĩ hát bi bô

lại muốn giận hờn anh nữa đó sao
để nhớ để thương mái tóc úp vào
làm con gái vô tình thường kiêu hãnh
thả xuân thì thời tiết mỏng bay cao

thôi để mai này anh sẽ đến
năm ngón tay làm một dòng sông
năm dòng sông xuôi về một bến
xuôi về xuôi về một ngả biển mênh mông
thôi để mai này anh đến
anh đến rồi hờn giận cũng như không

chúa nhật này trẫm không đến được
khanh có buồn lên mắt lên môi
mùa thu năm ni hoa vàng hơn trước
khanh làm hoàng hậu không lên ngôi

*trích tập thơ Tuổi Tình Yêu của Hải Phương ,Queen xuất bản ,Saigon VN ,1964
Tập thơ này thi sĩ Thành Tôn mua ở chợ sách saigon , Thành Tôn viết :
‘’Sau quốc nạn đốt sách , bị bỏ tù về , sưu tập lại 9 / 9 /1986
Thân tặng lại tác giả Hải Phương, ở Mỹ quốc 10 /18 /2011 ‘’

H Ả I P H Ư Ơ N G

Sunday, March 3, 2013

TRẦN VẤN LỆ * đường lên núi rừng chập chùng



Đầu năm, nắng mới, cảnh quan đâu cũng đẹp.  Biển đẹp,  Núi đẹp.  Sông đẹp.  Cả những con đường mòn cũng đẹp.  Chúng ta đi xa hơn những nơi đang trước mặt chúng ta, được không?  Được chớ gì!  Ai cấm mình đâu nào…
Bạn nhé, chúng ta đi lên núi chơi!  Đường lên núi rừng chập chùng…Chập Chùng hay Trập Trùng?  Chập Chùng nghe hay hơn.  Cái gì hay, đẹp, chúng ta nên hưởng, trăm năm nào có bao lăm!  Nhưng mà Kho Tàng Thiên Nhiên vô tận, không ai giành giật hết của ai…Chúng ta không nên ích kỷ!
Mời bạn đọc bài thơ này…coi như bước khởi hành:

Vợ Chồng Đi Chợ Xuân

Núi rừng xa mờ xanh với xanh
Đường non như lưng rồng uốn khúc
Vợ ngồi lưng ngựa vợ đi trước
Chồng nắm đuôi ngựa chân theo nhanh.

Vợ chồng xuống núi đi chợ Xuân
Sương sớm còn che như lấp lối
Vó ngựa cuốn nhanh chồng ríu chân
Vợ thương dừng cương ghìm ngựa lại.

Một dãy rừng mai hoa ướt sương
Đường Xuân đưa vợ chồng xuống núi
Váy vợ phồng căng đầy gió đồng
Đuổi theo vó ngựa mỏi chân chồng.

Vào chợ đổi hang mua vải muối
Mắt đưa nhìn quanh thấy rượu nồng
Chồng ghé vào hang say mấy chén
Vợ bán mua xong dắt ngựa đến.

Thấy chồng dim mắt cười nắng Xuân
Ngã nón tu lờ đưa chồng gối
Xòe quạt bên chồng vợ phe phẩy
Chen chân trong chợ người đi lại.

Rực rỡ đường thêu vòng bạc rung
Gió mát nằm lâu chưa hết say
Nâng chồng lên ngựa chất hang đầy
Vợ đi thong thả theo sau ngựa…

Về núi tay cương chồng lỏng tay…

Bài thơ trên, Vợ Chồng Đi Chợ Xuân, là một bài thơ rất dễ thương của Bàng Sĩ Nguyên, quê Hà Nam, sinh năm 1925, không biết hiện nay, năm 2013, còn sống hay đã khuất.  Dù gì thì bài thơ này sẽ còn mãi…Bàng Sĩ Nguyên là một người tài hoa, vừa là thi sĩ (đã có bảy tập thơ), vừa là văn sĩ (đã có hai truyện dài, ba truyện ngắn), vừa là họa sĩ (có hơn một lần triển lãm tranh).  Tôi không “rành” lai lịch của Bàng Sĩ Nguyên, nhưng tôi biết Bàng Sĩ Nguyên là người miền Bắc của nước Việt Nam mình, Bàng Sĩ Nguyên sinh hoạt trong vùng cai trị của chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đối đầu với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.  Sau 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa bị xóa sổ, những tác phẩm miền Nam người miền Bắc mới có và ngược lại những gì người miền Bắc làm ra xinh xắn thì người miền Nam tiếp thu vui vẻ.  Tôi gọi bài thơ Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên là một bài thơ xinh xắn.  Nó không chỉ là trang chữ mà nó còn là bức tranh.  Chữ là tiếng nói, là sự thuyết mình lọt vào lỗ tai người.  Tranh…không cần mở mắt nhìn mà thấy khi mình nhắm mắt và tưởng tượng, thì đó cũng là một bức tranh sống động vậy.  Dân tộc mình, Kinh hay Thượng, người Miền Xuôi hay Mạn Ngược, Bắc hay Nam…đều “ấn tượng” cả!

Sẵn đây tôi cũng xin có chút ý kiến về Người Kinh / Người Thượng, Người Miền Xuôi / Người Mạn Ngược.  Người Kinh / Người Thượng là cách phân biệt đồng bào mình ở miền Trung, nơi đặt Kinh Đô Triều Nguyễn, Thần Kinh / Huế.  Thần Kinh là Kinh Đô Đẹp Đẽ, các Vua triều Nguyễn ở đây từ năm 1802 khi vua Gia Long lên Ngôi.  Chúa Nguyễn còn lại để nối dõi duy nhất sau cuộc chiến Trịnh Nguyễn Phân Tranh là Nguyễn Phúc  Ánh.

Cuộc chiến Phân Tranh kéo dài suốt 400 năm, cậu bé Nguyễn Phúc Ánh là người của Tộc Nguyễn duy nhất sống sót (Phúc chớ không phải Phước nha, Phúc và Phước viết và nói khác nhau để phân biệt Vua và Dân –  dân nói nói với nhau thì Phước, khi nói về Vua phải là Phúc, một cách kỵ húy).  Chúa Nguyễn Phúc Ánh vừa chạy trốn quân Tây Sơn, vừa mở mang bờ cõi.  Vào Ninh Thuận, Bình Thuận trà trộn với người Chiêm Thành rồi lấn lướt họ, đồng hóa họ, gọi họ là Người Thổ, tức Dân Bản Thổ, Bản Địa, không phá hủy phong tục và truyền thống của họ.  Cũng thế khi vào Nam, qua Biên Hòa, xuống Định Tường, lên Châu Đốc, ra Sóc Trăng, Trà Vinh…hòa đồng với người Thủy Chân Lạp (một dân tộc anh em / cùng huyết thống với dân tộc Thượng Chân Lạp, tức là người Khờ Me trên vùng cao (ngày xưa ta gọi Cambodge là xứ Cao Mên rồi Cao Miên, nằm trong ý nghĩa của chữ Cao Man – bọn rợ ở vùng cao, Man là Man Di).  Vua Sihanouk của Cambodge (tên nước do Thực Dân Pháp đặt) gửi văn thư ngoại giao yêu cầu Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải nói đúng tên nước láng giềng của Việt Nam Cộng Hòa là Cambodge, không được dùng chữ Cao Miên nữa; năm 1975, Pol Pot bỏ chữ Cambodge đổi lại là Kampuchea, thời Hunsen bây giờ thì nước này tên là Cambodia viết theo lối Mỹ)  Người Miên ở trên nước ta không thích về sống với người vùng cao, họ nhận là Người Thổ như người mình gọi họ và bây giờ thì là Người Khờ Me Kờ Rôm, coi như một Bộ Tộc Miên có truyền thống và tập tục địa phương riêng như hồi xưa….  Các Vua Nguyễn không chủ trương đanh phá để cướp đất của các dân tộc miền núi dãy Trường Sơn, họ, những dân tộc Gia Rai, Kờ Ho, Mờ Nông, Mạ, Chu Ru, Sì Tiêng… tự động xin triều đình Huế cho họ sống bình yên và triều cống hàng năm.  Vua Nguyễn, kề từ Minh Mạng đồng ý, và gọi họ là Người Thượng – dân trên núi, phân biệt với dân đồng bằng nằm trong quản lý của triều đình thì gọi là Người Kinh.  Ở miền Bắc, dân tộc nào sống yên theo dân tộc đó, tuyệt nhiên không có xích mích gì.  Người đồng bằng, tức vùng châu thổ sông Hồng, ở miền xuôi thì là Người Miền Xuôi.  Đi ngược lên thì gặp người Mèo (nay là Hờ Mông), người Thái, người  Dao…Riêng người Nùng, gốc là người Tàu (bọn Rợ Hán phía Bắc nay tự xưng là Trung Quốc) đói quá tràn xuống đất nước ta, sống riêng và dân ta gọi là Người  Nùng, nay gọi là Người Tày, bọn này có thời đánh phá triều Nguyễn, thời Minh Mạng, Tự Đức, cầm đầu là Nông Văn Vân, về thời hậu Tự Đức thì có Giặc Cờ Đen do Lưu Vĩnh Phúc cầm đầu.  Dân đồng bằng miền Bắc, đông nhất thì gọi là Người Miền Xuôi, theo triều đình Huế, không gọi là Người Kinh.  Người sống trên miền núi, Trung Du và Thượng Du thì được gọi là Người Mạn Ngược.  Người Pháp thì gọi họ là Người Thiểu Số.  Hiện nay tất cả dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam thì đều là Người Việt Nam, tuy nhiên mỗi miền Người có Sinh Hoạt Riêng tùy theo Mùa Màng và Lễ Hội, chính quyền Trung Ương không can thiếp mà chỉ giúp đỡ, khuyến khích…hay chấp nhận cho qua biền!  Cũng là một cách “mị dân”!

Nhân “tào lao xịt bộp” chỗ này, tôi cũng muốn bày tỏ thêm cái chuyện Lạc Long Quân buộc vợ là Âu Cơ chia bầy con, nửa theo Lạc Long Quân ra biển, nửa theo Âu Cơ lên núi.  Bầy con theo Lạc Long Quân thật lộn xộn, nay hòa mai nghịch, chiến tranh triền miên, trong khi bầy con theo Âu Cơ thì hòa thuận, ai lo phận nấy, không tranh giành cãi cọ (ngoại trừ Người Nùng gốc gác bền Tàu).  Người mình rất yêu kính bà Âu Cơ, từng gọi Bà là Bà Chúa Ngàn, lạ thay Bà Hiền Từ thế lại không được sử sách ghi là Đức Mẹ Âu Cơ, chúng ta khiếp nhược quá ư? Chúng ta chỉ gọi mẹ Maria, mẹ của Chúa Giê Su là Đức Mẹ thôi, chúng ta Vọng Ngoại đến thế à?  Ngộ nhỉ!

Hiện tại, theo thống kê thì dân tộc ta đang sống chung nhau gồm có sáu mươi ba Dân Tộc, thế là gần đủ Một Trăm tức Nòi Bách Việt.  Chúng ta qua Lào, qua Thái, lên Miến Điện xuống Malaysia, sang Indonesia…vẫn thấy có người nói một phần nào tiếng Việt và phong tục hao hao người Việt, hỏi ra thì tổ tiên họ di cư từ xưa, từ trên xuống, từ Tây qua…Vậy là…ta có đủ Một Trăm Dân Tộc rồi nhé! 

Tôi có hồi ngạc nhiên, thời chính phủ Ngô Đình Diệm, thấy một phái đoàn người Xiêm, tức là Thái Lan, sang thăm Việt Nam gọi là Giao Hảo, ghé Tùng Nghĩa, phía Nam cách Đà Lạt 27 cây số, nơi tập trung người Thái di cư nắm  1954, nói chuyện với người mình thật rôm rả bằng tiếng Thái và cât cho đồng bào mình ở đây một ngôi chùa, nay vẫn còn, gọi là Chùa Thái.  Té ra người Thái ở Thái Lan và người Thái ở Việt Nam cùng một tiếng nói, là cùng “Một Mẹ Mà Ra”!  Dễ thương ghê nơi phải không bạn?

*

Thôi, dài dòng quá không khéo lòng thòng lượt bược, tôi trở lại bài thơ hồi nãy…Bài Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên là một Bài Thơ Hay.  Hay ở chỗ nó không phải là bài thơ Rất Thơ (như bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu hay bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm) mà nó hay ở chỗ Mộc Mạc, Dung Dị - thấy sao thì nói vậy, nghĩ sao thì tỏ bày như vậy, không màu mè, không đẽo gọt.  Đây là một bài-thơ-hình-ảnh.  Nó là một Cảnh Sinh Hoạt hơn là bài ca du dương…Nó cho ta thấy cách sinh hoạt của đồng bào mạn ngược ra sao, cái hiền hòa của họ và cái Tình Yêu Tuyệt Vời…không ảnh hưởng game hay computer chút nào… 

Một bài thơ lồng khung một Thiên Đường Hạ Giới, ta tu ngàn đời chắc chi có được (bởi ta không có Tình Yêu Chân Chính, không có Niềm Mơ Ước Hồn Nhiên).  Cũng sợ lắm nếu mai kia mốt nọ mà trên núi non ta có những phi trường, có những bến xe, và đường núi có nhiều xa lộ, liệu cái Văn Minh Miệt Vườn có còn không đây?  Cái cảnh Chồng thương Vợ để vợ trên ngựa kẻo vợ mỏi chân, cái cảnh Vợ thương Chồng phe phẩy quạt cho bay hơi rượu cho chồng ngủ ngon, tìm đâu ở Người Kinh nhỉ!  Ở Người Kinh:  gây lộn và gây lộn!  Cãi nhau và cãi nhau!  Có theo đạo Thiên Chúa thì cũng cứ ly dị đếch sợ…ông Vua nào!  Do đó mà chiến tranh và chiến tranh!  Do đó mà chỗ nào cũng là chốn Gió Tanh Mưa Máu!

Bàng Sĩ Nguyên làm thơ tưng tửng thế mà không chê được.  Có lẽ nhà thơ để hết cái tình mình vào thơ?  Để hết tấm lòng mình vào thơ?  Ôi Thơ là một cái Nhà Kho chưa cái Tình và Tấm Lòng người ta…đã là nên Thơ rồi.

Tôi “khen” bài thơ của Bàng Sĩ Nguyên, mong bạn đọc đọc bài tôi viết đây cũng nên nhất trí cho tôi vui với.  Đừng đọc bài thơ của Bàng Sĩ Nguyên rồi bĩu môi, miệng nhai ngấu nghiến mấy câu của Trần Thy Nhã Ca nhen:

Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh, em cũng tựa sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ!

*
Tôi hoàn toàn không bình phẩm bài thơ Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên theo cách của nhà phê bình nào.  Bởi bài thơ đó quá dễ thương, tôi muốn nhân đây mời bạn đọc thêm vài bài khác…để thấy thơ nói về rừng núi rất là đáng đọc.  Đường lên núi rừng quả thật chập chùng…

Đây, hai bài “duy nhất” của Đỗ Hữu.  Gọi là Duy Nhất vì có-một-không-còn-hai…lần để thấy Đỗ Hữu khoe thêm thơ của ông.  Đỗ Hữu chết rồi, chắc chết đâu hồi cuối thập niên 1940 của thế kỷ trước. trong cuộc chiến tranh Đông Dương… nếu Bùi Giáng không gom nhặt được thì chúng ta mất đi hai bài thơ rất là dễ thương! 
 
  
Đây này, thưa bạn đọc:


Sầu Ai Lao

Đỗ Hữu



Đã lâu trăng cứ vàng hiu hắt
Mây cứ sầu tuôn núi võ vàng
Lá vẫn phai chàm trên sắc áo
Mưa nguồn thác đổ đá mù sương.

Giữa ngày lạc lõng trên rừng rậm
Với nắng bâng khuâng mây thuở nào
Với núi xanh lơ chiều tím nhạt
Mây trời bàng bạc sầu Ai Lao.

Lưng đèo quán gió mờ hun hút
Thôn bản nằm trơ dưới nắng chiều
Tai vẫn nghe đều dòng thác đổ
Người ơi, thương nhớ biết bao nhiêu!

Ở đây hơi đá chiều vây khắp
Khép chặt mình tôi giữa núi rừng
Buồn quá ngày đi đêm trở lại
Hoàng hôn hoa bản phấn rưng rưng.

Người có theo tôi lên dốc nắng
Nhìn xem hoa rải sắc trên đường
Chiều nay gió thổi buồn ghê lắm
Lá đổ sau chân một lối vàng.---

Và…

Chiều Việt Bắc
Đỗ Hữu

Nắng xuống phương nào người thấy không?
Mà đây chiều tím rụng song song
Vàng tuôn mấy lối ngày thu quạnh
Ai liệm hoàng hôn kín mắt trong?

Khói thuốc lên mờ xanh bóng ai
Phương xa chiều xuống ngút sông dài
Đường kia có phải sầu xưa đọng?
Trở bước hoa lau trắng ngập đồi.

Con đường đất đỏ mờ sau bản
Thung lũng vàng tơ nắng trở chiều
Núi biếc chập chùng vây ải lạnh
Dặm về lá đổ phận tàn xiêu…

Rừng núi âm u chiều Việt Bắc
Chầy ngày lạc bước ai ngồi than
Buồn xưa chiều đọng sầu lau lách
Chòi cũ nằm nghe gió dặm trường…

*
Hai bài thơ của Đỗ Hữu không dính dấp gì tới bài Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên, sở dĩ tôi đưa vào đây là…đổi món ăn tinh thần đãi bạn đấy mờ.  Nhưng bài nào thì cũng là Đường Lên Núi Rừng Chập Chùng…Những ngày Tết sẽ không bao giờ chấm dứt khi chúng ta cứ còn gần gũi nhau!  Bạn ơi, hãy nhìn ra bầu trời xem kìa, nắng Xuân rất đẹp.  Những bài thơ tôi mời bạn hôm nay với mỹ ý của tôi muốn bạn thấy tôi là người-có-ích ít nhất cũng cho một thiểu số người-còn-yêu thơ!
Hãy mở lòng ra, ta có Tết.  Hãy mở lòng ra, ta với Xuân!

Trần Vấn Lệ


Nguyễn Văn Lục * Đã một thời như thế: Hiện tượng Phạm Công Thiện

Phạm Công Thiện


Ông Phạm Công Thiện vừa mới qua đời ngày 8 tháng 3, 2011 trong một tình trạng thể xác mà theo gia đình “ông mệt dần, bắt đầu nhập định và ra đi nhẹ nhàng”.

Theo nguyện vọng cuối cùng của ông thi sĩ Phạm Công Thiện, ông muốn “không làm tang lễ rườm rà, chỉ hoả thiêu".

Đỗ Hồng Ngọc * Thư gởi bạn xa xôi



Tình cờ thôi, Phan Đổng Lý (PĐL) ở Melbourne gởi về tặng mình một bài thơ, có tựa là Hành Y (viết cho Đỗ Hồng Ngọc) trùng với ngày Thầy thuốc Việt Nam. Trùng hợp vì PĐL không hề biết ở VN có một ngày Thầy thuốc như thế. PĐL là bạn bọn mình từ 60 năm về trước, lúc cùng vào đệ thất (lớp 6) Phan Bội Châu Phan Thiết- À, mà chưa, mới 59 năm thôi, vì đó là năm 1954- Không biết PĐL đã “gieo trồng” mầm thơ thế nào mà bây giờ tuổi trên 70 bỗng nổi hứng làm thơ “vịnh” bạn bè, mà bài nào cũng… hay, cũng bộc lộ “bản sắc” của từng đứa!
Phan Đổng Lý có bài thơ “vịnh” Phan Bá Thụy Dương chỉ bằng vài nét chấm phá đủ cho thấy một Phan Bá Thụy Dương khinh bạc, ngang tàng, tài hoa:

Trích tiên tại thế, vấy bụi trần hụp lặn kiếp đam mê!
Nay quỳnh tương đối ẩm, mai hương sắc giao kề
Lỡ ngồi ôm góc núi, mỉm môi cười nhân thế
Ánh dương quang rực rỡ, sao lại lạc đường về?
…………..

Rồi bài thơ PĐL “vịnh” Trần Vấn Lệ, thấy ngay một chàng thi sĩ hào hoa phong nhã, “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”:
………..
Ta vốn mịt mờ đường về bến cũ
Nên thuyền tình lơ lửng mãi dòng sông
Ta nào phải kẽ thả mồi bắt bóng
Mệnh an bài nên tình kiếp long đong

Và bài thứ ba, dành cho bạn bè, PĐL ưu tiên “viết cho Đỗ Hồng Ngọc”. Nói ưu tiên vì các bạn người ở Mỹ, người ở Úc, thỉnh thoảng gặp nhau, đầu này, với Đỗ Hồng Ngọc, đã gần 60 năm chưa hề biết mặt, thế mà “thần giao cách cảm”, đọc văn thơ thấy rõ con người. Có lẽ PĐL nhớ Đỗ Hồng Ngọc qua tập thơ “Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác” mà Trần Vấn Lệ bảo khi đọc “…vui vì nghe trái tim mình đập”. PĐL nghĩ đến cuộc đời “hành y” của người bạn thầy thuốc của mình từ y đạo vào tâm đạo. Lấy đạo tâm làm thế đạo tu thân / Mang y đạo vào luân hồi chuyển thế .

HÀNH Y
(Viết cho Đỗ Hồng Ngọc)

Là một kẻ phụng thừa y đạo
Mang huyết tâm trả nợ nhân sinh
Nhìn thai nhi tượng hình trong bụng mẹ
Ta thấy được gì trong cõi u minh

Tiếng u oa, em chừng vừa tỉnh giấc
Mang vào đời chút âm vọng bi ai
Mắt ngấn lệ em nhìn quanh ngơ ngác
Nợ tiền thân có trĩu nặng bờ vai

Ta nhìn em lòng bâng khuâng thương cảm
Mai đây rồi xuôi ngược biết về đâu
Đường vạn lý ta chúc em nhẹ bước
Có hoa vàng nắng rải, ngợp trăng sao

Ta nào phải kẻ bi quan yếm thế
Chỉ xót thương cho tuổi trẻ bạc phần
Vòng tay ta đã bao lần ôm ấp
Những mãnh đời, ôi, ngắn ngủi mệnh căn!

Ta chọn hành y, cứu nhân độ thế
Ta độ được gì, đã cứu được ai!
Đêm chập chờn ta nằm đợi ban mai
Ngày thoi thóp ta lại chờ đêm xuống

Ta đã lớn lên giữa thời lửa loạn
Gió bụi mịt mù Nam Bắc phân ranh
Tim quặn thắt trước cảnh đời tang tóc
Hồn đớn đau cho thân phận Lạc Hồng

Ta vẫn biết hữu sinh thì hữu diệt
Nhưng đầu xanh nào đã tội tình gì
Một chữ Nghiệp có vơi niềm oán khí
Một hồi Kinh có dịu nỗi sầu bi

Ta đã một lần rong chơi địa phủ
Cầu Nại Hà, nhìn sóng gợn lăn tăn
Tâm tĩnh lặng giữa hai bờ sinh tử
Hồn nổi trôi theo con nước bập bềnh

Một kiếp nhân sinh chưa tròn cuộc nợ
Ngày tiếp ngày cười khóc với thế nhân
Lấy đạo tâm làm thế đạo tu thân
Mang y đạo vào luân hồi chuyển thế .

Phan Đổng-Lý
Melbourne Feb. 2013

phandongly

PĐL quá dễ thương phải không. Xa xôi ngàn dặm vậy mà hiểu bạn mình như đi… guốc! Nhưng mình ấn tượng nhất với PĐL là cái tính bộc trực, đôi khi có vẻ như “ngổ ngáo” mà trong lòng tràn đầy cảm xúc của anh. PĐL có lần thư cho Phan Bá Thụy Dương kể chuyện hồi đi học, anh rất ghét thầy Hiệu trưởng LT “ gặp mặt thì làm ngơ” nhưng với cô con gái của Thầy thì anh “gặp mặt mê mẩn ngó theo”. Cái đó anh gọi là “Thù cha mà không ghét con”! Cô bé đó vào trường sau bọn mình vài năm thì phải, nay chắc cũng đã 70 nhưng kiểu này gặp lại, có khi PĐL vẫn còn ngó theo mải miết chớ chẳng chơi! Phan Bá Thụy Dương còn kể cho mình và Huỳnh Ngọc Hùng nghe chuyện hồi đó mỗi lần chào cờ hát bài “Suy tôn” thì PĐL đã sửa lời thành: “PĐL, PĐL muôn năm!” rồi còn hát to lên nên bị thầy bắt phạt!…

*****
Chiều qua ghé thăm nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, con cụ Ưng Bình Thúc Dạ Thị. Nhà thơ Hỷ Khương đột nhiên bị điếc tai phải,  không còn nghe gì được nữa, phải đi bệnh viện Tai Mũi Họng truyền thuốc mỗi ngày, lại vừa châm cứu, kết hợp đông tây y!
Mình đùa cho chị vui: Trời cho mình có 2 tai, điếc tai phải còn tai trái. Vui lên mới phải chứ! Ai nói gì dễ ghét thì đưa tai phải ra nghe. Ai nói gì dễ thương thì đưa tai trái ra nghe. Càng hay chớ sao!
Tôn Nữ Hỷ Khương có nhiều thơ, nhưng mấy câu này thì được rất nhiều người nhớ:

Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện đời như nước chảy hoa trôi
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời!

Phải, chỉ có tình thương để lại đời thôi. Và bạn bè mà còn gặp nhau, dù trên văn thơ cũng đã tốt quá rồi phải không?
Hẹn thư sau,
Đỗ Hồng Ngọc.