Đầu
năm, nắng mới, cảnh quan đâu cũng đẹp. Biển
đẹp, Núi đẹp. Sông đẹp. Cả những con
đường mòn cũng đẹp. Chúng ta đi xa hơn những nơi
đang trước mặt chúng ta, được không? Được chớ
gì! Ai cấm mình đâu nào…
Bạn
nhé, chúng ta đi lên núi chơi! Đường lên núi rừng
chập chùng…Chập Chùng hay Trập Trùng? Chập Chùng
nghe hay hơn. Cái gì hay, đẹp, chúng ta nên hưởng,
trăm năm nào có bao lăm! Nhưng mà Kho Tàng Thiên Nhiên
vô tận, không ai giành giật hết của ai…Chúng ta không
nên ích kỷ!
Mời
bạn đọc bài thơ này…coi như bước khởi hành:
Vợ
Chồng Đi Chợ Xuân
Núi
rừng xa mờ xanh với xanh
Đường
non như lưng rồng uốn khúc
Vợ
ngồi lưng ngựa vợ đi trước
Chồng
nắm đuôi ngựa chân theo nhanh.
Vợ
chồng xuống núi đi chợ Xuân
Sương
sớm còn che như lấp lối
Vó
ngựa cuốn nhanh chồng ríu chân
Vợ
thương dừng cương ghìm ngựa lại.
Một
dãy rừng mai hoa ướt sương
Đường
Xuân đưa vợ chồng xuống núi
Váy
vợ phồng căng đầy gió đồng
Đuổi
theo vó ngựa mỏi chân chồng.
Vào
chợ đổi hang mua vải muối
Mắt
đưa nhìn quanh thấy rượu nồng
Chồng
ghé vào hang say mấy chén
Vợ
bán mua xong dắt ngựa đến.
Thấy
chồng dim mắt cười nắng Xuân
Ngã
nón tu lờ đưa chồng gối
Xòe
quạt bên chồng vợ phe phẩy
Chen
chân trong chợ người đi lại.
Rực
rỡ đường thêu vòng bạc rung
Gió
mát nằm lâu chưa hết say
Nâng
chồng lên ngựa chất hang đầy
Vợ
đi thong thả theo sau ngựa…
Về
núi tay cương chồng lỏng tay…
Bài
thơ trên, Vợ Chồng Đi Chợ Xuân, là một bài thơ rất
dễ thương của Bàng Sĩ Nguyên, quê Hà Nam, sinh năm 1925,
không biết hiện nay, năm 2013, còn sống hay đã khuất.
Dù gì thì bài thơ này sẽ còn mãi…Bàng Sĩ Nguyên là
một người tài hoa, vừa là thi sĩ (đã có bảy tập
thơ), vừa là văn sĩ (đã có hai truyện dài, ba truyện
ngắn), vừa là họa sĩ (có hơn một lần triển lãm
tranh). Tôi không “rành” lai lịch của Bàng Sĩ
Nguyên, nhưng tôi biết Bàng Sĩ Nguyên là người miền Bắc
của nước Việt Nam mình, Bàng Sĩ Nguyên sinh hoạt trong
vùng cai trị của chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, đối đầu với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa bị xóa sổ,
những tác phẩm miền Nam người miền Bắc mới có và
ngược lại những gì người miền Bắc làm ra xinh xắn
thì người miền Nam tiếp thu vui vẻ. Tôi gọi bài
thơ Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên là một
bài thơ xinh xắn. Nó không chỉ là trang chữ mà nó
còn là bức tranh. Chữ là tiếng nói, là sự thuyết
mình lọt vào lỗ tai người. Tranh…không cần mở
mắt nhìn mà thấy khi mình nhắm mắt và tưởng tượng,
thì đó cũng là một bức tranh sống động vậy. Dân
tộc mình, Kinh hay Thượng, người Miền Xuôi hay Mạn
Ngược, Bắc hay Nam…đều “ấn tượng” cả!
Sẵn
đây tôi cũng xin có chút ý kiến về Người Kinh / Người
Thượng, Người Miền Xuôi / Người Mạn Ngược.
Người Kinh / Người Thượng là cách phân biệt đồng bào
mình ở miền Trung, nơi đặt Kinh Đô Triều Nguyễn, Thần
Kinh / Huế. Thần Kinh là Kinh Đô Đẹp Đẽ, các Vua
triều Nguyễn ở đây từ năm 1802 khi vua Gia Long lên
Ngôi. Chúa Nguyễn còn lại để nối dõi duy nhất
sau cuộc chiến Trịnh Nguyễn Phân Tranh là Nguyễn Phúc
Ánh.
Cuộc
chiến Phân Tranh kéo dài suốt 400 năm, cậu bé Nguyễn
Phúc Ánh là người của Tộc Nguyễn duy nhất sống sót
(Phúc chớ không phải Phước nha, Phúc và Phước viết và
nói khác nhau để phân biệt Vua và Dân – dân nói
nói với nhau thì Phước, khi nói về Vua phải là Phúc,
một cách kỵ húy). Chúa Nguyễn Phúc Ánh vừa chạy
trốn quân Tây Sơn, vừa mở mang bờ cõi. Vào Ninh
Thuận, Bình Thuận trà trộn với người Chiêm Thành rồi
lấn lướt họ, đồng hóa họ, gọi họ là Người Thổ,
tức Dân Bản Thổ, Bản Địa, không phá hủy phong tục
và truyền thống của họ. Cũng thế khi vào Nam, qua
Biên Hòa, xuống Định Tường, lên Châu Đốc, ra Sóc
Trăng, Trà Vinh…hòa đồng với người Thủy Chân Lạp
(một dân tộc anh em / cùng huyết thống với dân tộc
Thượng Chân Lạp, tức là người Khờ Me trên vùng cao
(ngày xưa ta gọi Cambodge là xứ Cao Mên rồi Cao Miên, nằm
trong ý nghĩa của chữ Cao Man – bọn rợ ở vùng cao, Man
là Man Di). Vua Sihanouk của Cambodge (tên nước do Thực
Dân Pháp đặt) gửi văn thư ngoại giao yêu cầu Tổng
Thống Ngô Đình Diệm phải nói đúng tên nước láng
giềng của Việt Nam Cộng Hòa là Cambodge, không được
dùng chữ Cao Miên nữa; năm 1975, Pol Pot bỏ chữ Cambodge
đổi lại là Kampuchea, thời Hunsen bây giờ thì nước này
tên là Cambodia viết theo lối Mỹ) Người Miên ở
trên nước ta không thích về sống với người vùng cao,
họ nhận là Người Thổ như người mình gọi họ và bây
giờ thì là Người Khờ Me Kờ Rôm, coi như một Bộ Tộc
Miên có truyền thống và tập tục địa phương riêng như
hồi xưa…. Các Vua Nguyễn không chủ trương đanh
phá để cướp đất của các dân tộc miền núi dãy
Trường Sơn, họ, những dân tộc Gia Rai, Kờ Ho, Mờ Nông,
Mạ, Chu Ru, Sì Tiêng… tự động xin triều đình Huế cho
họ sống bình yên và triều cống hàng năm. Vua
Nguyễn, kề từ Minh Mạng đồng ý, và gọi họ là Người
Thượng – dân trên núi, phân biệt với dân đồng bằng
nằm trong quản lý của triều đình thì gọi là Người
Kinh. Ở miền Bắc, dân tộc nào sống yên theo dân
tộc đó, tuyệt nhiên không có xích mích gì. Người
đồng bằng, tức vùng châu thổ sông Hồng, ở miền xuôi
thì là Người Miền Xuôi. Đi ngược lên thì gặp
người Mèo (nay là Hờ Mông), người Thái, người
Dao…Riêng người Nùng, gốc là người Tàu (bọn Rợ Hán
phía Bắc nay tự xưng là Trung Quốc) đói quá tràn xuống
đất nước ta, sống riêng và dân ta gọi là Người
Nùng, nay gọi là Người Tày, bọn này có thời đánh phá
triều Nguyễn, thời Minh Mạng, Tự Đức, cầm đầu là
Nông Văn Vân, về thời hậu Tự Đức thì có Giặc Cờ
Đen do Lưu Vĩnh Phúc cầm đầu. Dân đồng bằng miền
Bắc, đông nhất thì gọi là Người Miền Xuôi, theo triều
đình Huế, không gọi là Người Kinh. Người sống
trên miền núi, Trung Du và Thượng Du thì được gọi là
Người Mạn Ngược. Người Pháp thì gọi họ là
Người Thiểu Số. Hiện nay tất cả dân sinh sống
trên lãnh thổ Việt Nam thì đều là Người Việt Nam, tuy
nhiên mỗi miền Người có Sinh Hoạt Riêng tùy theo Mùa
Màng và Lễ Hội, chính quyền Trung Ương không can thiếp
mà chỉ giúp đỡ, khuyến khích…hay chấp nhận cho qua
biền! Cũng là một cách “mị dân”!
Nhân
“tào lao xịt bộp” chỗ này, tôi cũng muốn bày tỏ
thêm cái chuyện Lạc Long Quân buộc vợ là Âu Cơ chia bầy
con, nửa theo Lạc Long Quân ra biển, nửa theo Âu Cơ lên
núi. Bầy con theo Lạc Long Quân thật lộn xộn, nay
hòa mai nghịch, chiến tranh triền miên, trong khi bầy con
theo Âu Cơ thì hòa thuận, ai lo phận nấy, không tranh
giành cãi cọ (ngoại trừ Người Nùng gốc gác bền
Tàu). Người mình rất yêu kính bà Âu Cơ, từng gọi
Bà là Bà Chúa Ngàn, lạ thay Bà Hiền Từ thế lại không
được sử sách ghi là Đức Mẹ Âu Cơ, chúng ta khiếp
nhược quá ư? Chúng ta chỉ gọi mẹ Maria, mẹ của Chúa
Giê Su là Đức Mẹ thôi, chúng ta Vọng Ngoại đến thế
à? Ngộ nhỉ!
Hiện
tại, theo thống kê thì dân tộc ta đang sống chung nhau
gồm có sáu mươi ba Dân Tộc, thế là gần đủ Một Trăm
tức Nòi Bách Việt. Chúng ta qua Lào, qua Thái, lên
Miến Điện xuống Malaysia, sang Indonesia…vẫn thấy có
người nói một phần nào tiếng Việt và phong tục hao
hao người Việt, hỏi ra thì tổ tiên họ di cư từ xưa,
từ trên xuống, từ Tây qua…Vậy là…ta có đủ Một
Trăm Dân Tộc rồi nhé!
Tôi
có hồi ngạc nhiên, thời chính phủ Ngô Đình Diệm, thấy
một phái đoàn người Xiêm, tức là Thái Lan, sang thăm
Việt Nam gọi là Giao Hảo, ghé Tùng Nghĩa, phía Nam cách
Đà Lạt 27 cây số, nơi tập trung người Thái di cư nắm
1954, nói chuyện với người mình thật rôm rả bằng
tiếng Thái và cât cho đồng bào mình ở đây một ngôi
chùa, nay vẫn còn, gọi là Chùa Thái. Té ra người
Thái ở Thái Lan và người Thái ở Việt Nam cùng một
tiếng nói, là cùng “Một Mẹ Mà Ra”! Dễ thương
ghê nơi phải không bạn?
*
Thôi,
dài dòng quá không khéo lòng thòng lượt bược, tôi trở
lại bài thơ hồi nãy…Bài Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của
Bàng Sĩ Nguyên là một Bài Thơ Hay. Hay ở chỗ nó
không phải là bài thơ Rất Thơ (như bài Nguyệt Cầm của
Xuân Diệu hay bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm) mà nó
hay ở chỗ Mộc Mạc, Dung Dị - thấy sao thì nói vậy,
nghĩ sao thì tỏ bày như vậy, không màu mè, không đẽo
gọt. Đây là một bài-thơ-hình-ảnh. Nó là một
Cảnh Sinh Hoạt hơn là bài ca du dương…Nó cho ta thấy
cách sinh hoạt của đồng bào mạn ngược ra sao, cái hiền
hòa của họ và cái Tình Yêu Tuyệt Vời…không ảnh
hưởng game hay computer chút nào…
Một
bài thơ lồng khung một Thiên Đường Hạ Giới, ta tu ngàn
đời chắc chi có được (bởi ta không có Tình Yêu Chân
Chính, không có Niềm Mơ Ước Hồn Nhiên). Cũng sợ
lắm nếu mai kia mốt nọ mà trên núi non ta có những phi
trường, có những bến xe, và đường núi có nhiều xa
lộ, liệu cái Văn Minh Miệt Vườn có còn không đây?
Cái cảnh Chồng thương Vợ để vợ trên ngựa kẻo vợ
mỏi chân, cái cảnh Vợ thương Chồng phe phẩy quạt cho
bay hơi rượu cho chồng ngủ ngon, tìm đâu ở Người Kinh
nhỉ! Ở Người Kinh: gây lộn và gây lộn!
Cãi nhau và cãi nhau! Có theo đạo Thiên Chúa thì cũng
cứ ly dị đếch sợ…ông Vua nào! Do đó mà chiến
tranh và chiến tranh! Do đó mà chỗ nào cũng là chốn
Gió Tanh Mưa Máu!
Bàng
Sĩ Nguyên làm thơ tưng tửng thế mà không chê được.
Có lẽ nhà thơ để hết cái tình mình vào thơ? Để
hết tấm lòng mình vào thơ? Ôi Thơ là một cái Nhà
Kho chưa cái Tình và Tấm Lòng người ta…đã là nên Thơ
rồi.
Tôi
“khen” bài thơ của Bàng Sĩ Nguyên, mong bạn đọc đọc
bài tôi viết đây cũng nên nhất trí cho tôi vui với.
Đừng đọc bài thơ của Bàng Sĩ Nguyên rồi bĩu môi,
miệng nhai ngấu nghiến mấy câu của Trần Thy Nhã Ca
nhen:
Đời
sống ôi buồn như cỏ khô
Này
anh, em cũng tựa sương mù
Khi
về tay nhỏ che trời rét
Nghe
giá băng mòn hết tuổi thơ!
*
Tôi
hoàn toàn không bình phẩm bài thơ Vợ Chồng Đi Chợ Xuân
của Bàng Sĩ Nguyên theo cách của nhà phê bình nào.
Bởi bài thơ đó quá dễ thương, tôi muốn nhân đây mời
bạn đọc thêm vài bài khác…để thấy thơ nói về rừng
núi rất là đáng đọc. Đường lên núi rừng quả
thật chập chùng…
Đây,
hai bài “duy nhất” của Đỗ Hữu. Gọi là Duy Nhất
vì có-một-không-còn-hai…lần để thấy Đỗ Hữu khoe
thêm thơ của ông. Đỗ Hữu chết rồi, chắc chết
đâu hồi cuối thập niên 1940 của thế kỷ trước. trong
cuộc chiến tranh Đông Dương… nếu Bùi Giáng không gom
nhặt được thì chúng ta mất đi hai bài thơ rất là dễ
thương!
Đây
này, thưa bạn đọc:
Sầu
Ai Lao
Đỗ
Hữu
Đã lâu trăng cứ vàng hiu hắt
Mây
cứ sầu tuôn núi võ vàng
Lá
vẫn phai chàm trên sắc áo
Mưa
nguồn thác đổ đá mù sương.
Giữa
ngày lạc lõng trên rừng rậm
Với
nắng bâng khuâng mây thuở nào
Với
núi xanh lơ chiều tím nhạt
Mây
trời bàng bạc sầu Ai Lao.
Lưng
đèo quán gió mờ hun hút
Thôn
bản nằm trơ dưới nắng chiều
Tai
vẫn nghe đều dòng thác đổ
Người
ơi, thương nhớ biết bao nhiêu!
Ở
đây hơi đá chiều vây khắp
Khép
chặt mình tôi giữa núi rừng
Buồn
quá ngày đi đêm trở lại
Hoàng
hôn hoa bản phấn rưng rưng.
Người
có theo tôi lên dốc nắng
Nhìn
xem hoa rải sắc trên đường
Chiều
nay gió thổi buồn ghê lắm
Lá
đổ sau chân một lối vàng.---
Và…
Chiều
Việt Bắc
Đỗ
Hữu
Nắng
xuống phương nào người thấy không?
Mà
đây chiều tím rụng song song
Vàng
tuôn mấy lối ngày thu quạnh
Ai
liệm hoàng hôn kín mắt trong?
Khói
thuốc lên mờ xanh bóng ai
Phương
xa chiều xuống ngút sông dài
Đường
kia có phải sầu xưa đọng?
Trở
bước hoa lau trắng ngập đồi.
Con
đường đất đỏ mờ sau bản
Thung
lũng vàng tơ nắng trở chiều
Núi
biếc chập chùng vây ải lạnh
Dặm
về lá đổ phận tàn xiêu…
Rừng
núi âm u chiều Việt Bắc
Chầy
ngày lạc bước ai ngồi than
Buồn
xưa chiều đọng sầu lau lách
Chòi
cũ nằm nghe gió dặm trường…
*
Hai
bài thơ của Đỗ Hữu không dính dấp gì tới bài Vợ
Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên, sở dĩ tôi đưa
vào đây là…đổi món ăn tinh thần đãi bạn đấy mờ.
Nhưng bài nào thì cũng là Đường Lên Núi Rừng Chập
Chùng…Những ngày Tết sẽ không bao giờ chấm dứt khi
chúng ta cứ còn gần gũi nhau! Bạn ơi, hãy nhìn ra
bầu trời xem kìa, nắng Xuân rất đẹp. Những bài
thơ tôi mời bạn hôm nay với mỹ ý của tôi muốn bạn
thấy tôi là người-có-ích ít nhất cũng cho một thiểu
số người-còn-yêu thơ!
Hãy
mở lòng ra, ta có Tết. Hãy mở lòng ra, ta với Xuân!
Trần
Vấn Lệ