văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Wednesday, May 18, 2011

TRƯƠNG ĐẠM THỦY * Ma Xem Hát




Mới đó mà gần hết mùa đông, chỉ còn hơn mươi ngày nữa đã đến xuân rồi. Đêm càng thêm lạnh. Mấy đứa trẻ ngồi làm một vòng tròn cạnh ngoại Bảy dưới mái hiên nhà ngoại. Ngọn đèn bão treo trên cây xà đỡ mái hiên lắc lư trong ngọn gió bấc hắt hiu. Ngoại Bảy têm miếng trầu nhai tóp tép như để nhớ lại chuyện đời xửa đời xưa…

          Gánh hát nghèo
  • Hồi đó ngoại còn nhỏ lắm, như tụi bây thời bây giờ. Mẹ ngoại, tức bà cố cũng làm bà đỡ như ngoại. Chuyện bà cố đi đỡ đẻ về khuya gặp ma quỉ yêu tinh coi như chuyện cơm bữa bởi hồi đó làng mình còn hoang vu lắm. Nhà cửa thưa thớt, cách nhau năm sáu tiếng hú mới có người nghe. Hồi đó có một gánh hát nghèo, cố nói gánh đó thường di chuyển trên ghe, nay làng nầy mai làng khác hát để kiếm cơm nuôi đoàn nghệ sĩ cũng nghèo như gánh. À, đó là gánh hát của ông bầu Hớn. Hôm đó mới hơn ba giờ chiều từ xa trên con sông chảy qua làng mình đã nghe thấy tiếng trống hiệu vang lên. Người lớn, trẻ em đều náo nức reo lên: “Gánh hát về! Có gánh hát về!”.
    Nửa giờ sau có hai chiếc ghe lớn cặp bến chợ. Bầu Hớn nhảy lên bờ chạy lên Nhà Việc, tức là nơi các ông hương chức hội tề làm việc, xin phép tắc. Dễ thôi, chỉ cần dành nguyên hàng ghế mời danh dự cho hương cả, hương chủ, hương thân, hương hào, hương quản… là xong thôi. Gánh hát Bầu Hớn nhìn qua đã thấy nghèo rồi, từ bầu gánh đến đào kép đều quần áo lôi thôi. Phông màn của gánh hát thì cũ kỷ có cái rách dọc ngang phải đắp vá nhiều chổ.
Ngoại Bảy nhả miếng trầu châm một điếu thuốc. Ngưng nghỉ giây lâu ngoại tiếp:
- Được làng xã chấp thuận cho hát xong bầu Hớn vội vả cho dựng sân khấu ngay trong lòng chợ. Bảng quảng cáo tuồng “Phạm Công – Cúc Hoa” được dựng ngay trước cửa chợ. Trống và phèn la cũng được các “cậu chài” nổi lên inh ỏi. Năm đó các làng xã bị hạn hán thất mùa nên gánh bầu Hớn đã đi hát một tháng ròng mà đào kép đói vẫn đói bởi chẳng có ai có tiền để đi coi hát. Đến làng nầy bầu Hớn hy vọng khán giả khá hơn để toàn thể nhân viên còn có cơ may chịu đựng. Trời sụp tối trống phèn la càng thúc giục nhưng chỉ ngoài đám trẻ con quần áo lôi thôi lếch thếch ra chẳng thấy có một người lớn nào đến xem. Mặt mày bầu Hớn nhăn nhó thảm hại. Nếu như đêm nay ế khách thì ngày mai đào kép lấy gì ăn? Ông Hớn cứ đi ra đi vào cửa chợ ngóng khách, cũng chẳng thấy ai ngoài một ít người kẻ chợ lác đác trước sân chợ.
Đám trẻ chắc lưỡi:
- Tội nghiệp ông bầu quá hả ngoại?
Ngoại buồn buồn:
- Ờ, tội nghiệp đời xướng ca ba chìm bảy nổi quá. Đêm ấy ngoài các ông hương của làng xã và năm ba khán giả khá giả ra cả rạp hát trong lòng chợ vắng hoe vắng hoắc. Bầu Hớn tuy đành cho diễn mà trong bụng khóc ròng. May sao tuồng diễn hay quá nên các ông hội tề thương tình hùn nhau cho mấy bao gạo và chục con gà con vịt cho đào kép có gì lót dạ qua đêm.

Đêm hát vãng, bầu Hớn rầu rỉ đi ra ngoài sân chợ rồi thẫn thờ đi xuống bến sông. Chợ làng khuya càng thêm vắng vẻ, con trăng khuyết đầu tháng trôi bềnh bồng trên nền trời như con thuyền vô chủ đứt dây neo. Bỗng từ đâu đó dưới bến sông đi lên một người đàn bà mặt hoa da phấn. Vừa đến gần bầu Hớn người đàn bà đã lên tiếng:
- Có phải ông đây là bầu Hớn?
Bầu Hớn mau mắn:
- Ừ, tôi là bầu Hớn đây.
Người dàn bà mỉm cười:
- Tôi biết gánh hát của ông đang ế nên đến giúp ông. Mai ông lui ghe đi đến hát chỗ làng tôi đi, bảo đảm có hơn trăm khách. Mà không lo, tui bao dàn.
- Làng của cô đây là làng nào, ở đâu?
- Tui chỉ cho. Mai lúc nước lớn ông cho ghe di ngược về phía dòng nước, đi đến lúc trời sụp tối sẽ thấy có người cầm đuốc ra bờ sông đón. Đừng lo, sân khấu đã có người dựng sẵn, đến là hát ngay lại có gà qué, heo cúi để các người ăn khuya. Đây, tui đặt trước cho lượng vàng, ngày mai nhớ làm đúng lời tui dặn.
Bầu Hớn mừng rỡ:
- Dạ dạ, ngày mai đúng giờ nước lớn chúng tôi sẽ lui ghe.

Hôm sau mới sáng bầu Hớn đả cho nhân viên chuẩn bị hòm trấp đưa lần xuống ghe. Đến trưa chợ vắng người thì đưa tiếp phông màn xuống. Đào kép thì di chuyển từ người một. Họ lui ghe mà như đi ăn trộm vì sợ các ông hội tề cản trở bởi xin phép hát mười ngày cớ sao mới một đêm mà lặn mất. 

Đến giờ nước lớn nhớ theo lời dặn bầu Hớn cho lịnh lui ghe. Chẳng biết có ma quỉ nào che chở không mà bầu đoàn đào kép của gánh bầu Hớn có cả ba bốn mươi người ra đi lúc mới xế chiều mà cả chợ, cả ban hội tề cũng chẳng ai thấy chẳng ai hay.

Mặt trời xế dần, xế dần… Hai chiếc ghe của gánh bầu Hớn bắt đầu đi vào một đoạn sông cây dừa nước, cây bần, cây tạp mọc um tùm. Chiều dần xuống đoạn sông càng hoang vắng. Lũ chim nghe mái chèo khua động cất cánh bay tán loạn. Cảnh vật hoang vu quá làm ai nấy trên thuyền đều lo sợ. Riêng bầu Hớn nhờ có cây vàng lận lưng nên vẫn hớn hở chỉ tay cho thuyền đi tới. Rồi mặt trời cũng thấp dần, thấp dần. Phía trứơc mũi thuyền đỏ như máu màu nắng quái hoàng hôn. Hai bên bờ sông cây cối đã chìm lẫn vào bóng tối mờ ảo. Bản thân bầu Hớn cũng bắt đầu lo lắng tự hỏi: “Hay là bọn cướp dụ mình đến đây để cướp của giết người? Nhưng bây giờ cũng chẳng làm sao quay ghe lại được. Vàng của người ta mình đã nhận, dành một liều một ăn một thua”.

Đang nghĩ vẫn vơ như vậy đột nhiên phía bên phải thuyền trên bờ sông đã thấy có người mặc toàn đồ trắng tay quơ quơ ánh đuốc. Bầu Hớn mừng rỡ ra lệnh cho thuyền cặp vào. Lại xuất hiện thêm hàng chục người cùng xuống thuyền khuân vác hộ rương trấp phông màn.

Theo chân đoàn người tiếp đón, đoàn bầu Hớn đi dưới ánh đuốc qua một đoạn rừng cây thưa thì bỗng trước mắt đoàn hiện ra một thôn xóm sầm uất, nhà ngói tường vôi san sát, đèn sáng như sao sa. Đi thêm một khắc đã thấy một rạp hát bề thế, đèn “măng sông” treo hàng chục chiếc. Chung quanh rạp lại treo đầy đèn lồng ánh sáng tỏa ra thật đẹp. Người thiếu phụ hôm qua xuất hiện chào đón nồng nhiệt bầu Hớn. Thiếu phụ tươi cười:
- Rạp, sân khấu, phông màn đã chuẩn bị đâu đó xong xuôi. Đêm nay ông cho diễn luôn hai tuồng “Phạm Công – Cúc Hoa” và “Phụng Nghi Đình” cho làng xem cho thỏa mãn.
Bầu Hớn cười khổ:
- Làm sao một đêm mà diễn được hai tuồng?
Nữ nhân khoát tay:
- Không lo, đêm nay sẽ dài lắm. Cứ diễn, diễn hết một tuồng sẽ có cháo gà, cháo vịt chiêu đãi để lấy sức. Rồi còn heo qué muốn ăn thứ gì có người lo thứ đó.

Đoàn bầu Hớn vào rạp đã thấy choáng váng bởi cảnh trí rực rỡ ở đây. Sân khấu với phông màn cực kỳ lạ mắt. Đèn màu giăng mắc khắp nơi, lại nghe một mùi hương gì đó như hương nhang cúng. Được một lát thì đàn sáo nổi lên rôm rả như nhạc đám ma. Rồi từng đoàn, từng đoàn khán giả đủ cả già trẻ lớn bé có cả trăm người lần lượt vào rạp.

Nhìn khán giả đông đảo chất kín rạp làm bầu Hớn vô cùng hoan hỉ. Vị nữ nhân xuất hiện căn dặn:
- Bây giờ ông cho diễn đi, đừng lo gì cả. Hôm nay tui bao dàn. Ngoài tiền mua dàn, diễn hay còn có thưởng hậu.
Quá sướng bầu Hớn cho lệnh diễn. Được tin sẽ có nhiều tiền ban thưởng nên ai nấy đều ra sức ca diễn sao cho thật hay. Cứ mỗi lớp tuồng hay đều được khán giả phía dưới ném tiền lên ào ào như bươm bướm, bầu Hớn cho người ra sân khấu lượm ôm cả ôm không hết.

Xong vở Phạm Công – Cúc Hoa ra sau rạp hát đã thấy bày dãy tiệc đầy thịt thà gà cháo cho các nghệ sĩ giải lao. Ai nấy no nê lại thấy tiền thưởng quá nhiều nên mọi người lại nức lòng diễn tiếp tuồng hai, rồi đền tuồng thứ ba. Mà lạ quá, sao đoàn hát cứ diễn hoài mà đêm vẫn chưa hết, hình như đêm vẫn còn dài lắm. Song cứ diễn, cứ ăn uống, cứ có tiền thưởng nên ai nấy đều hưng phấn phô diễn hết tài năng. Hết Phạm Công – Cúc Hoa đến Lưu Kinh Đính Giải Giá Thọ Châu lại đến Lữ Bố Hí Điêu Thuyền rồi Tôn Tẩn Giả Điên mà trời vẫn chưa sáng. Dù được cho ăn uống thỏa thuê nhưng các diễn viên tài tử, nghệ sĩ của gánh hát bầu Hớn đều quá mệt mỏi. May sao khi họ sắp hết hơi thì tiếng gà ran trong thôn xóm mé Đông đã chợt gáy. Đám khán giả nháo nhác đứng dậy. Nữ nhân bao dàn nhét vội vào tay bầu Hớn mấy thỏi vàng lớn rồi biến mất. Cả đoàn hát sau đó tự nhiên rơi vào giấc ngủ say sưa chưa từng có. Từ bầu gánh cho đến đào kép, nhân viên đều lăn ra sân khấu ngủ say như chết, tiếng mớ, tiếng ngáy vang lên khắp nơi.

Mãi cho đến tận trưa mới có người đến lay bầu Hớn:
- Chú Hớn, chú Hớn dậy đi, sao cái gì lạ quá!
Bầu Hớn dụi mắt nạt:
- Lạ lạ cái gì, tao đang ngủ mà.
- Dậy, lạ lắm chú ơi!

Bầu Hớn mở mắt ra nhìn quanh rồi kêu “Trời” một tiếng đoạn ngất xỉu. Bởi lạ thật! Chung quanh xóm làng nhà ngói tường sơn, rạp hát lộng lẫy đâu biến mất hết rồi. Cả đoàn hát, từ đào kép đến mấy cậu chài đều đang nằm ngủ say như chết giữa một bãi tha ma mồ cao mả thấp, bia mộ cái đứng cái xiêu. Chung quanh những người nằm ngủ thì la liệt những tờ giấy tiền âm phủ.
Khi bầu Hớn tỉnh dậy ông sờ túi thấy còn mấy thỏi vàng liền mở ra, ai ngờ chỉ là vàng mả. Sợ hết cả hồn ông gào lên:
- Lui ghe mau lên, đêm rồi chúng ta hát cho những con ma ở nghĩa địa nầy. Lui ghe lẹ lên.
Cả đoàn chạy ra hai chiếc ghe thì thấy cả hai chiếc ghe đang nằm chơ vơ trên một bãi sông cùn chung quanh đầy lau sậy không một bóng người…
Ngoại kể một hơi rồi kết:
  • Nhưng nghe nói sau đêm diễn tuồng cho ma coi thì gánh hát của bầu Hớn bắt đầu phất lên, diễn ở đâu là có đông khán giả đến đó. Có khán giả không muốn đi xem hát rồi cũng như bị ai ám vẫn phải kiếm tiền mua vé đi xem cho bằng được. Có người trong đoàn hát nói là những con ma mê tuồng hát đã trả ơn cho gánh hát của bầu Hớn. Có người còn luận: Ma coi vậy chớ cũng có tình nghĩa, làm ơn cho nó, nó chẳng quên ơn…

TRƯƠNG ĐẠM THỦY

HẢI PHƯƠNG * Và gió mấy ngọn mầm sơ sinh từ biển

tranh Đinh Cường






Có phải em là thi ca 
thi ca là mái nhà hữu thể (em)
thơm tho ngực mở rộng thể tích lục địa ngôn ngữ và diện mạo mặt trời nung nấu tâm linh hừng đông mẩy ngọn.

Gió mẩy ngọn mầm sơ sinh từ biển
hải cảng cô đơn mở neo những con tầu đau điếng ra đi nhạt nhòa dấu cổ sơ biệt tích
ta biệt dạng buổi sớm mai không có em khung cửa bảo tàng viện trí nhớ hờ hững khép.

Lỡ mai sau không còn bọn thi sĩ làm thơ thứ thiệt nhân loại (và trái đất) sẽ bị hủy diệt trong sa mạc nung nấu
chính em là thi ca làm địa cầu xanh mát
mùa màng em gieo xuống luống cày thời gian những mộng mị và những giấc chiêm bao vĩnh cửu rằng tình yêu là lương thực cho thế giới đói
rằng giòng sông lặng thinh trôi theo những hò hẹn và rác rưởi
còn ta kẻ hoài vọng tháng giêng 
ngóng đợi những mùa gặt bội thu hư vô
và gió
mẩy ngọn mầm tử sinh từ biển.

Có phải thi ca lay chuyển ngũ quan không ngừng chấn động
như độ rung êm ái đêm ngày của địa cầu
như độ rung em cảm xúc toàn diện sắc mầu lãng mạn của thế kỷ pha trộn hừng hực thổ nhưỡng lịch sử nhiệt đới đốt cháy rụi tàn đời sống lúc nào cũng đang nhen nhúm.
Có phải em là sa mạc xanh của thơ
tháo nước tràn lũ vào những giòng sông khô cạn ngọn nguồn tươi nguyên cảm xúc
và ta be bờ nguồn cơn giữ lại
giữ lại mãi mãi dấu yêu còn sót những tương tàn vụn vỡ.

Có phải thơ là tất cả nên cũng là không
không tất cả muôn ngàn thế giới bày biện cho riêng cơn hồng thủy tràn ngập mặt đất
ta chìm lún sâu vào em tan biến những khoảnh khắc hiện sinh bọt bèo đau đớn
nhưng không thể nào kết thúc âm mưu đào thoát trốn chạy khỏi
linh hồn trói buộc ta đậu lại rúc vào tóc em ngủ không rời buổi chiều muộn cuộc tái sinh đỏ lửng.

Có phải gió mẩy ngọn mầm sơ sinh từ biển
ở chỗ sóng vỗ trũng xuống phía dưới xa chân trời vời vợi ngọn hải đăng mơ màng ngậm cứng vành trăng
em cấn thai thơ ta
càn khôn cấn thai địa cầu xanh
biển hàm tiếu nguyên đán.
 
Âm vọng tháng giêng em không ngớt nguồn cơn ở chỗ nách lá mọc rễ tâm linh hừng đông cồn cào nứt mở
Và Gió Mẩy Ngọn Mầm Sơ Sinh Từ Biển.


Hải Phương

TRẦN THIỆN HIỆP * Nhịp Phách Phù Vân


1.
Cổng trời mở lối phù vân
Bước đi Lưu Nguyễn mấy tầng non cao
Phách xênh vẳng nhịp phương nào
Tiếng ca vỡ hạt mưa vào hư không 


Tình xa nhóm lửa chờ mong
Khơi đêm huyền hoặc khơi lòng tỉnh say
Người về trăng ngả triền mây
Áo sương sao lạc vai gầy hoang vu
 

2.
Tỉnh ra rượu đẫm màu thu
Lá vàng lối cỏ sương mù mông lung
Sát na cõi giới vô cùng
Vẫn ta đối diện chân dung một đời


Cười vang vọng sóng trùng khơi
Soi trăng tiền kiếp gọi mời lãng quên
Dặm ngàn nhạc khúc tàn đêm
Lẫn trong cánh gió qua thềm nhớ ai
 

3.
Trăm năm bờ bãi sông dài
Nước đi trăng ở có phai nụ hồng
Người xưa bạc áo thong dong
Trúc tre âm vọng nỗi lòng ai hay
 

Rừng sương sao ẩn ngàn mây
Gió trăng gom góp không đầy chiêm bao
Hạc vàng mỏi cánh phương nào
Cỏ lau hoang lạnh trời cao với mình
 

4.
Cõi người nhật nguyệt phù sinh
Công-danh-thành-bại vương đình phế tan
Phủi tay còn lại cái nhàn
Thong dong cạn chén bạn vàng mười phương
 

Mõ chuông vẳng tiếng vô thường
Hồng trần nghiệt ngã mà thương mãi đời
Thơ gieo chén ấm rượu mời
Gió trăng còn đó cuộc chơi chia người
 

TRẦN THIỆN HIỆP

VƯƠNG VŨ NGỌC * Anh Thuần: Người Phóng Viên Chiến Trường Can Đảm




Ký giả Anh Thuần tên thật là Phan Bá Thuần Hậu, sinh năm 1937 tại quận Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Trước khi về Phòng Báo Chí QĐ, Cục Tâm Lý Chiến anh đã cộng tác với các nhật báo, tuần báo dân sự như Chuông Mai, Ngày Mới… với bút hiệu Hoàng Long và Phóng Viên Kính Trắng.
Là một ký giả kiêm phóng viên chiến trường độc thân, Anh Thuần luôn luôn có mặt tại Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến để sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào, ngày cũng như đêm bằng mọi giá theo các cánh quân hầu kịp thời thâu thập tin tức và hình ảnh để cung cấp cho Đài Tiếng Nói Quân Đội, nhật báo Tiền Tuyến và các báo dân sự khác, kể cả báo của người Trung Hoa.

Những tin tức chiến sự nóng hổi và hình ảnh trận chiến cháy bỏng cũng như các cuộn băng phỏng vấn tù hàng binh được gởi về tòa soạn và đài phát thanh liên tục để cống hiến thính giả và độc giả khắp 4 quân khu và những bản tường trình tại mặt trận của anh đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Anh còn là người phụ trách phụ trang Phóng sư hình ảnh của tờ Tiền Tuyến.
Anh Thuần xem việc đi làm phóng sự chiến trường tại 4 vùng chiến thuật của người phóng viên là một niềm vinh dự và là một thử thách lòng dũng cảm cũng như khả năng chuyên môn, vì thế anh đi liên tục. Mới từ vùng 4 về anh xin sự vụ lệnh đi vùng 2. Đêm nay ở Pleiku, sáng mai ở An Lộc. Buổi trưa ăn dã chiến ở Khe Sanh, buổi tối có mặt tại Chương Thiện…

Tôi và Thuần quen nhau đã trên 10 năm trước khi tôi gia nhập đoàn phóng viên Quân Đội - Cục Tâm Lý Chiến. Nhưng sau này vì tình hình chiến sự gia tăng, tôi và anh ít có dịp đi dạo, bát phố Sàigòn vì cả 2 chúng tôi đều là phóng viên tiền tuyến. Mỗi đứa phải theo một đơn vị hành quân, vùng chiến thuật khác nhau. Mỗi toán phóng viên đi công tác thường có 4 người thuộc các ngành: Báo chí, Phát thanh, Truyền hình và Điện ảnh. Vì thế tôi và Thuần khó có dịp đi chung. Hôm nào được “xả hơi” - nếu không về nhà em anh là Phan Bá Thụy Dương, thì Thuần đến nhà tôi. Hai đứa lai rai, chén chú chén anh, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện trên trời dưới biển, tâm sự lôi ra hết, suốt đêm không ngủ. Anh kể cho tôi nghe những cuộc tiến quân nhịp nhàng, dũng cảm, thần tốc của các quân binh chủng mà anh đã từng tham dự.

Anh Thuần đã luôn bám sát các cuộc hành quân với những trận đánh lớn trên khắp 4 quân khu, trong đó có nhhững vùng hỏa tuyến dử dội như Khe Sanh, Quảng Trị, Phù Cát, Phù Mỹ, U Minh thượng, U Minh hạ, Mỏ Cày, Giồng Trôm, Vĩnh Bình và Long Khánh… Khi 2 mặt trận Kontum và Bình Long vào lúc dầu sôi lửa bỏng anh đã cùng bị kẹt với các đơn vị bị bao vây. Cộng quân pháo kích như mưa, T.54 mở đường cho bộ binh địch ồ ạt tiến công nhiều ngày. Nhưng với lòng dũng cảm, sức chiến đấu kiên cường của quân lực ta, đồng thời với sự xuất hiện, yểm trợ kịp thời của Không quân và Pháo binh buộc địch phải rút lui và Anh Thuần mới có dịp từ giã trận địa với những tài liệu, hình ảnh hiếm hoi, quí báu.

Trong những thời kỳ sôi động như thế này các phóng viên chiến trường của Cục đều hiện diện để nhận công tác, mà AT thì dĩ nhiên là người đứng trong hàng tiền đạo. Điều này cũng dễ hiểu vì anh là người chưa vương bận thê nhi lại ưa xông vào nơi lửa đạn, bất chấp gian nguy. Anh gan lì đến nỗi nhiều anh em đã thường đùa bảo anh là người điếc không sợ súng, cùi không sợ “lửa đạn” vi xi [VC]. Nhờ thường có mặt từ giờ xuất quân đến lúc kết thúc cuộc chiến với các quân binh chủng nên anh đã viết, viết rất nhiều về các trận đánh, về sự kiêu hùng và lòng quả cảm của các chiến sĩ trong QLVNCH.


Một điều đáng ghi nhận là anh đến đơn vị nào cũng được thương mến. Từ đơn vị trưởng đến các chiến binh đều coi Thuần như người thân trong gia đình. Khi anh thiếu, họ chia xẻ cho anh từng điếu thuốc lá, từng gói cơm sấy… Nếu đêm nào ở lại đơn vị công tác, AT thường ngồi tâm sư., hay gác chung với anh em, với bộ quân phục rộng thùng thình mà anh mặc đã làm mọi người cảm động. [Khi có phóng viên đến nơi công tác thì đơn vị trưởng thường tặng, cấp cho 1 bộ quần áo, giầy, nón sắt 2 lớp để phù hợp, thích nghi với các quân nhân tại chỗ. Vì thế có nhiều phóng viên khi về Sàigòn vẫn mặc “trang phục” oai như lúc tháp tùng đơn vị hành quân.]
Cuộc hành quân hỗn hợp Lam sơn 719 cấp Quân đoàn đánh vào sào huyệt đầu não của Việt cộng trên phần đất hạ Lào và cuộc hành quân đánh vào cục R của Trung ương cục CS miền Nam tại vùng Mỏ vịt trên đất Kampuchia do Quân đoàn 3 điều động cũng không thiếu sự hiện diện của anh. Cả 2 cuộc hành quân san bằng ổ giặc Cộng tại Long toàn và Ba động thuộc tiểu khu Vĩnh Bình, vùng 4 Chiến thuật, anh cũng vui vẻ tham dự.

Đặc biệt là lần này AT theo cánh quân của Tiểu đoàn 404 ĐPQ biệt lập thuộc vùng 4/CT do Thiếu tá Ngô Gia Truy làm Tiểu đoàn trưởng đưa quân vào mật khu Ba động, phá tan sào huyệt này, nơi mà chúng thường huyênh hoang là bất khả xâm phạm. (Tôi xin mở ngoặc để nói qua về đơn vị biệt lập này. TĐ 404 ĐPQ được thành lập do quyết định của BTL Quân đoàn 4, Vùng 4 CT với nhiệm vụ lùng và diệt địch, phá vỡ các căn cứ hậu cần địa phương của VC. Các chiến sĩ của tiểu đoàn là những thanh niên Việt, Miên thuộc tỉnh Vĩnh Bình và các vùng phụ cận nên họ rất am tường địa hình, địa vật và được huấn luyện kỹ càng chiến thuật tấn công thần tốc vào các mật khu của địch. Quân phục và vũ khí của các tay “hảo hán” này được trang bị y như các đơn vị VC.)

AT bám theo toán tiền sát gồm 3 chiến sĩ âm thầm bò sát đến con rạch bên hông cơ quan địch. Anh em vừa định lội qua thì bị đội cảnh vệ VC tấn công dữ dội. Hai chiến sĩ ta hy sinh. Địch quân ồ ạt tiếng công với ý định bắt sống AT và người tiền sát còn lại đang đơn độc chống trả, chờ đồng đội lên tiếp ứng. Trong lúc nguy cấp, Thuần lấy ngay quả lựu đạn trên tay người bạn tử thương, rút chốt tung về phiá giặc đang xông tới, một tiếng nổ dữ dội và 3 tên VC ngã gục. Thừa dịp AT nhanh tay liên tiếp tung bồi thêm 2 quả nữa buộc địch quân khựng lại. Vừa lúc ấy 3 cánh quân của ta đã siết chặt vòng vây. Trận ác chiến chỉ kéo dài 40 phút thì các chiến sĩ 404 ĐPQ đã san bằng căn cứ địch với kết quả: tiểu đoàn lưu động VC tỉnh Trà Vinh bị xóa tên. Ta bắt sống 1 huyện ủy, 1 giặc cái tiểu đoàn trưởng có biệt danh “nữ tướng vú dài” - một ác quỷ khét tiếng miền Tây và nhiều cán binh VC. Ngoài ra, ta còn tịch thu một số tài liệu quan trọng cũng như các loại vũ khí cộng đồng và cá nhân.

Trong dịp này phóng viên quân đội AT đã được BTL Quân đoàn 4 trao tặng giấy tuyên dương về Cục TLC vì đã anh dũng diệt địch cứu bạn.
Vào “mùa Hè đỏ lửa” AT ít khi có mặt tại thủ đô. Người PV gan dạ này luôn hăng say với nhiệm vụ trên khắp các chiến trường sôi động. Tại biển Đông anh cũng bám theo chiến hạm Trần Khánh Dư trong trận hải chiến với Trung Cộng ở Hoàng Sa. Những bài tường thuật trên báo chí và đài phát thanh của Thuần được loan tải liên tục không thiếu sót.

Vì nhu cầu tin tức trong lúc chiến trường đang hết sức sôi động nên Cục TLC phải tung các PV ra 4 quân khu, nhất là tại Vùng 1. Cuối năm 1972 tôi được lệnh ra Vùng 1 để tăng cường cho toán PV đang công tác tại đây. Tôi rất mừng có dịp làm việc chung với AT trong lúc này, nên tôi vội thu sếp hành trang đầy đủ cho chuyến công tác dài hạn đó. 7 giờ sang tôi đã có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất để lên chuyến C130 của không lực Hoa kỳ bay ra Huế.
Sau 65 phút bay phi cơ hạ cánh nhẹ nhàng tại phi trường Phú bài. Vừa bước ra khỏi phi cơ tôi đã nhìn thấy AT đang đổ mắt nhìn về phía hành khách quân nhân lần lượt đi ra. Thuần nhận ra tôi rất dễ vì tôi là hành khách VN và mặc thường phục. Thuần vội chạy ra ôm tôi, cả 2 chúng tôi cùng im lặng trong nỗi vui mừng. Một lúc lâu Thuần dẫn tôi ra cổng phi trường.

Tại đây, tôi được nhà văn Phan Du, trưởng ban Chương trình và ký giả Hoàng Quy trưởng ban Tin tức, Thời sự đài phát thanh Huế ra đón. Anh Phan Du cho biết là đã thuê phòng ở khách sạn Hương giang cho tôi trong suốt thời gian công tác tại Vùng 1. Hoàng Quy đưa ý kiến là trước hết, chúng tôi ra chợ Đông ba ‘lai rai” đã, sau hãy bàn việc nghỉ ngơi.

Đêm hôm ấy 4 chúng tôi hẹn nhau ra Phú cam chơi vì có thêm 3 PV nữa vừa được gởi ra tăng cường. Đó là các anh Mỹ [Mỹ Voi]: PV Điện ảnh, Văn Tuế và Ngọc Bình: PV Truyền hình. Cả bọn 7 anh em chúng tôi vừa uống được mấy chai thì toán tuần tiểu hỗn hợp của tiểu khu ập đến. Họ chả cần hỏi han gì, mà chỉ yêu cầu chúng tôi theo họ về đồn Quân cảnh. Tại đây, người thượng sĩ đồn trưởng yêu cầu chúng tôi xuất trình Công tác lệnh, giấy phép mang súng. AT gom tất cả giấy tờ giấy tờ để trước mặt người đồn trưởng, ông ta chẳng xem xét gì cả, lùa hết chứng từ tùy thân của chúng tôi vào ngăn kéo bàn rồi bảo chúng tôi:
- Các anh ngồi đây, sáng mai chúng tôi giải quyết.
Nói xong anh ta bỏ đi vô trong. Bất mãn trước thái độ của người Thượng sĩ đồn trưởng, tôi đề nghị anh Hoàng Quy gọi về Tiểu khu báo cáo sự việc [HQ là nhà binh, cấp bậc Đại úy]. Độ 30 phút sau một vị Trung úy CTCT Tiểu khu cùng với người tài xế đến đồn QC. Đến lúc này ông Thượng sĩ già mới lôi đám giấy tờ của chúng tôi ra xem và nói với Tr/U CTCT:
- Mấy ông này vô kỷ luật lắm. Ăn mặc lính chẳng ra lính, dân chẳng ra dân nên chúng tôi bắt về đây.
Vị sĩ quan CTCT nói cho người đồn trưởng biết chúng tôi là PV của Cục TLC vừa được phái ra Vùng 1 công tác. Trong bọn chúng tôi, có người là quân nhân, có người là công chức quốc phòng nên việc mặc quân phục không bắt buộc theo nguyên tắc. Người đồn trưởng QC nhìn bọn tôi rồi mỉm cười lắc đầu:
- Dù các anh là nhà báo cũng phải tôn trọng quân phong, quân kỷ chứ, mong các anh hiểu như thế… Sau cùng anh ta trả lại giấy tờ cho chúng tôi. Cả bọn leo lên chiếc xe 4x4 về Đài Phát thanh.


Hôm sau chúng tôi được khối CTCT Tiểu khu cho biết Trung tướng Tổng Cục trường TC/CTCT ra Huế chủ tọa cuộc họp các vị Trưởng khối CTCT Quân khu 1 vì thế chúng tôi phải đình chuyến đi Quảng Trị đến ngày hôm sau để làm phận sự tường thuật cuộc họp trên Đài phát thanh và báo chí. Buổi chiều sau khi tiếp xúc với Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng xong, Trung tướng cho gọi bọn tôi đến trình diện. Sau khi chào kính, ông bảo 5 người chúng tôi ngồi và nhỏ nhẹ nói:
- Việc các em bị “tóm”, khối CTCT đã trình tôi.
Ông nhìn chúng tôi với ánh mắt hiền từ và tiếp:
- Từ nay các em đi công tác phải hết sức giữ gìn tác phong một người phóng viên quân đội. Các em đại diện cho ngành CTCT đến địa phương công tác, nhớ đừng khi nào làm tổn thương danh dự của ngành. Tôi mong các em hiểu nhiều trong điểm này. Đây tôi tặng 5 em món tiền nhỏ này để đi cắt tóc và giải lao.
Ông móc trong túi ra trao cho 5 đứa tôi 10 ngàn đồng rồi quay sang nói với Đại tá TKT:
- Mấy thằng em này vất vả lắm, nếu khi được xả hơi chúng nó có bừa bãi điều gì anh thông cảm cho bọn chúng nhé.

Những lời giáo dục của người Mẹ nhân từ, khoan dung đức độ cùng những lời che chở hết sức “chính trị” của vị chủ tướng làm cả bọn chúng tôi vô cùng cảm động. Mặc dầu chỉ là một PV hạng bét nhưng nhờ nghề nghiệp mà tôi thường xuyên được diện kiến với các vị “Sao” và chư vị “Sấm, Sét” nên lần này được Sao chủ tướng chiếu mạng lại là sao thái dương nên bọn tôi vui mừng quá đỗi.
Mưới ngàn đồng của chủ tướng cho, “ngũ quỷ” chúng tôi chả cắt tóc tai gì mà cả bọn kéo nhau ra chợ Đông ba đánh chén - lẽ dĩ nhiên là có sự hiện diện của nhà văn Phan Du và ký giả Hoàng Quy của đài phát thanh Huế, và cũng không thể vắng mặt người sĩ quan CTCT đã “giải cứu” chúng tôi đêm hôm trước.

Trong lúc anh em đang lai rai thì Mỹ Voi nói:
- Chúng mình phải làm việc hết mình, phải làm thật đẹp để đáp đền lòng ưu ái của ông tướng chứ.
Thiếu úy Bình đáp:
- Hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó, dù có chết cũng vui lòng.
Câu nói này không ngờ thật linh nghiệm. Bình đã đền nợ nước tại chiến trường Quảng trị. AT thì góp máu ở Khe sanh, còn tôi thì gởi lại Quảng Đức nửa ngón tay đeo nhẫn. Sau 20 ngày công tác tại Quân khu 1, chúng tôi chia tay. AT bay về Quân đoàn 2, tôi về Chương Thiện.

Sau những ngày theo cánh quân của Trung tá Võ Ân [thời gian đó] tham chiến ở vùng tam biên, AT về Sàigòn, anh đến nhà tôi tâm sự:
- Quả thật tao không ngờ lại thoát lần này ở Quảng Đức. Tao bị VC đuổi bắt, nên lạc vào một xã người Thượng – băng qua nhiều nơi toàn là mìn, lựu đạn gài và hầm chông, mạng sống như ngàn cân treo sợi chỉ. Mỗi khi nghĩ đến tao còn hú vía, tâm trí bang hoàng. Tao có cảm tưởng như vừa từ cõi chết về nơi sống an toàn vậy.

Mỗi lần trở lại thủ đô và chưa có công tác thì AT thường rủ một số bạn bè rất thân đến nhà tôi như nhà văn Nguyễn triệu Nam, nhà thơ Huy Thanh, ký giả Nguyễn Lê, giáo sư Hán văn Nguyễn bá Hùng tức Thầy Khoá Tư và nhà văn Hà ngọc Ngân. Anh em tâm sự hàn huyên, chén anh chén tôi cho tới sáng. AT là người ít nói nhưng tình cảm dạt dào. Mỗi lần chia tay nhau Thuần thường đứng lặng người nhìn bạn thật lâu rồi mới bước đi. Tôi nhìn theo anh trong lòng đầy thương mến, thương mến người bạn chí thân lúc nào cũng sẳn sàng dấn thân vào lòng lửa đạn, hiểm nguy.

Ngày 30-04-75, như thường lệ, tôi đến phòng báo chí QĐ làm việc lúc 8 giờ. Hôm đó phòng vắng tanh, cả nhân viên trực cũng như nhân viên văn phòng đều vắng mặt, chẳng có ai. Tôi nhìn lên bảng ghi công tác thấy tờ giấy Công tác lệnh ghim trên đó và một hàng chữ của anh Đặng trần Huân dặn: “Cậu lên Suối Máu thay cho AT để AT đi Kiến Tường”. Tôi gỡ tờ CTL, mở hộc tủ lấy máy ảnh và bỏ khẩu 765 vào túi quần lên Honda phóng vội đi mà trong lòng ngao ngán.

Qua khỏi cầu Thị Nghè, thấy đồng bào xôn xao, kẻ lên người xuống hớt hải, sợ sệt. Sự việc này chúng tôi đã biết từ sáng 28. Nhưng biết chỉ để mà biết thôi, còn phận sự thì vẫn phải thi hành. Tôi lao Honda như bay về hướng Thủ đức. Vừa đến ngã ba Cát lái thì nghe tiếng gọi: “Ê Ngọc, mày dừng lại”. Tôi đạp thắng, nhìn qua đường thì thấy AT ngồi sau Honda của một quân nhân mang phù hiệu Sư đoàn 18. Thuần kêu tôi lại gần và bảo:
- Tan hàng rồi. Mày về lo cho vợ con mày đi thôi.
Thấy trên cánh tay anh còn ướt máu, tôi hỏi:
- Mày bị thương hả, có nặng không? Tao đưa mày đến nhà thương nhé.
- Không cần, tao phải về nhà thằng Thụy Dương em tao để thuyết phục nó “dzọt”. - Mày hãy cẩn thận., đi đi, tao sẽ gặp mày sau. Nói xong, AT dục người bạn chạy xe đi ngay.

Tôi quay lại Cục TLC thì gặp anh Đặng trần Huân đứng nói chuyện với Trung tá Tạ Tỵ, tôi hỏi anh:
- Tính sao đại ca? Anh nhìn tôi cười buồn:
- Còn tính sao nữa! Về lo cho gia đình đi. Có gì lạ tôi cho biết sau.
Tôi chào từ giã 2 anh ra xe về quận 4.

Đầu tháng 7/75 tôi nhận được giấy gọi đến số 2 bis Hồng thập tự trình diện ủy ban quân quản cùng với các anh em báo chí độ trên 40 người. Trong số đó có vài anh em làm việc chung với tôi, nhưng không có Anh Thuần.. Sau đó họ đưa chúng tôi đến giam ở số 4 Phan đăng Lưu [bên cạnh tòa hành chánh Gia định cũ]. Bốn tháng sau họ đưa tôi đến trại giam Núi Dinh thuộc tỉnh Bà Rịa. Trại này là nơi giam cầm những người làm văn nghệ. Trong thời gian này tôi không nghe tin tức gì của Thuần cả. Giữa năm 78, tôi từ núi Dinh được giải về K4 để chờ lệnh phóng thích. Tại đây, tôi được vài anh em tù cũ cho biết là họ có thấy ký giả AT bị biệt giam, nhưng sau đó thì bị giải đi nơi khác, chẳng biết họ họ đưa anh ấy về đâu.

Sau đó một thời gian khá lâu, vào một buổi chiều mưa rơi tầm tã, tôi vừa đi làm về chưa kịp thay quần áo thì đứa con thứ nhì của tôi dẫn một người khách đến. Nó chạy vội vào nhà nói nhỏ với tôi: “Ba, có chú Thuần đến”. Tôi liền chạy ra đón Thuần. Thê thảm quá! Trông Thuần còn tệ hơn một người ăn mày. Quần áo anh rách tả tơi, chiếc nón lá trên đầu đã mất cạp. Chân không giầy dép và AT đứng không vững.

Tôi dìu Thuần đến nằm trên chiếc ghế bố rồi lấy quần áo của tôi cho Thuần thay. Cả người anh ta nóng như rang. Vợ tôi vội đem chai dầu cù là bảo tôi thoa cùng người cho Thuần và cho Thuần uống viên Contac trong khi bà ấy chạy ra đầu xóm mua bát cháo nóng cho Thuần ăn. Sau khi ăn uống xong, AT tỉnh lại dần. Cầm tay tôi Thuần thều thào trong hơi thở:
  • Tao gắng gượng đi tìm mày từ sáng đến giờ. Nếu không gặp cháu Hưng thì chắc tao đã chết rồi.
  • Mày từ đâu về đây? Tôi hỏi.
  • Số 4 Phan đăng Lưu thả tao lúc 6 giờ chiều hôm qua. Tao mệt quá 2 ngày nay chẳng có gì để ăn. Sau khi bọn chúng tống tao ra khỏi cổng, tao kiệt sức quá nên bò vào Lăng Ông ngủ. Sáng nay định ra chợ Bà Chiểu xin ăn, thì may quá gặp anh Vi bán báo ngày trước. Anh này thuê xe chở tao đến Khánh Hội tìm mày trước.
  • Tạm thời mày ở đây, tao lo thuốc thang cho mày thật khỏe rồi sẽ tính. Tôi bảo Thuần.
  • Không được, mày phải đưa tao về nhà thằng Dương để nó lo việc trị bệnh và tìm cách đưa tao đi. Tao được biết em tao đã tạm yên rồi. Thuần đáp một cách dứt khoát.
Tôi biết tánh Thuần, ít nói nhưng cương quyết. Anh đã tính toán việc gì thì không dễ gì thay đổi, bỏ cuộc. Tôi dặn vợ tôi gói bộ quần áo của tôi và chút ít tiền cho AT lận lưng [gia đình tôi lúc này rất bi đát] và đôi dép cao su vỏ xe hơi cho Thuần. Tôi nói với Thuần:
- Mày ráng giữ gìn sức khoẻ, vợ chồng tao và các cháu rất thương mến mày. Mày cần gì đến tao cứ bảo Thụy Dương cho tao biết.

Thuần cầm gói đồ mà không nói, theo tôi dắt xe đạp ra khỏi cửa. Đến khúc quẹo, Thuần quay lại nhìn vợ con tôi thật lâu rồi mới leo lên xe để tôi chở đến nhà em anh. Tôi cũng thấy vui vì bạn mình đã được tự do và tôi biết Thụy Dương sẽ sắp xếp được mọi sự ổn thoả cho AT
Tháng 10/92 gia đình tôi đến Hoa kỳ định cư. Tôi có nhờ báo chí và đài phát thanh loan tin tìm Thuần, nhưng đến nay vẫn bặt vô âm tín. Hôm nay, ngồi viết bài này ngõ hầu vơi đi nỗi nhớ thương người bạn tâm giao và để nhờ “duyên văn nghệ” đi tìm AT người bạn có với tôi những kỷ niệm vui, buồn trong suốt thời gian dài cầm bút.

Vương Vũ Ngọc


Thơ Anh Thuần
CHIỀU CHIẾN LOẠN


Em về đâu, hỡi người em lạc lõng.

Chiều đã buông và mây đã giăng mờ.
Trong lửa đạn máu tanh thời chiến loạn.
Còn mong gì tìm được chốn an cư

[viết trên đại lộ Máu - 1972]

AT * Japan 1988