văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Thursday, January 5, 2012

TRẦN VẤN LỆ * Câu Cuối Một Bài Thơ


Đêm cuối năm.  Giờ chót của năm.  Tôi không buồn ngủ.  Chưa đi nằm.
Ngoài hiên trăng sáng, vầng trăng sáng, một nửa vầng trăng cũng sáng trưng!

Sáu mươi phút cuối, tôi làm chi?  Nhớ bạn bè xa chớp chớp mi?
Mở máy nhìn chơi, mi chớp chớp, một hàng con chữ xếp hàng đi...

Tôi nhớ bâng quơ, nhớ một người!  Năm tàn tháng tận tình xa xôi.
Ai xa đâu nhớ về tôi nữa, thư xế nhận rồi, không có tôi!

Một trăm tấm thiếp khi cầm lại, vài cái, mà thôi, uổng tấm lòng!
Vàng đá gửi đi không thấy tiếc bởi lời châu ngọc cứ hằng mong!

Đêm cuối năm...
Giờ chót của năm...
Người tôi gần lắm đã xa xăm.  Thương sao bụi phấn thời lau bảng.
Nhớ quá học trò Bùi Thị Xuân!

Này cô giáo cũ hình trên blog, có biết tôi còn mấy phút không? 
Châu ngọc để đâu sao chẳng thốt, để chờ năm ngoái, hẹn sang năm?

Một người tôi nhớ gần gang tấc, má lúm đồng tiền Tết chẳng cho...
Tôi mở máy nhìn con chữ chớp, trăng ngoài cửa sổ bỗng thành thơ...

Em ơi câu cuối là câu đó.  Trăng với em nằm trên giấy khuya!

Trần Vấn Lệ

Tuesday, January 3, 2012

Trần Kiêm Đoàn * Thiền Giữa Đường


Đối với một người Mỹ làm việc bình thường thì mỗi năm có một kỳ nghỉ lễ dài nhất là ngày Lễ Tạ Ân – Thanksgiving – kéo dài từ thứ Năm đến Chủ Nhật của tuần lễ cuối tháng 11. Lễ nầy liên quan đến “ân tình” giữa dân da trắng và da đỏ châu Mỹ trong buổi đầu lập quốc của nước Mỹ chứ chẳng liên quan gì đến tôn giáo nào cả. Theo tthông lệ, ngày thứ Năm ăn gà Tây, ngày thứ Sáu là ngày mua sắm bận rộn nhất trong năm trên toàn nước Mỹ. Đó là ngày Thứ Sáu Đen – Black Friday – vì thiên hạ đổ xô đi mua hàng đại hạ giá. Người mua phải xếp hàng chờ thâu đêm đợi các cửa hàng mở cửa, gây cảnh phố xá đông nghẹt người, đường sá kẹt xe, hàng hóa chất đầy, khách hàng xuôi ngược, xách mang hụt hơi nên trần gian xinh đẹp nầy bỗng thành… đen thui, đen thủi!
Bé Na từ New York về thăm nhà ở Cali nhân dịp lễ Tạ Ân. Khác với mọi năm, sáng ngày Black Friday năm nay, tôi ngạc nhiên vì cô con gái út thức dậy rất sớm, nhưng ngồi lặng lẽ trong phòng và không hề nhắc đến chuyện mua sắm như mọi năm. Mấy chị hỏi, Na trả lời đơn giản: “Na có các thứ đủ dùng rồi. Để cho mấy người còn thiếu đi mua.” Tôi hơi ngạc nhiên vì thái độ trầm tĩnh của cô gái út thường láu táu nhất nhà. Mặc dầu bé Na cũng làm nghể thầy thuốc Tây, hàng ngày phải làm việc với bệnh nhân trong phòng mạch như hai cô chị, nhưng bản tính hồn nhiên cười to, nói tếu pha chút nghịch ngợm với người thân vẫn không khác đi từ khi ra trường làm việc. Ngạc nhiên với sự thay đổi, tôi phải hỏi loanh quanh hoài bé Na mới tiết lộ là dạo này thích ăn chay và thường tu học thiền tịnh với các nhà sư Tây Tạng sau giờ làm việc hơn cả năm nay rồi.
Giữa ngày, trời bỗng mưa to gió lớn. Cơn bão đầu mùa đang đến. Mấy cô chị, cô em có vẻ thất vọng ra mặt vì chiều nay cả nhà phải đi ăn đám cưới con gái bác Thuận, một người rất thân vượt biển Đông cùng ghe với gia đình chúng tôi 30 năm trước. Ấu Hương, cô dâu, là bạn thân của bé Na nên đã mời Na làm người điều khiển chương trình cho tiệc cưới. Ngoài lý do là đôi bạn thân, còn có lý do tế nhị hơn nữa về ngôn ngữ và văn hóa vì đây là cuộc hôn nhân của hai gia đình Mỹ - Việt nên cần một người trẻ nói được cả hai thứ tiếng và biết ứng xử tự nhiên những nét có liên quan đến văn hóa cả Ta lẫn Người trước đám đông. Những người ăn mặc đẹp đẽ, áo quần tươi tắn như hoa mà mặt buồn rười rượi. Nhìn lại, chỉ có bé Na là không bị bụi mưa thấm đẫm khuôn mặt và nụ cười.
Giờ mời tiệc cưới đã tới gần mà cơn mưa bão vẫn còn vật vã. Ra khỏi nhà, đúng là cảnh “nhà giàu đứt tay, ăn mày đổ ruột”. Xa lộ số 5 với tốc độ thường ngày 120 cây số một giờ như đông đặc lại với bốn dãy xe nối đuôi nhau chạy chậm rì rì. Xe cảnh sát, xe câu, xe chữa lửa, xe cứu thương hụ còi inh ỏi, đèn chớp loang loáng. Hết chiếc nầy đến chiếc khác chạy luồn lỏi giữa các dòng xe. Mọi người ngồi ẩn kín trong xe. Tôi ngồi ghế trước với bé Na cầm tay lái. Những “hành khách tài xế ghế sau” là bà mẹ và mấy cô chị bẻm miệng cũng là những tay lái xe đầy tinh thần Lương Sơn Bạc vì thường níu giờ làm đẹp, phải chạy đua tới nơi làm việc cho khỏi trễ giờ vào phút chót. Cô nầy hiến kế là phải lấn bên nầy, lách bên kia để lợi đường hơn một quãng. Cô kia cố vấn là phải tăng tốc đổi qua lối bên cạnh để chiếm thế thượng phong… Nhưng mặc ai nói ngã nói nghiêng, thì Na vẫn tỉnh như kiềng lửa xăng. Nhìn vào khuôn mặt tĩnh lặng như không có gì đáng chú ý của bé Na, lại đến lượt bố già nóng ruột lên tiếng, tôi hỏi:
- Sao con không gắng vượt trước một vài xe. Mình có việc cần mà.
Bé Na mỉm cười hiền hậu:
- Thì biết đâu người ta cũng cần như mình.
- Mình khác họ vì mình có đám cưới đang chờ. Con lại làm em xi – Master of Ceremony – nữa nên cần đến sớm hơn.
- Dạ, con biết. Trời gần tối rồi, lại gặp lúc mưa bão nên ai cũng có người chờ hết ba ơi.
- Con nắm chương trình trong tay, nếu trễ thì làm sao ăn nói với người ta.
- Mình giữ lời hứa, làm đúng hết sức mình đến sớm nhưng gặp chuyện trở ngại bất ngờ thì đành chịu thôi. Lo lắng cũng không làm mưa gió lặng được ba à.
Ngoái nhìn đằng sau thấy toàn cả những khuôn mặt đầy dáng vẻ căng thẳng. Nhưng liếc nhìn cô con út đang lái xe, vẻ mặt vẫn thư giản và bình lặng. Tôi cảm thấy sự nôn nao của mình dịu lại. Dường như sự an tịnh tạo ra được một không gian xa tít tắp để cuốn hút những dấy động ưu tư tạm thời vào thanh thản. Bé Na nhìn bố già cười tươi và bắt gặp nét cười thân thương trả lại.
Chúng tôi đến nhà hàng Happy Garden đã quá giờ mời nhưng khung cảnh vẫn còn trống trải. Khách dự tiệc cưới trú mưa trong xe đóng kính bịt bùng, chen chúc trên những ngã đường đầy mưa gió bây giờ mới lục tục kéo đến. Tất cả đều thoáng vẻ mệt mề vì lo sợ bất an trên đường đi và chưa dịu bớt sự căng thẳng vì lo lắng trễ giờ. Vừa bước vào cửa nhà hàng, gia đình bác Thuận và Ấu Hương đã ùa tới. Ấu Hương ôm chầm bé Na, giọng vui mừng và xúc cảm đến muốn khóc:
- Hú hồn hú vía, tao mừng quá vì mi tới được. Cứ sợ mưa bão mi không tới được hay tới trễ giờ thì chết tao thôi.
Bé Na nói nhẹ nhàng:
- “Don’t worry”! (đừng lo mà mệt), tụi mình vẫn sống nhăn răng đây nè. Tao tới “trễ sớm” một giờ mà vẫn còn bị sớm. Hì, hì… chờ bà con tới đông hơn chút nữa tụi mình sẽ bắt đầu vô chương trình mi nghe.
Bé Na xuất hiện trên sân khấu với vẻ tươi mát, nhẹ nhàng. Trong một dạ tiệc năm sáu trăm người vừa qua những giờ phút lên ruột trong cơn mưa bão, giọng nói trong trẻo cả tiếng Việt phụ tiếng Anh và dáng dấp thanh thản, thân tình, duyên dáng của người điều khiển chương trình đã cuốn hút cả khách Việt lẫn khách Mỹ.
Từ phía bàn khách dành cho người thân ngay trước sân khấu, tôi không rời mắt theo dõi bé Na. Suối nguồn tâm linh đã thay đổi điệu sống của con người, một điệu sống hài hòa và an lạc.
Sau buổi tiệc cưới gần như hoàn mãn, trên đường về, hai bố con lại rì rầm nói chuyện. Tôi tò mò hỏi bé Na:
- Các nhà sư Tây Tạng đã dạy cho con những điều gì mới lạ?
Bé Na trả lời gọn lỏn:
- Dạ, mấy Thầy dạy Thiền Giữa Đường!
Suýt nữa tôi cười to, hỏi lại:
- Cái gì là thiền giữa đường. Sao lại có pháp môn “Thiền Giữa Đường” kỳ cục vậy kìa?!
- Dạ đó là Middle Path hay Middle Way mà Thầy có nói thêm bằng tiếng Ấn Độ là Madhyama-pratipada hay Majjhima-pratipada gì gì đó khó đọc quá mà con quên mất rồi!
Tôi bỗng nhớ ra và cười giòn khoái chí, giải thích:
- A, đó là Trung Đạo; là con Đường Giữa chớ không phải là ở giữa đường. Đây là con đường đi mà Đức Phật đưa ra để tránh những cực đoan trong cách sống và tu học.
- Con dốt tiếng Việt mà ba làm con rối mù rồi đó. Cực đoan là gì ba?
- Hà, hà… cực đoan là chỉ theo về một phía. Nếu chỉ có một phía bên nầy thì sẽ có phía bên kia đối nghịch lại. Phía nầy mạnh thì phía kia cũng mạnh. Phía nầy nhẹ thì phía kia cũng nhẹ. Nên khi không dính mắc vào bên nầy thì sẽ tránh được phản ứng bên kia. Như thương lắm thì sẽ có ngày ghét lắm. Thương chút chút thì sẽ có ngày ghét chút chút. Trong cái nầy đã chứa sẵn cái kia. Hai phía cực đoan ấy cứ đối chọi qua lại với nhau hoài không bao giờ ngừng nghỉ.
- Dạ, con nhớ ra rồi. Thầy Lạt Ma dạy con có kể chuyện ngày xưa Đức Phật cũng đã thử như thế. Ngài đã bỏ giàu sang để tìm khổ cực. Ngài đã nhịn ăn, sống đói rách để quên mình mong tìm được điều tốt đẹp. Nhưng cách đó không “work”, nên Ngài phải trở lại đời sống bình thường thì mới thành ông Phật phải không ba?
Tiếng cười tươi dòn của bé Na kéo tôi về thực tại và hỏi:
- Vậy con có khi nào thực tập “Thiền giữa đường” chưa?
Đến lượt bé Na ngạc nhiên hỏi lại:
- Thì con đã sống theo “Thiền giữa đường” từ hôm về thăm nhà đến giờ Ba không thấy à?
Tôi đặt tay lên vai con gái, hỏi dồn:
- Khi nào vậy con?
Bé Na nói như cười vui với chính mình, kể ra:
- Buổi chiều từ New York về Sacramento, vì trời sương mù, máy bay trễ mất ba giờ, cả nhà lo, mẹ gần khóc nhưng con không thấy lo lắng vì máy bay trễ do thời tiết là thường. Chiều nay lái xe dưới trời mưa bão, nhưng con vẫn cảm thấy không khác gì như đi trong trời tạnh nắng. Ngồi trong xe, ba mẹ và mấy chị ai cũng muốn chen lên, vượt người khác vì sợ trễ giờ, nhưng con không thấy gì cần phải giành đường hơn thua với người khác vì họ cũng muốn đi đâu đó sớm như mình thôi. Vào nhà hàng, nhiều người chưa hết lo sợ, nhưng con lại thấy bình an và vui lòng giúp bạn… Thầy con gọi như vậy là sống thiền, sống đạo đó ba.
- Ừ, thì “bình thường giai thị đạo” mà.
- Nữa, ba lại nói Sino-Vietnamese (Hán Việt) làm con không hiểu gì hết.
- Ba quên. Câu đó có nghĩa là khi mọi cái đều ở chỗ bình thường, nghĩa là không bị lay động làm mất đi thế đứng yên ngay chính giữa như không cao không thấp, không sướng không khổ, không ghét không thương, không vội không chậm… như con lái xe chiều hôm qua là gần với đạo, là gần ở thế Trung Đạo.
- Dạ, thầy Lạt Ma cũng nói vậy. Thầy dạy thiền là sống với “mind” (tâm) chớ không phải sống với “body” (thân). Thân có thể nằm, ngồi, đi, đứng nhưng tâm vẫn ở “giữa đường” là thiền.
Tôi lại cười và nhắc:
- Ở Trung Đạo chớ không phải là ở giữa đường.
Bé Na như khám ra một điều gì mới lạ, kêu lên:
- Ơ! Mà con “thiền giữa đường” thiệt đó ba. Ngày nào con cũng phải lái xe đi làm xa. Đường Freeway ở New York kẹt xe khiếp lắm. Nhớ lời Lạt Ma, con đi sớm không sợ trễ, không phiền vì trời sương mù, không vui vì trời nắng hay mưa, không buồn vì trời mưa hay nắng. Lái xe là lái xe. Cứ nhắm thẳng đường mà chạy, không chen, không lách nên khỏi động đến ai nên cũng không có ai động đên mình. Gặp khi kẹt xe thì chạy nhanh, chạy chậm hay dừng theo xe trước; người ta sao mình vậy. Không lo, không sợ, không buồn, không giận ai làm gì cho mệt.
Nghe con bé kể chuyện lái xe trên đường cũng hay hay, nhưng vẫn còn thắc mắc, tôi hỏi:
- Như vậy con chỉ có “thiền giữa đường” khi lái xe thôi sao?
- Ui cha! Nhiều nhiều lắm kể không hết đâu. Khi con thấy vui và chẳng lo lắng gì trên đường chạy xe thì con tìm ra được nhiều thứ khác mà mấy năm trước con không thấy, không nghe. Trên đường đi con thấy rõ những con đường và con đường nào cũng có vẻ hay riêng của nó. Có khi con đọc được những câu vui vui, hay hay của người đi trước dán sau xe. Cũng có lúc con nghe cả hơi thở của mình ra vào mà thương cái mũi mình làm việc nhiều quá không có “vacation.” Rồi cái vui cứ theo con đến chỗ làm việc. Con thấy đôi mắt của người nào con khám cũng đẹp mà trước đây con thường thấy đôi mắt người trẻ thì đẹp, người già thì xấu, chỉ có mắt bệnh hay mắt khỏe thôi. Khi con tự vui trước thì người khác cũng vui theo. Rồi nhiều người thích con và con cũng cũng thích họ tự nhiên mà không cần cố gắng nói nhiều chi cả.
Tội nghiệp con bé cố tìm cho ra chữ, ra câu để kể chuyện vừa qua cho bố già nghe và quay về với thực tại:
- Chừ ngồi đây với ba mẹ và gia đình, sáng sớm mai con về lại New York rồi, nhưng con không cảm thấy mình buồn muốn khóc như mấy lần trước vì ở đâu mà con thương mẹ, thương ba, thương anh chị em thì con đang có ba mẹ và gia đình bên cạnh và trong tâm con rồi.
Tôi rơm rớm nước mắt vì cảm động và thương con, đồng thời có dịp suy tư về con đường Trung Đạo. Dẫu được gọi dưới bao nhiêu danh từ, định nghĩa qua bao nhiêu khái niệm, biện luận qua bao nhiên nan đề thì con đường chính giữa, ngay thẳng, không một mảy may dao động vẫn là con đường hóa giải hận thù, thuần hóa đua tranh và dụng trí cứu khổ.
Thật đáng vui vì bé Na không bị kẹt giữa những luận thuyết quá cao xa về đạo Phật. Người thuyết giảng đạo Phật có tài cũng ví như người nấu ăn ngon. Khi món ăn thơm ngon do một đầu bếp giỏi nấu ra thì người mù chữ hay nhà đại khoa bảng đều cùng thưởng thức hương vị thơm ngon của thức ăn mà không cần lý luận quanh co, không cần nhãn hiệu.
Đạo Phật đơn giản mà rắc rối như một dòng sông. Trăm nguồn trộn chung về một nhánh; trăm nhánh trộn chung về một dòng; và trăm dòng rồi cuối cùng cũng trôi ra biển cả.
Bởi vậy, chẳng lạ gì người theo Nhất thần thì cho đạo Phật là “duy vật” vì không tin có một Đấng Sáng Tạo sinh ra muôn vật. Người theo Đa thần thì cho đạo Phật là “duy tâm” vì ai cũng có ông Phật, ông Thánh, ông Bồ Tát, ông Thiện, ông Ác trong tâm; hễ dụng công tìm cầu ai thì gặp nấy. Người theo Duy vật lại cho đạo Phật là “dầu Cù là” vì chỉ thoa dịu vết đau tạm thời mà không chữa lành bệnh tình nhân thế. Người theo Duy tâm lại cho đạo Phật là thuốc “Xuyên Tâm Liên” vì bệnh gì cũng dùng được như “vạn pháp đều là Phật pháp”. Tất cả họ đều đúng khi nhìn từ vị thế của mình. Nhưng tất cả đều sai hay ít nhiều khập khiễng khi xét từ thế Trung Đạo.
Vì đạo Phật không có một con đường mà có quá nhiều con đường thường được gọi là “vô lượng pháp môn” nên tuổi trẻ như bé Na cần phải có nơi nương tựa tinh thần. Tìm về đạo Phật mà không gặp được ân sư chân chính là những bậc chân tu thì sẽ rất dễ rơi vào cảnh “rước lang băm về chữa bệnh, rước thầy cúng về trừ tà.” Cuối cùng, phải đối diện với cảnh niềm tin bị đổ vỡ. Hệ lụy khó tránh được là sự buông tay trôi theo những dòng cuốn thực dụng của chiến lược cải đạo toàn cầu đang diễn ra khắp nơi với kế sách “chinh phục tâm lý để hoán chuyển tâm linh”. Dẫu đó là một cách chinh phục mang tính bản năng tương tự như lề thói “lấy tình dục chinh phục tình yêu” giữa cảnh đời thường; nhưng nhất thời vẫn lôi kéo được bao người ra khỏi đường Trung Đạo.
Nếu chiều nay được đi lại trên con đường cũ – dẫu ở quê hương hay ở quê người – thì tôi vẫn nhớ “thiền giữa đường” như một hình ảnh rất vui nhắc nhở rằng ở Việt Nam đang có một phong trào gieo cười, tìm cười, tập cười với phương châm “vui là chính” gọi là Đạo Cười. Người theo Đạo Cười cho rằng Hội Long Hoa đang khai diễn và đức Phật Di Lặc đang hóa thần về trần xung quanh chúng ta: Ai biết cười là người Di Lặc! Đạo Phật là con đường cứu khổ mua vui. Có ông bạn thi sĩ đàn em của Bút Tre đã đổi luôn cả ca dao để kiếm một nụ cười rất… “thiền giữa đường”:
Dẫu xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phước chọc cho phải cười!
Việt Nam ta có tới mấy mươi kiểu cười, nhưng toàn cả những nụ cười có đeo theo vũ khí. Chỉ có độc nhất một kiểu cười: Cười thống khoái phát ra từ cái tâm mở rộng, bình an, vô sự, vui thật trong lòng, không so đo tính toán như… Thằng Bờm có cái quạt mo.
Sacramento, mùa Noel 2011
Trần Kiêm Đoàn

Monday, January 2, 2012

NGUYỄN LỆ UYÊN * Buổi Sáng Trong Làng

Gà vừa cất tiếng gáy sang canh, Dự vội vã bật dậy nhóm bếp nấu ấm nước pha trà, loại trà nát như cám được phân phối theo tem phiếu trên cửa hàng mậu dịch của hợp tác xã. Uống loại nước chan chát không mùi vị khiến anh có cảm giác như lúc ở trại Thập hái lá cây rừng sao vàng thay trà. Dẫu sao trà cám vẫn hơn nước đun sôi và nước đun sôi vẫn hơn loại lá rừng đắng chát. Với lại, thời buổi này không thể tìm đâu ra thứ trà ướp ngâu, ướp sen… mà có thì cũng không có tiền mua. Cái gì cũng có thể trở thành thói quen, anh thầm nghĩ và uống cạn bình trà trước khi đứng dậy ra tháo cổng chuồng.


Lúc lùa đôi bò ra ngõ, vợ Dự vừa kịp lóp ngóp ngồi dậy, hỏi nhóng theo:
-Sáng nay anh ăn ghé khoai lang hay mì?
Dự nhổ phẹt bãi nước bọt xuống nền đất, xoay cây cày sang vai phải, từ bìa sân gạch nói với:
-Gì cũng xong. Đầy bụng là quý rồi.


Đôi bò theo thói quen, ra khỏi ngõ rẽ qua truông trái, chậm rãi bước thẳng ra đồng. Cây cày trên vai bị trở vai liên tục, vì hồi nào tới giờ anh có biết cày cuốc là gì. Học chưa hết năm đệ Tam tới tuổi phải vào lính, đánh nhau suốt từ năm này sang tháng khác cho đến lúc bị gán cho tội cầm súng đế quốc chống lại nhân dân. Cái tội tày đình đó phải học tập cải tạo như bao nhiêu người khác cùng cảnh ngộ đến gần hai năm. Hai năm theo đúng nghĩa của người tù khổ sai để cuối cùng cầm mảnh giấy rơm vàng ố quay về trình diện địa phương. Như vậy kể cũng may mắn: Đạn bom chưa giết chết Dự. Bệnh tật, đói khát, sơn lam chướng khí… trên rừng núi không vật ngã được anh. Dự vẫn sống nhăn răng để trở về và chịu đựng tiếp những khổ nạn của thân phận thằng ngụy quân cầm súng bắn phá cách mạng, chống lại nhân dân…


Cây cày đè nghiến trên vai. Màn đêm lờ mờ. Cây cày bị xoay trở liên tục. Lúc ngang qua xóm Gòn, lũ chó chạy ra thọc mõm qua bờ rào sủa như muốn xé rách màn đêm. Cả một đàn chó trong xóm cùng gào lên như thể Dự là quân trộm cắp, là bóng ma đang lởn vởn trong làng. Ra tới chòi canh đầu xóm, người du kích quấn chiếc mền thu lu quanh cổ, đang bập bập điếu thuốc chỉ thấy đốm lửa đỏ như que nhang, quẹt đèn pin thành vệt dài một lượt, hỏi:
-Cày sớm anh Hai?
-Cày sớm về nghỉ cho khỏe.
-Ngồi hút điếu thuốc đã.
-Thôi, để tranh thủ. Tôi chịu nắng dở lắm - nói và Dự thúc đôi bò bước nhanh.
Bóng đêm vẫn còn đậm đặc, tiệp với màu cây cối hai bên đường. Tiếng chó sủa thôi rát nhưng tiếng gà gáy thì bắt đầu rộ lên. Cũng tiếng gà ấy, nhưng ngày trước nghe giục giã, còn giờ thì nghe mỏi mòn, eo óc, giống tiếng kẻng lệnh treo giữa xóm, trên cây duối, điều khiển mọi hoạt động của đám người trong làng.


Đôi bò lầm lũi bước. Dự lầm lũi bám theo chúng, trở thành vị cứu tinh của cả nhà. Dự áng chừng cũng gần bốn giờ sáng. Bốn giờ bắt đầu mắc bò vào quải, bắt đầu đánh rõng, cày đến khi mặt trời gát qua khỏi đọt tre cũng gần mười giờ. Mười giờ mở bò, mở trước lúc tiếng kẻng lệnh vang lên chói tai. Thời gian lúc này đối với Dự (và cả dân làng) không còn có thể nhìn vào chiếc kim nhỏ chạy vòng tròn trên mặt số nữa rồi. Tiếng gà gáy và mặt trời đã thay thế vị trí của nó, bởi những chiếc đồng hồ đã được đem bán đi để mua thêm vài mươi cân lúa dự phòng. Có đồng hồ trong nhà mà cái bụng tóp teo phỏng ích gì, ai cũng nghĩ vậy.


Mắc được đôi bò vào quải, Dự đã nghe rõ mồm một tiếng lội bì bõm trong đám ruộng bên. Té ra cha con hương Bổn còn ra đồng sớm hơn. Dự tằng hắng:
-Bữa nay nữa xong chưa đó?
Tiếng hương Bổn từ xa:
-Chưa. Còn gần hai sào nữa.
-Tôi ráng bữa nay là gác cày.
-Mửng này đói vẫn hoàn đói, chưa chết là may - tiếng hương Bổn lầu bầu không ăn nhập gì tới sự quan tâm cày nhanh chậm.


Dự nghe mà không trả lời, cầm chui cày, nhịp roi lên mông đôi bò. Cả ba dựa vào nhau bước tới. Bước tới để hít mùi bùn đất dậy lên gây gây trong buổi sáng tinh mơ. Tiếng chân bò thả bì bõm trong nước. Đôi chân anh cũng thả bì bõm trong màn nước ngậm bóng đêm lạnh ngắt. Thỉnh thoảng những bước chân bước hụt xuống lỗ đất hẹp thấp làm nước ruộng bắt vọt lên mặt, lạnh ngắt. Nhưng cái lạnh ấy khiến anh cảm thấy có chút yên ổn rằng mình đang còn cử động, hơi thở vẫn còn phụt ra hai lỗ mũi, tim vẫn còn đập, dẫu biết rằng đó là giả tạm. Lưỡi cày găm vào đất, xới lên thành vồng tỏa ra thứ mùi thơm nồng đặc biệt. Đó là mùi bùn đất lưu cửu tổ tiên để lại cho con cháu bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu và xương. Cái mùi ấy đã thấm sâu vào da thịt dân làng này. Họ biết vậy. Biết và hàm ơn nên ông bà lớp trước mới xây một ngôi đình khang trang để thờ người mở đất…


Đó là ngôi đình thờ thành hoàng. Ngôi đình rộng mênh mông từ bao đời, bỗng nhiên, chỉ trong một buổi sáng, nó biến thành nơi hội họp của hợp tác xã theo lệnh của ai đó ở trên. Họ nói thờ cúng là mê tín dị đoan. Với lại đất đai là của nhà nước, của nhân dân chớ không của riêng một kẻ nào, không có ông thành hoàng nào mở đất cả!


Lệnh rớt xuống như lưỡi dao bén chém ngang thân chuối. Cái lệnh ấy khiến đám thanh niên lóc chóc hò la xông vào, gỡ những tấm nghi khậu, liễng đôi ném xuống đất như thể chúng đang đánh nhau với kẻ thù. Đám khác chia nhau ôm cờ phướn, đèn thờ, trống, phèn la… vất vào gian lẫm phía sau chái. Vật tế tự, từ khí nằm vương vãi, lăn lóc như xác địch quân sau trận chiến ác liệt. Máu không chảy thành vũng, nhưng những mạng nhện lòng thòng có vẻ như những mảnh tim gan phèo phổi của tổ tiên rớt ra từ những vật tế lễ kia. Phút chốc ngôi đình trống hoác. Bức hoành phi với mấy chữ đại tự sơn son thếp vàng, mới đây còn uy nghiêm trên thanh xà gian giữa, giờ nằm chổng chơ trên nền đất lạnh.


Dự đi ngang qua, tình cờ cong người nhìn vào và chợt thấy, rùng mình như hồi nhỏ từng chứng kiến cảnh tiêu thổ kháng chiến. Ông gạt những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán và những giọt nước mắt chực chảy ra, quay lui ra phía kiệt tre và đụng mặt ngay cô Lại đang bước tới, người bạn chận bò thuở thiếu thời. Lại cười khẩy, rít lên:
-Anh tiếc mấy thứ giẻ rách kia hả, cứ vào lấy mang về nhà. Tôi cho đấy!
Dự liếc mắt nhìn cô, nghĩ thầm: Không ngờ con Lại của mười mấy năm về trước nay thay đổi thiệt nhanh chóng. Cô lạnh lùng, tàn nhẫn… vụt bay ra từ cái nhìn nhọn sắc và hàm răng khít rin, thù hận. Dự suy nghĩ mãi, không hiểu tại sao cô lại làm như vậy? Một đứa con gái như bao cô gái khác trong làng, cần mẫn với ruộng vườn, bếp núc; cũng cười đùa hể hả với đám bạn mỗi khi có dịp đùm túm với nhau. Vậy nhưng sau cái đêm cô biến mất khỏi làng, “sau một thời gian dài không tung tích, nó đột ngột quay về trong đêm, tập hợp dân làng hô hào nổi lên diệt ác ôn đánh Mỹ cứu nước - Cha Dự chậm rãi cất giọng lào khòa kể lại - Nó răn đe mọi người sẽ bị xử trị đích đáng nếu tiếp tay cho địch. Nói xong nó bắn một phát súng thị uy rồi biến mất trong đêm tối một cách đột ngột như lúc đến”. Giờ thì Lại quay về, lãnh đạo cả xã, cả làng phá sạch những thứ mà Lại gọi là tàn dư, là rác rưởi của đế quốc và tay sai để lại. Mấy ngôi miễu thờ cô hồn là nạn nhân đầu tiên; ngôi chùa nhỏ cuối làng cũng không thoát khỏi số phận hẩm hiu… Rồi nay tiếp đến ngôi đình này. Không biết cô còn nghĩ ra những gì khác nữa để tiếp tục đập phá cho hả lòng căm thù?


Những khi cô ra lệnh như vậy, Dự tự hỏi, có giây phút bất chợt nào đó, Lại nhớ về cái đêm trăng non sang tiết lập thu? Đêm mà cô háo hức xô ngã Dự lọt qua bờ rào chiêm chiêm, phóng theo đè lên người Dự. Mảng da thịt âm ấm của cô gái mười bảy phủ chụp lên khắp người thằng nhóc con là Dự đang bước vào tuổi dậy thì, khiến nó run rẩy với những khoái cảm sững sờ. Lại sờ soạng, bấu riết, hôn lên mặt mũi, lột truồng nó ra, giống như lúc bị xô ngã qua hàng rào chiêm chiêm rồi biến nó thành đàn ông khi mới mười ba! Đêm trăng non trong tiết lập thu vĩnh viễn để lại trên người Dự vết sẹo của nỗi hoang mang, sợ hãi cuộn tròn lại như những đợt sóng lớn nhỏ đập mãi vào bờ đá. Những ngày đi lính, gặp phụ nữ Dự sợ còn hơn đang lúc đánh trận. Đêm đầu tiên gần vợ, Dự cong người lại y như lúc ngã qua bờ rào. Nỗi sợ hãi chập chờn trôi nổi bềnh bồng như túm rác trôi trên con kênh đen quánh… Lại, dưới con mắt Dự là hiện thân của những tội lỗi rực rỡ chồng chất thành những vệt lân tinh trong khu rừng ẩm ướt mỗi lúc hành quân, trên chiếc giường tre có cô vợ bé nhỏ nằm bên cạnh và ngay cả khi thả chân xuống mặt ruộng trắng nước. Tiếng bước chân của chính Dự vang lên bì bọp, òn ọt khiến Dự luôn có những cái rùng mình bất ngờ…
Dự vãi mồ hôi giữa buổi tinh mơ lạnh ngắt.


Đôi bò thong thả kéo chiếc lưỡi sắt nhọn lật tung những dề đất phía dưới, còn Dự thì miên man suy nghĩ xa gần trên chuôi cày. Ba sinh linh bé nhỏ giữa đất trời cao rộng này bơi vòng vòng quanh đám ruộng hợp tác xã, giống con vịt bơi trong ao tù.


Cày đâu hơn hai rõng đất thì trời sáng rõ. Lát sau cu Lớn lơn tơn xách giỏ cơm đặt trên bờ ruộng gọi lớn: “Cha ăn cơm con về đi học!”. Dự ngoái lại nhìn thằng con ốm nhách, cao như cây sậy, trong lòng gợn lên nỗi cồn cào không hình dạng. Hồi nhỏ, anh có đâu như vầy. “Ừa, để đó”. Dự la lớn và hình như tiếng la đó rớt cái tõm xuống ruộng nước. Cu Lớn đã lên tới bờ mòn, cắm cúi bước thật nhanh về phía làng.


Dự cày giáp vòng, đến gần phía bờ đặt rổ cơm, anh dừng lại, rút náp cho lưỡi cày găm sâu xuống đất (giống như người ta thắng xe) hô “dọ, dọ…” để đôi bò dừng lại rồi gát roi lên bắp cày, thủng thỉnh bước lên bờ.
-Anh Năm ơi - Dự kêu lớn - nghỉ vào ăn cơm cái đã.
-Ăn đi. Tôi ăn cơm nguội ở nhà rồi.
-Thì nghỉ uống nước cái đã. Xong sớm tôi qua cày giúp anh mấy đường - Dự nói cho có nói chứ trong bụng biết tỏng hương Bổn chưa có hột cơm nào trong bụng. Mấy tháng nay vợ bệnh, con đau số lúa dự trử cứ vơi dần, lấy đâu cơm sáng cho ông đi cày? Đến viên thuốc cũng không có, thay vào là những viên xuyên tâm liên từ hiệu thuốc nhân dân đắng ngắt trị bá bệnh thì bệnh nào qua khỏi!


Hương Bổn dừng bò, kẹp chiếc roi cày vào nách bước về chỗ Dự đang ngồi.
-Cái đời tôi - hương Bổn khọt khọt trong cổ họng để đẩy cục đờm vướng víu đâu đó, khạc ra, nhổ phẹt xuống mặt nước ruộng - lúc nào cũng đen đủi, bắt thăm trúng đôi bò cày của con mẹ Chánh ốm nhách, gioongs như đồ như lao, thúc mấy cũng không mập lên. Người ta cày cả sào thì nó lê lết chưa được phân nửa. Mẹ đời, tôi muốn trả lại cho hợp tác quá trời, ngặt nỗi trả lại thì lấy gì mà sống đây. Đã bị phân vào tổ cày bừa rồi. Còn phần ruộng chú thấy đó, nó là cái ao thì đúng hơn, phải bơi để cấy…


Dự nghe giọng nói hùn hụt gần như đứt hơi, cảm thấy chạnh lòng:
-Anh Năm, kệ mẹ đời, anh ăn chút cơm rồi hẵng cày. Chòm xóm với nhau anh khách khí làm gì.
-Tôi đã nói, ăn rồi. Chú biết tánh tôi mà?
Nói dứt câu, hương Bổn thở phì phì như chính ông kéo cây cày nặng trình trịch thay đôi bò và tiếp tục bơi trong đám ruộng ao của mình.
-Thôi anh, để hôm nào họp tổ, anh em xúm nhau đưa đơn xin đổi đôi khác cho anh.
-Đổi ai? Đâu có đôi nào “rề dẹt” mà đổi. Thiệt ngán. Tôi muốn giao lại, nhưng nhìn đàn con lít nhít thấy không nỡ. Mẹ đời. Cách với chả mạng. Trước tôi đâu đến nỗi khổ vầy. Bao nhiêu ruộng vườn ép vào hết hợp tác, thành của người khác, của nhân dân, mình trắng tay. Mẹ cứt, nhân dân là cặc chó gì không biết nữa!
-Thôi đi anh Năm ơi. Đại nạn là chung cho cả bầy người lúc nhúc, đâu riêng gì anh em mình? Hè, làm chén cơm cho nóng rồi xuống cày tiếp.
Hương Bổn xua tay:
-Ăn rồi. Cơm nguội từ hôm qua cứng như sạn cũng cố mà nuốt. Chú mày ăn đi, tao uống miếng nước, không thấy đói. Nói và ông giở ấm chén rót ra uống đánh ực một hơi rồi lần vô túi áo rút gói thuốc rê ra vấn. Điếu thuốc to bằng ngón tay cái quấn bằng giấy vở học trò tách đôi ra như người ta lóc phần da và thịt con cá lóc. Hương Bổn kẹp điếu thuốc lấm lem mực viết. Điếu thuốc cứ rung rung giữa hai ngón tay như chính nó đang lên cơn sốt.


Dự chần chừ một lúc mới giở tấm lá chuối đậy trên rổ cơm vừa ái ngại nhìn người hàng xóm, cảm thấy như mình là kẻ có tội với cha con hương Bổn. Dự biết là ông chưa có hột nào trong bụng, nhưng nài ép chút nữa có nghĩa là làm nhục ông ta, bèn dùng tay nhón lấy chút cơm lẫn trong những miếng sắn mì, vón thành cục nhỏ chấm muối é cho vào miệng, nhai nhỏn nhẻm. Dự cũng không hơn gì hương Bổn, có điều đỡ gánh nặng gia đình, chỉ phải nuôi đứa con duy nhất. Vợ Dự còn khỏe, vào tổ đan đát, mỗi ngày kiếm cũng vài trăm gam lúa. Cả hai chắt mót, tùng tiệm cũng đủ xoay xở. Chỉ tội hương Bổn. Con đông quá, cả hai vợ chồng vật lộn với ruộng đồng cũng không đủ miếng ăn.


Dự đậy tấm lá chuối lại, hỏi xin điếu thuốc. Hương Bổn ngó sững Dự:
-Sao không ăn. Chú tội nghiệp tôi hả?
-Dạ không, anh Năm. Tự dưng hết muốn nuốt. Làm ăn kiểu này đến lụn bại mất. Anh nhớ mùa rồi, tụi thằng Cạnh thằng Sang giấu lúa hột kéo về nhà? Chúng nó là đội trưởng, đội phó đấy. Lại nghe nói tay chủ nhiệm và tay thủ kho tuồn mấy tấn ra chợ đen. Bị bể ổ, nhưng chúng tự biết dán miệng nhau thành ra êm xuôi, chẳng có thằng xã viên nào dám hó hé.
-Đấy, mình xỏ miệng vô thì trước sau cũng bị gán phản động.
-Tôi vẫn ức vụ ngôi đình.
-Ức thì chú làm được gì?
-Đúng là không làm được gì. Nhưng cái mặt con Lại đấy, từ đất nẻ chui lên chắc?
-Tôi biết nó thù chú mà? Mấy lần chú giải thích nhưng nó đâu có nghe, phải không?
-Giải thích gì anh ơi. Tôi chỉ nói là nếu cần hung thì dọn dẹp đồ thờ tự sang một góc để làm tạm hội trường, chớ có đập phá, tội. Kẻ hậu sinh cũng phải nhớ công lao người đi trước. Tôi nói chỉ có vậy mà cổ kêu tôi là kẻ phá hoại. Anh coi có oan tôi không?


Hương Bổn kéo một hơi thuốc thật dài, phà khói bay thành mảng trên mặt nước:
-Chuyện dâu biển, nay dời mai đổi, biết đâu mà lường, chú ơi.
Hai người chuyện vãn một lát rồi đứng lên, trở lại cầm chuôi cày.


Những dề đất lật qua một bên láng tưng như thoa một lớp mỡ. Những con sáo nâu, cò xám sà tới tranh nhau những con trùn nước, cắn mổ la chí chóe. Chúng đậu thật gần, chỉ cần hươ củ roi là đụng ngay, nhưng Dự không làm vậy. Nó cũng đang tìm miếng ăn như bọn anh mà. Anh không để ý đến lũ cò sáo, cắm cúi cầm chắc chuôi cày, cốt cho thật nhanh để ngày mai theo bọn thằng Xanh lên núi hái ít gánh củi về dự trử cho mùa mưa bão sắp tới. Cày bừa xong giao đất cho tổ gieo sạ coi như yên một bề, tìm thêm chuyện mà làm, đâu có thể nằm chờ mấy công điểm mọn?


Nắng lên cao, thu ngắn bóng người cày và đôi bò về một phía. Còn một rõng nhỏ nữa là xong, có thể qua bên hương Bổn cày giúp ông ta vài đường, nhưng tiếng ví thá bên kia ruộng sao nghe cứ nhỏ dần, bước chân và đường cày như một dòng nước yếu bị cản lại không thành tiếng lõm bõm như lúc trước. Dự ngó qua. Đôi bò chệnh choạng dựa vào bắp cày bước thật chậm. Hình như cả hương Bổn cũng bước chậm. Dự La lên:
-Anh Năm mệt lên bờ ngồi nghỉ. Tôi cũng sắp xong. Để đó tôi qua cày giúp cho.
Tiếng Dự bay đâu đó trên không, không thấu tai hương Bổn. Hình như ông ta đuối hung rồi. Dự “dọ” bò dừng lại, bước vài bước về phía ruộng hương Bổn đang cày, nhưng chưa tới bờ đã thấy hương Bổn khụy xuống, tay vẫn nắm chặt chuôi cày làm cho nó nghiêng hẳn về một bên.
Dự hớt hải la lên:
-Anh Năm, anh Năm… làm sao vậy? Có bị sao không?


Lúc Dự tới nơi thì hương Bổn ngồi khụy xuống ruộng nước, mặt tái xanh. Dự luồn hai tay qua nách đỡ ông đứng lên:
-Anh có sao không?
Hương Bổn không mở được miệng chỉ lắc lắc đầu, nhưng cái lắc rất yếu. Dự hiểu tất cả. Ông bị lũi đói. Từng ấy miếng cơm độn ít ỏi từ chiều qua thì còn sức đâu để cày với bừa? Dự khom người thấp xuống quàng tay hương Bổn lên vai rồi du dần vào bờ, đặt nằm trên lớp cỏ lởm chởm. Dự lấy chiếc nón ngựa kê đầu, rót nước ra chén và vạch miệng đổ từng hớp nhỏ:
-Ít thôi nghe anh Năm, từ từ. Mà anh cũng thiệt lạ. Chòm xóm với nhau, ăn chút cơm ghé có gì là ghê gớm Tôi biết bụng anh trống nhưng không dám nài ép sợ anh giận. Thôi, cứ nằm nghỉ cho khỏe rồi mở bò. Tôi cũng mở. Mai tôi ra quanh mấy đường xong ngay. Chớ lo, anh Năm.


Nhưng Dự nói cho chính tai mình nghe vì đôi mắt hương Bổn đã nhắm nghiền, bên khóe ứa ra chút nước sền sệt. Ông không còn nghe và thấy gì nữa. Dự hoảng hốt thọc tay vào ngực người bạn cày hàng xóm, lạnh ngắt. Dự bàng hoàng, khóc ồ lên như nỗi uất ức lúc bị đẩy qua bờ rào chiêm chiêm, đè nén lại thành cục u nhỏ đầy gai nhọn, bấy lâu nay có dịp vỡ bung ra.


Hai đôi bò vẫn đứng yên tại chỗ. Bóng nắng thu tròn, nhỏ lại quanh hai người./.

Wednesday, December 21, 2011

phan bá thụy dương * nếu mai em về


1.
nếu mai em có về xóm biển
thả gió về trời cho mây bay
bên con suối ngọc mơ màng ngủ
cho tóc em nồng hương cỏ may
nước mắt mẹ -
có rơi dài đêm tối ?
nỗi niềm cha –
còn u ẩn tháng năm ?
em - em đó sầu dâng mấy độ
ngóng trăng suông và lạnh chỗ nằm

DOÃN QUỐC SỸ * Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều


Quê tôi cách Hà Nội chừng 5 cây số. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ thì gia đình tôi tản cư lên Nhã Nam thuộc huyện Yên Thế, Bắc Giang. Đến năm 1948 khi cậu tôi từ Vĩnh Yên lên thăm chúng tôi lần đầu thì toàn thể gia đình chúng tôi ai nấy đều có màu da nửa vàng nửa xám xịt vì sốt rét rừng.
Anh chị phải cho các cháu tản cư về mạn dưới như chúng tôi - lời cậu tôi nói với thầy mẹ tôi - chứ cứ như thế này thì không chết cũng chẳng còn ra hồn người nữa.

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN * Khi Em Về

Khi em về trời xanh và gió mát
Con đường mòn thơm lá mục quê hương
Vườn cải ngồng dỗ ong bướm về sân
Anh nằm đấy buổi trưa và tiếng nắng

Sunday, December 11, 2011

PHẠM THIÊN THƯ * Độc Huyền



Khép mắt - ta nhìn em
Thấy hình hài diễm lệ
Đứng trên ngàn sóng bể
Trấn át làn phong ba .
Tà áo trắng kiêu sa
Đôi mắt huyền như ngọc
Đôi môi thuyền độc mộc
Chở thơm khoang đào hoa
Mái tóc dài thướt tha
Cài đóa hồng tuệ nhật
Phải em - là sự thật
Từ một ngày rất xa .

Mở mắt - ta nhìn ra
Thấy em là nốt nhạc
Trên dây tình ngơ ngác
Em là một điểm âm
Em nạm vàng chữ Tâm
Trên nền đêm biêng biếc
Em là con cá diếc
Trong tim ta dòng sông.
Ẩn trong sợi tơ đồng
Ngân lên từng cung điệu
Năm ngón hồng kỳ diệu
Anh rung thành tiếng tim.

Mở mắt - ta nhìn thêm
Thấy chúng mình vô ngã
Thấy em xanh thảm mạ
Anh xoè cánh hạc bay .
Ta tình cờ ra đây
Cũng như là tất cả
Ơi! Dây tình kỳ lạ
Hội tròn một điểm ngân.

Phạm Thiên Thư

Thơ HOÀNG TRÚC LY


Nhân Dạng

Tôi còn yêu cho biển còn xanh
Mây còn bay cho chim chấp cánh
Ngựa què rồi em cởi lưng anh
Tôi cứ yêu, khốn nạn, cứ cười
Chim cứ bay cho mây gãy cánh
Em chết rồi ai ám sát tôi 

 

Mật Ong
Lối cũ cô liêu niềm gió thoảng
Cỏ gai sướt nhẹ dấu chân mềm
Thèm đau một chút da con gái
Cho máu xuân đời dậy sóng lên

Chim biết đường về mái ngói cong
Tôi quên không được má em hồng
Bên nhau nhìn trộm chim trai gái
Hơi thở người xưa ngọt mật ong

Sáng soi tiếng sáo thổi đêm dài
Mùa rụng cành sương trắng ghé vai
Cho em rẽ tóc dòng sông trắng
Mộng thả trôi thuyền như mắt ai

Ô hay hạnh phúc mờ tay vẫy
Cho vội mười năm bóng nhạt nhòa
Cơn mê tôi vẽ bằng lưu luyến
Trong lòng bạc xóa cõi người ta

Hoàng Trúc Ly

Monday, December 5, 2011

ĐẶNG TIẾN * Roman Jakobson và Thi Pháp

Trong thập niên 1970 danh từ thi pháp (poétique) trở thành thông dụng, thi pháp học dần dần trở thành một khoa học phổ biến, dính liền với ngành ngữ học, trong một khung cảnh học thuật rộng lớn hơn, là khoa ký hiệu học.

Saturday, December 3, 2011

PHẠM TÍN AN NINH * Đà Lạt Trời Mưa

Tôi đến Đà Lạt đúng vào một ngày mưa. Mưa tầm tã. Ngồi trong nhà Thủy Tạ, nhìn những hạt mưa bay giăng kín rừng thông, phủ mờ khu phố Hòa Bình, và rơi lả tả xuống mặt hồ Xuân Hương, tôi mơ hồ như những giọt nước mắt của người góa phụ đã từng một thời nhan sắc.

Người con gái vừa đến gặp tôi làm cho tôi mỉm cười với sự so sánh lạ lùng này. Bởi cô ta cũng xinh đẹp, và dù có nở nụ cười tỏ ra mừng rỡ khi chào tôi, vẫn không giấu được nét buồn trong đôi mắt. Một nỗi buồn có cái gì xót xa sâu lắng lắm.