văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Tuesday, March 13, 2012

TUỆCHƯƠNG HOÀNGLONGHẢI * Biển Đông



“Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”



1) Biển Đông, tên gọi


Khi còn nhỏ, chưa biết đọc sách, tôi biết ở phía đông nước ta có biển, tên gọi là Biển Đông.


Đầu tiên là do những kỷ niệm thời thơ ấu. Sau “tháng Tám nám trái bưởi” là mùa mưa gió, lụt lội, mùa “mưa phùn gió bấc”, nhiều đêm biển động nghe rõ lắm, mặc dầu thành phố Quảng Trị, “miền thơ ấu” – như người ta thường gọi – , xa biển khoảng bảy, tám cây số. Vào những đêm biển động ầm ì như thế, cha tôi (gọi bằng cậu) không gọi là “biển động” mà gọi là “sấm”: “Biển Đông sấm động.” Đó là những đêm “chớp bể mưa nguồn” như trong thơ Trần Tế Xương vậy.


Ca dao, ai nấy cũng thường nghe khi còn nhỏ, cũng gọi biển ấy là biển Đông. Bài ca dao sau đây thì chưa rõ hẵn.


Ai đi đường ấy hỡi ai?!
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm?
Tìm em như thể tìm chim!
Chim bay biển bắc em tìm biển Đông!


Hai bài sau đây nói rõ hơn, xác định biển ở phía đông là “biển Đông”, tức là biển của người Việt Nam chúng ta.


Anh mong gởi cá cho chim
Chim bay ngàn dặm cá chìm biển Đông!
Biển Đông sóng dậy bốn mùa
Ai cho bậu uống thuốc bùa bậu mê!


- Gởi cá cho chim là gởi một món ăn cho người… yêu. Người yêu thì bay xa ngàn dặm. Cá thì chìm ngoài biển Đông, là biển phía đông của nước ta, cũng có nghĩa là biển của ta.


- Biển Đông thì lúc nào cũng có sóng, giống như bậu lúc nào cũng mê vì… bị bùa!!!!


Câu ca dao gây ấn tượng nhiều nhứt cho chúng ta là hai câu sau đây:


Dã tràng xe cát biển Đông,
Nhọc mình mà chẳng nên công cán gì!


Khi nước biển rút xuống, bãi cát bên bờ biển bày trơ ra, những con dã tràng (giống như con cua, nhỏ hơn cái nắp keng của chai bia, tên nôm na là con “còng”), xuất hiện bên bờ biển, lấy càng vo những viên cát nhỏ, nhỏ hơn cái nút áo. Rồi nước thủy triều lên, đánh tan những viên cát đó. Chúng xe cát để làm gì? Giống như người con trai đi làm rể công khó ở nhà vợ chưa cưới, cuối cùng không cưới được vợ, như công dã tràng xe cát vậy.


Câu tục ngữ sau đây, dạy về luân lý, hay hơn nhiều: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. Câu nầy cũng có nghĩa rằng Biển Đông là biển của người Việt Nam.


2) Sự sai lầm của người Tây phương


Đi học, xem sách được rồi, tôi thấy trong sách Địa Lý cấp tiểu học trước 1945, ghi biển Đông là “Biển Nam Hải.” Tôi hơi ngờ. Có lẽ sách địa lý ghi sai.


Sách giáo khoa địa lý thời Pháp thuộc, có lẽ dựa vào sách Tây mà ghi là Nam Hải.


Người Tây, khi nhìn về phương Đông, họ chỉ thấy có hai nước lớn: Tầu và Ấn Độ. Kha Luân Bố, năm 1492, khi tới được Tân Thế Giới, tưởng lầm là phía Tây Ấn Độ, nên gọi người “mọi da đỏ” là Indian.


Còn Tầu?


Sau khi vua Quang Vũ nhà Hán mở mang “con đường lụa” (Silk Road) hay còn gọi là “Con Đường hồ tiêu” (Spice Road), Marco Polo theo con đường nầy sang Tầu làm quan 12 năm, đời nhà Nguyên (Mông Cổ), rồi anh chàng Polo về lại châu Âu, viết sách giới thiệu về nước Tầu, người Tây phương chỉ biết bên trời Đông chỉ có Trung Quốc, (nước ở giữa, chung quanh chỉ là phiên ly). Ngoài “Chung Côốc”, họ không biết gì hơn, và cũng không cần biết gì hơn, cho nên bán đảo Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), họ gọi chung một tiếng là “Indo-China”, có nghĩa một nửa là Ấn Độ, một nửa là China (Trung Hoa) cho gọn sổ sách mà không cần phân biệt, không cần biết ba dân tộc Việt Miên Lào ở bán đảo ấy là dân tộc nào, chẳng có máu mũ, giòng họ gì với dân tộc của Đức Khổng Tử hay dân tộc của Đức Thích Ca Mâu Ni cả.


Đến thế kỷ 19, học gọi chung vùng nầy Đông Nam Á (tên gọi ngày nay), là Viễn Đông (Extrême Orient)


Ba dân tộc nầy chịu ảnh hưởng văn hóa Tầu và văn hóa Ấn Độ. Nó cũng giống như người Tây Âu chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-La vậy thôi. Rõ ràng, những nhà đia lý, thám hiểm, các ông cố đạo thế kỷ thứ 15, 16, 17… khi đến Đông Dương, chẳng chịu động não một chút nào, nên mới gọi ẩu biển Đông của người Việt là “Biển Nam Hải” (biển phía Nam của người Tầu!)


Thằng bé Hoàng Long Hải nầy, tên hồi nhỏ là Hoàng Thế Đức, cũng khi còn nhỏ, trước năm 1945, cảm thấy khó chịu như thế nào ấy, khi thấy trong sách địa lý “cấp tiểu học” (cấp 1 bây giờ), ghi Biển Đông là Biển Nam Hải.


3) Người dân nước nào hoạt động ở biển Đông?


Người Tầu, người Việt đều đã hoạt động, như đánh cá ở biển Đông.


Người Việt đánh cá ở biển Đông, có lẽ cũng không nhiều, vì đi đánh cá xa, cần có tầu lớn, có khi neo ghe ở Hoàng Sa nghỉ chân, “nghe gà bên Tầu gáy”. Tôi đã hỏi một ông chú họ, thời Pháp thuộc đăng lính Khố Xanh (“địa phương quân” của Khâm Sứ Trung Kỳ), có thời ra đóng giữ Hoàng Sa, về câu chuyện “nghe gà bên Tầu gáy”. Ông chú tôi cười, giải thích:


- Khâm sứ Trung kỳ có cho lính đóng đồn ở Hoàng Sa. Mỗi phiên ra Hoàng Sa là sáu tháng, di chuyển bằng ghe buồm, từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa rồi quay lại. Khoảng cách từ Hoàng Sa tới Đà Nẵng và từ Hoàng Sa tới bờ biển phía nam đảo Hải Nam gần bằng nhau (tính phỏng chừng). Người Việt Nam đi đánh cá ở biển Đông thường dừng chân ở Hoàng Sa. Người Tầu Hải Nàm đi đánh cá ở biển Đông cũng nghỉ chân ở đó. Nghe tiếng gà trên thuyền đánh cá của người Tầu Hải Nàm gáy, người ta cũng cho là gà bên Tầu gáy, ý muốn nói địa điểm của Hoàng Sa là “xa lắm”, chứ không có nghĩa rằng Hoàng Sa gần Tầu hơn gần Việt Nam.


Có lẽ người Việt đánh cá ở biển đông từ lâu lắm, từ trước thời chúa Nguyễn, bởi vì đầu thế kỷ 17, theo “Vikipedia”, chúa đã cho:


“…. tổ chức khai thác trên các đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hóa vật do lấy được từ những tàu đắm.


Theo “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn thì: “Phủ Quảng Ngãi huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia phải đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngot. Trong đảo có bãi cát vàng dài, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy… Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu (nước ngoài bị đắm vì bão),… Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, … Họ Nguyễn đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi,…, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên,…, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản… Hoàng Sa gần phủ Liêm Châu đảo Hải Nam, người đi thuyền có lúc gặp thuyền cá Bắc Quốc,…


Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí” viết: “Xã An Vĩnh, huyện Bình Dương ở gần biển. Ngoài biển, phía Đông Bắc có đảo [Hoàng Sa] nhiều núi linh tinh, đến hơn 130 ngọn núi. Đi từ núi [chính] ra biển (tức sang các đảo khác) ước chừng một vài ngày hoặc một vài trống canh. Trên núi có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước 30 dặm, bằng phẳng rộng rãi… Các đời chúa Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 người, người làng An Vĩnh, thay phiên nhau đi lấy hải vật. Hàng năm, cứ đến tháng 3, khi nhận được lệnh sai đi, phải đem đủ 6 tháng lương, chở 5 chiếc thuyền nhỏ ra biển, 3 ngày 3 đêm mới đến đảo ấy (tức Hoàng Sa)… Đến tháng 8 thì đội ấy lại về, vào cửa Yêu Môn (tức cửa Thuận An) đến thành Phú Xuân, đưa nộp.


Năm 1686: (năm Chính Hòa thứ 7) Đỗ Bá Công biên soạn “Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư” trong “Hồng Đức Bản Đồ” hay “Toàn Tập An Nam Lộ” trong sách “Thiên Hạ Bản Đồ”. Tấm bản đồ trong “Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ” được vẽ theo bút pháp đương thời với lời chú rất rõ ràng: “Giữa biển có một dải cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm… Họ Nguyễn mỗi năm và cuối mùa Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn…”, còn bản đồ vẽ trong Toản Tập An Nam Lộ thì ghi chú rất rõ địa danh Bãi Cát Vàng trên biển khơi phía trước của những địa danh trên đất liền như các cửa biển Đại Chiêm, Sa Kỳ, Mỹ Á, phủ Quảng Nghĩa và các huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Hoa. (hiện nhà nước CHXHCN Việt Nam còn lưu giữ các bằng chứng lịch sử này)


Năm 1753: Có 10 người lính của Đội Bắc Hải đến quần đảo Trường Sa: 8 người xuống đảo, còn 2 người thì ở lại canh thuyền. Thình lình cơn bão tới và thuyền bị trôi dạt đến cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Chính quyền Trung Hoa cho điều tra, và khi biết các sự kiện, đã cho đưa 2 người lính Việt Nam về. Lê Quý Đôn viết: “Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng: năm Càn Long thứ 18 (1753), có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, một ngày tháng 7 đến Vạn lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán…


Năm 1816: Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thủy trình.


Năm 1835: Vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiểu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.


Không rõ tài liệu Tầu nói như thế nào về Hoàng Sa, Trường Sa mà nay họ gọi là Tam Sa. Tam Sa là tên do mấy chú Ba ở Bắc Kinh mới đặt hay nó đã có từ lâu trong lịch sử Trung Hoa.


Phục vụ trong chính quyền miền Nam VN một thời gian ở vùng Hà Tiên – Rạch Giá, tôi nhận ra một điều, xứ nầy có nhiều người mà dân Nam Bộ thường gọi đùa là “đầu gà đít vịt”, tức là người Miên lai Tầu. Khu vực địa lý Hà Tiên – Rạch Giá có nhiều người trông như người Miên, hoặc nửa Miên nửa Tầu, mang họ Tầu như họ Phan (Phan Chánh Toul, cảnh sát chế độ cũ), họ Dương (Dương Nganh, tự Xà Rum, hồ sơ trận liệt ghi là cựu bí thư xã Dương Hòa, quận Kiên Lương, Rạch Giá), Dương Yếp, Dương Tu, anh em Dương Bộ Hương, Dương Bộ Hành (cảnh sát chế độ cũ), Quách Thị Hoa, Danh Tăng (giao liên Việt Cộng ấp Hòn Heo, xã Dương Hòa), Châu Ai (nguyên xã trưởng xã Bình Trị, Kiên Lương), Trần Ghét Xe (giao liên Việt Cộng xã Bình Trị). Và nhiều người nữa, tôi không nhớ hết, một ít mang họ Miên như họ Danh, phần đông mang họ Tầu như Phan, Dương, Châu, Trần, Quách và cả Mạc Cửu, (họ Mạc) và Lâm Tấn Phát (họ Lâm, thi sĩ Đông Hồ), v.v…


Tổ tiên họ là ai?


Dĩ nhiên là người Tầu. Nhưng Tầu nào? Tầu Bắc Kinh, Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến hay Hải Nàm.


Người Tầu ở vùng Hà Tiên nổi tiếng nấu cơm gà ngon. Họ có một thứ nước chấm đặc biệt nhưng dấu nghề kỹ lắm. Ở Huế, trước chợ Đông Ba, buổi tối có xe cơm (thố) gà đặc biệt ngon. Ông chủ là người Tầu Hải Nàm. Cơm gà là món ăn của người Tầu Hải Nàm. Vậy có phải tổ tiên những người Tầu “đầu gà đít vịt” ở vùng Hà Tiên là dân cướp biển Hải Nàm, sau khi giải nghệ, không về lai Hải Nàm mà định cư ở đây?


Tôi cũng có một “thắc mắc” nữa! Ở ấp Hòn Chông, xã Bình Trị, có một gia đình Tầu, thỉnh thoảng mới nấu cơm gà do có yêu cầu. Xã trưởng Bình Trị mời cơm gà cho nhân viên Ty Xã Hội Kiên Giang ở nhà ông già Tầu nầy. Tôi được tham dự bữa cơm ấy và chợt để ý hai cô con gái chủ nhà cỡ 15, 17 tuổi có hai bàn tay to quá khổ bình thường. Sao có việc nầy? vì lao động cực nhọc? Không! Để ý, tôi thấy cả gia đình nầy đều có bàn tay to như thế? Sách tướng nói rằng bàn tay to là tướng giết người. Không rõ gia đình nầy có liên hệ tổ tiên gì với những tay cướp biển Hải Nàm ngày xưa trong vùng vịnh Thái Lan không? Điều nầy, chắc phải nhờ các nhà “nhân chủng học” mới trả lời được!


Vùng vịnh Thái Lan, từ thế kỷ 16, 17 đã nổi tiếng là “vùng cướp biển”, quê hương của hải tặc. Bọn cướp biển phần đông là người dân Hải Nàm (dân ở đảo, đi biển giỏi). Khi về già, giải nghệ, họ không về lại Hải Nàm vì nhiều lý do: sợ chính quyền Hải Nàm biết họ là dân cướp biển, vì kinh tế, v.v… Họ định cư ở những vùng quanh vị Thái Lan như miền Tây Nam bộ (Hà Tiên, Rạch Gía, Cà Mâu, Bạc Liêu, Sóc Trăng) ở vùng Kampot, bờ biển Kampuchia và Thái Lan. Họ có nhiều tiền bạc, chôn dấu ở vùng nầy. Câu chuyện “Kho vàng Hòn Tre” (Hòn tre gần Rạch Giá) của Sơn Nam cũng không ngoài cái giàu của bọn cướp biển.


Biết người dân có tiền, Mạc Cửu bèn mở sòng bạc cho mau giàu.




Hà Tiên vốn là đất cũ của Chân Lạp, tục gọi là Mường Khảm, tiếng Tàu gọi là Phương Thành.


Ban đầu có người tên là Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680), nhà Minh mất hẳn (nhưng mãi đến năm Khang Hy thứ 19, vùng Quảng Đông mới bình định xong). Mạc Cửu không khuất phục chính sách buổi đầu của nhà Đại Thanh, mới chừa tóc rồi chạy qua phương Nam, trú tại phủ Nam Vang nước Cao Miên. Ông thấy ở phủ Sài Mạtcủa nước ấy, người Việt, người Trung Hoa, Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) các nước tụ tập mở trường đánh bạc để lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy, lại còn đào được một hầm bạc nên bỗng trở thành giàu có. Từ đó ông chiêu mộ dân Việt Nam lưu tán ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kỳ (hay Trũng Kè, Lũng Cả -Réam), Cần Bột (Cần Vọt - Kampôt), Hương Úc (Vũng Thơm - Kompong Som), Giá Khê (Rạch Giá), Cà Mau lập thành bảy xã thôn.Tương truyền ở đây thường có tiên xuất hiện trên sông, do đó mới đặt tên là Hà Tiên (tiên trên sông).


Họ Mạc nhờ có công mở mang vùng đất Hà Tiên nên mới được chúa Nguyễn phong làm “Khai Quốc Công Thần”.


Sự xuất hiện của người Tầu ở vùng nầy, vùng vịnh Thái Lan tạo ra cho tôi một câu hỏi. Người Tầu đi biển về phương Nam (Đông Hải của ta) và tới vịnh Thái Lan từ lúc nào? Sách sử của ta chỉ nói tới những người “phản Thanh phục Minh” Mạc Cửu, Dương Ngạn Địch, Trần Thắng Tài… thua chạy về phương Nam nhưng không nói gì công việc người Tầu đã từng xác lập chủ quyền của họ trong những vùng biển họ đã tới, đã định cư. Thậm chí như Mạc Cửu, khi đã ổn định xong vùng Hà Tiên, thì đem vùng đất ấy mà dâng cho chúa Nguyễn chứ không dâng cho vua Tầu. Họ di chuyển trên các vùng biển đó, nhưng không màng tới việc “mở mang bờ cõi” ở những hòn đảo ở đó. Vậy thì Hoàng Sa, Trường Sa là của Tầu làm sao được nhỉ?


Người Tầu lục địa có hai việc đáng lo: lãnh thổ rộng, bị xâu xé, chia rẽ là “truyền thống” của người Tầu. Họ lo việc “thống nhất nước Tầu” cũng đã “hụt hơi”, đâu có thời giờ mà nghĩ tới các hòn đảo hoang. Việc đối phó với các cuộc nổi dậy, chống đối, xâm lăng nước Tầu của Tân Cương, Nội Mông, Mãn Châu, Tây Tạng, An Nam thì vua quan Tầu cũng đã “mệt” lắm rồi, hơi súc đâu mà lo dựng bia, đóng đồn ở Hoàng Sa, Trường Sa.


Mãi đến đời nhà Minh, với trường hợp Trịnh Hòa, người ta mới thấy vua Tầu mới lo tới việc phát triển nước Tầu bằng đường biển. Trước Trịnh Hòa và sau đó, ngành hàng hải cũng như hải quân của nước Tầu chẳng có gì đáng kể.


Trịnh Hòa, gốc là người Hồi, quê ở Vân Nam, là thái giám, được Minh Thành Tổ ưu ái vì ông có công trong việc tranh đoạt ngai vàng cho nhà vua. Ông chỉ huy một hạm đội của Tầu tới eo biển Malacca vào thế kỷ thứ 15. Đời Minh Tuyên Tông, Trịnh Hòa thực hiện thêm một chuyến đi nữa. Sau đó, công việc đi biển của Trịnh Hòa chấm dứt.


Theo tài liệu của người Tầu thì Trịnh Hòa đã đi tất nhiều nơi ở Châu Á, châu Phi, Hồng Hải, vịnh Ba Tư… và cả Darwin phía bắc Châu Đại Dương. Với Đài Loan, ông lui tới những 7 lần không rõ để làm gì! Có phải ông ta muốn xác lập quyền hạn của vua Tầu ở đó. Tuy nhiên, trước kia cũng như bây giờ, người Đài Loan vẫn tự gọi họ là người Đài Loan (Taiwanese) chớ không bao giờ nhận họ là người Tầu (Chinese).


Có thể người Tầu chỉ dòm ngó tới những vùng đất rộng, dân đông, nhiều tài nguyên, chớ không thèm ngó ngàng gì tới Hoàng Sa hay Trường Sa, nên họ chẳng cần phải cắm mốc hay dựng bia ở những nơi nầy.


Ngày nay, vì kinh tế phát triển, mà dầu lửa là máu của nền kinh tế hiện đại, nên mới có việc họ diệu võ dương oai để cướp Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông của ta để giành các mỏ dầu lửa ở vùng nầy.


Việc người ngoại quốc lui tới biển Đông, quan hệ với triều đình Huế để xin giao thương hay xâm lăng nước ta, là một chuỗi dài lịch sử quan hệ quốc tế khá phức tạp, giữa nước ta và liên quân xâm lăng Pháp – Y pha Nho, có sự góp tay của các ông cố đạo, hay hành động hung hãn của (Mad) Jack Percival, thuyền trưởng chiến hạm USS. Constitution đến Đà Nẵng để xin triều đình Huế thiết lập giao thương với Mỹ. Trong khi chờ đợi triều đình Huế trả lời, thì Mad Jack nghe lời một giáo dân Việt Nam báo cáo giám mục Lefèvre đang bị bắt giam ở Huế vì tôi giảng đạo trái phép. Mad Jack đã nổi cơn điên – như dân hàng hải đã gọi anh ta là Mad, bắn phá Đà Nẵng, giết chết mấy chục dân thường, làm bị thương một số người khác, bắt một quan lại để làm con tim, nhằm buộc triều đình Huế phải thả giám mục Lefèvre ra, trục xuất khỏi nước ta.


Triều đình Huế lên án hành động của Mad Jack, yêu cầu Mỹ phải xin lỗi. Chính phủ Mỹ đã phái một lãnh sự đến Đà Nẵng để thục hiện việc xin lỗi nầy, nhưng sau đó không đến Huế được thành ra việc không thành.


Đó là mối “quan hệ đầu tiên giữa Mỹ và An – Nam. (Xem thêm “The Red Pony” cùng tác giả trong “Viết Về Huế” tập 3. Văn mới xuất bản.)


4)- Hoàng Sa và Trường Sa là của ai?


Căn cứ trên lý thuyết Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Người Việt Nam có thể căn cứ trên tài liệu lịch sử như “Phủ Biên Tạp Lục”, “Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí”, “Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư” để xác định Hoàng Sa, Trường Sa là của nước ta.


Không rõ người Tầu có tài liệu nào nói rằng họ cũng đã đến Hoàng Sa, Trường Sa thực hiện những công việc như tổ tiên chúng ta đã làm. Dù có hay không có, thì người Tầu cũng có thể làm giả tài liệu một cách dễ dàng. Người Tầu rất thiện nghệ và có truyền thống làm hàng giả. Ngày nay có vậy mà xưa cũng không chắc khác gì.


Việc “tranh nhau bằng mồm” thì diễn ra đều đều, không ai chịu thua ai.


Vây nếu khi đưa nhau “đáo tụng đình” ở tòa án quốc tế, chắc chi ai hơn ai, dù tài liệu giả hay thiệt, mà mấy ông tòa ngồi ở cái gọi là tòa án gọi là quốc tế ấy, chắc gì có đủ trình độ để đọc sách chữ Tầu, chữ Việt. Vã lại chắc chi họ không “nghiêng ngữa” giữa các thế lực mạnh, yếu trên trường Quốc tế hiện nay.


Tuy nhiên, người ta có thể căn cứ vào thực tế để phán xét, xác định Hoàng Sa, Trường Sa là của ai. Ngay từ thời Pháp thuộc, như tôi đã kể ở trên, chính quyền thực dân Pháp, tiếp nối công việc của vua chúa ngày trước, cho xây đài khí tượng ở Hoàng Sa, Trường Sa. Đó cũng là cách xác nhận chủ quyền trên thực tế. Sau đó, Pháp đưa đưa lính khố xanh ra đóng đồn ở Hoàng Sa, Trường Sa. Vì vậy, năm 1956, dưới thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, khi tổng thống Ngô Đình Diệm cho quân đội đóng quân hẵn hòi ở hai đảo nầy thì nhiều quốc gia phản đối, nhưng không nước nào có hành động quân sự chống đối. Các nước phản đối bằng lời nói suông thì có Tầu Cộng, Đài Loan (danh nghĩa là Trung Hoa Quốc gia), Phi Luật Tân, Brunei, Mã Lai, Thái Lan, v.v… và cả Pháp.


Việc quân đội Việt Nam Cộng Hòa đóng quân ở Hoàng Sa để giữ đảo kéo dài từ năm 1956, đến ngày 19 tháng 1 năm 1974, Trung Cộng dùng vũ lực xâm lăng Hoàng Sa, qua việc “ngó lơ” của các tầu chiến Mỹ thuộc hạm đội 7 hoạt động gần đó.


Do tình hình đánh chiếm Hoàng Sa của Tầu Cộng, thực tế cho thấy khi binh lính của nước An Nam ngày trước, thời các chúa Nguyễn hay các vua triều Nguyễn, và ngay cả thời gian sau nầy, khi quân đội của nước An Nam, như tên gọi ngày xưa, cũng như Việt Nam, như tên gọi sau nầy, chiếm đóng Hoàng Sa, Trường Sa là không gây ra nổ súng, chiến tranh với một quốc gia nào cả, không gây hấn bằng võ lực với ai cả.


Ngược lại, khi Trung Cộng chiếm Hoàng Sa năm 1974, đã gây ra chiến tranh với Nam Việt Nam. Họ đã thắng và miền Nam Việt Nam đã thua. Người ta có thể lý luận như sau:


a)- Trong thực tế, khi một nước đem quân đánh chiếm một vùng đất hay đảo không có dân chúng, không có chính quyền, không có quân đội thì việc làm đó, chưa hẵn là sai, vi phạm luật lệ quốc tế.


b)- Ngược lại, khi Trung Cộng đem chiến thuyền tấn công Hoàng Sa, trên đó đã có quân đội nước khác đang trú đóng, dùng võ lực để cưỡng chiếm lãnh thổ, thì nó có nghĩa rằng Trung Cộng đã âm lăng, sai hoàn toàn.


Chính phủ nước Việt Nam hiện nay, trên nguyên tắc, có thể đưa ra lập luận như trên (a và b) để xác định chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Hoàng Sa thuộc quyền Việt Nam Cộng Hòa khi bị Trung Cộng xâm chiếm. Tình hình ấy bắt buộc thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải nại chính quyền Miền Nam Việt Nam (hay nói cách khác là Việt Nam Cộng Hòa) khi muốn nói với quốc tế rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.


Việc làm nầy của ông Nguyễn Tấn Dũng mang tính chất thực tế lịch sử, không mang tính chất hòa hợp hòa giải giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam.


5) Hải ngoại huyết lưu hồng?


Sấm Trạng Trình có câu:


Ô hô thế sự tự bềnh bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ ần sơn trung Mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng ….


Các câu 1, 2 và 3 người ta đã bàn nhiều, kẻ trật người trúng, không nói chắc được. Tuy nhiên, câu 4 “Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng” là câu người ta nghĩ rằng sẽ có đánh nhau lớn ngoài biển đông.


Ở Biển Đông, đánh nhau thì cũng có đánh rồi. Đó là các trận Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng có lẽ người ta có thể cho rằng hai trận đánh ấy chưa có đủ “kình ngư”, và “huyết lưu hồng” còn ít chăng?


Vậy thì bao nhiêu mới đủ. Phải đánh nhau lớn hơn? nhiều hơn? Vai trò chính trong một hay nhiều trận đánh lớn sẽ xảy ra dĩ nhiên người Việt khó tránh khỏi. Kẻ thù của người Việt là Tầu Cộng chớ còn ai vô đây. NHưng tại sao phải là 2 nước nầy.


Nhà văn Ngô Thế Vinh, sau chuyến di ngược sông Cửu Long có viết cuốn sách “Cửu Long cạn giòng, Biển Đông dậy sóng.” Có thể ông ta cho rằng nước sông Cửu Long cạn thì sẽ có đánh nhau ngoài Biển Đông.


Hết Tầu nay đến Lào xây đập thủy điện trên sông Cửu Long thì nước sông nầy cạn đi là đương nhiên. Nước sông cạn, nước biển tràn vào, đồng bào sông Cửu Long không tránh khỏi bị nhiễm mặn, làm sao trồng lúa? Ngoài Biển Đông thì Tầu gây bao nhiêu xáo trộn, giành biển, giành cá, giành tài nguyên. Như thế là Việt Nam hai đầu bị ép, liệu có ngồi yên được chăng?


Đời chúng ta sẽ còn thấy chiến tranh Đông Dương xảy ra một lần thứ tư nữa, hay con cháu chúng ta sẽ phải đương đầu với một cuộc chiến tranh chống Tầu, hay Mỹ Tầu bắt tay nhau chia chác nguồn lợi ở Biển Đông, ăn trên đầu trên cổ người dân Việt. Ai có thể đoán trước được tương lai sẽ ra sao?


hoànglonghải
———————————-


Truyện cổ tích: Dã Tràng


Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang.


Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn vào, thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong. Vì mới lột nên mình mẩy của nó yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc lâu rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn.


Ít lâu sau. Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến kỳ lột, nằm im thiêm thiếp, lốt da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về, theo sau một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực một mình bò vào hang. Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồị Ổng cảm thấy ngứa mắt, muốn trừ bỏ con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn đực mới đến, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái, nhưng trong cái thương có lẫn cả giận, nên ông chán nản bỏ đi về nhà. Từ đó ông không thèm để ý đến hang rắn nữạ Chừng dăm bảy ngày sau, một hôm Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ nghe và vui miệng, ông kể luôn những việc mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói:


- Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng hồi nãy nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc nghe nàỵ Đeo nó vào mình thì có thể nghe được mọi tiếng muông chim ở thế gian.


Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời.


Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, tự dưng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng như thế này: “Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng tôi với”. Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy, đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy tất cả, chẳng chừa một tí gì.


Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo om sòm. Thấy vậy ông biết là người trong xóm đã làm hại mình, không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi.


Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng. Chủ ý là để đuổi chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân, liền cắp mũi tên có tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông, thấy một cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông, hạ ngục.


Dã Tràng bị bắt bất ngờ, hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét giải ông về kinh để vua phân xử.


Từ đề lao tỉnh, ông bị điệu đi. Dọc đường trời tối, bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với nhau:


- Nhanh lên! Chuyến này sẽ không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả.


Một con khác hỏi:


- Của ai mang đến bỏ vương vãi như thế?


Con nọ trả lời:


- Của Vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp bên nàỵ Ngày hôm qua, quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa sắp đến biên giới thì bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy thứ khác cho nên chúng ta tha hồ chén.


Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính thúc dục lên đường, Dã Tràng bảo họ:


- Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc oan uổng và nhỏ mọn, không nên bận tâm, mà giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi, và còn cấp bách nữa là khác.


Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan, mình mới tỏ bày rõ ràng.


Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng liền cho họ biết rằng Hiến Đế ở phương bắc đã sai tướng cầm quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết, chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng cố hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà đoan rằng nếu có sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho. Ngay lúc đó, những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngõ để lấy tin. Và nội ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách của ông quả không sai và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch.


Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa. Ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân.


Gặp lại bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất cảm thương bạn. Thấy bữa ăn tối thết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ:


- Bạn ta đến, lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường.


Người vợ bằng lòng nhưng dặn chồng sáng sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay.


Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái:


- Mình ơi ! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt. Ngỗng mái không nghe, xin chết thay cho chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, nên chạy ra sân từ giã đàn con:


- Con ơi ! Các con ở lại với mẹ nghe. Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con nữa.


Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy theo, đòi chết thay chồng cho bằng được.


Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại.


Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên, vào khoảng canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy đao. Ông nói:


- Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta lọ phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ nàỵ


Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn.
Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con đứng chực ở đấỵ Ngỗng đực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói:


- Đa tạ ân nhân cứu mạng. Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển.


Ngỗng lại nói tiếp:


- Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay, dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn !


Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về.


Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần đi xuống nước. Thì lạ thay, nước rẽ ra thành một lối cho ông đi thẳng xuống đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần để thử xem thế nào.


Hôm đó, Long Vương và các triều thần đang hội họp ở thủy phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác bỗng nhiên rung động, cơ hồ muốn đổ. Ai nấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình.


Bộ hạ Long Vương theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi lần khoắng như thế, họ cảm thấu xiêu người nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thủy phủ.


Gặp Long Vương, Dã Tràng cho biết đó là mình chỉ mới làm thử để xem phép có hiệu nghiệm chăng. Long Vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật thì thế giới thủy phủ sẽ còn gì nữa ! Vì thế, Long Vương đãi Dã Tràng rất hậu. Ông muốn gì có nấy. Cho đến lúc ông ra về, Long Vương còn đem vàng bạc tống tiễn rất nhiều để mong nể mặt.


Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long Vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lạị Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi đựng chúng và luôn luôn đeo ở cổ.


Một hôm Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi Dã Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ ra vì vội vàng quá nên ông đã bỏ quên mất túi ngọc ở nhà. Ông thấy không thể nào an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội cáo từ về ngay.


Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi vẫn không thấy túi ngọc đâu cả. Ông rụng rời cả ngườị Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy do vợ ông viết để lại gài ở chỗ treo áọ Trong đó, vợ ông nói rằng có người của Long Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long Vương thì sẽ được phong làm hoàng hậu. Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông, đưa túi ngọc xuống thủy phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt. Đọc xong thư vợ. Dã Tràng ngất đi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long Vương thâm độc đến nước ấỵ Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính chở cát lấp biển thành một con đường đi xuống thủy phủ để lấy lại túi ngọc vì ông còn nhớ cả đường lối đến cung điện của Long Vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng không nghe, bèn dọn nhà ra bờ biển làm công việc đó. Ngày ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho bằng được. Cho tận đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hóa thành con còng còng hay cũng gọi là con Dã Tràng ngày ngày xe cát để lấp biển. Tục ngữ có câu:


Dã Tràng xe cát biển Đông.
Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.


Hay là:


Công Dã Tràng hàng ngày xe cát,
Sóng biển dồn tan tác còn chi.

Hay là:


Còng còng dại lắm không khôn.
Luống công xe cát sóng dồn lại tan.


Người ta nói ngày nay loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó nhớ ơn loài tép đã thế mạng cho tổ tiên mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên đầu là dấu hiệu để tang cho Dã Tràng để nhớ ơn cứu mạng.

Sunday, March 11, 2012

MANG VIÊN LONG * Vũng Lầy



Hắn cao hơn một mét sáu một chút -không thể gọi là ốm, cũng không xem là mâp. Dáng người tầm thước, trung bình như bao người khác mà chúng ta thường gặp. Chỉ có khuôn mặt có đôi nét khác thường: Đôi mắt sâu, nhỏ. Không hề thấy mở lớn, hay nhỏ hơn cứ một vẻ cố định như hai lổ hổng trên thân cây. Nó mở ra, cố định cứng ngắt dù lúc vui hay buồn. Chiếc miệng ít khi mở lớn, ngay cả lúc nói và nhất là lúc cười luôn đóng kín lại sau mỗi lần mở ra. Bởi vậy ,giọng hắn cũng một âm điệu, một chuẩn mực đều đều, nhàn nhạt, lửng lơ! –“ Hì hì…cái thằng cha ấy mà!” - “Hì hì…cái con mẹ ấy mà!”. Vừa nói, vừa nhìn đâu đâu ,hắn không hề dám nhìn vào mặt người đối diện bao giờ.

 Nhìn hắn, và nghe giọng hắn ai cũng có cảm giác là hắn không quan tâm tới bất kỳ điều gì! Không thể gần gũi, thân thiết với bất cứ ai. Nó trơn trụi như mặt một tản đá. Có lẽ, ngay cả khi đối diện với người mà hắn cho là đã yêu thương cũng thế chăng? (Hay với vợ và đứa con gái duy nhất của hắn bây giờ?). Hắn tỏ ra cách xa mọi người như một kẻ từ trên cao nhìn xuống, cách biệt coi thường. và không hề tỏ ra quan tâm tới ai cả! Vậy mà không biết sao, hắn vẫn thường nói nhiều về những đứa con gái mê hắn, theo hắn một cách khó hiểu? Và, có một điều mâu thuẫn khó hiểu nữa, là hắn lại thường moi tìm mọi chỗ để chê trách người chung quanh cho dầu đó là những điều mà không ai thấy, không ai quan tâm. không là chuyện gì khác thường để quan tâm? Và, hắn thường tỏ ra hãnh diện (được nhận thấy trên khuôn mặt trơn tru lạnh ngắt bổng căng ra) ,vì đã làm điều khác mọi người!

Không ai biết hắn đã học hành tới đâu ,có loại bằng cấp gì, nhưng chỉ biết rõ là hắn đang là anh công chức ở một cơ quan tài chính của tỉnh sắp nghỉ hưu. Vậy mà ,hắn thường bàn về văn học thế giới (về tôn giáo, về các ý thức hệ… ) ,thường bắt đầu bằng câu hỏi: “ Cậu đã đọc Enest Hemingway. Erich Mariaremarque, Leon Tólstoi. Stefan Zweig, Súsean Donovan, hay Kalei Florder, Jennifer Crusie (..) chưa?”. Và, như một người sành thạo thỉnh thoảng, hắn chêm một câu tiếng Pháp vào giữa câu nói không ăn nhập gì đến câu chuyện.
Lúc không thể chắp vá lại được các kiến thức vụn vặt không đâu vào đâu của các tác giả nước ngoài ấy, hắn bèn đọc dăm ba bài thơ của hắn để minh chứng cho cái tài năng văn học ít ai có thể đạt tới ở xứ này. Ví dụ 4 câu hắn thường hiu hiu goi là “tuyệt tác” trong loại thơ tứ tuyệt, sánh ngang hàng thơ Lý Bạch, Đỏ Phủ đời Đường:


“ Áo em trắng phủ mờ sương lạnh
Che lấp đời ta giữa tháng đông
Phố thị buồn tênh chiều tiễn biệt
Anh buồn da diết cõi hư không”

Tóm lại , trước hết người nghe thơ của hắn có chung một cảm nhận là sự ngạc nhiên đến lạ lùng, vì tìm mãi trong ý thơ của hắn, không có chút dính dáng gì đến con người hắn cả! Lạ lùng đến nỗi -họ nghĩ, hắn có thể copy ý thơ, lời thơ của ai? Giữa thơ và người, là một sự mâu thuẫn ghê sợ. Dạo này, thơ không biết ở đâu mà lại bay đi tràn lan có kẻ tự hào, một ngày làm đến năm bảy bài thơ các loại. từ thơ tình đến thơ thế sự, xã hội, tôn giáo…Người ta thấy hắn làm thơ đề tặng cô này cô nọ - chịu khó nghe đọc, để tìm sự thích thú trong cái ngạc nhiên lạ lẫm lúc ngồi ở quán café, quán nhậu chứ không phải là cảm nhận của thi ca. Thi ca không có mặt, không tồn tại trong sự ngụy tạo dối lừa mình, phỉnh gạt người!

Hết đọc thơ, hắn than: “Trong máy điện thoại của mình tái khoản có luôn trên máy mấy trăm ngàn mà có bao giờ dùng đâu?”. Giọng hắn nhỏ, đều đều ,rè rè tưởng như nói với chính hăn: “Ở trong cái thành phố này, mình cô độc lắm! Cô độc và buồn bã ngay trong cái nhà của mình nữa trong bao nhiêu năm trời!”. Rồi hắn nhắc tên người này người nọ (trong và ngoài nước) đã gởi cho hắn tiền để trả khoản nợ vỡ hụi của vợ hắn lên đến mấy trăm triệu không biết bao nhiêu lần. Hắn tỏ ra thất vọng kể về mấy nhân vật mà hắn cho là “khó ưa” trong cùng cơ quan dã không thể “chơi” được, không hề nhận ra “tài năng đa dạng” của hắn trong mấy chục năm trời, mà cũng chẳng hề bỏ ra xu nào trong lúc gia đình hắn khốn đốn vì nợ kêu réo! Ngồi nghe hắn, ai cũng thấy rất rõ có một điều dễ nhận ra mà hắn không hề nhìn thấy - là suốt bao năm, có thấy hắn tỏ ra “ưa” thật lòng ai đâu mà ai đem lòng ưa hắn? Chẳng lẽ trong bao nhiêu con người chung quanh đời hắn ( ngay những người thân, vợ và con) không có được một vài người để hắn tin tưởng, yêu thương? Người ta cũng thắc mắc: “ Vậy mà hắn cũng cưới được vợ mới là điều lạ!”.
Bất cứ gặp người quen ở đâu (quán café, trong đám giỗ, tiệc cưới, hay bên hè đường) với giọng sắc nhỏ, nhát gừng. lạnh băng chui ra từ chiếc miệng khin khít hai hàm răng ,hắn quở trách người này, kẻ kia ( vì chuyện này chuyện nọ) mà người nghe biết rất rõ là hắn chỉ biết lỏm bõm trong các vấn đề này!

Không hiểu vì lý do nào, bỗng nhiên hắn bỏ cơ quan đi đâu mất biệt gần tháng trời sau khi đến tòa ký vào giấy xin ly hôn của vợ. Nhiều tin đồn đãi về hắn trong lức căn nhà được tòa đem ra bán đấu giá để trả nợ cho chủ. Nhiều người nghĩ rằng, ngôi nhà trong con hẻm nhỏ không phải là cái lý do chính để hắn bỏ đi, nhưng không ai hiểu gì thêm. Người ta chỉ thấy vợ hắn cùng đứa con gái đang học lớp 12 phải ra thuê một căn phòng của ngôi nhà cấp bốn nhiều phòng, được dựng lên trên khu đất khá rộng vốn là vườn cây ngoại ô, để cho học sinh, sinh viên, hay cán bộ nghèo thuê tạm.
Còn hắn, sau khi về lại cơ quan xin được cho về nghỉ hưu vì lý do sức khỏe trước thời hạn ,vội vã mang túi xách ra đi. Như chạy trốn. Đứng bên đường đón xe khách Bắc -Nam, hắn cứ chốc chốc thò tay vào túi áo. lấy chiếc máy điện thoại di động -bấm máy, thoáng nhìn vào máy rồi cất vào túi. Không rõ hắn muốn xem giờ, coi tin nhắn, hay muốn gọi cho ai? Mấy trăm ngàn trong tài khoản có của máy chắc vẫn còn nguyên như cũ?
Sau nhiều tháng ngày lêu bêu, lang bạt đó đây hắn không còn tiền để thuê được một căn phòng trọ rẻ mạt nhất ở khu bến xe, hay xóm chợ ngoại ô. Một buổi chiều, người ta thấy hắn đi mải miết ra vùng quê xa thành phố đến hơn mười cây số. Phía trước hắn là con đường dẫn lên con xóm lác đác vài ngôi nhà tranh, nhà lá - phía xa là chân đồi, ngọn núi mờ nhạt như bức tranh nhòe.

Hắn cứ đi. Không hề thấy quay đầu nhìn lại…
Cuối cùng, khi mặt trời đã nằm gần kề dãy núi phía tây bên trái con đường mòn ,hắn cũng nhìn thấy được mái ngói rêu phong của ngôi chùa mà bà chủ phỏng trọ đã nói với hắn lúc sáng. Ngôi chùa có tên “ Linh Phong Tự”.
Hắn khẽ đẩy cánh cửa cổng chưa được cài then lách mình vào, toàn thân như chiếc bong bóng bị xẹp. Hắn bước nhè nhẹ từng bước vào khoảng sân đất đầy lá khô. Tiếng khua dù rất khẽ, cũng đôi lần khiến hắn hoảng hốt, dừng lại.
Từ chiếc cửa chánh điện khép hờ, hắn nhìn thấy vị sư già ngồi bất động, như một pho tượng. Hắn tựa cửa, đứng nhìn chờ đọi. Mỏi mệt, hắn ngồi dựa vào vách tường phía trước. Chờ đợi.
Không rõ mấy giờ đã trôi qua mà hắn không hề nghe thấy một tiếng đọc kinh nhỏ hay một âm thanh nào ,ngoài tiễng muỗi vo vo mỗi lúc một nhiều.
Hắn ngồi yên như vậy.
Và ngủ...

Tiếng vị sư vang lên như tiếng sấm làm hắn giật mình, đứng bật dây như con robot được bấm nút. Hai tay chắp trước ngực ,trân tráo nhìn vị sư qua ánh đèn nến leo lét ông đang cầm trên tay. Có lẽ, trong cuộc đời của hắn đây là lần đầu tiên đôi mắt sâu. nhỏ của hắn đã mở lớn đến vậy?
- Ta biết con sẽ đến đây từ khi con bắt đầu rời thành phố…
- Dạ…
- Ta đã tự ra mở cánh cửa chùa, bỏ hờ đó sau khi chú Thiện Trí đã khóa.
- Dạ..
- Những điều con muốn tìm không có ở đây đâu!
- Dạ…
Khi vị sư gìà chớm bước đi ,hắn òa lên khóc : “ Thầy ơi! Vậy con phải tìm ở đâu?”
- Trong con chưa hề có chút gì con muốn tìm cả, thầy cũng không giúp gì con được .Vị sư quay lưng, lặng lẽ bước đi.
- Thầy ơi!
- Gì vậy?
- Thầy ơi! Con khổ lắm!
- Thầy biết! Giọng vị sư già ôn tồn, kẻ nào đã làm cho đời con khổ như sa vào vũng lầy vậy?
Hắn im lặng.
Đứng yên như một thân cây.
Nước mắt hắn cứ chảy tràn qua mặt nhỏ xuống giọt giọt, mỗi lúc một nhanh.
Vị sư bước đi vài bước ,chợt quay lại: “ Con có lúc nào được khóc như vậy chưa?”
- Thưa, chưa…
- Vậy hãy đứng yên mà khóc đi, nhé? Những giọt nước mắt sẽ chỉ cho con thấy điều con muốn tìm đó, con ạ!!
- Dạ..
Tiễng vị sư già vang lên như tiếng chuông:
- Rồi con sẽ tự vượt ra khỏi vũng lầy, và thấy điều con muốn tìm là không xa…

Mang Viên Long

Friday, March 9, 2012

Vũ Hoàng Chương * Sai Lạc




Nao nao tiếng sắt dội trên đường
Sầu chở đầy xe nẻo cố hương
Đá gập ghềnh nghiêng đôi bánh gỗ
Tre làng mươi đảo biếc trong sương

Dĩ vãng mơ hồ sau khóm tre
Đâu đây trường học trống tan về
Bờ ao gợn đỏ màu hoa sắn
Kỷ niệm khơi cùng vết bánh xe

Bâng khuâng vòng sắt nặng nề quay
Vang bóng thời xưa tản mác đầy
Sông ngủ hoàng hôn đều đượm khói
Men chiều nghiêng ngả chiếc xe say

Lưỡi tê thành bại đắng giang hồ
Bánh lệch thăng bằng lối mấp mô
Nao nức thăm quê sầu chểnh mảng
Phong Trần sai nhịp với Ngây Thơ

Vũ Hoàng Chương  

PHẠM NHÃ DỰ * GIỮA ĐỜI BAO LA

















Ta cõng em lên núi
Quẳng vô tay thiền sư
Hỏi thăm ngài giác ngộ
Thiền sư ngữa mặt cười
Bóng phù vân vu vơ.

Ta vác em xuống đồng
Hoá thân cùng chim cá
Tâm mọc đầy rong rêu
Hồn bỗng dưng xa lạ
Trơ giữa đời bao la.


Ta mang em ra phố
Ném vào giữa chợ tình
Trăm người hỗn mang lạ
Rao bán cuộc bình sinh
Ta ngẫn nhìn ngơ ngác.

Ta đưa em vào đời
Nhảy múa cùng tử sinh
Trái oan khiên rớt hột
Đâm chồi giữa điêu linh
Ta rùng mình phiêu hốt.


Ta cõng em lên núi
Quẳng vô tay thiền sư
Hỏi thăm ngài giác ngộ
Thiền sư ngữa mặt cười
Bóng phù vân vu vơ.

phạm nhã dự

BÙI NGỌC TUẤN * Trần Tuấn Kiệt, mây phiêu du

Bùi Ngọc Tuấn

Tóc bay khuất giải Ngân Hà
Tuyệt vời thấm mộng, đêm là đêm xưa


Một buổi tối cuối năm - đâu đó vào năm 1965, 1966 - trong sân trường Đại Học Văn Khoa, vắng lặng, yên tĩnh ngay giữa những ồn ào của trung tâm thành phố Saigon đang chờ đón Tết, Trần Tuấn Kiệt vời tay lên vầng trăng đọc cho tôi nghe hai câu thơ tuyệt vời ấy.
Kiệt đọc xong, đứng im lặng. Tôi đứng im lặng. Hồi lâu. Bởi vì không còn gì để nói vào lúc đó. Bởi vì không có gì nên nói vào lúc đó. Những câu thơ ngân vọng mãi đến bây giờ. 40 năm sau.
Tôi quen Trần Tuấn Kiệt một cách tình cờ, khi anh đến trường Đại Học Văn Khoa tìm Phạm Quốc Bảo. Chúng tôi đi uống café ở góc đường Gia Long và Nguyễn Trung Trực, trước cổng trường Văn Khoa, rồi thân với nhau từ đó. Không ngày nào không đi lang thang với nhau, nhiều hôm cả sáng, cả chiều, cả tối. Trần Tuấn Kiệt thủa ấy có một cái xe velo solex, tôi đi một cái xe mobylette. Tôi thường chở Kiệt trên cái mobylette đó. Nơi chúng tôi lang thang là hè phố Saigon, những hành sách cũ, những quán vỉa hè. Cả hai đứa ít khi nào vào La Pagode ngồi, hình như vì cái phong thái giang hồ của hai đứa ít hợp với nơi 'bàn cao, cửa kính' ấy. Quán café, quán ăn vỉa hè là nơi hai chàng 'tọa thị' hàng giờ. Ngoài việc làm thơ, Kiệt không làm gì cả. Còn tôi thì đi học như đi chơi. Đầu năm đến ghi danh rồi mỗi ngày đến trường gửi xe, xong ra quán café ngồi, cuối năm đi thi. Hai đứa tôi có nhiều thì giờ hơn ai hết, ở Saigon lúc đó.
Trước đây, khi viết về Nguyễn Đức Sơn, tôi có nói rằng: '…ở Việt Nam tuy có rất nhiều người làm thơ hay, nhưng chỉ có ba người thật sự sống cuộc đời thi sĩ, họ và thơ là một, ngoài thơ ra họ không có gì khác, không còn gì khác, không muốn gì khác, không là gì khác. Sơn là một, hai người kia là Bùi Giáng và Trần Tuấn Kiệt…’Quả tình ngoài thơ ra, Kiệt không làm gì cả, không có gì cả. Hình như khi viết về Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền có nhắc lại lời Khổng Tử nói về Lão Tử (trong Nam Hoa Kinh) để ví Bùi Giáng như là một 'con rồng'. Nếu Bùi Giáng như ‘rồng’ thì tôi thấy Trần Tuấn Kiệt như một 'vầng mây trắng', bay lang thang vô định. Vầng mây trắng không làm gì cho trời, cho đất. Nhưng đất trời sẽ không còn là đất trời nếu thiếu đi những vầng mây phiêu du khắp chốn ấy.
Hãy đọc mà nghe:

Nai

Lên theo đỉnh núi mơ màng
Một con nai đứng vọng ngàn trong sương
Vách cao đá dựng trăng buồn
Tơi bời tiếng lá, mưa luồng lũng sâu
Gót thầm nai tếch ngàn thâu
Nhân gian nghe cũng vọng sầu bao la

Mới đọc lần đầu, nhạc điệu, âm hưởng man mác của bài thơ làm ta bâng khuâng. (Như tiếng hòn sỏi vừa ném xuống hồ nước). Đọc lại những lần nữa, những ý tình tiềm ẩn thấp thoáng ẩn hiện, chợt vang vọng lên, ngân dài bất tuyệt (như những vòng sóng lan ra trên mặt nước lặng).
Thơ Trần Tuấn Kiệt như thế.
Và hãy đọc thêm vài bài khác:

Hạc thiêng

Thơ bay vàng cánh hạc chiều
Núi sông trăng mới bên triều biển xanh
Mươi năm lỡ bước thị thành
Mộng đời ủ lại mái tranh sau vườn
Bao người đánh mất quê hương
Trăm năm hiện hữu ai buồn vì ai!
Tuổi đời mỏng cánh hạc bay
Động lòng thiên cổ gió mây qua đèo


Đường xuân

Ta về đâu những con đường
Lệ sầu ai rãi phấn hương mau tàn
Xuân đời nhan sắc truy hoan
Rượu tình tri kỷ trần gian mấy người
Ca thâu đàn hát tan rồi
Mây xuân chở mộng qua trời về đâu


Biển khuya

Biển khuya sóng vổ lên hồn
Ta nằm nghe lặng tiếng cồn dâu xanh
Vầng trăng lửa Hạ treo nhành
Vực sâu rêu phủ mấy cành củi khô
Ngàn xưa hoa trắng phiêu du
Nước sa buồn với mùa Thu cách nguồn
Trăm sông buồn cũng xô luôn
Quanh co bến lạ máu xương rụng sầu
Sóng dồi giấc ngủ đêm thâu
Vầng trăng ngọc thạch ửng mầu tồn sinh


Khúc Phượng Cầu Hoàng

Chiều nghe khúc Phượng Cầu Hoàng
Nỗi buồn thiên cổ tiếng đàn nghìn năm
Lệ châu rơi xuống âm thầm
Tương Như Tư Mã cánh bằng đã xa


Mùa vu lan

mộng vàng ai thếp màu son nhạt
kiếm khách mài gươm dưới nguyệt tàn
ta về trễ quá muôn năm trước
trống đồn bi ký cõi nhân gian
em đẹp còn đây dáng mỹ nhân
Tây Thi gái Việt sắc mê hồn
ta say tình sử thương thiên cổ
mấy nếp lâu đài rộn gót son
ấy ai cưỡi ngựa chơi vườn cũ
khua trống chiêng xưa bóng chập chờn
kìa xem trăng mộng thành thiên cổ
hoa lá vin cành điệp dưới thôn
Em đi lễ Phật Vu Lan mới
dạo chùa lễ Phật nức hương sen
cho anh gởi chút tình ân ái
về dưới Phật đài vui với Em


Tượng

Em đi chân bước lạc đà
Suốt miền ải hạn giữa sa mạc người
Phượng hoàng xuống đậu hai vai
Ngậm hoa quỳ nhớ thiên thai không về
Ngàn năm mây trắng trôi đi
Với hồn xưa động bốn bề không gian


Bến ngựa

tặng Bùi Ngọc Tuấn

Khi xưa ta đến bên thành
Cỏ cây cũng nhớ thương mình ra hoa
Vầng trăng bến ngựa giang hồ
Bia thành vách mộ lòng ta chợt buồn


Em còn hái trái

tặng Phan Bá Thụy Dương

Em còn hái trái bên cây
Vết son mùa để dấu hài đầu tiên
Loi choi bước nhảy chân chim
Gió tan mây tụ đảo điên hồn người
Em còn hái nữa hay thôi
Vết tay chín móng đã mười yêu thương
Phiêu-du trở bến trong vườn
Một giòng nước thẳm bên nguồn em đang…
Vườn chim trái mộng hoa vàng
Nửa đêm trăng cũng huy hoàng bên em


Quê hương

tặng PhươngTriều

Lòng ta vì quá đỗi nhớ thương
Cành hoa bụp cũ khóc bên đường
Bến khuya Sa đéc trăng mười sáu
Mấy độ chìm theo sóng lớp lang
Hỡi người con gái bến Tân quy
Nàng hát ta nghe hát những gì?
Tóc xõa bốn trời trăng gió tụ
Mây vờn âm điệu nét phương phi
Hát nữa nàng ơi! não bốn trời
Cành hoa bụp cũ bến kia rơi
Quê hương khúc hát chừng đưa lại
Lớp sóng trường giang lạnh đến trời

 

Từ thời còn rất trẻ, vào thập niên 1950, Trần Tuấn Kiệt đã xuất hiện trên ‘Văn Hoá Ngày Nay’ của nhà văn Nhất Linh. Ngay từ bài thơ đầu tiên trong đời được đăng báo, Kiệt đã được trả tiền nhuận bút, khá hậu hĩnh. Cái tên Sa Giang Trần Tuấn Kiệt ngay từ buổi đầu đã có chỗ đứng riêng biệt, vững vàng trong thi đàn Việt Nam.

 

Tiếng thơ Trần Tuấn Kiệt đầy những âm vọng của thơ Lý Thương Ẩn và Đỗ Phủ, thêm vào đó là những ngậm ngùi, mênh mang của giòng thơ lục bát nói về những u sầu của lòng người mà ngàn năm cứ trầm vang những nỗi niềm của cuộc phù sinh. Ngoại trừ tập ‘Triều Miên Ngâm Khúc’ nói về những đớn đau của một người cha mất con, nhìn vào cuộc đời đầy sinh ly tử biệt; Những tập khác như ‘Nai’, ‘Cổng Gió ‘, ‘Thơ Trần Tuấn Kiệt’, ‘Em Còn Hái Trái’, ‘Lời Gởi Cây Bông Vải’ … là những tiếng lòng u hoài miên viễn trước kiếp người hữu hạn giữa giòng thời gian bất tận, và của đời người trầm luân trong một thời ‘Xuân Thu mới’ nhiễu nhương không khác gì thời Xuân Thu trong cổ sử. Trần Tuấn Kiệt không có những loại thơ tình của những tình nhân bình thường, như ta thường thấy trong thơ tình của những thi sĩ lừng danh khác. Không có những đắm say nồng nàn, không có những đáng cay, quằn quại. Chỉ có những mối sầu miên viễn, sầu tình hòa cùng sầu đời, man mác, ngậm ngùi. Thơ tình của Trần Tuấn Kiệt không bao giờ có những lời tỏ tình trực tiếp, mà luôn luôn là những ẩn dụ và mối sầu tình cũng luôn luôn hòa với mối sầu thiên cổ.

 

Ngôn ngữ Trần Tuấn Kiệt giản dị mà chở đầy những hình ảnh dù man mác mà thê thiết, trong một nhạc điệu trầm ngân như một tiếng thở dài. Tình yêu quê hương Việt Nam, yêu tiếng Việt vốn tràn ngập trong thơ văn Trần Tuấn Kiệt, nhưng ngắn gọn, rõ ràng và quyết liệt nhất là trong quyển ‘Tiếng Đồng Nội’, với vài giòng bố cáo đơn sơ ở đầu sách, đại khái là: cấm dịch ra bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Nghĩa là phải người đọc phải đọc cuốn tiểu thuyết này bằng tiếng Việt Nam…

 

Kiệt viết rất nhiều, thơ, truyện ngắn, truyện dài, biên khảo (‘Tác Giả, Tác Phẩm’, Thi Ca Việt Nam Hiện Đại’ dày hàng nghìn trang…., nhưng thơ vẫn là thể loại chính, hàng 5, 7 nghìn bài trong 50 năm qua.

 

Thủa đó, nơi hai chàng lãng du là những quán vỉa hè. Ngồi trên những chiếc ghế đẩu thấp sát đất. Uống những ly rượu đế nhỏ. Nhắm những con khô mực nướng thơm. Kiệt thường nói: 'tao nghèo mà vui'. Nghèo thì cũng đúng, nhưng vui thì đúng hơn. Tôi cho rằng trên đời này chỉ có một mình Trần Tuấn Kiệt là không biết buồn, biết lo. Những nỗi buồn, lo của sinh kế, của đời sống hàng ngày, của mọi người. Kiệt hồn nhiên như một đứa trẻ. Chỉ biết có thơ và rượu mà thôi.

 

Một buổi chiều tối, trong lúc đang ngồi uống café ở bên lề đường Lê Thánh Tôn, Tôi rủ Kiệt đi ăn tối. Kiệt không chịu, nhất định kéo tôi về nhà ăn cơm. Nhà Kiệt thời đó ở trong một ngõ hẻm nhỏ trên đường Phan Đình Phùng, gần chợ Vườn Chuối. Căn nhà hẹp hơn một căn phòng của người khác. Rộng chừng 2 thước, sâu chừng 4, 5 thước. Phòng khách là một cái bàn nhỏ với hai cái ghế. Phòng ngủ (và cũng là phòng ăn) là một cái giường. Sau một bức vách ngăn là nhà bếp nhỏ. Trên vách nhà treo đầy tranh của những họa sĩ hàng đầu thời đó (Nguyễn Trung, Nguyên Khai, Nghiêu Đề…) tặng cho Kiệt. Đó là nơi hai vợ chồng Kiệt và cháu gái nhỏ sống (Lúc đó cháu Trần Triều Miên - con đầu của vợ chồng Kiệt đã gặp nạn, qua đời).

 

Về tới nhà Kiệt bảo vợ: 'anh Tuấn ăn cơm tối với tui'. Nói rồi, Kiệt kéo tôi xuống bếp khoe gà. Kiệt ham mê gà chọi. Anh có thể đói, nhưng gà phải no, phải có rượu bóp. Kiệt mở bu, bế gà ra vuốt ve hồi lâu. Hãnh diện nói với tôi: 'mày thấy con gà này ngon không, đá vô địch'. Tôi biết gì về gà đá… Cười. Vợ Kiệt dọn cơm lên giường. Một niêu cơm nhỏ, một nồi cá kho nhỏ. Trong nồi chỉ có một con cá kho, trắng, to bằng 4 ngón tay. Nồi cơm được chừng 2 bát lớn, 3 bát nhỏ. Vợ Kiệt bế con đi, chừng 5 phút sau chị trở về với một ca sắt đầy bia. Kiệt với tôi chuyền nhau ca bia, uống. Vợ Kiệt bế con, đứng nhìn chúng tôi ăn, mặt cười rặng rỡ. Tôi chợt biết rằng mình đang ăn phần cơm của chị. Lòng đau thắt.

 

Kiệt làm thơ rất tức cười, gặp tờ giấy nào cũng viết lên đó, nào là tờ lịch, bì thư, bản vỗ… Viết xong bài thì bỏ vào một cái sọt tre lớn treo trên vách, kế cái bàn nhỏ tiếp khách. * (Sau này nhớ lại, tôi mới thấy là trong nhà không có tủ, mà chỉ có vài ba cái sọt treo trên tường đựng đồ dùng. Cái sọt treo ở phòng khách là để đựng thơ). Những tờ báo hỏi xin bài, thì Kiệt quơ tay vào trong sọt, lấy ra dăm bảy, bài đưa cho họ. Kiệt làm thơ gần như không sửa đổi bao giờ. Thơ viết ra giấy là xong rồi. Hình như thơ đẵ nằm trong đầu hàng loạt, hàng mươi bài mỗi lần. Có sửa gì, thì sửa trong đầu, chứ đã viết ra giấy là xong rồi. Không nghĩ đến nữa. Tuy thế, mỗi bài thơ là một hoàn chỉnh. Không thể sửa gì nữa. (Cũng giống như cách Bùi Giáng và Nguyễn Đức Sơn làm thơ). Ba ông này quả thật là kỳ tài.

 

Trần Tuấn Kiệt là một cao thủ của trường phái Tây Sơn Nhạn. Có thời anh dạy võ. Một hôm tôi bảo Kiệt chỉ cho một vài ngón để phòng thân. Kiệt nói: 'mày không học tới nơi mà chỉ biết vài thế, tụi nó đánh chết'. Nói rồi anh bảo tôi khi sắp đánh nhau thì tay trái chống vào cạnh sườn, tai phải nắm lại, nhưng ngón trỏ thì thẳng ra chỉ chỉ vào mặt đối phương mà tiếp tục cãi, rồi bất thình lình cụp ngón trỏ lại, đấm ngay giữa trán đối phương, trước khi bỏ chạy. Cái cú giả vờ cãi rồi lừa địch thủ mà đấm trước rồi chạy này tôi chưa có dịp thử, nên không biết hiệu nghiệm ra sao.

 

Một buổi tối kia. Hai đứa tôi vào hiệu ăn Chung Nhuận Hy (ở góc đường Công Lý - Lê Thánh Tôn), ngồi ở một bàn ngay bên lề đường, không gọi món ăn, mà chỉ uống 2 ly café bí-tất, mặc chủ hiệu lườm nguýt. Kiệt nói chờ lát nữa vào nhà sách Khai Trí lấy tiền nhuận bút. Đến 7 giờ rưỡi, mà Kiệt vẫn không chịu đi. Nói chờ đến 8 giờ, nhà sách đóng cửa mới gặp ông Khai Trí. Chúng tôi đến đó lúc Khai Trí đang sửa soạn đóng cửa, đang đếm tiền. Kiệt hỏi tiền bản quyền cuốn sách. Ông Khai Trí trả cho Kiệt hai ngàn - rẻ mạt. Chúng tôi đi về, Kiệt chia xấp tiền ra làm hai. Lật bọc yên xe Solex lên dấu xuống đó một phần, nói là để mang về cho vợ nuôi con. Còn một phần bỏ túi dắt tôi vào quán nhậu. Ăn nhậu hồi lâu, Kiệt bỏ tôi ngồi đó, đứng dậy đi ra ngoài chừng mươi phút. Khi trở vàogọi thêm rượu, thêm món ăn. Hai thằng say tuý luý. Ăn nhậu xong còn rủ đi uống café. Tôi bảo Kiệt đi về đưa tiền cho vợ. Kiệt nói tỉnh queo: 'hồi nãy tao ra lấy để trả tiền nhậu hết rồi'. Tôi lạnh người, tỉnh hẳn rượu nhưng càng choáng váng. Viết một quyển sách mất rất nhiều thời giờ, tim óc, nhà xuất bản trả không được bao nhiêu, vậy mà không mang về cho vợ lấy được một nửa, dắt bạn đi nhậu hết. Có ai như ông trời này?

 

Ông Khai Trí còn nắm trọn bản quyền của hơn chục cuốn tiểu thuyết Kiệt viết, mỗi quyển trả vài ngàn bạc mà chỉ có đôi ba cuốn được in. Độc giả không bao giờ được đọc những quyển kia. Trong 40 năm nay tôi vẫn tự hỏi nên khen hay nên trách ông Khai Trí. Ông đã mua rẻ bản quyền cất tủ, hay ông đã tìm cách giúp nhà văn nghèo?

 

Để có thêm tiền, Kiệt làm cách khác. Thấy tôi có tí vốn chữ Hán, còn mình vốn đã giỏi võ, Kiệt bắt tôi chở vào Chợ Lớn, đến những hàng sách bên đường của người Tàu, tìm mua sách dạy võ. Gặp quyển nào có hình người khoa chân múa tay cũng cầm lên hỏi tôi 'quyển gì đây?'... Cứ vài ngày chúng tôi lại mua được đôi ba quyển. Khi thì Thiếu Lâm, khi thì Võ Đang…Chúng tôi lại về khu trường Văn Khoa cũ, tôi ngồi uống café dịch miệng cho Kiệt nghe, từng thế đánh, thế đá. Nhiều chữ không rành, vậy mà Kiệt nhờ giỏi võ biết ngay và hiểu rõ. Sau đó anh dựa trên những quyển sách này mà viết một lô sách dạy võ. Bán rất chạy. Kiếm được tiền nuôi gia đình.Tôi cười gần chết.

 

Tôi rất nhớ và mến đời sống giản dị của Kiệt. Giản dị đến không ngờ, như có lần tôi hỏi Kiệt hồi còn ở Sa Đéc sống ra sao. Kiệt nói: ‘mỗi ngày tao đặt cái lờ ở ngoài mương bắt cá. Buổi sáng ra gỡ lấy 3 con cá lớn nhất.Một con tao đổi lấy một lít rượu, một con tao đổi lấy một lít gạo, nấu cháo, còn con thứ ba tao nướng, rồi ngồi nhậu’ Tôi hỏi tiếp: ‘rồi ngày mai làm sao?’ Kiệt đáp tỉnh queo: ‘mơi làm dzậy nữa!’.

Đời trôi về mỗi hướng. Sau mấy chục năm tôi vẫn là kẻ lãng du ở cuối vườn ảo mộng. Kiệt vẫn là vầng mây trắng, phiêu du giữa đất trời vô định. Đêm nay nhớ lại bạn xưa, lòng dạt dào thương nhớ. Chén rượu đêm mưa đầu mùa thu ở Minnesota xót xa như nước mắt. Năm xưa có viết 2 bài thơ tặng Trần Tuấn Kiệt, như sau:

 

đêm buồn uống rượu một mình

(gửi Trần Tuấn Kiệt)
nửa đêm nhớ một vầng trăng
chén nâng mời rượu - từng giòng lệ sa
sóng bên này giải ngân hà
thoảng âm tiếng khóc từ bờ bên kia
xuôi giòng tử biệt sinh ly
quê nhà nơi đó mà về được đâu
kể từ dâu biển rời nhau
trăng đêm nay vẫn nguyên mầu cố hương
biết đây là cõi vô thường
mà tâm thể vẫn đoạn trường xiết bao
buồn ơi đầy đọa mãi sao
lòng tươi muối xát - gan bào tái tê
buồn ngồi uống rượu nửa khuya
chén này chưa cạn - chén kia nối tràn
chén sầu dằn vặt tâm can
trăng vàng đêm lạnh lời than não nề
buồn ơi! ta đã làm chi
ta ơi! buồn đã làmgì đời ta

và:

mới ốm dậy đêm nằm nghe mưa

viết gửi Trần Tuấn Kiệt
đêm khuya không rượu mưa rơi
quạnh hiu bốn cõi - ngậm ngùi tâm tư
nằm im nghe động mái nhà
những năm tháng đã ra ma trở về
rượu không mà tưởng say nhè
tay bưng mặt khóc hỏi quê chốn nào
tang thương tàn cuộc binh đao
cơ trời sao để nghẹn ngào sử xanh
đêm mưa không rượu buồn tênh
đầm đầm lệ đổ - ý tình héo hon
mưa như đêm ở Saigon
trời se se lạnh theo buồn xa xăm
lòng rung theo tiếng mưa thầm
giơ tay vuốt mặt lặng nằm nghe mưa
giọt sa, giọt nhẹ mơ hồ
giọt dài, giọt ngắn, nghe như giọt sầu
một mình không rượu, đêm sâu
năm qua, ngày hết, mái đầu gió sương
quê nhà mù mịt đôi phương
một mình thương tưởng, sao buồn chứa chan
rượu không, mưa ngớt, đêm tàn
nàm im nghe vọng thời gian nặng nề
rượu không mà tưởng say nhè
tay bưng mặt khóc hỏi quê chốn nào
 
BÙI NGỌC TUẤN

Wednesday, March 7, 2012

TƯỜNG LINH * MÂY SỚM HẢI VÂN




Không rỏ nét một nơi nào đã nhớ
Và cũng không tròn bóng dáng để quên
Khi có một chốn biển trời rộng mở
Say sưa nhìn mây sớm mãi dâng lên

Cửa ải xưa là nơi nào đấy nhỉ
Phải chăng triền gió thốc, suối phun tia?
Thuở trạm ngựa vó băm đường thiên lý
Hẳn ngại ngùng bên mé vực sâu kia

Mây lãng đãng qua rừng buông cánh thấp
Choàng áo màu tuyết nhẹ xuống hàng cây
Biển Đông thả gió vào chưa đủ cấp
Giữ bình yên cho lũng tiếp đong mây

Buồm xa tít, sóng viền ghềnh lượn trắng
Biển dày công tạc dũa những ngàn năm
Những nghìn năm với sớm mai phớt nắng
Với đêm dài thao thức hải triều âm..

Chưa nghe hết lời đại ngàn kể lể
Mùa chiến chinh đá dội tiếng quân reo
Biệt Hải Vân, đi tiếp về với Huế
Mây vươn tầm như gởi luyến lưu theo.


TƯỜNG LINH

Đặng Lệ Khánh * Tưởng tượng khi mình là hạt bụi

 
 

 
Chủ nhật lên chùa dự cầu siêu
Khoanh chân ngồi dưới đất buồn hiu
Sau lưng những vành khăn tang trắng
Quấn hờ giữa sợi muối sợi tiêu
Tưởng tượng mai kia thành tro bụi
Mình chắc vờn quanh nhành ngọc lan
Sẽ lăn giữa những vồng hoa cải
Sẽ theo suối đổ tự trên ngàn
 
Mình sẽ lang thang như cánh bướm
Sẽ trôi như ngọn gió mùa thu
Sẽ nằm trên đỉnh thông cao ngất
Sẽ bơi theo tiếng sáo vi vu
 
Mình sẽ thả mình trên ngọn lúa
Sẽ sà bên bếp lửa ngày đông
Sẽ đậu trên nắng chiều sắp úa
Sẽ vào trong mộng một người dưng
 
Mình sẽ nằm đầy phím dương cầm
Trong góc một căn phòng bỏ không
Góp nhặt từng âm thanh vất vưởng
Trên bốn bức tường đã lặng câm
 
Mình sẽ lơ mơ nhìn trăng chiếu
Trên mái hoàng thành một thuở xưa
Nghe rêu, nghe cỏ ru nhè nhẹ
Văng vẳng câu hò mái nhị đưa
 
Nhưng … lỡ như mình là hạt bụi
Dính trên lưng áo lính phương xa
Thấm giọt mồ hôi cay nắng gió
Nghe súng dồn theo nhịp nhớ nhà
 
Nếu lỡ như mình là hạt bụi
Chờ khô trên má trẻ ngu ngơ
Đang ngồi đợi mẹ trên thềm đất
Một nắm cơm là một giấc mơ ...
 
Một mai nếu khi mình nằm xuống
Muốn làm hạt bụi cũng không xong
Phật độ đưa về miền Cực Lạc
Lòng chắc buồn tênh, tội cõi trần ...
 
Xếp lại tờ kinh trả lại chùa
Chuông mõ đã im từ bao giờ
Chỉ có khói nhang còn nhẹ tỏa
Và mình, hạt bụi đứng lơ ngơ
 
 
Đặng Lệ Khánh

Monday, March 5, 2012

VÕ THỊ ĐIỀM ĐẠM * BÌNH MINH TRÊN BIỂN RẠNG




Rạng của Phan Thiết bây giờ không còn là nơi picnic cho học sinh hay gia đình từ thành phố Phan Thiết nữa. Bãi biển đã bị các resort làm chủ bằng cách dọn sạch phần bãi trước khu vực resort, đặt một hàng ghế nằm nghỉ với tấm đệm lót có mang dấu hiệu riêng với ngụ ý không muốn cho ai ngồi xuống bãi cát mà hưởng thụ biển trời mênh mông trước mặt. Cho nên, từ Đá Ông Địa ra cầu Đá gần Mũi Né, bãi biển dài bốn-năm kilomet chỉ có hai con hẻm nhỏ để người dân chài từ làng quê nằm sâu phía sau hàng quán và ruộng vườn bên kia đường, nghĩa là dân chài nhưng không sống ven biển, dùng đó mà ra biển, mà tiếp tục nghề chài cha truyền con nối. Còn người không quen nước quen cái, muốn đến Rạng để tắm biển thì... chịu thua vì biển Rạng không muốn có người chỉ ghé thăm chơi vài ba tiếng đồng hồ, biển Rạng đã bị ai đó bán cho các resort rồi. Vậy ra biển Rạng không hiểu gì sao? Hay biển Rạng cũng biết là đồng tiền đã mua đứt biển Rạng và biển Rạng không làm gì được hết, bởi quyền lực quá mạnh, quá cao? Biển Rạng biết đó, ở những nước khác trên thế giới, chủ nhân có toàn quyền trên phần đất của mình nhưng bãi biển là của mọi người, là nơi công cộng, không ai được làm chủ. Còn ở Việt Nam mình, không phải chỉ Biển Rạng không thôi, nhiều bãi biển khác nữa, những bãi biển có hấp lực với khách du lịch, cả bãi, cả biển là của nhà nước, nhà nước muốn bán cho ai thì đó là quyền của nhà nước, mình làm dân, muốn yên thân thì phải ngậm miệng, cúi đầu nghe theo.

Không còn là của người dân Phan Thiết, biển Rạng có buồn không?

Sáng sớm khi chân trời vừa hơi ưng ửng đỏ, tiếng sóng biển dồp dập gọi tôi, mời tôi cùng đón, cùng chia sẻ một cảnh sống đã được lưu truyền từ bao thế hệ nay thì đang ngắc ngoải, níu kéo được ngày nào hay ngày đó. Tôi biết, vì tôi đang ở một resort nào đó của Rạng cho nên tôi mới có ”quyền” nhận lời mời này của biển Rạng, tôi mới được đi dạo dọc bờ biển, mới được để bọt biển mơn trớn đôi bàn chân trần. Trong khi đó, bãi vừa cựa mình thức dậy vì bị các anh nhân viên của resort dùng cái cào cỏ để xóa đi những dấu chân người của ngày hôm trước, để bãi được mang hình ảnh trinh nguyên đón một ngày mới.

Mặc cho sóng biển rì rào gọi vì sóng tưởng tôi sẽ đi lần ra, sải tay bơi ra xa, nghịch đùa cùng biển như những buổi sáng trước, tôi tiếp tục đi để kịp có mặt ngay từ đầu. Tôi đi ngược về phía Phan Thiết, ranh giới giữa Rạng và khu vực Đá Ông Địa là nơi những chiếc thúng trở về sau một đêm dòng dã ngoài biển khơi. Mười một giờ đêm hôm qua, mỗi người đàn ông một chiếc thúng được trang bị bằng một chai nước ngọt và một chiếc đèn bão treo lủng lẳng trên cái cây cao vừa quá đầu người, lặng lẽ chèo ra khơi, nhưng bao giờ cũng phải ra khơi cặp đôi để phòng khi mưa to gió lớn và khi trở về cùng có đôi có bạn nương tựa nhau.

Biển tháng bảy vẫn còn hiền hoà để các anh thả thúng lềnh bềnh, giăng mảng lưới và lập bập điếu thuốc ngắm trăng sao. Chờ. Cá lớn, cá nhỏ thơ thẩn tìm miếng ăn hoảng hốt tìm lối thoát khi đột nhiên khám phá biển không còn mênh mông nữa, và nhìn quanh mới thấy không phải chỉ mình ên mà lắm bạn bè khác cũng đã bị giam hãm bởi một vùng lưới trắng bao quanh. Khi mặt trời phía Mũi Né vừa lên trọn vẹn, tung sức sáng xuống vùng biển rộng ngan ngát thì bóng đen những chiếc thúng bắt đầu nhấp nhô theo đợt sóng đẩy đưa hiện ra ở cuối tầm mắt. Từng cặp, không rời xa nhau mấy, từ nhiều hướng, nhắm tòa nhà đang cất dở trên bãi mà tiến dần vào bờ.

Nương theo từng đợt sóng đánh vào, dùng mái chèo, anh thanh niên lừa lách chiếc thúng vào bờ. Từ khi chấm đen hai chiếc thúng xuất hiện ngoài khơi cho tới khi hiện rõ trong tầm mắt người đứng trên bờ, mất cũng nửa giờ đồng hồ. Đôi chân vửng chải giữ thăng bằng cho chiếc thúng trong khi hai cánh tay lúc chèo bên phải, khi chèo bên trái đưa thúng từ từ vào bờ. Càng vào gần bờ thì sóng càng mạnh và sức rút ngược cũng nhanh cho nên mái chèo càng thay đổi liên tục. Khi đẩy, khi chống, khi chèo, cho tới khi chiếc thúng chạm bờ cát để sức nặng của đáy thúng bám xuống cát thì thúng mới không bị sóng biển rút ngược ra. Anh nhảy xuống lắc lắc cái thúng như để xác định độ bám bờ cát của thúng đã chắc ăn chưa.

Đòn gánh, dây thừng đã được dùng để đưa thúng xuống biển hồi tối hôm qua, nằm giấu dưới mấy cái thúng không dùng tới. Người này phụ người kia thay nhau khiêng thúng lên bờ. Nhìn dáng điệu gồng mình, chân bám chặt xuống để phụ nhau nhấc đòn gánh lên vai và từng bước từng bước di chuyển thì cũng đủ hiểu là cái thúng nặng đến cỡ nào cho hai người đàn ông lực lưỡng. Không phải nặng vì số cá đánh được, cũng không phải vì chiếc thúng quá lớn, mà vì cái thúng được đan bằng lát tre dầy, trở nên cứng và không thấm nước vì lớp dầu hắc ở mặt trong và cả chục lớp dầu rái được phết bên ngoài. Và với độ nặng và chắc như vậy thì thúng mới chịu đựng được sóng biển không phải lúc nào cũng hiền hòa. Độ lớn của thúng cái nào cũng như cái nào, độ mét rưỡi, vừa đủ chỗ cho mớ lưới trắng.

Đặt cái thúng này xuống, hai anh thanh niên quay ra phụ nhau khiêng cái thúng kia vào bờ. Như đã thỏa thuận, năm-mười phút sau là hết chiếc thúng này đến chiếc thúng kia lần lượt tấp vô bờ, chừng mười cái, từng đôi. Không cần một lời nhờ vả, không cần một câu hỏi thăm, các anh lặng lẽ phụ nhau lắc, nhấc từng bước một để chiếc thúng nằm vững chắc trên bãi cát và được khiêng lên bờ.

Và từ con hẻm nhỏ, con và vợ hay cha mẹ của các anh thanh niên thư thả tràn ra, làm đầy khoảng bãi cát độ chừng mười mét may mắn còn trống vì tòa nhà của một resort chưa cất xong. ”Không biết khi tòa nhà resort này cất xong, nghĩa là bãi cát này không còn là nơi công cộng nữa thì các người dân chài này sẽ đưa thúng vào đâu?” Đó là câu hỏi vương hoài trong đầu tôi mà không có ai trả lời dùm, cho đến bây giờ.

Cùng trong số đám đông tràn ra bãi biển, có những người đàn bà đến mua cá để đem ra chợ bán hay cho bữa cơm gia đình. Những người đàn bà này đi tới đi lui, ngắm nhìn, phân lượng loại cá đã được tháo ra khỏi lưới nằm trên bãi cát. Hình như đã quen biết nhau từ lâu và giá cả cũng không khi trên trời khi dưới đất nên coi bộ sự mua bán diễn ra khá nhanh chóng và lời kèo nài trả giá hay mời mua cũng không cần thiết lắm.

Không cần chờ lâu, theo bước chân má, đám con lần lượt ra bãi. Từ khoảng bốn tuổi đến mười tuổi, các em đang nghỉ hè nên tay cầm gói xôi vò, gói bắp hầm, ổ bánh mì ngồi rải rác quanh đó, gần gần thúng của ba mình. Còn nhỏ thì vừa chơi, vừa ăn, vừa ngắm nhìn những con cá tươi cứng, bóng nhảy mà ba má vừa gỡ ra, nằm ngổn ngang trên mặt cát. Những em lớn hơn tí thì phụ ba má gỡ cá, xếp lưới...
Anh này dùng loại lưới lổ lớn nên anh chỉ việc ngồi trên thành thúng, vừa gỡ cá vừa xếp tấm lưới cho gọn gàng để chuẩn bị chuyến ra khơi tối nay. Không bao nhiêu, chừng hơn nửa cái sô xanh, hai đến ba kilo loại cá có bề ngang cỡ hai đến ba ngón tay và dài bằng bàn tay. Loại cá sẽ giữ nguyên con khi kho hay chiên hay nấu canh chứ không cần cắt làm đôi, và càng không cần cắt lát. Theo ”kiến thức” tôi thâu lượm được thì tôi có thể phỏng đoán lợi tức hôm nay của anh cỡ chừng ba mươi đến bốn mươi ngàn.
Không một lời trao đổi, người vợ xách sô cá đi lại con hẻm, ra đường, mà theo suy đoán của tôi là chị muốn mang cá ra chợ bán để được giá hơn.

Hút xong điếu thuốc, quay đi quẩn lại, không thấy vợ đâu cả, anh chỉ nghe tiếng thằng con trai của anh nhắc em mình:
- Em ăn hết gói bắp hầm đi, chút anh cho uống sữa đậu nành.
Tiếng thằng anh mười tuổi dổ em, như muốn an ủi em vì bỏ em ngồi một mình.
- Dạ.
Thằng em như đã quen, vừa dạ trả lời anh vừa chăm chú múc từng hột bắp trắng tươi nở to tròn. Coi bộ bịch sữa đậu nành không hấp dẫn lắm nên không mè nheo đòi. Hoặc là biết thế nào cũng được. Hoặc là anh biểu sao làm vậy vì giọng thằng anh nghe nghiêm nghị lắm, cậu bé này ra đây để giúp ba mà.
Ba đã gỡ rồi nhưng coi bộ không kỹ nên còn mấy con cá nhỏ dính trong đống lưới. Hai anh em lui cui ráng tìm, được con nào hay con đó. Cá liệt nhỏ vầy chớ nấu canh cà, cho thêm ngò là ngon lắm, hay kho mặn nhiều tiêu cay cay ăn với cơm trắng cũng ngon vậy.
Em phụ ba nghiêng cái thúng để múc hết nước đã ngấm vô thúng suốt một đêm qua và cũng để dọn sạch rong rêu phía trong. Với dáng điệu xăng xái của một dân chài lành nghề, em phụ ba xếp mớ lưới ngăn nắp để dễ dàng cho ba khi giăng lưới tối nay ngoài khơi. Hai cha con lui cui làm việc, không nói với nhau một lời. Người cha không cần sai biểu hay nhắc nhở. Thằng con trai mười tuổi rành rẽ công chuyện sẽ làm, như một hợp đồng không văn bản của hai người làm việc chung, hai người cùng trang lứa.

Hai tay hai thùng nước được múc từ biển, bước chân em nhanh nhẹn lên bờ. Dùng hết sức, em tát mạnh thùng nước vào thành thúng. Sức tát nước này đủ để những rong rêu, vỏ ốc sò li ti rớt xuống đáy thúng, như vậy sẽ dễ cào múc hơn.

Trở ra, em lại xách thêm hai thùng nước biển, tát mạnh quanh lòng thúng. Và cũng với sức tát nước này, cái thúng trông sạch sẽ hẳn ra, sẵn sàng cho chuyến ra khơi tối nay của ba.

Cái thúng được dựng đứng, hơi nghiêng nghiêng. Người cha xách sô cá vụn đi, chắc về nhà để ăn sáng và nghỉ ngơi. Anh không cần dặn dò con một lời, chứng tỏ một sự tin tưởng tuyệt đối nơi thằng con trai mười tuổi của mình.

Đang lui cui rửa lòng thúng, chợt nhớ tới em mình, em quay lại, biểu, giọng âu yếm: ”Bịch sữa đậu nành anh để trong nón đó em, ráng uống hết nghen em.” Đứa em dạ một cách ngoan ngoãn, chạy lại cái thân dừa gần đó để tìm bịch sữa đậu nành được anh cẩn thận giấu khuất ánh nắng ban mai. Vừa hút chất sữa beo béo, ngọt ngọt, vừa nhìn anh làm việc.
Uống xong bịch sữa đậu nành, tiếng các bạn khác vừa chạy đuổi nhau vừa cười giỡn làm thằng em bỏ anh, chạy lại coi. Tiếng anh nhắc: “Đội nón, em!”
Buổi sáng của em là thế đó, công việc và trách nhiệm.

Anh kia dùng loại lưới lổ lớn nên cá không nhiều và công việc hoàn tất nhanh chóng, trong khi anh này dùng loại lưới nhỏ lổ nên từ loại cá nhỏ độ một ngón tay đến cá lớn độ ba ngón tay dính rải rác đây đó trong lưới. Cả gia đình phải phụ nhau gỡ cá.

Vừa gỡ cá vừa xếp lưới, công việc kéo dài chừng một tiếng đồng hồ. Biển phải thở dài ngao ngán khi nhìn số cá nằm thưa thớt trên tấm đệm nylon và than: ”Tội nghiệp bà con, cùng túng lắm mới đành lòng quơ càng hốt đại, chớ bà con đánh cá kiểu này thì tôi làm sao nuôi cá lớn, dưỡng cá béo to cho bà con. Rồi đây tôi không còn sức để cung cấp cá nữa thì bà con sống sao đây. Và rồi đây các resort còn lại được hoàn tất thì bãi cát đâu mà đưa thúng ra mỗi tối, gánh thúng vào mỗi sáng. Thôi thì hy vọng bà con tìm được chân quét rác hay dọn phòng cho các resort này mà kiếm sống qua ngày.”

- Lạ nhỉ, có loại thúng nhựa nữa sao chi?
- Loại này không mất công quét dầu.
- Chắc mắc hơn?
- Ờ, nhưng bền hơn.
- Mỗi ngày được bao nhiêu vậy chị?
- Vô chừng lắm, hôm bán được ba chục ngàn đồng, hôm nào tốt lắm thì được trăm ngàn. Làm như vầy thì đâu mà đủ nuôi sống cả gia đình bảy miệng ăn. Nhờ cái tụi tui có ba công đất mới có thể bù đắp, qua nổi những hôm trở mùa, giông bão. Cũng may là con chị nó làm cho khách sạn, đủ xài thân nó. Quanh đây toàn là bà con, hai thằng con trai với đám cháu đàng kia.
- Từ ngày tui bị bịnh, thằng Út nghỉ học thay tui đi biển. Sáng sáng tui với bả ra gỡ cá, xếp lưới cho nó về ngủ. Không đi chài được tui còn sanh bịnh thêm nên chỉ mong thằng Út chịu khó đi chài để tui còn được ra đây.
- Chị không đi biển thế anh được sao?
- Không được, đàn bà không được đi biển. Chị đừng vuốt con cá, xui lắm.
- Xin lỗi anh. Cậu Út về nghỉ rồi hả chị?
- Ờ, về ăn cái gì cho chắc bụng rồi nó ngủ một giấc, dậy là đi ngồi quán cho tới tối thì đi biển lại.
- Ngày nào cậu Út cũng ngồi quán sao chị.
- Ờ, thì nó biết làm gì bây giờ.

Võ Thị Điềm Đạm

KIM TUẤN * Với Long Xuyên





ngập đồng sóng dạt phù sa
mùa này nước nổi trời oà cơn mưa
tiếng gà gáy ngọn tre thưa
mênh mông sóng gọi thuyền đưa ai về ?
trăm năm tiếng hát não nề
trăm câu vọng cổ xuống xề bi thương
thả hồn mây lạc tha phương
thả đời ta lạc cuối đường phiêu du
chạnh lòng chiếc lá mùa thu
con sông giờ đã xa mù khói mây
tiếng đàn ai đó quanh đây
chén nâng bạn tiễn cuối ngày lênh đênh...

Kim Tuấn

MÙI QÚY BỒNG * MỘT THƯỞ YÊU ĐÀN



Trung ngồi trước chiếc dương cầm, thở dài. Đã mấy tháng nay chàng cố gắng tập trung tư tưởng, điều động những ngón tay trên làn phím ngà, hy vọng khả năng mình sẽ thăng tiến, nhưng vô ích. Chàng vẫn không thể nào vượt qua khỏi cái mức tầm thường, nhạt nhẽo. Những âm thanh chỉ “nghe được” mà không cách nào vươn cao hơn. Yêu nhạc, Trung đã bỏ bao nhiêu thời giờ luyện tập từ những ngày còn học tiểu học. Đến năm 12 tuổi, Trung đã xử dụng vĩ cầm thành thạo, và hai năm sau trở thành một cây đàn có hạng.

Nhưng Trung vẫn mê dương cầm. Chàng có một người chú là một nhạc sĩ dương cầm và saxophone danh tiếng. Nhạc sĩ Anh Hoàng. Khắp các phòng trà, vũ trường ở Sài ̣gòn không ai không biết danh ông. Ông đã cùng với các nhạc sĩ Lê Văn Thiện, Huỳnh Anh, Đan Thọ, Ngọc Chánh…tung hoành tại những giải trí trường của hòn ngọc Viễn Đông trong thập niên 60 và đầu 70. Tiếng đàn huyền diệu của ông làm Trung say mê, ngơ ngẩn. Một lần được ông đệm cho buổi trình diễn tài tử cuối niên học của mình, Trung sung sướng đến độ xuất thần. Tiếng vĩ cầm của chàng như được một đôi cánh đỡ đần, nâng lên cao vút. Buổi trình diễn thành công rực rỡ. Chú Hoàng xoa đầu khen Trung tuổi nhỏ tài cao. Trung cảm động, ấp úng nói với chú Trung muốn học đánh dương cầm. Chú Hoàng cười, hứa sẽ dậy Trung. Nhưng rồi chú bận này, bận nọ, buổi học đầu tiên chẳng bao giờ thành hình.

Trung không nản chí. Chàng tự lần mua sách về tập lấy bằng cây đàn ở nhà bà chị họ. Với khả năng sẵn có, Trung đạt kết quả không mấy khó khăn. Chàng đã xử dụng được hàng phím ngà một cách thành thạo. Mỗi lần Trung ngồi trước cây đàn, những tiếng vỗ tay khen thưởng đã vang lên. Nhưng Trung biết đó chỉ là những tiếng vỗ tay khuyến khích. Chàng mới chỉ đạt đến mức độ của một người “thợ đàn”, loay hoay với những nốt nhạc một cách máy móc, chứ chưa phải là một nhạc sĩ có thể bay lượn với âm thanh. Những tháng sau này Trung càng nóng ruột, bực bội. Chàng có cảm tưởng như mình là một nhân vật trong truyện kiếm hiệp. Sở học đã đầy ắp mà kinh mạch vẫn chưa đả thông. Chỉ cần một hóa giải nào đó là công lao luyện tập sẽ viên mãn. Chàng muốn nhắc chú Hoàng lời hứa của chú, nhưng vốn tự ái, chàng không làm. Vẫn cứ tự mình lần mò, đào xới cố tìm một ánh sáng đưa mình ra khỏi chỗ bế tắc. Không thành công, chàng càng nóng nẩy, bực bội. Càng nóng nẩy, bực bội, chàng càng đi sâu vào chỗ bế tắc. Lắm lúc Trung đã phẫn chí, định bỏ hẳn giấc mộng dương cầm.

Tin nhạc sĩ Anh Hoàng bị một người học trò sát hại làm chấn động Sài gòn. Chỉ vì muốn chiếm hữu chiếc kèn saxophone của nhạc sĩ, tên học trò bất lương ấy đã giết thầy.
Nhạc sĩ Anh Hoàng mở lớp dậy saxophone ngoài những giờ làm việc ở các phòng trà và vũ trường. Tính nết tài tử, ông không để tâm lắm đến chuyện sinh sống bằng nghề dậy nhạc. Ông chỉ nhận một hai học trò, những người ông thấy có khả năng trở thành nhạc sĩ thật sự. Trong hai người học trò ấy Như Phong là người ông qúy nhất. Phong có ngón đàn vô cùng bay bướm. Hắn có biệt tài đem những nốt nhạc thêu dệt vào nhau tạo ra những âm thanh mới lạ và quyến rũ. Ông Hoàng nhì́n thấy nơi Phong một truyền nhân thích đáng của mình nên coi hắn như con, hết lòng chỉ dẫn, khai thông những khúc mắc Phong chưa cảm nhận được. Tài nghệ Phong càng lúc càng thăng tiến. Nhưng một con người như thế, có ai ngờ đâu, lại là một tên vô lại. Những tưởng tinh thần nghệ thuật, tài năng âm nhạc chỉ nằm trong một bộ óc nghệ sĩ, ngờ đâu bộ óc ấy lại ẩn chứa một tâm địa sát nhân. Phong rất mê chiếc kèn saxo của nhạc sĩ Anh Hoàng. Chiếc kèn đó như có một ma lực quyến rũ hắn. Nhiều lần đến nhà nhạc sĩ Anh Hoàng chờ thầy – ông Hoàng tin cậy Phong, trao cho chìa khoá riêng để hắn có thể đến bất cứ lúc nào không cần phải đợi lúc ông có mặt ở nhà – Phong đã lén lấy cây saxo đó ra thử. Và hắn thấy mình như đã thăng hoa. Đôi môi hắn, những ngón tay hắn và chiếc kèn như hòa lẫn vào nhau. Khi những nốt nhạc đầu tiên vừa trổi lên, Phong và cây kèn biến thành một khối. Những tiếng kèn thoát ra cuồn cuộn bay lượn trong không gian. Phong đã trở thành một phần tử của cây kèn. Hắn quên hết không gian, thời gian và mọi vật chung quanh, thoát hồn theo những âm thanh trầm bổng. Khi tiếng kèn đã ngừng, Phong vẫn không rời môi khỏi cây saxo, lâng lâng trong một cơi mộng nào thật xa vời.

Từ đó không ngày nào Phong không đến nhà thầy những lúc ông vắng mặt để lén lút mê mẩn với cây saxo của ông. Nhạc sĩ Anh Hoàng vô tình không hay biết, vẫn tận tâm chỉ dậy cho Phong. Nỗi đam mê chiếc kèn mỗi ngày một lớn mạnh trong tim Phong. Nhiều hôm trằn trọc không ngủ, Phong tơ tưởng đến chiếc kèn đó như một người tình tương tư. Mỗi lần chợp mắt hắn lại thấy hình ảnh mình và cây saxo uốn lượn trong tiếng nhạc mê hồn. Những thôi thúc ấy dần dần trở thành một ám ảnh, rồi đúc kết thành một tư tưởng mờ ám.

Phong nhất định phải chiếm hữu chiếc kèn. Phong và chiếc kèn phải là một, không thể xa rời. Phong đinh ninh chiếc kèn đó đă được tạo ra riêng cho ḿnh. Hắn sẽ đạt đến mức tột cùng của tài năng hắn với chiếc kèn ấy. Chỉ có chiếc kèn ấy mới khiến hắn thăng hoa, mới đem hắn lên đài danh vọng.

Và Phong đã dàn cảnh một vụ trộm để chiếm đoạt cây saxo. Không ngờ nhạc sĩ Anh Hoàng hôm ấy bất chợt trở về bắt gặp. Để khỏi lộ hành tung, Phong dùng dây cà vạt xiết cổ ông đến chết. Khi thấy nhạc sĩ Hoàng đã ngưng thở, Phong nới lỏng chiếc cà vạt. Nhưng trong cái giây phút cuối cùng ấy, nhạc sĩ Anh Hoàng chợt mở mắt, thu hết tàn lực, gắng gượng, thều thào hỏi Phong:
- Tại sao con giết thầy?
Phong cười nhạt, đôi mắt ánh lên những nét điên loạn:
- Tôi phải lấy cây saxo của ông. Nó là của tôi, chỉ riêng tôi mà thôi. Ông không thể là sở hữu chủ của nó được!
- Thầy vẫn định sẽ tặng con cây saxo ấy khi con đã thành tài, Phong ạ!
Phong gằn lên:
- Ông nói láo! Ông nói láo!
Rồi hai tay dang ra, kéo mạnh. Chiếc cà vạt hằn sâu vào cổ nhạc sĩ Anh Hoàng, kết thúc cuộc đời một nghệ sĩ tài ba nhưng không may có một tên học trò vô hạnh.

Trung khóc suốt một tuần vì thương nhớ ông chú. Mỗi lần ngồi trước chiếc dương cầm, nước mắt chàng lại tuôn rơi. Những tiếng đàn như nức nở, uất hận. Bao nhiêu tâm tư Trung dồn vào những phím ngà. Hai bàn tay chàng như muốn đập tan những thỏi trắng đen ấy. Âm thanh vang dội trong nỗi tức tối, cay đắng, nghẹn ngào của chàng. Nhưng vẫn có một cái ǵ bế tắc, không cho Trung bộc lộ được hết những xúc cảm mănh liệt trong lòng chàng. Trung dơ hai tay lên trời, hét lớn:
- Chú ơi! Sao cháu khổ thế này? Tại sao chú lại bỏ cháu trong khi cháu vẫn chờ đợi sự dì́u dắt của chú, chú ơi!

Như Phong đă bị bắt và đã thú tội. nhưng điều đó không giúp Trung nguôi ngoai. Chàng tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa để một ngày nào đó làm sống lại cái tài năng hiếm có của ông chú, và tiếp tục vùi đầu tập luyện. Nhưng tất cả những cố gắng ấy đều vô ích.Trung vẫn không sao vượt quá khỏi cái mức tầm thường. Tiếng đàn có ngọt hơn, thấm hơn như nhiều người chung quanh nhận xét, nhưng với Trung, đó vẫn chỉ là những âm thanh hời hợt, vô hồn, kích động người nghe trong phút chốc, rồi thôi. Trung càng ngày càng thất vọng. Cuối cùng, chàng đập cả hai bàn tay lên hàng phím ngà, tự bảo:
Thôi, ta nhất định không đụng đến một chiếc dương cầm nào nữa! Ta chỉ là một tên vô dụng!
Và quả nhiên, Trung bỏ hẳn dương cầm, ai nói thế nào cũng nhất định không chịu ngồi dạo phím nữa.

Một buổi tối mùa đông, trời trở lạnh. Những cơn gió vi vút thổi làm rụng từng lớp lá vàng tơi tả trước sân. Trung vừa kéo xong bài Sérénade của Schubert, nằm xuống ghế sofa, ôm cây vĩ cầm, nhìn hình ảnh thu vàng trong gió, tự nhiên nhớ chú Hoàng, nước mắt chạy quanh. Trung để tâm hồn ngược giòng dĩ vãng, quay lại khúc phim thiếu thời. Nào những ngày còn học tiểu học, chú Hoàng thường dẫn chàng đi dạo phố, ăn quà vặt. Nào những buổi tập vĩ cầm, chú hay làm bộ nhéo tai Trung mỗi lần kéo sai nốt, xoa đầu chàng khi chàng đàn đúng, vỗ tay khen khi chàng chơi hay. Chú không xử dụng vĩ cầm, nhưng thỉnh thoảng chú đưa chàng đến gặp nhạc sĩ Đan Thọ, một tay vĩ cầm nổi tiếng, để khoe đứa cháu tài ba. Nhạc sĩ Đan Thọ khen Trung có năng khiếu và tiên đoán Trung sẽ thành danh sau này. Đôi lần chú Hoàng cho Trung theo đến phòng trà nghe chú và các bạn chú chơi nhạc. Nhìn các nhạc sĩ say mê trình tấu, Trung có cảm tưởng ḿnh đang sống trong một thế giới khác, một thế giới của âm thanh và mầu sắc thật dị thường. Trung không nh́n thấy những người chung quanh nữa, mà chỉ thấy một vùng không gian mờ ảo, những nhạc sĩ trình tấu như những vị tiên giữa những đám mây ngũ sắc đang đùa giỡn với những làn âm thanh trầm bổng, tung qua, bắt lại, tạo nên một khung cảnh tuyệt vời. Chàng đặc biệt chăm chú trên những ngón tay và thân hì́nh chú Hoàng. Những ngón tay nhẹ lướt trên phím ngà, thân h́nh chú hơi lắc lư theo tiếng nhạc. Mỗi động tác của chú quyện vào với những âm thanh tạo nên một hòa hợp kỳ diệu. Trung như mê đi, nhiều khi quên cả những món ăn chú Hoàng đã cẩn thận gọi cho chàng trước giờ khai diễn.

Những kỷ niệm dồn dập kéo đến, quay cuồng trong trí óc Trung, và chàng thiếp đi lúc nào không hay. Đột nhiên Trung giật mình. Một bàn tay đang xoa đầu chàng, và một giọng nói quen thuộc nhẹ vang lên:
- Trung! Chú Hoàng đây.
Trung mở bừng mắt. Trời ơi! Chú Hoàng của Trung, bằng xương bằng thịt, đang đứng cạnh sofa, nụ cười hiền dịu trên môi, mái tóc bồng bềnh hơi hoa râm rủ xuống vầng trán rộng.
- Chú! Cháu vừa mới mơ thấy chú. Cháu nhớ chú quá!
- Chú biết. Chú còn biết là chú vẫn thiếu cháu một món nợ. Chú về đây để trả món nợ đó.
- Nợ gì chú? Chú có nợ gì cháu đâu?
Chú Hoàng cười buồn:
- Có chứ cháu! Chú đã hứa dậy cháu dương cầm, mà chú bậy quá, quên bẵng đi, cứ lo những chuyện đâu đâu, không giữ lời hứa với cháu.
Trung nắm tay chú:
- Không, chú không nợ gì cháu đâu. Cháu đã cố hết sức, nhưng tự thấy không có khả năng, nên đã quyết định thôi không học nữa. Cháu đã bỏ dương cầm cả mấy tháng nay rồi. Mà cháu đâu cần gì. Có chú đây là cháu vui rồi. Cần gì học. Mà, sao chú lại về được? Có thật chú trở về với cháu không chú?
Chú Hoàng đăm chiêu:
- Không đâu cháu. Chú đã chết rồi cọ̀n làm sao về được. Nhưng lời đã hứa, chú không thể không giữ. Chú về đây trong giấc mơ của cháu để truyền thụ cho cháu những gì chú đã học hỏi, thu thập và sáng tạo trong suốt cuộc đời dương cầm thủ cùa chú. Chú muốn cháu làm sống lại cái mà chú đã đạt được. Chú muốn cháu sẽ đi đến tột đỉnh của nghệ thuật dương cầm. Như thế chính là cháu đã làm chú sống lại. Chính là cháu đã đưa chú trở về với cháu đấy, Trung ạ! Nào bây giờ chúng ta bắt đầu.
- Nhưng nhà cháu làm gì có đàn dương cầm. Mỗi lần mưốn tập, cháu vẫn phải qua nhà chị Mai Lan.
- Cần gì cây đàn. Cây đàn ấy vẫn ở trong tim, trong óc cháu. Cháu cứ nhắm mắt lại mà xem. Có phải cây đàn đang ở trước mặt cháu không nào?
Trung nhắm mắt theo lời chú. Quả nhiên chàng thấy hiển hiện một cây đàn. Cây đàn dương cầm của chú Hoàng.
Nhạc sĩ Anh Hoàng nắm tay Trung dẫn đến ngồi trên ghế và bảo chàng khởi sự.
Trung nhắm mắt định thần, tập trung tư tưởng, đưa nhẹ tay lên, chờ vài giây, rồi nhẹ nhàng nhấn phím. Nhạc sĩ Anh Hoàng im lặng lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu tán thưởng, hay nhíu mày, tỏ vẻ không hài lòng. Trung đánh xong bản nhạc, ông Hoàng vỗ vai chàng:
- Được lắm, tuy vẫn ̣còn chỗ chưa thoát. Bởi thế bản nhạc chưa được diễn tả trọn vẹn. Nhưng với khả năng của cháu bây giờ, công việc của chú thật dễ dàng. Cháu đã đạt đến trình độ cao cấp rồi, chú không cần phải chỉ dậy thêm nhiều nữa. Nhờ biết vĩ cầm nên cháu đă hấp thụ nhanh chóng dương cầm. Nhưng vì cháu tự học. mua sách vở về theo đó tập dượt, thành ra vẫn bị sách vở chi phối, bởi thế cháu thiếu mất một yếu tố quan trọng: sự phóng khoáng! Chú thấy cháu thực sự có khả năng thiên phú, nhất định sẽ thành công. Chỉ cần quên những nguyên tắc khô cứng đã học từ sách vở đi. Cháu còn nhớ trong truyện Đồ Long Ỷ Thiên Kiếm khi Trương Tam Phong truyền võ công cho Trương Vô Kỵ có hỏi Vô Kỵ ̣còn nhớ những gì đã học. Vô Kỵ trả lời còn nhớ một nửa, rồi một phần ba, phần tư gì đó. Trương chân nhân vẫn bảo chưa được, phải đợi đến khi Vô Kỵ nói đã quên hết chân nhân mới mừng rỡ khen Vô Kỵ luyện võ đã thành công. Trong âm nhạc cũng vậy, những ̣ gò bó của sách vở đã trói chặt cảm hứng của mình, tạo ra một bế tắc làm cho khả năng của mình không phát xuất được trọn vẹn, khiến mình không hòa được vào với âm thanh và linh hồn bản nhạc. Người nhạc sĩ sáng tác viết ra bản nhạc theo cảm xúc của họ. Người nhạc sĩ tŕnh diễn phải diễn tả bản nhạc theo cảm xúc của mình, phải hiểu bản nhạc, phải sống với bản nhạc. Nếu không, một ngàn, một vạn người đến với bản nhạc ấy cũng chỉ rập khuôn một thể thức trình diễn, có gì khác nhau đâu? Một người cũng đă quá đủ! Bây giờ cháu đánh lại bản nhạc, quên đi những gì đã học, cứ để tâm ý mình đưa mình vào linh hồn bản nhạc đó, xem sao.

Trung nghe lời, dợt lại bản nhạc. Ông Hoàng lần lượt vạch ra những chỗ chưa chỉnh cho chàng, chỉ bảo những kỹ thuật biến báo, và những chi tiết nho nhỏ khác thật cặn kẽ.
Sau mươi lần tập dượt, Trung bỗng giác ngộ. Những bế tắc trước đây đã hoàn toàn khai thông. Nhũng âm thanh mượt mà vang lên một cách hồn nhiên như những cánh bướm tung tăng giữa một bầu trời trong sáng. Không vấp váp. Không g̣ò bó. Thong dong. Vô định.
Nhạc sĩ Anh Hoàng nở một nụ cười mãn nguyện. Ông xoa đầu Trung, rồi vỗ tay:
- Cháu đã thành công rồi đó Trung! Món nợ của chú cũng đă trả xong. Không còn gì vương vấn nữa. Bây giờ chú có thể yên tâm rời xa cõi thế rồi. Thôi, chú đi.
Trung hoảng hốt đưa tay gọi với:
- Không! Chú đừng đi. Chú ở lại với cháu.
Tiếng kêu của Trung làm chàng giật mình thức giấc. Chiếc vĩ cầm vẫn nằm trên ngực. Âm thanh bản nhạc như vẫn cọ̀n vương vấn đâu đây. Trung nhìn qua cửa sổ. Trời đã tối. Những hàng cây chỉ cọ̀n là những bóng xám mờ mờ. Đột nhiên chàng thấy một vùng sáng lập loè xuất hiện. Chạy lại gần cửa sổ hơn thì ra đó là một cánh bướm tỏa ánh lân tinh chập chờn trong bóng đêm. Cánh bướm như đang bay theo một điệu luân vũ vui tươi. Dường như thấy Trung đứng trước cửa sổ, cánh bướm đảo một vòng theo hì́nh khóa “Sol”, nhún nhẩy thêm vài lần như cử chỉ xoa đầu của chú Hoàng, rồi khuất dần trong màn đêm đã bắt đầu dầy đặc.

Một năm sau ở Sài gòn xuất hiện một nhạc sĩ vĩ cầm và dương cầm nổi tiếng với một nghệ thuật trình diễn kỳ diệu làm mê hoặc khán, thính giả. Không bao giờ người ta chán nghe người nhạc sĩ này tŕnh diễn vì mỗi lần trình bầy một bản nhạc là ông ta lại diễn tả một cách khác nhau, mà lần nào cũng khiến người nghe thấy mình như lạc vào một cơi thiên tiên với những đám mây ngũ sắc và những âm thanh huyền diệu làm họ quên cả thực tại chung quanh. Chỉ khi tiếng nhạc đã dứt, họ mới sững sờ chợt tỉnh, để rồi những tràng pháo tay nổ ran đem họ trở về trần thế. Người nhạc sĩ ấy là Hoàng Trung. Trung đã lấy tên chú Hoàng ghép vào tên mình để ghi nhớ công ơn khai thông của ông.


MÙI QÚY BỒNG