|
Bùi Ngọc Tuấn |
Tóc
bay khuất giải Ngân Hà
Tuyệt vời thấm mộng, đêm là
đêm xưa
Một
buổi tối cuối năm - đâu đó vào năm 1965, 1966 - trong
sân trường Đại Học Văn Khoa, vắng lặng, yên tĩnh ngay
giữa những ồn ào của trung tâm thành phố Saigon đang
chờ đón Tết, Trần Tuấn Kiệt vời tay lên vầng trăng
đọc cho tôi nghe hai câu thơ tuyệt vời ấy.
Kiệt
đọc xong, đứng im lặng. Tôi đứng im lặng. Hồi lâu.
Bởi vì không còn gì để nói vào lúc đó. Bởi vì không
có gì nên nói vào lúc đó. Những câu thơ ngân vọng mãi
đến bây giờ. 40 năm sau.
Tôi
quen Trần Tuấn Kiệt một cách tình cờ, khi anh đến
trường Đại Học Văn Khoa tìm Phạm Quốc Bảo. Chúng tôi
đi uống café ở góc đường Gia Long và Nguyễn Trung Trực,
trước cổng trường Văn Khoa, rồi thân với nhau từ đó.
Không ngày nào không đi lang thang với nhau, nhiều hôm cả
sáng, cả chiều, cả tối. Trần Tuấn Kiệt thủa ấy có
một cái xe velo solex, tôi đi một cái xe mobylette. Tôi
thường chở Kiệt trên cái mobylette đó. Nơi chúng tôi
lang thang là hè phố Saigon, những hành sách cũ, những
quán vỉa hè. Cả hai đứa ít khi nào vào La Pagode ngồi,
hình như vì cái phong thái giang hồ của hai đứa ít hợp
với nơi 'bàn cao, cửa kính' ấy. Quán café, quán ăn vỉa
hè là nơi hai chàng 'tọa thị' hàng giờ. Ngoài việc làm
thơ, Kiệt không làm gì cả. Còn tôi thì đi học như đi
chơi. Đầu năm đến ghi danh rồi mỗi ngày đến trường
gửi xe, xong ra quán café ngồi, cuối năm đi thi. Hai đứa
tôi có nhiều thì giờ hơn ai hết, ở Saigon lúc đó.
Trước
đây, khi viết về Nguyễn Đức Sơn, tôi có nói rằng:
'…ở Việt Nam tuy có rất nhiều người làm thơ hay,
nhưng chỉ có ba người thật sự sống cuộc đời thi sĩ,
họ và thơ là một, ngoài thơ ra họ không có gì khác,
không còn gì khác, không muốn gì khác, không là gì khác.
Sơn là một, hai người kia là Bùi Giáng và Trần Tuấn
Kiệt…’Quả tình ngoài thơ ra, Kiệt không làm gì cả,
không có gì cả. Hình như khi viết về Bùi Giáng, Thanh
Tâm Tuyền có nhắc lại lời Khổng Tử nói về Lão Tử
(trong Nam Hoa Kinh) để ví Bùi Giáng như là một 'con rồng'.
Nếu Bùi Giáng như ‘rồng’ thì tôi thấy Trần Tuấn
Kiệt như một 'vầng mây trắng', bay lang thang vô định.
Vầng mây trắng không làm gì cho trời, cho đất. Nhưng
đất trời sẽ không còn là đất trời nếu thiếu đi
những vầng mây phiêu du khắp chốn ấy.
Hãy
đọc mà nghe:
Nai
Lên
theo đỉnh núi mơ màng
Một con nai đứng vọng ngàn
trong sương
Vách cao đá dựng trăng buồn
Tơi bời
tiếng lá, mưa luồng lũng sâu
Gót thầm nai tếch ngàn
thâu
Nhân gian nghe cũng vọng sầu bao la
Mới
đọc lần đầu, nhạc điệu, âm hưởng man mác của bài
thơ làm ta bâng khuâng. (Như tiếng hòn sỏi vừa ném xuống
hồ nước). Đọc lại những lần nữa, những ý tình
tiềm ẩn thấp thoáng ẩn hiện, chợt vang vọng lên, ngân
dài bất tuyệt (như những vòng sóng lan ra trên mặt nước
lặng).
Thơ
Trần Tuấn Kiệt như thế.
Và
hãy đọc thêm vài bài khác:
Hạc
thiêng
Thơ bay vàng cánh hạc chiều
Núi sông
trăng mới bên triều biển xanh
Mươi năm lỡ bước thị
thành
Mộng đời ủ lại mái tranh sau vườn
Bao người
đánh mất quê hương
Trăm năm hiện hữu ai buồn vì
ai!
Tuổi đời mỏng cánh hạc bay
Động lòng thiên
cổ gió mây qua đèo
Đường
xuân
Ta về đâu những con đường
Lệ sầu ai
rãi phấn hương mau tàn
Xuân đời nhan sắc truy
hoan
Rượu tình tri kỷ trần gian mấy người
Ca thâu
đàn hát tan rồi
Mây xuân chở mộng qua trời về đâu
Biển
khuya
Biển khuya sóng vổ lên hồn
Ta nằm nghe
lặng tiếng cồn dâu xanh
Vầng trăng lửa Hạ treo
nhành
Vực sâu rêu phủ mấy cành củi khô
Ngàn xưa
hoa trắng phiêu du
Nước sa buồn với mùa Thu cách
nguồn
Trăm sông buồn cũng xô luôn
Quanh co bến lạ
máu xương rụng sầu
Sóng dồi giấc ngủ đêm thâu
Vầng
trăng ngọc thạch ửng mầu tồn sinh
Khúc
Phượng Cầu Hoàng
Chiều nghe khúc Phượng Cầu
Hoàng
Nỗi buồn thiên cổ tiếng đàn nghìn năm
Lệ
châu rơi xuống âm thầm
Tương Như Tư Mã cánh bằng đã
xa
Mùa
vu lan
mộng vàng ai thếp màu son nhạt
kiếm
khách mài gươm dưới nguyệt tàn
ta về trễ quá muôn
năm trước
trống đồn bi ký cõi nhân gian
em đẹp
còn đây dáng mỹ nhân
Tây Thi gái Việt sắc mê hồn
ta say tình sử thương thiên cổ
mấy nếp lâu đài
rộn gót son
ấy ai cưỡi ngựa chơi vườn cũ
khua
trống chiêng xưa bóng chập chờn
kìa xem trăng mộng
thành thiên cổ
hoa lá vin cành điệp dưới thôn
Em
đi lễ Phật Vu Lan mới
dạo chùa lễ Phật nức hương
sen
cho anh gởi chút tình ân ái
về dưới Phật đài
vui với Em
Tượng
Em đi chân bước lạc đà
Suốt miền ải hạn
giữa sa mạc người
Phượng hoàng xuống đậu hai
vai
Ngậm hoa quỳ nhớ thiên thai không về
Ngàn năm
mây trắng trôi đi
Với hồn xưa động bốn bề không
gian
Bến
ngựa
tặng
Bùi Ngọc Tuấn
Khi
xưa ta đến bên thành
Cỏ cây cũng nhớ thương mình ra
hoa
Vầng trăng bến ngựa giang hồ
Bia thành vách mộ
lòng ta chợt buồn
Em
còn hái trái
tặng
Phan Bá Thụy Dương
Em
còn hái trái bên cây
Vết son mùa để dấu hài đầu
tiên
Loi choi bước nhảy chân chim
Gió tan mây tụ đảo
điên hồn người
Em còn hái nữa hay thôi
Vết tay
chín móng đã mười yêu thương
Phiêu-du trở bến trong
vườn
Một giòng nước thẳm bên nguồn em đang…
Vườn
chim trái mộng hoa vàng
Nửa đêm trăng cũng huy hoàng
bên em
Quê
hương
tặng
PhươngTriều
Lòng
ta vì quá đỗi nhớ thương
Cành hoa bụp cũ khóc bên
đường
Bến khuya Sa đéc trăng mười sáu
Mấy độ
chìm theo sóng lớp lang
Hỡi người con gái bến Tân
quy
Nàng hát ta nghe hát những gì?
Tóc xõa bốn trời
trăng gió tụ
Mây vờn âm điệu nét phương phi
Hát
nữa nàng ơi! não bốn trời
Cành hoa bụp cũ bến kia
rơi
Quê hương khúc hát chừng đưa lại
Lớp sóng
trường giang lạnh đến trời
Từ
thời còn rất trẻ, vào thập niên 1950, Trần Tuấn Kiệt
đã xuất hiện trên ‘Văn Hoá Ngày Nay’ của nhà văn
Nhất Linh. Ngay từ bài thơ đầu tiên trong đời được
đăng báo, Kiệt đã được trả tiền nhuận bút, khá hậu
hĩnh. Cái tên Sa Giang Trần Tuấn Kiệt ngay từ buổi đầu
đã có chỗ đứng riêng biệt, vững vàng trong thi đàn
Việt Nam.
Tiếng
thơ Trần Tuấn Kiệt đầy những âm vọng của thơ Lý
Thương Ẩn và Đỗ Phủ, thêm vào đó là những ngậm
ngùi, mênh mang của giòng thơ lục bát nói về những u
sầu của lòng người mà ngàn năm cứ trầm vang những
nỗi niềm của cuộc phù sinh. Ngoại trừ tập ‘Triều
Miên Ngâm Khúc’ nói về những đớn đau của một người
cha mất con, nhìn vào cuộc đời đầy sinh ly tử biệt;
Những tập khác như ‘Nai’, ‘Cổng Gió ‘, ‘Thơ Trần
Tuấn Kiệt’, ‘Em Còn Hái Trái’, ‘Lời Gởi Cây Bông
Vải’ … là những tiếng lòng u hoài miên viễn trước
kiếp người hữu hạn giữa giòng thời gian bất tận, và
của đời người trầm luân trong một thời ‘Xuân Thu
mới’ nhiễu nhương không khác gì thời Xuân Thu trong cổ
sử. Trần Tuấn Kiệt không có những loại thơ tình của
những tình nhân bình thường, như ta thường thấy trong
thơ tình của những thi sĩ lừng danh khác. Không có những
đắm say nồng nàn, không có những đáng cay, quằn quại.
Chỉ có những mối sầu miên viễn, sầu tình hòa cùng
sầu đời, man mác, ngậm ngùi. Thơ tình của Trần Tuấn
Kiệt không bao giờ có những lời tỏ tình trực tiếp,
mà luôn luôn là những ẩn dụ và mối sầu tình cũng
luôn luôn hòa với mối sầu thiên cổ.
Ngôn
ngữ Trần Tuấn Kiệt giản dị mà chở đầy những hình
ảnh dù man mác mà thê thiết, trong một nhạc điệu trầm
ngân như một tiếng thở dài. Tình yêu quê hương Việt
Nam, yêu tiếng Việt vốn tràn ngập trong thơ văn Trần
Tuấn Kiệt, nhưng ngắn gọn, rõ ràng và quyết liệt nhất
là trong quyển ‘Tiếng Đồng Nội’, với vài giòng bố
cáo đơn sơ ở đầu sách, đại khái là: cấm dịch ra
bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Nghĩa là phải người đọc
phải đọc cuốn tiểu thuyết này bằng tiếng Việt Nam…
Kiệt
viết rất nhiều, thơ, truyện ngắn, truyện dài, biên
khảo (‘Tác Giả, Tác Phẩm’, Thi Ca Việt Nam Hiện Đại’
dày hàng nghìn trang…., nhưng thơ vẫn là thể loại
chính, hàng 5, 7 nghìn bài trong 50 năm qua.
Thủa
đó, nơi hai chàng lãng du là những quán vỉa hè. Ngồi
trên những chiếc ghế đẩu thấp sát đất. Uống những
ly rượu đế nhỏ. Nhắm những con khô mực nướng thơm.
Kiệt thường nói: 'tao nghèo mà vui'. Nghèo thì cũng đúng,
nhưng vui thì đúng hơn. Tôi cho rằng trên đời này chỉ
có một mình Trần Tuấn Kiệt là không biết buồn, biết
lo. Những nỗi buồn, lo của sinh kế, của đời sống
hàng ngày, của mọi người. Kiệt hồn nhiên như một đứa
trẻ. Chỉ biết có thơ và rượu mà thôi.
Một
buổi chiều tối, trong lúc đang ngồi uống café ở bên
lề đường Lê Thánh Tôn, Tôi rủ Kiệt đi ăn tối. Kiệt
không chịu, nhất định kéo tôi về nhà ăn cơm. Nhà Kiệt
thời đó ở trong một ngõ hẻm nhỏ trên đường Phan
Đình Phùng, gần chợ Vườn Chuối. Căn nhà hẹp hơn một
căn phòng của người khác. Rộng chừng 2 thước, sâu
chừng 4, 5 thước. Phòng khách là một cái bàn nhỏ với
hai cái ghế. Phòng ngủ (và cũng là phòng ăn) là một cái
giường. Sau một bức vách ngăn là nhà bếp nhỏ. Trên
vách nhà treo đầy tranh của những họa sĩ hàng đầu
thời đó (Nguyễn Trung, Nguyên Khai, Nghiêu Đề…) tặng
cho Kiệt. Đó là nơi hai vợ chồng Kiệt và cháu gái nhỏ
sống (Lúc đó cháu Trần Triều Miên - con đầu của vợ
chồng Kiệt đã gặp nạn, qua đời).
Về
tới nhà Kiệt bảo vợ: 'anh Tuấn ăn cơm tối với tui'.
Nói rồi, Kiệt kéo tôi xuống bếp khoe gà. Kiệt ham mê
gà chọi. Anh có thể đói, nhưng gà phải no, phải có
rượu bóp. Kiệt mở bu, bế gà ra vuốt ve hồi lâu. Hãnh
diện nói với tôi: 'mày thấy con gà này ngon không, đá
vô địch'. Tôi biết gì về gà đá… Cười. Vợ Kiệt
dọn cơm lên giường. Một niêu cơm nhỏ, một nồi cá
kho nhỏ. Trong nồi chỉ có một con cá kho, trắng, to bằng
4 ngón tay. Nồi cơm được chừng 2 bát lớn, 3 bát nhỏ.
Vợ Kiệt bế con đi, chừng 5 phút sau chị trở về với
một ca sắt đầy bia. Kiệt với tôi chuyền nhau ca bia,
uống. Vợ Kiệt bế con, đứng nhìn chúng tôi ăn, mặt
cười rặng rỡ. Tôi chợt biết rằng mình đang ăn phần
cơm của chị. Lòng đau thắt.
Kiệt
làm thơ rất tức cười, gặp tờ giấy nào cũng viết
lên đó, nào là tờ lịch, bì thư, bản vỗ… Viết xong
bài thì bỏ vào một cái sọt tre lớn treo trên vách, kế
cái bàn nhỏ tiếp khách. * (Sau này nhớ lại, tôi mới
thấy là trong nhà không có tủ, mà chỉ có vài ba cái sọt
treo trên tường đựng đồ dùng. Cái sọt treo ở phòng
khách là để đựng thơ). Những tờ báo hỏi xin bài, thì
Kiệt quơ tay vào trong sọt, lấy ra dăm bảy, bài đưa cho
họ. Kiệt làm thơ gần như không sửa đổi bao giờ. Thơ
viết ra giấy là xong rồi. Hình như thơ đẵ nằm trong
đầu hàng loạt, hàng mươi bài mỗi lần. Có sửa gì,
thì sửa trong đầu, chứ đã viết ra giấy là xong rồi.
Không nghĩ đến nữa. Tuy thế, mỗi bài thơ là một hoàn
chỉnh. Không thể sửa gì nữa. (Cũng giống như cách Bùi
Giáng và Nguyễn Đức Sơn làm thơ). Ba ông này quả thật
là kỳ tài.
Trần
Tuấn Kiệt là một cao thủ của trường phái Tây Sơn
Nhạn. Có thời anh dạy võ. Một hôm tôi bảo Kiệt chỉ
cho một vài ngón để phòng thân. Kiệt nói: 'mày không
học tới nơi mà chỉ biết vài thế, tụi nó đánh chết'.
Nói rồi anh bảo tôi khi sắp đánh nhau thì tay trái chống
vào cạnh sườn, tai phải nắm lại, nhưng ngón trỏ thì
thẳng ra chỉ chỉ vào mặt đối phương mà tiếp tục
cãi, rồi bất thình lình cụp ngón trỏ lại, đấm ngay
giữa trán đối phương, trước khi bỏ chạy. Cái cú giả
vờ cãi rồi lừa địch thủ mà đấm trước rồi chạy
này tôi chưa có dịp thử, nên không biết hiệu nghiệm
ra sao.
Một
buổi tối kia. Hai đứa tôi vào hiệu ăn Chung Nhuận Hy (ở
góc đường Công Lý - Lê Thánh Tôn), ngồi ở một bàn
ngay bên lề đường, không gọi món ăn, mà chỉ uống 2
ly café bí-tất, mặc chủ hiệu lườm nguýt. Kiệt nói
chờ lát nữa vào nhà sách Khai Trí lấy tiền nhuận bút.
Đến 7 giờ rưỡi, mà Kiệt vẫn không chịu đi. Nói chờ
đến 8 giờ, nhà sách đóng cửa mới gặp ông Khai Trí.
Chúng tôi đến đó lúc Khai Trí đang sửa soạn đóng cửa,
đang đếm tiền. Kiệt hỏi tiền bản quyền cuốn sách.
Ông Khai Trí trả cho Kiệt hai ngàn - rẻ mạt. Chúng tôi
đi về, Kiệt chia xấp tiền ra làm hai. Lật bọc yên xe
Solex lên dấu xuống đó một phần, nói là để mang về
cho vợ nuôi con. Còn một phần bỏ túi dắt tôi vào quán
nhậu. Ăn nhậu hồi lâu, Kiệt bỏ tôi ngồi đó, đứng
dậy đi ra ngoài chừng mươi phút. Khi trở vàogọi thêm
rượu, thêm món ăn. Hai thằng say tuý luý. Ăn nhậu xong
còn rủ đi uống café. Tôi bảo Kiệt đi về đưa tiền
cho vợ. Kiệt nói tỉnh queo: 'hồi nãy tao ra lấy để trả
tiền nhậu hết rồi'. Tôi lạnh người, tỉnh hẳn rượu
nhưng càng choáng váng. Viết một quyển sách mất rất
nhiều thời giờ, tim óc, nhà xuất bản trả không được
bao nhiêu, vậy mà không mang về cho vợ lấy được một
nửa, dắt bạn đi nhậu hết. Có ai như ông trời này?
Ông
Khai Trí còn nắm trọn bản quyền của hơn chục cuốn
tiểu thuyết Kiệt viết, mỗi quyển trả vài ngàn bạc
mà chỉ có đôi ba cuốn được in. Độc giả không bao
giờ được đọc những quyển kia. Trong 40 năm nay tôi vẫn
tự hỏi nên khen hay nên trách ông Khai Trí. Ông đã mua rẻ
bản quyền cất tủ, hay ông đã tìm cách giúp nhà văn
nghèo?
Để
có thêm tiền, Kiệt làm cách khác. Thấy tôi có tí vốn
chữ Hán, còn mình vốn đã giỏi võ, Kiệt bắt tôi chở
vào Chợ Lớn, đến những hàng sách bên đường của
người Tàu, tìm mua sách dạy võ. Gặp quyển nào có hình
người khoa chân múa tay cũng cầm lên hỏi tôi 'quyển gì
đây?'... Cứ vài ngày chúng tôi lại mua được đôi ba
quyển. Khi thì Thiếu Lâm, khi thì Võ Đang…Chúng tôi lại
về khu trường Văn Khoa cũ, tôi ngồi uống café dịch
miệng cho Kiệt nghe, từng thế đánh, thế đá. Nhiều chữ
không rành, vậy mà Kiệt nhờ giỏi võ biết ngay và hiểu
rõ. Sau đó anh dựa trên những quyển sách này mà viết
một lô sách dạy võ. Bán rất chạy. Kiếm được tiền
nuôi gia đình.Tôi cười gần chết.
Tôi
rất nhớ và mến đời sống giản dị của Kiệt. Giản
dị đến không ngờ, như có lần tôi hỏi Kiệt hồi còn
ở Sa Đéc sống ra sao. Kiệt nói: ‘mỗi ngày tao đặt
cái lờ ở ngoài mương bắt cá. Buổi sáng ra gỡ lấy 3
con cá lớn nhất.Một con tao đổi lấy một lít rượu,
một con tao đổi lấy một lít gạo, nấu cháo, còn con
thứ ba tao nướng, rồi ngồi nhậu’ Tôi hỏi tiếp: ‘rồi
ngày mai làm sao?’ Kiệt đáp tỉnh queo: ‘mơi làm dzậy
nữa!’.
Đời
trôi về mỗi hướng. Sau mấy chục năm tôi vẫn là kẻ
lãng du ở cuối vườn ảo mộng. Kiệt vẫn là vầng mây
trắng, phiêu du giữa đất trời vô định. Đêm nay nhớ
lại bạn xưa, lòng dạt dào thương nhớ. Chén rượu đêm
mưa đầu mùa thu ở Minnesota xót xa như nước mắt. Năm
xưa có viết 2 bài thơ tặng Trần Tuấn Kiệt, như sau:
đêm
buồn uống rượu một mình
(gửi
Trần Tuấn Kiệt)
nửa
đêm nhớ một vầng trăng
chén nâng mời rượu - từng
giòng lệ sa
sóng bên này giải ngân hà
thoảng âm
tiếng khóc từ bờ bên kia
xuôi giòng tử biệt sinh ly
quê nhà nơi đó mà về được đâu
kể từ dâu
biển rời nhau
trăng đêm nay vẫn nguyên mầu cố hương
biết đây là cõi vô thường
mà tâm thể vẫn đoạn
trường xiết bao
buồn ơi đầy đọa mãi sao
lòng
tươi muối xát - gan bào tái tê
buồn ngồi uống rượu
nửa khuya
chén này chưa cạn - chén kia nối tràn
chén
sầu dằn vặt tâm can
trăng vàng đêm lạnh lời than
não nề
buồn ơi! ta đã làm chi
ta ơi! buồn đã
làmgì đời ta
và:
mới
ốm dậy đêm nằm nghe mưa
viết
gửi Trần Tuấn Kiệt
đêm
khuya không rượu mưa rơi
quạnh hiu bốn cõi - ngậm
ngùi tâm tư
nằm im nghe động mái nhà
những năm
tháng đã ra ma trở về
rượu không mà tưởng say
nhè
tay bưng mặt khóc hỏi quê chốn nào
tang thương
tàn cuộc binh đao
cơ trời sao để nghẹn ngào sử xanh
đêm mưa không rượu buồn tênh
đầm đầm lệ đổ
- ý tình héo hon
mưa như đêm ở Saigon
trời se se
lạnh theo buồn xa xăm
lòng rung theo tiếng mưa thầm
giơ
tay vuốt mặt lặng nằm nghe mưa
giọt sa, giọt nhẹ mơ
hồ
giọt dài, giọt ngắn, nghe như giọt sầu
một
mình không rượu, đêm sâu
năm qua, ngày hết, mái đầu
gió sương
quê nhà mù mịt đôi phương
một mình
thương tưởng, sao buồn chứa chan
rượu không, mưa
ngớt, đêm tàn
nàm im nghe vọng thời gian nặng nề
rượu không mà tưởng say nhè
tay bưng mặt khóc hỏi
quê chốn nào
BÙI
NGỌC TUẤN