Huế mùa Hè bắt đầu vào những ngày cuối tháng Tư. Bây giờ đã quá trung tuần tháng Năm, nắng càng gay gắt hơn, cái gay gắt của một thứ nắng lửa làm bỏng da. Ngay từ sáng sớm, vừa thức dậy đã phải hứng ngay những cơn gió Lào hừng hực bên kia Trường Sơn thổi về. Suốt đêm qua trên khu đồi trọc, nơi Đại đội tôi đang đóng - làm lực lượng phòng thủ quận Phú Lộc - mấy anh lính không ngớt chạy đi tìm một chỗ nào đó ngoài trời để có thể hưởng chút mát mẻ của những hạt sương tan loãng trong một bầu không khí nặng nề oi bức. Họ bỏ hầm trú ra ngủ ngoài, nằm phơi bụng, phơi ngực, dù biết những vụ pháo kích thường xảy ra và mảnh đạn trái phá có thể xé tan thân thể họ. Trong phiên tuần đêm, tôi nói với binh Thí: “Bộ anh muốn bỏ mạng sao ra nằm đưa thây đó?”. Binh Thí cười hề hề: “Nóng quá, chịu không thấu Chuẩn úy à. Hầm chật cứng, ngủ ba bốn đứa thở sao nổi. Chết biết liền chớ chi. Khi tới số thì chui xuống đất đen đạn cũng tìm theo”.
Trở vào, tôi cũng không sao ngủ được, cứ nằm lăn qua trở lại và cuối cùng mê thiếp đi trong một cơn mê nặng nề, quái gở. Tôi mơ thấy tôi đang nằm trên một ổ rơm. Bỗng nhiên tất cả những cọng rơm biến thành một bầy rắn lúc nhúc, một bầy rắn lửa đỏ rực, chúng không làm gì hại tôi cả, nhưng chúng bò lên che lấp cả người tôi rồi, hình như tôi đã biến thành rắn cùng loại, nhưng là một con rắn chúa tể, có uy quyền trên bầy rắn kia. Lúc tôi còn đang chơi vơi trong cảm giác run rẩy như một ngọn lửa sắp tắt, tôi nghe có tiếng người kể chuyện về lửa, về sự thiêu đốt. Tôi nghe mơ hồ, rồi tôi biến thành một ngọn lửa lớn, tan biến trong một màn đêm dày.
Sáng hôm sau tôi thức dậy sớm hơn lệ thường – như có một việc gì thôi thúc – làm vội vã những việc lặt vặt. Thay quần áo xong, tôi khom người chui ra khỏi hầm, đi thẳng đến văn phòng đại đội. Tôi còn đứng chần chờ ngoài hàng hiên, ngại phải bước vào khu nhà tôn hầm hơi như lò hấp đó. Trong phòng, ngồi ở bàn viết, Trung sĩ Lâm đang cắm cúi làm việc, một lúc lâu ông không rời mắt khỏi trang giấy để trước mặt. Trung sĩ Lâm lớn tuổi nhất trong đại đội – chúng tôi gọi đùa là Trung sĩ Bố – có hơn ba mươi tuổi lính, ông đi lính từ thời Khố xanh, Khố đỏ, ông thường hãnh diện kể lại những trận chiến đã tham dự từ Bắc chí Nam, trận Điện Biên Phủ, và cả thời kỳ sang Pháp đánh giặc cho “mẫu quốc” nữa. Mấy chú lính sữa nghe hoài những chi tiết như “đạn trúng ngay ngực nhưng không hề hấn gì, rơi ngay xuống trước mặt”… được ông thích thú nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Ông quả quyết người ông có chất kỵ đạn và không thể nào chết vì đạn được. “Đạn bay tới gặp tui là phải tránh về hướng khác liền, ông nói, sức mấy mà trúng tui nổi”.
Tôi nhìn mái tóc hoa râm của Trung sĩ Lâm đang rung rung theo cử động của những ngón tay thô gầy. Tôi định hỏi xem ông đã làm phiếu, gởi đơn xin phục vụ theo khả năng chuyên môn của tôi chưa. Nhưng thực ra đó không phải là lý do tôi dậy sớm và hối hả đến đây để gặp ông sáng nay. Vì một chuyện khác, mà tôi không dám nghĩ hẳn tới và để cho nó hiện ra rõ rệt trong trí tôi. Tôi sẽ phát run lên khi thốt ra câu hỏi về nó. Tôi phải bịt kín tai lại để khỏi nghe câu trả lời, mặc dù tôi vô cùng nôn nóng muốn được nghe ông Lâm – hay bất cứ người nào – kể lại rành rọt với đầy đủ chi tiết câu chuyện đó nữa.
Tôi bước vào văn phòng. Tiếng động làm ông Lâm hơi giật mình. Ông đứng dậy chào và than phiền ngay với tôi về bản báo cáo vũ khí của “cái thằng hạ sĩ nghĩa quân ngu ngốc” nào đó. Ông đưa cho tôi xem tờ giấy và chỉ vào con số ghi số vũ khí cấp phát là 23, vậy mà tổng cộng các thứ lại là 40, làm ông tức tối không chịu nổi. Sau một hồi thử lại mấy con tính cộng ông để tôi ngồi lại một mình, bước ra cửa, nói đi tìm cho ra “cái thằng hạ sĩ ngu” để mắng cho một trận.
Tôi ngồi trên mé góc bàn viết, chân thấp chân cao. Gian phòng dùng làm Văn phòng Đại đội nầy được dành một chỗ ngăn ra bằng một tấm vách tôn gợn sóng. Trên tấm tôn có treo một miếng giấy bồi mầu vàng nhạt, viết mấy chữ “VÔ PHẬN SỰ CẤM VÀO” bằng bút nguyên tử đỏ, kiểu nửa thì chữ in, nửa chữ thường. Đó là kho vũ khí của Đại đội, nơi tàng trữ những cây súng của các chú lính-không-thích-đời-lính đã gởi lại – về nghỉ phép rồi biệt tích luôn – sét rỉ chưa kịp đem trả, và những thùng lựu đạn chưa ném giặc mà mỗi lúc một vơi đi dần trong những vụ “ném cá ăn chơi”.
Nắng đã bắt đầu mất dần mầu hồng vàng của bình minh, đang chiếu ánh sáng trắng xuống khoảng sân đất đỏ. Bên kia sân, con đường dốc chạy từ cổng vào giữa khu đồi. Kế cận con đường, ở mép đồi là những hầm trú ẩn mà cả đêm lẫn ngày, trong đó chúng tôi sinh hoạt: ăn uống, ngủ, trò chuyện và đánh bài.
Hố được đào sâu chừng vài thước, lấy đất đắp lên tấn chung quanh, chất thêm mấy lớp bao cát. Trên nóc che tôn, đổ đất vun lên trông như những ngôi mộ to lớn, chui vào trông có vẻ giống những nhà mồ. Vào những buổi trưa mùa hạ, khi gió Lào thổi về không ngớt, thì những nhà mồ đó biến thành những lò hấp bánh, trong đó trăn trở, lăn lộn những thân người trần trụi, đầm đìa mồ hôi. Trung sĩ Lâm trở lại, vẫn không ngớt phàn nàn “cái bản báo cáo mắc toi”. Ông không tìm thấy “thằng hạ sĩ cù lần”. Ông đến bên tấm lịch bóc một tờ, nhìn con số chỉ ngày mới rồi vò nát tấm lịch cũ trong lòng tay, vất vào chiếc sọt rác méo mó, để ngay dưới chân ghế.
- Tôi về Huế sáng nay nghe, ông Lâm. Phiền ông làm cho tờ phép.
Ông Lâm ngước lên nhìn tôi thoáng chút dò hỏi. Tôi cũng nhìn lại ông.
- Bữa nay cấm trại mà, Chuẩn úy. Ông ngập ngừng trả lời.
- À… há, tôi cố kéo dài giọng để thay lời giải thích là tôi cũng có nhớ điều đó, đã xem qua lệnh cấm trại và cũng biết đến nỗi lo lắng của ông qua hai tiếng “cấm trại” trong một ngày đặc biệt. Tôi gục gật đầu nhè nhẹ ra chiều đã hiểu.
Ông vẫn còn nhìn tôi chờ đợi, dường như ông cho rằng tôi cần phải tỏ ra biết điều hơn chút nữa, phải nói thêm một vài lời biểu đồng tình cho ông được yên tâm. Nhưng tôi lại mỉm cười, khiến cho ông không hiểu, đâm ra bực bội.
Tôi đang ngồi ở mép bàn, mấy ngón tay lồng vào nhau, kẹp giữa hai đùi, đu đưa chiếc chân hỏng đất, nện gót giày vào chân bàn cồm cộp. Một lúc lâu sau, trước khi cúi xuống với công việc, Trung sĩ Lâm mới nói:
- Chừ không thể làm giấy phép được, Chuẩn úy. Chỉ có thể cấp Sự vụ lệnh, mà sợ ổng – Đại đội trưởng – cũng không chịu ký nữa à.
Tôi nói “không sao” để ông ta yên lòng, bởi nét mặt ông lúc đó tỏ vẻ ái ngại đã không giúp tôi được việc mà lẽ ra ông đã làm một cách dễ dàng trong những ngày thường.
- Thôi, không cần giấy phép nữa, tôi nói lững lờ. Tôi dù về một lát, chắc cũng không đến nổi gì đâu.
Tôi muốn hỏi lại ông câu chuyện mà lúc mờ sáng tôi đã nghe ông nói không được rõ ràng – tôi dở thức dở ngủ – nhưng tôi vẫn ngồi im lặng. Trí tưởng tượng của tôi đã vẽ ra những hình ảnh khủng khiếp khiến tôi phải vội xua đuổi. Tôi sợ ông Lâm sẽ khiến cho câu chuyện đó trở thành sự thật. Tôi muốn thính giác tôi đã có sự lầm lẫn trong khi nghe ông Lâm nói về điều đó lúc mờ sáng.
- Nhờ Trung sĩ nói lại với Đại đội trưởng giùm nghe. Tôi phải đi Huế ngay, có chút việc cần.
Ngoài sân một chiếc xe Dodge đang rồ máy. Tôi gọi lớn:
- Thượng sĩ Đăng, cho tôi về Huế với. Ông Lâm, tôi đi nghe.
Tôi nhảy xuống – làm chiếc bàn đóng bằng ván gỗ pháo binh rung rinh – phóng ra sân, leo lên ngồi bên cạnh Thượng sĩ Đăng. Ông bảo tôi vào trong để ông ngồi ngoài vì ông có súng. Tôi cười nhìn gương mặt sạm nắng của ông và vừng trán khuất một nửa dưới chiếc mũ đen rộng vành phai mầu.
Ông giữ khẩu cac-bin M2, nơi thắt lưng đeo lủng lẳng mấy quả lựu đạn. Lúc xe ra đến đầu con đường dốc đổ xuống cổng, tôi còn thấy Trung sĩ Lâm đứng nhìn theo ái ngại và khi xe lăn chầm chậm xuống dốc, ông chạy ra giữa sân nói với theo:
- Chuẩn úy đi đường coi chừng, cẩn thận. Bữa nay đường đi nguy hiểm.
Tôi vẫy ông vội đưa tay lên làm loa, hét trở lại:
- Chết thì chôn, lo gì.
Chiếc xe chở đầy quần áo cũ đem về đổi ở phòng tiếp liệu Tiểu khu. Ngồi bên trái, sau lưng tôi, một người lính nghĩa quân tay lăm lăm cây M2, ngón trỏ luôn để hờ bên cạnh ổ cò, mắt anh đăm đăm nhìn vào phía núi. Dãy núi đổ dốc xuống những thửa ruộng lúa chín, một vài nơi đã gặt còn trơ lại gốc rạ. Thấp thoáng trong những đám ruộng gần chân núi, nổi lên giữa mầu lúa chín vàng những chấm trắng nón lá và những tấm lưng áo đen di động.
Xe bị chết máy ở khoảng đồi 30, lúc sắp qua một quãng đèo ngắn. Thượng sĩ Đăng và người lính nhảy ngay xuống đường chĩa súng vào hướng ruộng lúa. Tài xế giở nắp xe sửa chữa. Một lúc, xe nổ máy. Thượng sĩ Đăng lên xe, lấy khăn tay ra lau những giọt mồ hôi vả lấm tấm trên vầng trán da đen bóng.
- Chiếc xe mắc dịch, ông phàn nàn. Thật khéo lựa chỗ chết máy. Điệu này coi chừng không về tới Huế.
Ông móc túi lấy cái bật lửa để vào lòng nón quẹt châm thuốc. Làn khói đầu tiên rít hết hơi phà ra miệng mũi có vòi, bị gió thổi quặt về phía sau tan biến.
- Thiếu úy Dũng, Đại đội trưởng cũ bị phục kích chết tại đồi 30 đó. Thượng sĩ Đăng kể. Ông đưa đám tang Trung sĩ nhất Chánh lên Đá Bạc, lúc trở về thì bị. Ngay ban ngày chớ phải tối tăm gì. Đám lính đi dàn chào chỉ đem theo vài băng đạn, bắn hết bỏ chạy. Ông bị thương ở chân không chạy được, tháo lon lết vô trốn trong kẹt đá, họ lôi ra bắn chết.
Anh tài xế cho xe chạy như bay, anh nói chạy được lúc nào hay lúc ấy, vì chiếc xe không đáng tin cậy. Vả, chạy nhanh như thế, may ra có thể lướt qua những ổ mìn?
- Thượng sĩ có nghe tin gì về trận đánh đồn Lương Mai đêm hôm không? Thốt nhiên tôi buộc miệng hỏi ông ta.
Mắt vẫn không rời khỏi mặt đường lồi lõm, ông dở chiếc mũ vuốt mái tóc đã điểm bạc cho xuôi theo hướng gió, thong thả trả lời:
- Nghe đâu khi máy bay lên thả trái sáng thì chỉ thấy một đống lửa đang cháy rực, không còn chi tiết nào khác nữa. Sáng nay có phái đoàn trên Tiểu khu ra thị sát và lấy xác.
Tôi nhắm mắt lại. Ông Đăng đã vừa giúp tôi dở tấm vải phủ trên gương mặt nát của người thân chết thảm thương tôi đã kịp nhìn thấy trước khi nhắm mắt lại.
Xe hãm bớt tốc lực, rẻ xuống con đường vòng vào một thửa ruộng vì cây cầu vừa bị giật sập mấy ngày trước đây. Một thân chiếc cầu cắm xuống bùn sâu, phần còn lại chổng lên trời, dựng đứng thẳng góc với mặt đường.
Trên suốt quãng đường từ đồi 30 đến giáp cầu Truồi đếm cả thảy bảy ổ mìn đã nổ. Hai chiếc xe hàng bị lật còn để tại chỗ, nằm đưa bốn bánh lên trời. Đi trên quãng trường nầy bao giờ đến nơi mới tin mình còn sống. Ngồi trên xe luôn có cảm tưởng chiếc xe sắp bay bổng lên và không biết lúc nào tất cả chúng tôi cùng tan ra với mớ quần áo cũ.
Nhưng dẫu sự lo lắng có căng thẳng thần kinh tôi đến thế nào đi chăng nữa, hình ảnh ngọn lửa thiêu trọn đồn Lương Mai vẫn cứ chập chờn trước mắt. Hình ảnh của đám lính trong đồn liều mạng băng qua chính bãi mìn phòng thủ của mình để thoát thân, khiến cho gan ruột tôi cồn cào và một nỗi khiếp sợ lẫn ghê tởm chợt đến, quấn chặt lấy tôi đến nỗi, cuối cùng tôi thấy mình biến thành một ngọn lửa run rẩy tự thiêu mình và trong tận cùng nỗi tuyệt vọng, bỗng nảy sinh một ảo tưởng.
“Ngọc đang đứng ở ngưỡng cửa ra vào căn nhà bếp. Như thường ngày, nó mặc chiếc quần đùi đỏ, để mình trần, bày ra cái lồng ngực xẹp lép trơ xương. Thấy tôi về nó đưa tay lên vẫy: “Ê, mới về đó hả bồ? Dù coi chừng bị nhốt nghe”. Không kịp trả lời, tôi chạy bay tới ôm lấy nó mà khóc, vì mừng rỡ. “Ngọc ơi! Mày còn sống! Mày còn sống, hả Ngọc?”. Nó có vẻ ngạc nhiên lôi tôi ngồi xuống chiếc giường ngủ – mà đã bao nhiêu lần chúng tôi cùng ngủ chung trong những đêm học bài thi – hỏi giật giọng: “Cái gì vậy, hả? Có gì thì kể tao nghe, sao lại khóc?”. Tôi vẫn ôm lấy nó không trả lời. Ngọc quàng một tay lên vai tôi bóp nhẹ: “Cái gì làm mày đến nỗi phải khóc? Điên à? Lính tráng gì mà yếu quá vậy?”. Giọng Ngọc đã thoáng có vẻ lo lắng. Tôi ngẫng lên nhìn nó một lúc, như muốn để tin chắc rằng, tôi không đang sống trong một giấc mơ.
Nó đó, Ngọc đó. Với đôi mắt sâu và cặp lông mày dày nhưng nhạt màu, mái tóc quăn quăn kia. Hai vai thì lòi xương đòn gánh và những ngón tay dài quá khổ đang để trên vai tôi kia. Phải, đó là Ngọc, bằng xương thịt, Ngọc đang còn sống trên cõi đời. “Đêm qua đồn Lương Mai bị xơi gọn rồi. Tao tưởng mày…”. Ngọc cười to lên, cúi xuống ôm lấy tôi siết lại một cái thật mạnh tưởng chừng tôi bị gẫy xương. Nó buông tôi ra mà cơn cười vẫn chưa dứt, hai tay không ngớt vỗ xuống bắp đùi trần chan chát, đầu nghiêng ngã, gục gật ra chiều đắc ý. “Cái số tao cao lắm”, Ngọc dằn cười, nói, rồi lại cười lên ha hả. “Dại gì đi trình diện sớm chứ. Ở lại chơi cái đã. Đi đánh nhau chớ phải đi ăn cỗ đâu mà đi sớm. Mày thấy tao hên không? Phải đi trình diện đúng ngày thì chừ tiêu tùng rồi còn gì! “Đột nhiên nụ cười tắt trên môi nó, vẻ mặt Ngọc trầm ngâm hẳn lại.
Tôi có cảm tưởng như nó đang chìm vào giây phút mặc niệm một-thằng-Ngọc-nào-đó-là hình bóng của nó- vừa từ biệt cõi đời một cách tức tưởi thay cho nó. “Không còn gì cả Ngọc ạ”. Tôi nói. Bọn họ hai tiểu đoàn, pháo kích và tấn công chớp nhoáng. Pháo binh mình phải yểm trợ trên mục tiêu. Hôm nay là ngày kỷ niệm lớn, mày nhớ chứ?”. Ngọc gục gật đầu tỏ ý đã hiểu. “Mìn nổ trên suốt quãng đường tao về đây”. Ngọc quàng vai tôi đứng lên, nhìn vào mặt tôi cười. Bỗng nhiên tôi thấy nụ cười nó không gây cho tôi chút hứng thú nào. Tôi cau mày nhìn lại và nụ cười nó vội tắt.
… Hôm hai đứa đến bốc thăm chọn đơn vị ở Tiểu khu - theo lời Thiếu tá Tham mưu trưởng thì trong hai mươi chín người về trình diện đã có tới hai mươi sáu người, cha mẹ hoặc thân nhân có quen biết với ông, tới “nhờ Thiếu tá trông nom hộ”, nên để được công bằng, ông phải tổ chức cuộc bốc thăm. Nhưng ông lưu ý các tân sĩ quan, sẽ không có một người nào ở lại hậu cứ – dù là Chi khu đi nữa – tất cả đều phải đi làm Trung đội trưởng chiến đấu “cho quen đạn”. Ít nhất là nửa năm. Khi Ngọc bốc cái thăm có viết địa danh Lương Mai thì Thiếu tá Tham mưu phó nói ngay: “Anh đừng ngại, Đại đội đóng ở đó tối đa là ba tháng thôi”. Ông quay lại hỏi viên phụ tá: “Đại đội mấy hè?”. “Dạ 213”. “À, Đại đội này đã đóng ở Lương Mai một tháng rồi, ông nói. Hai tháng nữa tôi sẽ cho đổi về gần!”.
Chúng tôi ngơ ngác không hiểu gì. Lương Mai ở đâu, như thế nào, mà theo lời ông có vẻ “dễ sợ” quá vậy? Trong lúc Ngọc bối rối nhìn quanh thì Thượng sĩ Tân – hạ sĩ quan hướng dẫn chúng tôi – vội nắm khuỷu tay nó dìu ra một nơi. Chúng tôi vẫn lần lượt lên rút những cái thăm định mệnh, đựng trong chiếc mũ sắt để cao lên quá đầu. Kẻ Phú Thứ, người Phú Vang. Có người về Quảng Điền, Phong Điền, Vinh Lộc. Phần tôi bốc thăm nhằm Phú Lộc, một Quận lỵ nằm ven quốc lộ 1, cách Huế hơn bốn mươi cây số về hướng Nam.
Theo lời Thượng sĩ Tân, thì Lương Mai là một vùng tử địa. Ông nói với Ngọc bằng vẻ mặt nghiêm trọng:
- Tôi nói không phải để làm Chuẩn úy mất tinh thần đâu. Chỗ đó có tiếng nguy hiểm xưa nay, VC như rươi. Mới năm ngoái đây, đồn đã bị hốt sạch một lần rồi. Ngừng lại để chờ người nghe kịp hiểu rõ những lời mà ông nghĩ là rất đáng lưu tâm, nhất là đối với một sĩ quan mới ra lò như Ngọc, rồi ông thản nhiên nói tiếp: “Nói về cái cực khổ thì… Ông lắc đầu, trề làn môi dưới ra rồi thả lững lờ mấy tiếng “không chê được”. Ông cam đoan, đó là một cái đồn cô độc… nhất thế giới. Một tuần mới có chuyến bay tiếp tế một lần, gặp khi trời mù thì … hai tuần, có khi cả tháng, chỉ có cơm sấy đổ nước mà thôi và cá hộp… trường kỳ. Ông ngừng nói, rít những hơi thuốc dài. Ông định nói thêm gì nữa, nhưng nhìn nét mặt lo âu của Ngọc, ông hơi lưỡng lự. Ông cố tìm những chi tiết hạn chế bớt sự bi thảm sợ làm Ngọc nản lòng. Với hai con mắt nhìn ông không chớp, hai tròng mắt lồi của Ngọc đứng yên, dán vào đôi môi khô thâm đang ngậm chặt điếu thuốc gần tàn.
- Nói xin lỗi Chuẩn úy, lắm khi … đi đồng cũng phải bò từ trong đồn ra cầu, chứ hễ đi sổng lưng thì… tắc cụp! Thế là xong. Bọn họ bắn sẻ tài tình lắm. Mà lại núp trong bụi bờ, làm sao mình thấy được.
Nhưng rồi ông lại trấn an Ngọc:
- Mấy tháng nay nghe nói có một Tiểu đoàn pháo binh Mỹ và Đại Hàn đóng trên đó, như vậy có lẽ cũng đỡ. Ông vỗ vai Ngọc khuyên nhủ như một người anh từng trải nói với đứa em sắp sửa dấn thân vào chốn hiểm nghèo:
- Nói là nói vậy, chớ con người sống chết có số cả, lo lắng làm gì cho thêm mệt. Đời nhà binh không đo lường tính toán được. Có khi thấy tưởng xui mà lại hóa ra hên và ngược lại. Thôi cứ tới đâu thì hay tới đó.
Nói xong ông lảng đi, bỏ Ngọc đứng lại một mình.
Tôi bỗng chua xót nghĩ thầm: “Chẳng có số mệnh con khỉ khô gì ráo. Nếu không gây ra chiến tranh, nếu không đem con người ra trong cái “trò-chơi-xử-tử-lẫn nhau” ấy, thì làm sao họ có thể chết hàng đàn hàng lũ như vậy được?
Số mạng? Tôi ghét cay ghét đắng và thương hại những kẻ tự lừa gạt mình và lừa gạt cả thiên hạ bằng hai tiếng vô nghĩa đó. Đó là một thứ ngụy tín của bọn ý chí suy nhược, bất lực và ngu xuẩn. Hoặc của bọn xảo quyệt, có ác tâm, dùng để lừa đảo.
Bốc thăm xong, chúng tôi tụm năm, tụm ba lại bàn tán. Có những người đùa nghịch đòi đổi bù tiền để lấy chỗ có tiếng hiểm nghèo mà người bạn không may đã vớ phải.
Tôi quàng vai Ngọc xuống lầu. Thấy nét mặt rầu rầu của bạn, tôi không muốn làm cho Ngọc thêm lo với câu chuyện của một người lính mà tôi vừa nghe được. Theo lời anh ta thì những người ra đồn Lương Mai ít ai có dịp về phép. Lần về nghỉ phép của họ là dịp họ nhận một giấy phép về chơi bên kia thế giới – những người lính gọi đùa là “thuyên chuyển về vùng V – và mình mặc một chiếc “sơ mi gỗ tạp”.
Lúc chúng tôi xuống nửa bậc thang, có người chạy theo gọi Ngọc, anh ta nhảy từng hai bậc thang một:
- Nghe mày cũng ra Lương Mai hả? Hắn vội đưa cái thăm cho Ngọc xem. Tôi thấy rõ hai chữ “Lương Mai”. Đi cho có đôi, đỡ buồn. Hắn ta nói. Mầy định bao giờ trình diện? Đi trễ trễ đợi tao với nghe.
Giọng buồn mà quả quyết, Ngọc nói sau khi đã chửi thề:
- Cho chết! Tao cóc cần! Ở nhà tới cuối tháng luôn, chơi cho đã rồi sẽ hay.
Hôm đó mới là mồng 9 tháng 5. Trọng Sự vụ lệnh đề ngày 10 tháng 5 phải trình diện đơn vị.
*
Xe dừng lại trước Tiểu khu, tôi vội phóng xuống đón chuyến buýt về chợ Đông Ba. Nắng hạ tuần tháng 5 ngột ngạt, đi bộ về đến nhà tôi hoa mắt.
Ông cụ bảo tôi:
- Sao con lại mạo hiểm vậy? Không nhớ hôm nay là sinh nhật Cụ Hồ à? Để qua ngày khác đi có hơn không?
Bà cụ tôi nói:
- Con nó mới về còn mệt, ông để nó nghỉ, hỏi dông dài chi vậy. Rồi bà dịu dàng bảo tôi:
- Con đi rửa mặt, tắm rửa cho khỏe.
Bà giục đứa em gái út pha cho tôi ly chanh đá. Nhưng tôi không làm theo lời bà cụ mà chỉ cởi bộ đồ trận, nằm sãi tay trên mặt đi-văng, nhắm mắt lại:
Một lúc, hốt nhiên tôi mở choàng mắt, hỏi ông cụ một cách đột ngột:
- Ngọc đi trình diện đơn vị ngày nào vậy, ba?
- Thì nó cũng đi hôm con về Phú Lộc đó, nhưng không có máy bay nên buổi trưa về lại. Mãi mấy hôm sau mới đi được. Hình như nó mới đi hôm kia.
Tôi ngồi bật dậy, mở to mắt nhìn ông và bắt gặp ông cũng đang hướng về tôi, vẻ nghi ngờ, dò hỏi:
- Đồn Ngọc bị đánh mất đêm hôm rồi. Tôi nói, như hoàn toàn do bất ngờ, lưỡi tôi run lên vậy, rồi ngã mình không gượng, nằm xuống lại. Mắt nhìn lên trần nhà. Dường như cho rằng mình đã nghe lầm, ông cụ lập lại những lời tôi vừa nói thành câu hỏi:
- Đồn Ngọc bị đánh? Mất đêm hôm rồi? Nhưng nó mới đi hôm kia đây mà. Con nghe tin đó ở đâu vậy?
- Ở ban truyền tin Đại đội con. Đến hôm nào mà họ đánh chẳng được? Tôi đáp xẵng. Bỗng dưng tôi tức giận vô cớ và cảm thấy mình lố bịch. Tôi dịu giọng nói với ông:
- Ba làm ơn qua báo cho bác Huỳnh hay để bác sang Tiểu khu hỏi lại cho đích xác. Theo chỗ con biết thì không có mấy người chạy thoát.
Để mình trần, ông cụ tôi chạy băng ngang đường sang nhà bác Huỳnh - đối diện với nhà tôi.
Còn lại một mình, tôi nằm yên và nhớ lại cái cảm giác bàng hoàng thảng thốt khi tôi vừa về đến cổng nhà, nhìn qua khung cửa bếp nhà Ngọc trống trơn. Ngọc đâu có đứng đó, tôi đâu có được ôm Ngọc khóc sung sướng như tôi đã tưởng tượng.
Cả khu phố công chức im lìm trong buổi trưa nắng cháy. Buổi trưa như một khối thủy ngân rực rỡ chĩu nặng, đè xuống lòng người. Một sự im lìm trông có vẻ như vô hại của một khối thuốc nổ. Cái yên lặng trong khu rừng đã có sẵn ổ phục kích.
Khi tôi sang nhà Ngọc, ông cụ tôi hãy còn ở đó. Bác Huỳnh ngồi xếp bằng tròn trước mâm cơm có đĩa cà muối, bát canh cải xanh và đĩa cá đối kho. Ở vành mâm trước mặt bác, chén cơm đầu vừa bới ra, chưa động đũa, đang bốc hơi.
Bác mở to đôi mắt ốc nhồi nhìn tôi nói, tưởng như bác nghe tôi bằng hai con mắt muốn lồi ra đó, trên gương mặt thất đảm xám xanh. Đôi đũa trong tay bác run lên, cái trán hói nhăn lại những nếp sâu, đã rịn mồ hôi. Miệng bác há hốc để lộ mấy chiếc răng vàng đóng đen nhựa thuốc lá. Một lúc lâu bác mới hỏi tôi, bằng một giọng mất hẳn âm điệu thường ngày mà nếu tôi không trông thấy bác chắc hẳn tôi không còn nhận ra:
- Thiệt… thiệt hả con? Đồn thằng Ngọc …. Mất đêm hôm rồi ồ… ồi à?
- Dạ… con cũng nghe tin điện tại Đại đội con như vậy thôi. Ăn cơm xong bác qua Tiểu khu hỏi lại cho chắc.
Nhưng bác đã vội đứng lên thay áo quần đi ngay. Chén cơm còn nguyên đang nguội dần. Bác đã quên bữa cơm.
*
Cả khu xóm công chức của tôi đã hay tin, nhưng người ta còn chờ ông cụ Ngọc trở về để biết chắc chắn. Mỗi người như có gài sẵn trong tim một quả mìn nổ chậm. Thời gian trôi qua và những trái tim căng, sắp vơ.
Nắng hừng hực như có đám cháy ngay trên đầu, không có lấy một làn gió nhẹ. Lá cây rủ xuống trong sự chịu đựng kiệt lực. Suốt con đường vắng tanh. Nắng. Chỉ có nắng đang ngự trị, thả ra muôn vàn con đom đóm sáng lóa trên mặt nhựa đường, trên các mái ngói.
Trong nhà tôi, nét mặt mọi người trở nên xa vắng một cách kỳ cục. Mỗi người chọn cho mình một chỗ và cách ngồi, bộc lộ tâm trạng họ, như những người tham thiền, họ thấu hiểu tư tưởng của nhau, không cần phải thổ lộ bằng lời nói: họ đang chờ đợi tin một tai họa mà họ còn nuôi chút hy vọng được cứu vãn bằng một phép màu vào giây phút cuối cùng. Một thứ ảo ảnh của người khát nước trong sa mạc, khi họ chưa ngã xuống, niềm hy vọng chỉ bám víu vào sự phò hộ của một quyền lực vô hình.
Đột ngột, phá tan bầu không khí yên lặng, từ đầu đường, có tiếng máy xe hơi nhà binh vang tới. Rồi một chiếc xe "đốt" xuất hiện, chạy chầm chậm vào con đường. Cả xóm như bị dựng dậy, mọi người đổ xô ra đứng ở hàng hiên nhìn trân trối chiếc xe vừa dừng lại trước nhà Ngọc. Hạ sĩ tài xế từ trên xe bước xuống. Cả nhà tôi cùng chạy sang. Chú Kham ở liền vách nhà Ngọc, bước choàng qua hàng rào dâm bụt, không kịp vào bằng cửa chính. Hai bên hàng xóm kéo tới. Chúng tôi đứng vây lấy anh. Anh hạ sĩ đưa mắt nhìn khắp một lượt để đáp lại những tia nhìn của chúng tôi đang đổ dồn về anh, với nét mặt buồn, nhưng giọng điềm tĩnh, anh nói:
- Tôi muốn gặp thân nhân của Chuẩn úy Ngọc. Bác Diên trai vội gọi với vào nhà:
- Bác Huỳnh gái đâu? Người ta kiếm… À, kia rồi. Có anh đây muốn gặp bác để … Bác ngừng bặt, chưa biết nói gì thêm, nét mặt hoàn toàn bối rối.
Anh Hạ sĩ rẽ đám người, tới trước mặt bác Huỳnh gái mà gương mặt đã tái nhợt như một hình nộm. Thân hình bé choắt của bác như bị dìm mất trong trạng thái vô giác. Bác đứng vòng hai tay trước bụng, đầu ngoẻo sang bên gần thẳng góc với chiếc vai so, vẻ thảm thương, bác nhìn anh lính trân trối. Bỗng mọi người nghe tiếng khóc cố kìm hãm của Hương - cô em gái kế Ngọc - nức nở. Anh Hạ sĩ quay nhìn Hương đứng giấu mặt khóc sau cánh cửa, đoạn nhìn thẳng vào mặt bác Huỳnh gái:
- Thưa vâng. Tôi xin báo tin buồn cho bà được biết, Chuẩn úy Ngọc đã tử trận đêm hôm qua, xác sẽ được đem về để tại nhà “Vĩnh biệt” bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Giọng nói của người lính nghe rõ ràng, âm độ vừa phải, không vấp váp, như đọc một câu anh đã học thuộc lòng vì từng lập lại nhiều lần. Khi nào tẩn liệm, anh nói tiếp, chúng tôi xin tin bà được biết. Anh cúi chào bác Huỳnh gái, hơi nghiêng người về phía đám đông, rồi lặng lẽ rẽ lối bước ra xe.
Hương khóc to lên gọi tên Ngọc thất thanh: “Anh Ngọc ơi! Anh Ngọc ơi!… Nàng ôm lấy mặt và những giọt nước mắt chảy ràn rụa qua kẽ tay nàng.
Mọi người có mặt cũng khóc theo nàng. Một vài người cố dùng nghị lực để chống lại cơn cảm xúc, chỉ chợt tái mặt đi, nhưng nước mắt réo gọi được nước mắt và cuối cùng người ta cũng thấy họ kín đáo quay mặt đi để che giấu nước mắt trong khăn tay.
Bác Diên gái vừa khóc vừa đỡ bác Huỳnh đang ngã ra bất tỉnh:
- Bác Huỳnh! Bác Huỳnh ơ.. ơ.. ơi! Khổ quá! Bác Huỳnh! Bác Huỳnh ơi! Bác tỉnh lại. Bác Diên gái réo ba hồn chín vía bác Huỳnh gái. Người ta phụ nhau đỡ bác Huỳnh vào nhà.
Chú Kham mắt đỏ hoe, chạy đi lấy ống dầu ngửi. Những người khác lăng xăng đem tới tí thuốc cấp cứu nào ở nhà họ tìm thấy. Bà Phán bên nhà cắt một lát sâm, cạy miệng cho bác Huỳnh gái ngậm. Bác đang nằm thiêm thiếp trên giường với chiếc khăn mặt thấm nước lạnh đắp ngang trán. Da mặt bác trắng như một tờ giấy. Mãi cho đến khi bác Huỳnh trai trở về làm cho chút niềm hy vọng mơ hồ của mọi người tan ra như mây khói – và người ta lại xúm nhau khóc một lần nữa – bác Huỳnh gái vẫn chưa tỉnh.
Bác Diên gái vừa khóc mếu máo vừa thốt lên những tiếng gì nghe không rõ, như là “trời ơi” và “tội nghiệp”. Hầu như không ai còn lời gì khác hơn để nói. Bác Hồng, bà Phán cũng chỉ thốt lên những tiếng ấy.
Còn bác Huỳnh trai khóc mà không có nước mắt. Chỉ thấy cái miệng móm của bác méo xệch và đôi mắt đỏ hoe như bác đang làm trò. Bác khóc một lúc rồi ngừng hẳn lại kể chuyện. Kể xong bác lại tiếp tục khóc theo cái lối đặc biệt của bác. Những lúc bác nói, tôi tưởng bác đang kể đến cái chết của một người xa lạ nào không phải chính con trai bác.
- Xong rồi, các bác ơi! Ba ông Chuẩn úy mới ra trường, tiêu hết rồi… Còn gì!
Bác kể rằng…, và… Đó là những điều bác vừa nghe về trận đánh người ta kể lại bên Tiểu khu.
Xác Ngọc chưa đem về được. Bác hỏi ý kiến bác Diên về cách tổ chức đám tang và phải đặt để quan tài Ngọc chỗ nào trong căn nhà chật chội của bác.
Chúng tôi xúm nhau đào lỗ dựng cột, che tạm một mái hiên bằng hai tấm bông-sô ghép lại. Chú Kham theo bác Huỳnh trai xuống nhà xác Mang Cá Nhỏ chờ nhận xác Ngọc. Bác Huỳnh vừa khóc vừa nói:
- Các bác coi. Tội nghiệp thằng nhỏ tôi, nó vừa mới ra trường sĩ quan. Vừa đi hôm kia đây chớ lâu la gì cho cam. Người ta hứa chín mười hôm nữa sẽ cho nó về làm ở văn phòng. Bác khóc rống lên thê thảm. Cái số con sao mà đen quá vậy Ngọc ơi! Con ơi! Gập đôi người lại, hai tay bác ôm lấy bụng, như ruột bác vừa mới đứt ra. Phải nghe lời người ta thì có đâu đến nỗi này. Bác kể lể. Họ bảo trong thời gian chờ đợi, hãy khai bệnh nằm nhà thương đi, chờ cho đến khi nào được đổi về làm ở văn phòng rồi xuất viện đi làm. Tôi không nghe, cũng nổi máu anh hùng rơm, xúi nó đi trình diện, “con trai mà, thử lửa một chút cho biết”, tôi nói với nó như vậy. Trời ơi! Con ơi! Nào ngờ lửa nóng quá, con chịu không thấu, Ngọc ơi! Mà hôm đi thấy nó cũng vui vẻ. Cả thằng bạn nó cũng vậy. Mặt hai đứa tươi tỉnh, đâu có vẻ gì là sắp chết bất đắc đâu. Chỉ có hôm nó ủi bộ đồ trận bị cháy cái lon, tôi đã sinh nghi, nhưng lại cho là dị đoan, chớ có ngờ đâu là điềm dữ…
Rồi bác Huỳnh lại khóc ngất.
- Trời ơi! Chú Kham hốt hoảng kêu lên. Làm sao, sao vậy? Bác Huỳnh! Bác Huỳnh! Bác Huỳnh mặt tái dần, mắt trợn ngược rồi ngã ra bất tỉnh. Người ta vội vực bác đem vào nhà, trong phòng riêng của bác.
Bác Huỳnh gái vừa tỉnh lại – Những người đàn bà hàng xóm đã ra về, chỉ còn lại bà Phán, vợ chồng Lan – Chị cả của Ngọc – đang săn sóc cho bác. Bác nằm trên giường, lăn qua trở lại, đập chân tay xuống mặt giường réo tên Ngọc thảm thiết. Bác đấm vào ngực thình thịch. Bà Phán giữ tay bác lại, tìm lời an tủi:
- Thôi bác Huỳnh, dẫu sao cháu nó cũng đã mất rồi. Bác cũng không nên buồn bã âu sầu quá mà có hại đến sức khỏe. Bác vừa mới qua cơn đau, người đang còn yếu. Bác nên nghĩ đến Hương, thằng Bé và Huệ.
Bác Huỳnh gái nhìn bà Phán, đôi mắt dại của bác dần dần lấy lại được thần sắc. Bác nhận ra Lan đang ôm lấy vai bác khóc thút thít. Bác nằm thẳng cẳng, hai mắt nhìn không chớp lên trần nhà như nhìn một vật, một người nào nhưng chỉ một mình bác thấy. Và rồi, hai giòng nước mắt tuôn chảy ra hai bên khóe, lăn tràn xuống kẽ tai, thấm ướt cả chiếc gối. Giòng nước mắt tràn từ hai khóe mắt của bác Huỳnh gái tưởng chừng như hai mạch nước ngầm chảy ra từ một kẽ đất nứt, không bao giờ dứt. Một lúc mặt gối ướt đầm đìa như đổ nước dù Lan không ngớt lấy khăn tay thấm đi cho bác.
Từ buồng bên, chú Kham đi ra cho hay bác Huỳnh trai cũng đã tỉnh lại, đang sửa soạn đi lấy xác Ngọc, nghe đâu đã được chở về.
*
Bác Diên đứng ở cổng ra vào nhà bác Huỳnh nói chuyện với chú Kham, đợi bác Huỳnh cùng xuống Mang Cá nhỏ.
- Cũng còn chút hy vọng chớ chú. Nghe nói trong đồn có bốn sĩ quan mà chỉ chết ba. Biết đâu Ngọc nó đang còn chạy lạc ở đâu đó chưa tìm thấy. Có những trường hợp lạ lùng lắm. Cứ đinh ninh là chết rồi, cả nhà xúm lại khóc lóc, lập bàn thờ khói hương nghi ngút sì sụp vái lạy. Mấy hôm sau lù lù trở về như ma hiện hồn.
Chú Kham ái ngại nhìn bác Diên, chú trả lời bác, giọng nhỏ nhẹ và cố làm cho trở nên nhẹ nhàng, tỏ cho bác Diên là chú không muốn làm cho chút hy vọng vừa chớm nở của bác tan ra như bọt sóng va vào đá cuội:
- Vâng, tôi hiểu ý bác. Bác muốn nói đến vị sĩ quan thứ tư chứ gì? Đó là ông Đại đội phó đi phép, đêm tấn công ông không còn ở trong đồn nữa. Bác Huỳnh vừa gặp ông ta bên Tiểu khu. Vả, người ta đã tìm thấy xác Ngọc có đeo tấm thẻ đính bài khắc rõ tên họ. Sở dĩ xác chưa đem về được vì còn phải đợi máy bay.
Chú Kham và bác Huỳnh trai vừa ra khỏi cổng thì một chiếc xe Jeep đổ lại. Một ông Trung úy Hắc Báo đến cho hay, chính ông đã tìm thấy xác Ngọc trước tiên bị vùi dưới hố cát, và căn cứ vào thẻ bài kim khí, ông đã viết lại rõ ràng tên họ của Ngọc trên một tờ giấy đính vào xác cho thân nhân dễ nhận. Nói xong ông lái xe đi ngay, bỏ lại bác Diên đứng sững như bị trời trồng. Bóng bác in xuống mặt nền xi măng, đen như một vết dầu hắc loang.
*
Bác Diên gái rơm rớm nước mắt nói với tôi:
- Tội nghiệp Ngọc quá con à. Bác thương nó như con vậy. Mới mấy ngày trước đây, nó qua nhà bác lục cơm nguội ăn với Đức – con trai bác Diên, đi trước Ngọc hai khóa – khi hai đứa đi chơi khuya về đói bụng. Có chuyện gì Ngọc cũng kể lại cho bác nghe và hỏi ý kiến bác. Vậy mà bữa nay Ngọc không còn trên cõi đời nữa. Thật như nằm mơ, bác không thể nào tin được là Ngọc đã chết. Vậy mà đó là sự thật. Bác ngừng lại, lật vạt áo lên lau mắt.
Nghĩ đến bạn, mắt tôi cũng bắt đầu thấy cay cay. Nhưng tôi cố kìm hãm – mọi người đã khóc, đó là công việc của đàn bà và của những ông già tinh thần suy nhược. Tôi không muốn tỏ ra – ít ra là trước mặt một người thứ hai – là tôi cũng yếu đuối như vậy. Tôi an ủi bác Diên, và thật khó chịu, khi chính tôi cũng lại nói đến số mệnh – trong hoàn cảnh của bọn thanh niên chúng tôi đối với cuộc chiến tranh nầy, tôi không sao hiểu nổi hai chữ đáng thương đó – để làm cho bác Diên dịu bớt cơn phiền não - đó là cái số không may của riêng Ngọc hay là cái số khốn nạn chung cho cả thế hệ chúng tôi trong cuộc chiến bỉ ổi hiện nay?!
Bác Diên gái nói tiếp:
- Vợ chồng bác Huỳnh lâu nay sống cực khổ, thắt lưng buộc bụng nuôi con ăn học, vừa thành tài thì bị bắt đi lính để bây giờ ra nông nỗi vậy. Ngọc nói với bác là khi nào lãnh lương Ngọc sẽ đưa hết cho cha mẹ… Ngọc là nguồn hy vọng độc nhất mới chớm nở của gia đình bác Huỳnh, đã vội tàn. Thằng Bé thì ham chơi bời lêu lõng, chẳng kể gì đến nhà cửa. Con Hương, thằng Huệ còn đi học. Lan có chồng có con yên phần nó. Bác Huỳnh trai ngày hai buổi còng lưng trên chiếc xe đạp, bất kể nắng mưa với số lương ít ỏi, có đủ đâu vào đâu. Còn bác gái thì quanh năm suốt tháng chúi đầu vào bếp có biết đến một trò giải trí nào. Ngọc chết là nguồn hy vọng của gia đình bác cũng tắt hẳn. Hương rồi sẽ đi lấy chồng. Đợi cho đến lúc thằng Bé, thằng Huệ lớn lên làm sao đợi nổi? Già sắp xuống lỗ đến nơi rồi.
Bác Diên nói với tôi rằng, bác có khuyên bác Huỳnh gái hãy để thì giờ mà cầu Trời khấn Phật cho Ngọc nó được tai qua nạn khỏi. Chính bác đêm nào cũng tụng kinh, xin Phật Trời phù hộ cho Đức, con trai bác.
- Nói xin lỗi con, bác tiếp lời. Chớ ngay như đến chồng bác bây giờ bác cũng không cần đâu con. Chỉ có những đứa con của bác thôi. Chúng nó mà có làm sao thì chắc không sống nổi con à… Tội nghiệp, trước hôm đi Ngọc có hứa với đám con bác, bao giờ lãnh lương ráp-pen Chuẩn úy nó sẽ đãi đám nhỏ đi xi-nê. Mấy đứa nhỏ mừng rỡ vây lấy Ngọc, “hoan hô anh Ngọc một phát”.
Giọng bác Diên gái mỗi lúc trở nên bình tĩnh hơn, giống một bầu trời trong sáng lên dần khi gió thổi đẩy đi xa những đám mây u ám. Bác kể, buổi sáng cách đây ba hôm, bác thấy một chiếc xe “đốt” dừng lại trước nhà Ngọc. Trên xe đã có người bạn của Ngọc. Ngọc xách chiếc ba lô từ trong nhà đi ra cười với bạn:
- Ê, sao bữa trước nói ở nhà chơi cho đã mà bữa nay lại đi sớm vậy bồ?
- Thì nói thế thôi. Đi phức cho rồi, ở nhà chẳng biết làm gì. Người bạn cũng tươi cười trả lời.
Ngọc quăng xắc lên xe hỏi:
- Lần nầy chắc có máy bay không đó? Ngọc vừa hỏi vừa leo lên xe. Không khéo đợi đến trưa rồi lại trở về như bữa trước.
Má Ngọc chạy theo ra đứng cạnh hông xe nhìn lên. Bác hiền lành quá, chẳng biết nói với con những gì trước khi từ biệt. Bác cứ đứng vịn tay vào bờ thanh sắt mà nhìn Ngọc mãi như muốn thu lấy cho rõ ràng hình ảnh đứa con trai yêu vào tâm khảm, đứa con trai bác rứt ruột đẻ ra, nhọc công nuôi nấng cho lớn khôn, bây giờ sắp xa bác, đi vào chốn hiểm nghèo.
Ngọc chống tay lên càng xe, cúi xuống nói với mẹ:
- Thôi má vào nhà đi, đứng đó làm gì cho thêm nắng. Con đi ít lâu có phép lại về thăm nhà. Đâu có xa xôi gì má lo. Lên đến con viết thư về liền cho má yên lòng.
Bác Huỳnh gái nhìn con van lơn:
- Mặc kệ má con à, nắng chút có sao. Con cho má đứng nhìn con một lát. Con đi rồi, có muốn má cũng không nhìn con được nữa.
- Nhưng nắng quá mà, má. Ngọc nôn nao nói. Con đi lâu nhất là hai tháng con lại về, má à. Ngọc cười tươi. Lúc đó tha hồ má nhìn con chớ gì.
Má Ngọc gượng cười, lập lại lời nói:
- Kệ má, con. Cho má đứng đây nhìn con một lát. Xe chưa chạy mà.
Bác Huỳnh trai đã đi làm, lũ em Ngọc đi học. Buổi sáng, khi dắt chiếc xe đạp ra đường, ông bắt tay Ngọc cái bắt tay đầu tiên ông dành cho đứa con trai:
- Lát nữa… Ba không có nhà… Thôi con đi mạnh giỏi.
Hai đứa em kế Ngọc, Hương và Huệ, tay mang cặp, cũng nói:
- Anh Ngọc đi mạnh giỏi nghe.
Hương, cô em gái nói mà không nhìn anh, quay mặt dấu nước mắt sau vành nón lá. Còn Huệ, cậu em trai thì lí lắc:
- Anh đánh giặc cho chì nghe. Lấy về cho em cây súng, nhớ nghe. Em bắn chim.
Bác Diên gái cũng ra đứng ở cửa, trông thấy, Ngọc đứng thẳng người đưa tay lên chào theo lối nhà binh, rồi cười nói:
- Lần này chắc con đi thật rồi, còn lâu con mới về, vì đường giao thông khó khăn. Con xin chúc hai bác ở lại mạnh giỏi.
Người tài xế đã cho nổ máy xe. Ngọc quay sang mẹ, cầm lấy hai tay bà rồi bất ngờ, hôn lên làn má nhăn nheo của mẹ:
- Má, con chúc má ở nhà bình an. Nói con gởi lời chào ba con và các em. Thôi, con đi nghe. Xe sắp chạy rồi, má vào đi kẻo nắng.
Mặc cho Ngọc có nói gì, người mẹ cũng vẫn đứng đó, hai mẹ con nhìn nhau. Ngọc gắng gượng cười tươi cho mẹ yên lòng.
Chiếc xe lăn bánh. Hai tay người mẹ níu lấy thành xe rớt xuống, trơ trọi. Nhìn theo con, bấy giờ hai giòng nước mắt mới tuôn tràn xuống má.
Trẻ con trong xóm chạy theo gọi “anh Ngọc, anh Ngọc”. Ngọc cười, đưa tay vẫy. Có đứa nghịch ném lên xe một hòn sỏi. Ngọc cung tay lên làm bộ điệu bắn súng, miệng thét “Pằng! Pằng!” Bọn trẻ con vẫn chạy đuổi theo xe. Ngọc vẫn quay lại bắn bằng miệng cho đến lúc chiếc xe tăng tốc độ bỏ lại lớp bụi mờ và khuất mắt ở khúc quanh đầu đường.
- Bây giờ, bác Diên tiếp. Bác còn nghe rõ ràng tiếng Ngọc cười nói, tiếng giày Ngọc nện cồm cộp trên mặt đất lúc Ngọc chạy ra xe. Bác lắc đầu, thật khó tin quá con ạ, bác khó tin là Ngọc đã thực chết rồi.
Bác thở dài, chào tôi ra về. Tôi đưa bác ra cổng, không biết phải nói lời an ủi nào với bác cho phải. Bác còn nán lại thêm chút nữa, nói:
- Ngọc thật vô tội con ạ. Ngọc chết vô tội. Công lao cha mẹ nuôi nấng hơn hai mươi năm trường cầm bằng đem đổ xuống sông. Mà có ích lợi gì cho ai đâu? Lợi cho ai thì chẳng thấy, chỉ thấy thiệt thân con cháu mình và làm đau buồn các bậc cha mẹ. Thôi, con vào ăn cơm đi, bác về. Mai con còn ở lại chớ? À, con nên nói với anh em trong xóm giúp đỡ bác Huỳnh đưa Ngọc đến nơi an nghỉ cuối cùng. Một lần trong một đời người, nghĩa tử nghĩa tận. Rồi thì người sống có công việc của người sống, còn ai có thì giờ mà nhớ đến Ngọc nữa, phải không con?
*
Buổi chiều thì tôi nghe xác Ngọc đã được liệm, đang còn quàn tại chùa Diệu Đế. Nghe đâu Ngọc chết nhằm ngày trùng nặng nên bác Huỳnh cử không dám đem về nhà.
Sau khi mở cuộc lạc quyên trong xóm lấy tiền mua lễ vật phúng điếu, chúng tôi – những thiếu niên trong xóm – đến chùa làm lễ.
Quan tài Ngọc được kê trên hai bục gỗ, để ngay trước sân chùa, bên trên phủ lá cờ dài rủ xuống che gần khuất hai bên hông. Trên nắp áo quan, cháy leo lét một hàng sáu cây nến trắng. Ở một đầu có đặt bàn thờ với tượng Phật Bà Quan Thế Âm. Bác Huỳnh đang bàn việc chôn cất với sư ông trụ trì. Bác cho chúng tôi biết, là bác đã liệm Ngọc bằng một bao bố trà Tàu. Bác nhờ chúng tôi làm một mái hiên che quan tài Ngọc, “kẻo mai nắng dọi tội nghiệp nó”.
Hôm sau, suốt buổi sáng tôi bận việc nên không đến chùa được. Nghe đâu sáng đó, Trung tá Tiểu khu trưởng và phái đoàn chính quyền có đến phúng điếu. Ông có đọc một bài điếu văn ngắn theo thông lệ với nội dung sáo, cho rằng Ngọc là một sĩ quan can đảm “đã sát cánh cùng đơn vị chiến đấu đến giây phút cuối cùng” và “đã hy sinh cho chính nghĩa, để lại bao tiếc thương cho dân tộc”… Ngọc được truy thăng cấp bậc Thiếu úy và gắn Anh dũng Bội tinh kèm nhành dương liễu. Buổi trưa, trước khi về đơn vị, tôi xuống chùa, gọi là để từ giã vong linh Ngọc lần cuối cùng. Chiếc hòm đã được sơn màu lam nhạt, trang trí hai bên hông hình bông sen trắng. Trên đầu quan tài, bức ảnh Ngọc chụp khi mới gắn Alpha được phóng to, lồng khung kính. Bên cạnh để cặp lon Thiếu úy, hoa mai đồng vàng chói nổi bật trên nền vải nhung đen. Tôi đứng xa nên không thấy tấm huy chương để chỗ nào.
Thằng cháu nhỏ đi theo tôi nói:
- Anh Ngọc được thăng cấp Thiếu úy.
Tôi hỏi nó:
- Cháu có thích làm Thiếu úy như anh Ngọc không?
Nó giãy nãy:
- Làm Thiếu tướng cháu cũng không thèm. Chết rồi thì còn biết gì nữa. Nghĩ ngợi một lúc, nó phát biểu thêm:
- Chết rồi mà cho làm Tổng thống cháu cũng không ưng. Làm dân thường mà sống sướng hơn.
Tôi nhìn đăm đăm vào bức ảnh của Ngọc. Tôi nhớ lại lời tôi đã nói với nó buổi sáng hai đứa đi nhận Sự vụ lệnh:
- Ngọc này, Thiếu tá nói còn hai tháng nữa Đại đội mày sẽ được đổi về chỗ tốt. Hai tháng kể ra không là gì, ngay như hai năm cũng vậy, đối với một đời người. Nhưng mày nhớ cho là giữa sự sống và sự chết khoảng cách không đầy một giây đồng hồ.
Ngọc đã làm thinh không trả lời. Mãi lâu sau nó mới nói một cách giận dữ:
- Ôi thôi! Kệ cha nó, hơi đâu mà lo lắng cho mệt xác. Nói xong nét mặt Ngọc trở nên buồn rũ rượi. Từ ngày đó đến nay mới hơn một tuần lễ.
Tôi muốn đến chào vĩnh biệt Ngọc, nhưng chân tôi vẫn không nhúc nhích. Tôi nhìn ảnh Ngọc đang mỉm cười với ánh mắt sáng rỡ kia mà tự nhủ: “Không Ngọc ạ. Tao không cần phải đến chào vong linh mày. Không cần thứ hình thức phiền toái tầm thường đó. Cái điều tao phải làm khó khăn hơn nhiều và không phải một mình tao có thể làm nổi. Nó cần đến tất cả những người còn lòng xót thương cho số phận khổ ải của đất nước nầy. Nó cần đến sự chung sức của cả dân tộc mình đó Ngọc… Mày chết yên phần mày, bỏ cái cõi sống đầy bất trắc này lại cho bè bạn. Công việc phải làm không phải là thăng cấp cho mày và ban thưởng bảy thứ huy chương – đó chỉ là hành vi phỉnh phờ – Không, công việc phải làm là từ nay cố ngăn ngừa những thằng- Ngọc-vô-tội khác, không cho vùi thân một cách lãng nhách, tội tình trong lò quay súc vật của bọn đồ tể quốc tế. Cố ngăn giòng nước mắt của các ông cha bà mẹ già nua khóc những đứa con còn măng trẻ.
Ngay trưa hôm đó tôi trở về đơn vị. Đám tang Ngọc mãi xế chiều mới đưa.
*
Trong cái chết của Ngọc có hai điều mà người nhà của Ngọc không muốn cho ai biết.
Thứ nhất, Ngọc chưa có vợ mà lại chết nhằm ngày trùng nặng. Ba má Ngọc sợ có chuyện rắc rối trong gia đạo do hồn oan của Ngọc không chịu đi đầu thai trở về quấy phá, như trường hợp các cô gái còn trinh chết uất ức.
Tôi biết điều này không thể xảy ra được, dẫu cho có thật chuyện hồn oan đi nữa, vì Ngọc đã không còn là một cậu trai tân. Chính tôi đã dắt Ngọc xuống đò sông Hương, xô nó vào lòng một ả và mọi sự đã xảy ra hoàn toàn như ý, dù rằng trước đó nó có phản đối lấy lệ và khi cô gái choàng tay ôm nó, nó run lên như cầy sấy. Đối với Ngọc, việc đó có thể chưa được rõ ràng và cũng chẳng lấy gì làm điều, nhưng bây giờ chắc nó cũng được yên tâm đi đầu thai kiếp khác và tự hào kể với những con ma ngây ngô rằng, nó đã từng biết đàn bà là gì rồi.
Còn điều thứ hai, thì chỉ riêng bác Huỳnh và chú Kham biết rõ mà thôi, khi hai người nhận xác Ngọc để tẩm liệm. Chi tiết hệ trọng nầy bác Huỳnh và chú Kham không tỏ cho ai biết nhất là đối với những người trong gia đình Ngọc. Nhưng chú Kham đã không cầm lòng được khỏi kể lại với tôi, trong lúc tôi đang sửa soạn trở về đơn vị.
- Cháu về trại đó hả? Chú hỏi tôi. Này, đi đứng cẩn thận nghe cháu, mấy ngày nay họ hoạt động ghê lắm. Cháu không nghe các trận đánh xảy ra khắp nơi, mìn đua nhau nổ trên quốc lộ đó sao? Rồi, sau một hồi lâu trầm ngâm, chú vội nói, như vừa chợt nhớ ra:
- À, cháu đi không kịp đưa đám Ngọc hả? Tội nghiệp Ngọc cháu ạ. Chú lại nín lặng một lúc rồi mới ngập ngừng nói tiếp:
- Ngọc bị chết thiêu, cháu à. Áo quần cháy hết. Chết trần truồng và không được toàn thây. Chú nói, nhưng cháu để bụng, đừng kể lại với ai nữa mà tủi cho vong linh nó. Giọng chú trở nên thì thầm, như tự nói với mình một điều gì quan trọng. Chú nhìn cũng chẳng ra nữa cháu à. Y như một khúc than hầm. Phải, một khúc than không hơn kém. "Tượng khỏa thân đàn ông" của một điêu khắc gia bi quan thuộc trường phái biểu tượng. Mất một phần đầu và cả cánh tay mặt, người lấy xác bảo tìm mãi không thấy. Làm sao tìm cho ra được, phải không, khi nó đã cháy rụi trong tro than ấy chứ? Nếu trên cổ tay Ngọc không còn lại tấm lắc thì chẳng biết đàng nào mà nhận ra nữa cháu ạ. Thê thảm quá! Trông tang thương cái cảnh cha liệm xác con ấy. Không làm sao mặc áo quần vào cho nó được. Thật là khó khăn quá. Chỉ có thể để yên như vậy rồi quấn vải trắng bao quanh thì mới giữ nguyên lành được. Cháu nghĩ, chín rục hết cả rồi, động tới là nó rã ra cả. Thôi thì đành thất lễ với cháu nó vậy và cầu cho vong linh nó thấu rõ lòng cha nó chua xót đến độ nào đã phải làm như vậy.
Tôi nói:
- Cháu vì bận chút việc chiều qua, nếu không cháu cũng theo chú đi nhận xác Ngọc.
- Thôi cháu ạ, chú nói cháu đừng trách, không đi mà lại hơn. Đi chỉ thêm đau lòng. Chuyện vui nên chia sẻ. Trong hoàn cảnh nầy, tốt hơn là nên giới hạn nó lại. Gieo rắc thêm nỗi khổ tâm cho người khác có ích gì. Chú và bác Huỳnh đã đủ rồi. Ảo não lắm cháu ạ. Lúc người ta mới dỡ tấm khăn che mặt lên chỉ cho bác Huỳnh cái khúc than đó nói là xác của Ngọc, ông khóc rống lên:
- Con ơi! Sao mà con chết thê thảm như vầy… Ai bắt con chết, ai xui con chết vậy con ơi… Con tôi vô tội. Con đã làm nên tội tình gì mà bắt con phải chết oan ức giữa tuổi thanh xuân…? Ngọc ơi! Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng nuôi, con chưa đền đáp mà… Ai bắt con chết, Ngọc ơi?!
Ông ôm lấy xác Ngọc khóc như một người điên loạn, chú phải hết lời khuyên can ông mới nguôi, chiếc áo trắng của ông lấm đầy bụi than.
Tôi đứng lặng yên nghe chú Kham nói. Chú ngưng kể nhìn tôi hỏi:
- Bao giờ cháu đi? Cháu đi ngay bây giờ chứ? Ừ, thôi cũng được. Ráng mà lo bảo toàn lấy tấm thân cháu nhé. Công lao cha mẹ dưỡng nuôi mấy mươi năm trường mới nên được như ngày nay. Chú bắt tay tôi:
- Cháu đi mạnh giỏi và may mắn. Chú còn giữ tay tôi, mắt đăm chiêu. Cháu ạ, như vậy là Ngọc chưa kịp lãnh lương Chuẩn úy nữa nhỉ?
- Thưa chú vâng. Tôi đáp. Ngọc vẫn còn lãnh lương Trung sĩ.
- Mới mấy hôm đời lính. Chú nói, vội buông tay tôi./.
|
Sunday, November 18, 2012
Kinh Dương Vương * Tượng Than
Saturday, November 17, 2012
Du Tử Lê * Tiếng chim tiền kiếp
Trời vẫn còn hứa hẹn một cơn giông sau hai ngày gió lớn. Nắng chỉ kịp vàng ấm trong một khoảng thời gian ngắn ngủi buổi trưa. Đường sá vẫn còn nguyên dấu vết của những trận cuồng phong đêm trước. Chiều ập tới thật nhanh với những đám mây đen làm tối xầm cảnh vật.
Trong tình cảnh đó, ngôi quán vốn tối ẩm, lại càng tối ẩm và lạnh lẽo hơn.
Lúc tôi mở cửa cho Niệm bước vào, lòng ngôi quán như một nhà quàn xác mà, quan tài là những chiếc bàn dài xếp ngay hàng thẳng lối, ở hai bên vách tường xám. Bên phải, qua khung gỗ lớn, người ta thấy lờ mờ những nhạc cụ đủ loại, cái nằm, cái đứng, đổ vịn vào nhau, như một đám người chết đã lâu năm, chỉ còn trơ lại những bộ xương sau một cuộc động đất từ nhiều năm trước, vẫn đợi được chôn cất.
Niệm nói:
“Ta ngồi đâu anh?”
Tôi bảo đâu cũng được, trong lúc tay chỉ chiếc bàn gần sát vách tường nhà bếp.
Tiếng nói bất ngờ của Niệm khua động bầu không khí tịch mịch và làm giật mình những lớp bụi thời gian vô hình phủ đầy ngôi quán.
Sự khua động làm xuất hiện từ hành lang nhà bếp, một cô bé mà tôi chỉ thấy duy nhất đôi mắt linh động, trên khuôn mặt khô héo. Sự hiện diện của cô cũng đột ngột rơi vào im lặng như lũ bàn ghế.
Niệm ngồi day mặt về hướng cửa ra vào. Chút ánh sáng của ngọn đèn trong parking rọi qua miếng kính lớn, soi đến Niệm, làm sáng lên vẻ rạng ngời xa vắng.Vầng trán Niệm vẫn là điều khiến tôi chú ý nhất trên khuôn mặt từ nhiều năm qua, đã không được thấy lại. Ngoại trừ những lá thư viết từ ngôi chùa trên núi cao ở ngoại ô Đài Bắc, với những nét đặc thù của phương đông xa khuất.
Đời sống của Niệm thời gian đó, là những buổi sáng sương xuống ướt một bờ giếng. Những bữa trưa xanh trong một lối trúc. Những chiều vàng trong một phòng trai được kết bằng những lóng tre già vân vàng óng, lên nước thời gian... khiến tôi không hình dung được Niệm. Tôi không thể hình dung người-ni-cô-của-tôi đi lại, sống, thở, ăn uống, suy nghĩ, nhớ nhung, buồn bã... trong một khung cảnh xa lạ và mơ hồ như thế.
Chỉ biết thư của Niệm đã như một giòng sông êm đềm đẩy trôi tôi về với một Việt Nam lãng mạn quá xa, tựa như cổ tích!
Chỉ biết thư của Niệm như những lời thì thầm vọng lại từ một gác chuông nào. Và khi những tiếng chuông đã tan hẳn trong không gian tưởng tượng. Điều cuối cùng, còn lại, vẫn là một xót xa, một đau đớn, một ghen tuông, giận hờn, nghi hoặc.
Những ngày gió ở California, những trưa mưa ở Seattle, những chiều tuyết ở Portland, Vancouver, ở Alberta, tôi đã viễn vông nghĩ tới ngày đóng vai một Thiền sư, từ miền núi cao bước xuống. Gậy trúc trong tay, áo đà phất phất. Chân trần dẫm nát mặt đất phương đông - - Đứng lại bên một bờ giếng, bắt gặp người-ni-cô-luân-lạc, đang cúi mặt soi bóng mình trong một mặt gương biếc xanh, với chiếc khăn nâu che đi mái tóc ngắn, hở chiếc cổ nõn cùng những sợi lông măng dẫn xuống một giải lưng thon, hứa hẹn một vòng ôm đắm đuối...
Những ngày gió lớn trên đỉnh đồi Newport Beach, những đêm mưa San Francisco, những chiều thảm thiết kéo lê từng phút trong một vuông sân rất nhỏ ở Costa Mesa, ở Huntington Beach, ở Anaheim, ở Garden Grove, ở Fullerton, ở Santa Ana... hay những sáng như gương trong một quán càphê ở San Jose bên cạnh bằng hữu, tôi đã viển vông nghĩ tối lúc người ni cô luân lạc ngẩng mặt, nhìn lên và, trong đôi mắt thơ ngây đã chín nẫu những mùa trái đau thương quá khứ; hình ảnh mẹ già, thấp thoáng.
Đâu đó, trong mắt lạc loài kia, những câu thơ nói về một tình bạn, nói về một ngọn núi, nói về một nghĩa trang, hay hốt hoảng chìm sâu một tình yêu ủ quá ngày và, chất men trở thành chua, loét... Tôi viển vông nghĩ tới hình ảnh một thiền sư ném gậy trúc, trút đạo y, thả buông tất cả: Tuổi tên, hình tích, sự sống, để chỉ còn biết đôi tay mở rộng và người ni cô ngã vào - - Như ngã xuống một vực thẳm êm ái. Một chiếc nôi đã mục rã khát khao.
Tôi đã viển vông nghĩ tới những giọt lệ ứa ra từ đôi mắt chất đầy Sài Gòn. Chất đầy Đà Lạt của Niệm, khi tôi cúi xuống. Hôn nàng.
Niệm nói:
“Em đem về cho anh một ngọn lửa”.
Tôi lắc đầu:
“Anh thích vầng trán em”.
“Nhưng đừng nói với em... giống như một người nào đã ở cùng anh từ quá khứ”.
Tôi gật đầu:
“Ừ. Không. Ta sẽ có một buổi chiều trên ngọn đồi nghĩa trang. Nơi mà Biếc trong ‘Kiếp khác’ đã sống, cùng ông Mậu”.
Tôi châm điếu thuốc đầu tiên bằng ngọn lửa được Niệm đem về, như một kỷ niệm từ phương đông huyền hoặc đó.
Tôi đăm đăm nhìn ngọn lửa, chợt nhận ra câu nói mình chẳng ăn nhập gì đến điều Niệm muốn cảnh giác.
Tôi mỉm cười trong khi bên kia ngọn lửa, chiếc mũi nhọn của Niệm hếch lên, như đôi cánh mỏng của một búp hoa muôn đời không nở hết.
Tôi muốn bảo Niệm: Cho anh cắn lên chiếc mũi đó, mỗi lần trước khi anh hôn em. Đôi môi với những đường cong vẽ thật rõ hình của một phần trái tim. Nhưng tôi im lặng. Tôi không muốn Niệm thấy tôi đang choáng váng, hay thảng thốt trong gặp lại này.
Có dễ tôi đã phá được thói quen nói thật và nói thẳng, những ý nghĩ của mình trước mặt một người con gái. Kinh nghiệm cho thấy sự không thành thật khi phát biểu về một nhan sắc của một phụ nữ, sẽ làm đẹp lòng họ lúc đó, nhưng sau đấy sẽ đầy vất vả!
Chẳng cần ai khen, người phụ nữ nào, thâm tâm cũng đã tự thấy mình đẹp. Luôn cả người vốn không được coi là đẹp.
“Niệm nhớ mẹ ghê nơi. Niệm nhớ Đài Bắc, Niệm nhớ chùa. Niệm nhớ... nhớ cuốn nhật ký của Niệm”.
Bỗng không Niệm nói một hơi những nhớ nhung của nàng, Tôi chờ đợi trong xâu chuỗi nhớ nhung kia, sẽ có phần tôi ở đó. Nhưng tôi nhầm. Niệm chỉ nói tới việc Niệm nhớ cuốn nhật ký của nàng mà thôi. Rồi cũng bất ngờ niệm nói:
“Niệm mập quá phải không anh?”
Tôi buột miệng:
“Niệm xinh hơn trong chờ đợi của anh”.
Niệm cười. Cô bé trong bếp đem ra hai ly nước. Cũng như lúc xuất hiện, cô lặng lẽ như chiếc bóng, khuất vào phía trong.
Tôi thắp ngọn-lửa-Niệm cho tôi.
Bên ngoài, buổi chiều xám ngoét và mệt lả như một người bệnh đã kiệt sức, mặc dù cơn giông chờ đợi vẫn chưa kéo tới.
Niệm nói những ngày ở Đài Bắc thấy gần làm sao quê hương! Muốn về ngay, Saigon. Tôi bảo đừng viển vông nữa. Ở đâu cũng gần quê hương hết. Nếu nghĩ được quê hương vốn sẵn trong máu của mình và người khác.
Niệm nói vừa về tới đây, Niệm đã nghe khá nhiều tin về kháng chiến. Nàng hỏi:
“Liệu có hy vọng gì không anh?”
Tôi đáp:
“Mọi người đã hỏi lẫn nhau câu hỏi đó”.
“Tại ai cũng mong mỏi?”
Tôi nói:
“Sao không hỏi nhau: Mình đã làm được gì cho kháng chiến mà chỉ chờ đợi những gì mình muốn”.
Niệm cười ròn:
“Anh định tuyên truyền Niệm đấy hả?”
Tôi cười theo:
“Ừ. Tại anh biết không thể tuyên truyền được ai, ngoài Niệm”.
“Vậy thì anh sẽ thất vọng”.
Tôi gật:
“Cũng đành”.
Chợt Niệm nghiêm nét mặt:
“Có phải đó là tất cả ý nghĩa của buổi gặp mặt này, giữa chúng ta?”
Tôi hỏi lại:
“Bộ anh chỉ cho Niệm một ý nghĩ đó thôi sao?”
Niệm lắc đầu:
“Không. Nhưng gặp lại, thấy anh gầy và xanh quá. Anh liệu... đấy”.
“Điều quan trọng là Niệm có cảm được điều gì hơn thế?”
Niệm lắc đầu.
Tôi tiếp:
“Vậy thì không phải chúng ta gặp lại nhau sau bao năm, chỉ để nói một chuyện ấy. Nhưng tỷ như đời sống ở đầu dốc, em có đủ sức leo lên?”
“Niệm nghĩ phía trước là vực thẳm”.
“Cho nên...?”
Niệm im lặng. Tôi hiểu điều khó diễn tả nơi Niệm. Tôi có thể đoán được câu trả lời. Nhưng tôi vẫn muốn Niệm nói ra. (Ai cũng vậy, chẳng riêng gì tôi?)
Chưa muốn câu chuyện phải sớm rẽ qua lối khác, tôi hỏi tới:
“Liệu Niệm có dám bước?”
Niệm cười bằng đôi mắt đẹp mà tôi không muốn khen:
“Thí dụ Niệm không?”
“Anh sẽ xô Niệm ngã xuống”.
“Còn anh?”
“Vẫn đứng trên bờ vực”.
Niệm thở ra:
“Niệm đã ở đáy vực một mình từ lâu, dù anh chưa xô Niệm xuống”.
Giọng Niệm nặng, như mang theo cả một cơn mưa. Dường đó không phải là điều mới mẻ, mà chỉ là tiếng vọng từ nhiều năm trước, nay mới dội vang về tới tôi, trong chỗ ngồi giữa buổi chiều này.
Tôi đặt tay lên tay Niệm trên mặt bàn. Rất thành khẩn, tôi nói:
“Anh muốn hôn Niệm”.
Niệm nhắm mắt. Chúng tôi cách nhau một mặt bàn. Và những ly nước hai đứa chỉ mới nhấp môi.
* * * * *
Tôi đưa Niệm đến nghĩa trang trong lúc cổng vào đã bị chặn bởi một dây xích dài móc từ cột sắt này qua tới cột sắt kia. Bảng “stop” treo lủng lẳng giữa đoạn xích võng xuống. Miếng bảng bị gió liếc qua liếc lại mặt đường tráng xi măng, tạo thành những tiếng kêu ê răng.
Chỉ còn cách duy nhất: Đậu xe vào bãi dành riêng cho nhà nguyện.
Không gian im vắng. Không một vẻ gì cho thấy có hoạt động. Có thể nhân viên, ngay đến những chậu hoa, những bức tranh cũng đang thiếp chìm trong một bài thánh ca cầu nguyện sớm, cho những người sẽ đến vào sáng mai, lúc bình minh vừa ló lên tự mặt biển.
Tôi chỉ Niệm thấy ngôi nhà mái nhọn, ngói đỏ, nằm vắt ngang hai ngọn đồi, trên một doi đất nhô cao chặn ánh mặt trời đã xuống phía bên kia sườn đồi thấp.
Niệm hỏi người ta làm gì trong dãy nhà kính đục đó? Tôi nói họ đốt thành tro những người chết không muốn chôn vì ngại tốn kém, gây phiền cho người ở lại.
Niệm cười bảo nếu chết, nàng muốn được chôn hơn là bị đốt thành tro. Tôi hỏi:
“Như vậy, Niệm chưa xứng đáng là một công dân Mỹ”.
Niệm vẫn cười:
“Niệm là loại người thích bắt chước theo Mỹ lúc sống và muốn chết theo kiểu Việt Nam”.
Tôi bảo:
“Chết rồi, Niệm đâu còn biết gì nữa”.
Niệm lắc đầu, lý luận rất con nít:
“Nhưng mà Niệm vẫn sợ. Người ta có thể không sợ phải chết nhưng lại sợ cách chết...”
“Anh đang lần bước đến với cả hai”.
Niệm nghiêm giọng:
“Anh tầm bậy”.
Theo lối đi bên hông dành cho người đi bộ, tôi dẫn Niệm ngang qua một vườn hoa hình tròn, trước khi con dốc dẫn dần lên tới đỉnh một ngọn đồi có khá nhiều những cây cổ thụ lùn xủn. Vỏ cây màu trắng như vỏ đa, nhưng lại có những bông hoa to, đỏ rực như hoa gạo.
Chúng tôi đi giữa những mộ bia nằm sát mặt đất với đầy đủ tên tuổi, ngày sinh và ngày chết. Hình như thói quen trật tự cũng được áp dụng nghiêm chỉnh tại đây. Trẻ thơ một khu. Người lớn một khu. Chỉ không biết rõ một điều, người ta có phân biệt kẻ đã hay chưa có gia đình mà thôi.
Cuối cùng chúng tôi leo lên đến đỉnh đồi, nơi có một vòi nước lúc nào cũng chảy rỉ rả, giúp cỏ mọc rất cao chung quanh.
Tôi bảo Niệm:
“Ngồi xuống đây với anh”.
Niệm ngập ngừng. Nàng quay nhìn con lộ vắt ngang hông khu nghĩa trang.
“Anh đã nằm ở đây rất nhiều buổi trưa. Đừng ngại...”
Tôi nói, Niệm lắc đầu. Nàng bảo không phải thế và khép nép ngồi xuống.
Biển dưới tầm mắt chúng tôi. Buổi chiều cũng mang màu xanh thẫm của thủy triều.
Tôi ngả lưng, dùng hai khuỷu tay chống ra sau làm cái giá đỡ cho chiếc lưng khỏi ngã hẳn xuống mặt cỏ. Gió chạy trên đầu, ngang qua hai ống chân.
Không như trước đây, lần này trở lại nghĩa trang, tôi chỉ thấy tâm hồn trĩu nặng.
Một điều gì giống như mất mát hiện ra rất rõ. Một sự gì giống như điều tôi muốn quên, muốn chôn vùi (ít ra trong lúc này) đã trở về ngầy ngật, lảo đảo, choáng váng thần trí tôi. Tôi muốn hát thầm một câu, hay một đoạn nhạc quen thuộc nào đó. Nhưng đầu óc tôi cũng giống như buổi chiều, đã đen xanh thủy triều.
Niệm dường cũng đang bứt rứt. Nàng muốn xóa đi (hay tìm kiếm) một điều mới mẻ?
Niệm lơ đãng nhổ những lá cỏ quanh mình; bỗng lên tiếng:
“Niệm hiểu tại sao anh đến đây”.
“Phải Niệm muốn cho anh biết, Niệm biết nhiều điều hơn anh tưởng?”
Niệm lắc đầu:
“Không, Niệm chỉ muốn nói, Niệm hiểu mối liên hệ giữa anh và nơi chốn này”.
“Và Niệm đã...”
Niệm cướp lời:
“Không!”
Có thể Niệm đoán sai điều tôi muốn nói. Tuy nhiên tôi không chắc lắm. Tôi thăm dò:
“Không gian hay nơi chốn chẳng mang một ý nghĩa gì đó, nếu nó được ràng buộc bởi kỷ niệm. Nên kẻ nào lạnh nhạt được với nơi chốn, kẻ đó sẽ vô cùng hạnh phúc”.
Niệm đổi thế ngồi. Nàng bó gối. Nhìn từ phía sau, những đường cong lưng Niệm khiến tôi không thể cầm lòng.
“Hạnh phúc chỉ có từ kỷ niệm. Như bông hoa chỉ có thể có từ một giây, cành nào đó”.
Niệm nói. Tôi nhớ lại một đoạn trong lá thư sau cùng, Niệm viết về một buổi chiều hình dung sẽ có trong nghĩa trang. Buổi chiều mang tên Biếc. Buổi chiều mang tên ông Mậu.
Niệm tiếp giọng mạnh dạn, cương quyết:
“Niệm muốn sống hôm nay, để ngày mai sẽ là kỷ niệm”.
“Dù cho nó có là một sâu chuỗi buồn rầu?”
Niệm gật đầu:
“Vâng. Dù cho nó có là một sâu chuỗi những buồn rầu. Tại sao người khác có thể, mà Niệm lại không thể?”
“Ai?”
“Cô Biếc. Thí dụ”.
Niệm trả lời nhanh. Tôi bật cười, kéo vai Niệm.
Niệm ngã xuống. Nàng buông lỏng đôi tay bó gối; rơi nghiêng vào lòng tôi.
Tôi nói:
“Có lẽ cuối cùng, anh là người ngu xuẩn nhất”.
Niệm hỏi tại sao. Tôi đáp, vì tôi không tin tình yêu có một ngày sẽ hết. Tất cả những người đi đến đời tôi, rốt cuộc ai cũng ra khỏi cái tình yêu đó, để đổi lấy một số tiện nghi vật chất, hay cái vỏ ốc tinh thần.
“Niệm rồi cũng thế mà thôi”.
Không hiểu tại sao tôi lại chọn Niệm để bày tỏ điều đó. Tôi nghĩ Niệm không thể hiểu điều tôi muốn nói. Khi nhận ra sự vô lý của mình, bỗng không lòng tôi thắt lại.
Tôi nhớ Tước. Nhớ những ngày mưa sũng nước Saigon. Nhớ đêm xa lộ. Nhớ chiều Hàng Xanh. Nhớ tối Thị Nghè. Nhớ trưa Hồng Thập Tự. Nhớ người thảng thốt cơn mê, tiếng chim tiền kiếp ngõ về hư vô.
Niệm nói:
“Niệm có thể làm được gì cho anh?”
Tôi nhìn Niệm biết ơn:
“Niệm cho anh buổi chiều nay, thế này đã là quá đủ. Anh thường tìm đến đây một mình. Một mình với những mộ bia. Với một phần thịt xương anh đã tan rã dưới cỏ. Và không còn ai nhớ nữa...”
Tôi muốn bảo Niệm, cho tôi khắc lên vầng trán của Niệm con-dấu-đời-tôi chỉ còn một mặt. Không phải là mặt thiên đàng mà, là mặt địa ngục, rực rỡ. Nhưng khi bàn tay Niệm chạm lên mặt tôi... Tôi rùng mình. Lòng nhũn lại.
Tôi tự nhủ:
- Quê lắm. Đừng khóc nhé.
Du Tử Lê
Du Tử Lê
mhhoàilinhphương * Trên Những Đường Hoa
“ Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi…” (1)
Đã qua bao nhiêu mùa, tôi không còn đếm nữa! Tháng tư về, Hoa Thịnh Đốn rưc rỡ những đường hoa…
Những hàng anh đào cánh hồng mềm bay trong gió.. Tiếng sóng ru êm bên hồ nước Thomas Jefferson những hoàng hôn hiu hắt.., những sớm mai se lạnh mù sương…
Những Magnolia.. ngây ngây mùi cỏ dại!
Những Dogwood, hoa lấm tấm trắng hồng nhạt nhòa trải dài trên phố lạ, đường quen..
Những Crapable Japanese… với hơn hàng chục loai cùng xôn xao trong gió mới!...
(Tất cả không mang họ anh đào, nhưng trông xa cũng dịu dàng đan kín những hoa cho một chuyến viễn du về xứ Phù Tang thần thoại…)
Và trong sân vườn nhà, những bông hoa Mười Giờ trên lối đi viền cỏ… như lối vào Đai Hoc một thuở đầu đời, ngậm những trái me xanh!
Những Azalea trên bờ dậu của moi cánh cửa im lìm, lặng lẽ, mở rộng đón chào bước chân ấm áp của ký ức khuất lấp, mù xa..
Chỉ biết, mùa hoa bên chồng đã làm thức giấc trong tôi bao ngày tháng cũ…
“ Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao …dạ nhớ…người dưng thế này! “ (2)
Một thoáng… mà trí nhớ đã bồng bềnh trôi về đường hoa của bao mùa xuân áo lụa ngà, tóc gió bay nghiêng, rôn ràng môi thiếu nữ!...
Và tôi với Tỷ Muội – nhỏ bạn thân - theo từng năm cũng ới để chờ nhau cùng giung giăng bát phố Bonard, ăn kem Phương Lan, và lang thang ngắm nhìn hoa xuân trải dài từ góc Lê Lợi – Nguyển Huệ đến cuối đường ra bến Bạch Đằng, mà ở đó những nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, Ngân Đình im lìm trên bến sông, không đủ hấp dẫn để làm vui chân khách khi tàn năm cũ!
Là những đêm lồng lộng gió. Là những ngày rôn rã bờ vui…
Tình đầu đời thơm và mát như thạch. Rón rén bước chân đi… Như thiếu nữ bên hoa ấm áp nụ cười. Như tiếng hát Dalida trải dài trên con phố rộng, nồng nàn, quấn quít; thương yêu “ Tout l’amour que j’ai pour toi …’
Quân ạ, có phải tình yêu chúng ta giống như mùa mưa không bao giờ mất, vẫn trở về trong ký ức từng năm, và từng năm…
Ốc Hương đã đếm tình yêu chúng ta tròn bảy mùa hoa, vừa tròn bảy tuổi. Từ một cô bé con nghịch ngợm với tóc demi garcon, quần ống thấp, ống cao, nhảy cò cò với ban bè bé con trong cư xá.. tóc đã chấm bờ vai lúc nào không biết, mơ mông vu vơ theo những bông hoa cúc vàng rực từng mùa Tết đến, ngẩn ngơ buồn nhìn những bông hoa đào hồng thắm trải dài bên dốc khu Hòa Bình, về nhà thờ Con Gà ở thành phố tẩm đẩm mù sương…
Đêm Ngọc Lan thơm ngát, ngày hoa sứ ngọt nồng ngào ngạt bay sang…
Bên lò sưởi, nghe tiếng thông khô ngai ngái trong ánh lửa bập bùng…
Có phải không anh, những măn nồng ta đã có. ..Để mưa trên đời anh, trên đời em, vẫn còn giữ lại chút vốn liếng của tình cũ trên tay.
Có phải từ ngày ta xa nhau, em không về Dalat nữa? Dalat của môt thời réo gọi tình xa…
Môt chuyến xe đò. Một chuyến bay của thời anh tham dư khóa hoc trung cấp chiến tranh chính tri. Dalat một thời.. chỉ duy nhất một Thủy Tạ lẻ loi ngơ ngác giữa mặt hồ… Của Mimosa ánh bạc long lanh, nhẹ nhàng trong sương sớm. Pensée tím âm thầm kiêu hãnh.. . như nỗi tuyệt vọng vô hình.. không đánh gục đươc tin yêu.
Tiếng xe thổ mộ Thái Phiên lóc cóc về qua đâu đó. Mân Trại Hầm chua ngọt trên môi, những quả dâu tây thơm thơm, đỏ au, mong nước. Café’ Tùng thơm nồng, nhưng đắng ngắt trong cổ họng, cho đêm hò hẹn dài thêm…
Bao nhiêu giòng sông trôi… và ta mãi hoài là một bến đời làm sân ga nhỏ ?
Rồi vạt nắng nào xa trong tiếng nhạc chập chùng “ Dans le soleil, dans le vent” … Giọng ca bay từ triền núi đến vực sâu, từ non cao xuống miền thung lũng, về qua đồi Cù… chìm trong những vạt dã quỳ hoa vàng mấy đô yêu thương….
Nhưng có phải tình yêu đã là những vết chém để lại muôn đời thương tích trong tim, khi tay đã lìa tay trên những đường hoa ngày cũ?
*
Mùa hoa Hoa Thịnh Đốn đã về theo tiết hè sang…
Oi nồng. Hực lửa. Tôi thèm vẫy vùng trong sóng nước. Cho dịu lại những cơn đau. Cho thêm chút êm ái trên những trầm luân gánh chịu bên đời…
Ban bè hỏi thăm. Tôi có hanh phúc bên chồng không? Tôi không biết nữa….
Thế nào là hanh phúc, khi người tri kỷ đã mãi mãi thiên thu, và ta ở lại đây, như hình, như bóng?
Trăng tròn chỉ một đêm rằm
Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi ( 3)
Nên giờ môi đã lìa môi
Nên ta giờ đã xa người trăm năm (4).
Tôi bỗng nhớ Quân quay quắt trong cái êm nhẹ của buổi sáng đầu ngày. Ai bảo năm tháng sẽ phôi pha? Thời gian sẽ xóa nhòa moi thứ?
Tout passe, tout lasse, tout casse… (5)
Mà sao vẫn ven nguyên trong tôi, dù đã xa tắp áo mơ phai, tuổi ngọc yêu người!...
Tôi nướng bánh croissant, và nhìn từng giot café’ rơi đều trong chén tách…
Tiếng muỗng khuấy lanh canh của người vợ, không phải của tình nhân.
Tôi đã phải tư làm lấy moi thứ từ ngày đưa tay ra cho người mang nhẫn.
Mới biết, không phải dễ để tìm cho mình môt người khuấy đươc những ly café’ xưa với cả nồng ấm, yêu thương.
Tôi ứa nước mắt. Lằng hoa vẫn đong đưa theo gió bên hiên nhà. Trời vẫn trong và cao. Sao hồn mình lẻ loi quá đổi! Ôi trái tim. Trái tim đau buốt, chưa nguôi.
Mới biết, đời là vạn ý sầu, mà niềm vui chỉ là những thoáng qua mau…
Hương thuốc Bastos xanh có còn nồng trên tóc thơm mùi bồ kết? Bờ vai nào vững chải để guc vào cho những khổ đau vơi? Trong thắt lòng, tôi gọi Quân ơi Tiếng kêu ngào nghẹn, bi thương, nếu có còn kiếp sau để chờ nhau, hò hẹn…
*
Mới đó, mà thời tiết đã giao mùa trong se lạnh, để chuyển sang thu…
Những bông hoa cúc bên bờ dậu rực vàng trong nắng sớm.
Tôi còn nợ Quân một đời chồng vợ, tôi còn nơ đời khi chỉ muốn vong thân.
Tôi còn những ước mơ nhỏ nhoi vẫn hoài ấp ủ…
Những bài thơ rời phải đươc đóng thành tập từ môt quãng đời đá nát vàng phai đến khúc lưu vong, xa xứ.
Vẫn còn nằm yên đó. Rải rác trong một ngăn tủ… Tơi tả như xác hoa phai hiu hắt cuối mùa!
Tôi về với tôi những khoảng mù sâu trong ký ức
Tôi về với người trong mộng mị chiêm bao.
Tầm thường hèn mọn như cỏ cây, vậy mà sao vẫn vương mang nhiều hệ lụy?
Một ông vẫn xưng mình là “ nhà thơ lớn”, đi tìm tôi cùng trời, cuối đất. Rao khắp thân quen.. .tôi là…người tình thất lạc của ông ta. Nếu không tìm ra tôi, mai kia chết, ông không thể nào nhắm mắt.
Điên như nhà thơ Bùi Giáng trồng cây đại thụ kịch sĩ Kim Cương.
Nhưng Kim Cương tài hoa, còn tôi trong cô đôc, hoang vu sao vẫn không thôi chịu bao đuổi đeo phiền nhiễu?
Khôi hài hơn, có những bản nhạc đươc ghi là phổ từ thơ tôi, mà thưc sư tôi không bao giờ là tác giả những bài thơ đó.
Đã yêu cầu, và đính chính nhiều lần, để trả tên lại cho tác giả bài thơ nguyên thủy, nhưng ông nhạc sĩ vẫn nhất định cầm nhầm thơ thiên hạ thành thơ tôi, không chịu sửa đổi.
Đời sao dị kỳ quá mức. Ho cứ gán cho tên mình, khi chính mình chưa lần phổ biến, sản sinh.
Thời buổi nhiễu nhương, cố tình lập lờ đen trắng giữa đúng và sai, giả và thật cho moi mưu đồ… cho tôi không còn niềm tin, ngay cả những người sống bằng nguồn sáng tạo nghệ thuật…
Thế giới ảo lộng hành hơn thế giới thật. Và người ta cùng nhau chấp nhận sống trong hư ảnh, phù du dù chỉ là phút chốc…
Chỉ có tôi mơ mộng ngất trời, nhưng thưc tế vô biên, nên tư khép mình vào môt cõi riêng bên bờ kỷ niệm, đắm mình với chút hương hoa hiu hắt một thời trẻ dại, mù sương.
Như đâu đó… miên man ngoc lan ngát hương vỗ về theo tiếng sóng.
Biển về đêm sâu buốt đến muôn trùng….
M.H.HOÀI LINH PHƯƠNG
(1) Thơ Tô Thùy Yên
(2) & (3) Ca dao
(4) Thơ MHHLP.
(5) Pascal
Trần Vấn Lệ * Một Trong Những Bài Thơ
Thursday, November 15, 2012
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM * HỒ CHÍ BỬU, KẺ LÃNG BẠT NGAO DU TRẦN THẾ (*)
Để có được cái nhìn sâu thẳm và bước đi trên thơ của Hồ Chí Bửu, quả thật tôi chọn gần 7 tựa đề để mô tả sát sao nhất biểu tượng cuộc hành hương kỳ diệu, mà nhà thơ đang lướt thướt biến ảo trong cơn mộng thi ca. Quả tình, chỉ có chữ ngao du trần thế của một kẻ lãng tử mà Võ Tấn Cường gói gọn như một dấu ấn, là tôi coi như ngôn từ đắt địa, để mô tả mọi tư hướng lãng bạt bùng cháy một cách quỷ quái trong quan điểm thơ Hồ Chí Bửu. Cách thức lập trình một quan điểm nghệ thuật của nghệ sĩ, phải chăng được bao quát bằng một khối óc đầy tinh huyết, hầu sáng tạo được khung trời riêng biệt cho chính nơi cư trú thiên hình vạn trạng của tha nhân. Người ta thường đứng núi nầy nhìn cảnh quan lập thể của cao sơn khác, nên sự thiên kiến giữa nhận định đối tượng quả tình mang nặng tư chất cục bộ. Nếu một vườn hoa chỉ đầy rẫy một sắc hoa như một sự trùng điệp của sự vô tính thì nghệ thuật là cái vất vưởng cô hồn, không tinh khí, nghèo nàn bằng những phục trang tiền sử thô kệch, lạnh lùng. Như thế, thì còn phân biệt làm gì giữa cõi vĩnh cửu và cái nhất thời, cũng như lập dựng một thế giới chỉ bằng những hình ảnh robot, cứ lập lòe tư tưởng bằng những phản xạ của con chip vô hồn, đã có phân biệt gì nhau. Hoa thì phải có hương và ngan ngát muôn loài tung nhụy vàng rực rỡ khắp cùng không gian sinh hóa. Đâu nhất thiết một cọng cỏ rêu xanh nhòe mình làm lung lay được một ánh trăng vàng, cũng như đâu nhất thiết vầng trăng phải soi mình cho cỏ dại phiêu linh. Tất cả đã có sẵn chan hòa trong vũ trụ mênh mông, tự nhiên mà hằng hiện hữu, vì nghệ thuật hóa sinh bằng tư hướng cơ địa nguyên khai của kẻ ngao du. Trăng có bày tỏ gì đâu, cỏ có thì thầm gì đâu, mà người nghệ sĩ cứ phải oằn mình lưu đày cho trọn kiếp sơ nguyên. Mỗi cá thể đều chiêu nghiệm cho chính bản thân mình, không thể vay mượn hình hài hay hơi thở của chung quanh làm lẽ sống. Cái bất chợt không tương ngộ trong sự sáng tạo của mọi tha nhân, đều là cái hữu tình thuần túy, tự nhiên mà có được trong cơn mộng nghệ thuật. Chính vậy, vườn hoa mới chao nở vun đầy bằng vạn sắc hoa. Tinh hoa của mỗi loài mỗi khác, cách biệt nhau như một cá tính siêu việt riêng lẻ, lập dựng cho mỗi loài một thế giới riêng tư, kỳ bí như chính bản ngã hóa thân. Thơ của một thi nhân, cũng chính là sự hóa thân diệu hoặc như vậy, nên cái riêng của từng thần hồn đã lập dựng được cả một thế giới sinh diệt quanh ta…
Hồ Chí Bửu, vẫn có cái ngạo nghễ của một kẻ sáng hóa, dù có những lúc vung tay quá trán. Nên đang bay lượn hạo nhiên giữa vùng sinh thực khí sung mãn thi ca, thì bỗng như tia chớp cân đẩu vân vòng vèo bước ngang lối sống. Mây gió tuôn chảy không theo một định số nên thơ anh chu du lắm lúc như tình cờ nhỏ giọt xuống từng con chữ một cách kỳ hồ, làm nhuộm đủ sắc màu xanh đỏ tím vàng, không yên ổn được uy dũng mà hồn thơ sẵn có. Hồ Chí Bửu nặng nề một kiếp tài hoa, dầy đặc công lực để đưa đẩy thời gian không gian thơ đi vào một lối quang hóa riêng biệt, mà có lúc đọc thơ anh, tôi có cảm giác như phiêu lưu biến hóa chữ nghĩa trong những cơn mộng phù ảo của văn nghệ, có khác gì muốn rập khuôn với những hình dáng phù thủy ngôn ngữ của Bùi Giáng, Nguiễn Ngu Í, Nguyễn Đức Sơn… hay gần đây là một Bùi Chí Vinh trí tuệ đầy thông minh hoa dạng phù phép ngôn từ, cho cuộc hí trường nầy đầy ý sáng hóa, bay nhảy. Thơ Hồ Chí Bửu tung tăng sắp đặt, ngạo nghễ, phiêu bồng…loang loáng trên bề mặt của con nước thủy triều phủ đầy mầm xanh bèo dạt, nhưng nếu đi sâu vào chiều lặn của thơ anh thì những bi kỷ hoang vu của thân phận lúc nào cũng bám víu cuối cùng, như chợt nói lên điều gì chua chát bên góc đường ta ngồi nhặt hoa rơi. Mặc dù, khi thơ phát tiết, cái hơi thở phán xét bao giờ vẫn đầy nét tưng tửng cuồng nhiệt bộc phát như một cái khuynh khoái của một dũng sĩ, vừa tuốt gươm bay lượn công phu, đánh vèo vào không gian những tiếng sấm vỗ đầy hoang sơ. Phút giây bày tỏ của thơ đi, hầu như mươi lần như một, nỗi trằm mặc của hàn sĩ đều được bỏ rớt những quan hoài quy ẩn : hai mươi tuổi đã quá lỳ/ giang hồ tứ chiến thứ gì cũng chơi/ cho đi chẳng biết lỗ lời/ phút giây tàn cuộc-đến hồi trắng tay.
Nhiều lúc đọc thơ Hồ Chí Bửu, nếu được ban phát trong những cuộc rượu tàn canh, vun vẫy đầy sinh khí của bằng hữu anh em ngâm nga từng đoạn thơ anh như giây phút vắt hồn chiêu sinh, có lúc ngôn ngữ bật dậy bất ngờ làm sững sốt cái ngông cuồng khinh khoái, chen lẫn trong ý nghĩa quái dị như vừa mới phun trào từ kẻ hở phún thạch cổ đại. Thơ vừa mới ám đầy những dòng chữ xét nét trào lộng, bỗng chốc cuối câu đã vương vãi tự kỷ, quay ngược lại nội tâm trầm cảm, bơ vơ : vào blog như thăm khu vườn lạ/ có hoa chanh hoa bưởi hoa hồng/ có chim phượng chim oanh và chim cú/ có kỳ đà cắc ké lẫn kỳ nhông/ ta rất muốn sửa mình cho đúng đắn/ nhưng sao thơ cứ mai mỉa bất cần/ suốt đời ta chưa một lần may mắn/ chùa khép rồi còn vọng tiếng chuông ngân…
Trải qua một định số của kẻ làm thơ, Hồ Chí Bửu cũng là nhân vật kiên trì và thủy chung với con đường nghiệp dĩ. Đằng đẳng hơn 40 năm nay, nhà thơ vẫn bước đều trên hướng đi định sẵn, dĩ nhiên cái thuận lợi có, cái hư hoại có, tất cả như trò trêu cợt của gió bụi giăng mắt bám víu đằng đẳng gót chân lãng bạt. Theo thói thường ai dám khẳng định rằng cái thuận lợi là hoàn chỉnh, cái hư hoại là sai lầm ? Mọi vật thể đều chan hòa trong tứ đại, đất nước lửa khí, hay nói gọn gàng hơn theo triết ngữ phương Đông, nhận định hoằng hóa, xê dịch trong nguyên lý âm dương. Lưỡng nghi cũng là một cân bằng đối lập, đưa đẩy biến hóa vọng tưởng của loài người trong cõi hồng trần tạm bợ, bước đến ranh giới bỉ ngạn. Làm sao lấy quan điểm cực đoan của chính một cá thể tiểu vũ trụ lẻ loi riêng mình, làm thước đo cho một mắt xích thiện mỹ, tốt xấu, mà phê bình tư tưởng và thần trí người khác. Cách đây cũng gần 2 năm, sự chênh lệch của một kẻ sĩ gối đầu trên những thành công mông lung về khuynh hướng nghệ thuật của riêng mình, xem vũ trụ nghệ thuật chỉ còn là vườn hoa đơn sắc, độc tôn hậu hiện đại, xóa hết công trình văn học và những dòng sinh khí lý triết xa xưa, để bước vào con đường chẻ nhỏ ngôn ngữ, như là một sự giành giựt trí não và sáng tạo. Đường đi thì còn xa thẳm, tương lai của thuyết tân lập còn phía trước, vời vợi…
Kẻ trầm tĩnh vẫn phải là nhà thơ, gánh trên vai những quan niệm sáng tác riêng mình, thản nhiên đối mặt nhu cương, cũng như Thiền Sư Nam Tuyền chỉ bông hoa bừng nở trước sân : “ Người thời nay nhìn hoa không như hoa mà như mộng”. Thì thôi, cứ như Hồ Chí Bửu phủi chân ngồi xuống chiếu/ làm với nhau xị mốt xị hai…cái bất chợt tai bay vạ gởi lần đó của Hồ Chí Bửu khiến tôi vạ lây, nhưng bỗng nhiên tĩnh tọa lại, vì biết rằng trăng gió (hay nghệ thuật) là của trời đất, không phải của báu riêng ta. Thành quả mới khẳng định trọng đại cho sự thành công nhiều ít của hướng tới. Chính vì vậy, kẻ lập ngôn và tín hữu, muốn chỉnh chu tiếng nói lập trình hệ thống văn học mới không bị khập khễnh, trên bước phiêu du chưa định hình chính thống, điều tối cần thiết là họ phải thông thấu xuyên suốt tư tưởng lập dựng các lý triết khác trong mấy thiên niên kỷ trôi qua. Vì vậy, ý kiến của cái mới và cái cũ, vẫn tạm được phân chia một cách chủ quan, và thiên kiến sẽ làm sai lệch thảm thương chủ hướng sáng tạo nghệ thuật. Nhiều lúc, tôi hiểu nhiệt huyết và tâm thức của anh em, năng nổ bay nhảy trên bước đường sáng hóa của một không gian mờ ảo của nghệ thuật, đôi lúc cũng cực đoan bằng lòng hoặc chối bỏ tư tưởng khác, dù đó là khóm hoa mẫu đơn tinh khiết đang rung rinh sinh khí bên hàng rào lãng đãng sương mai. Cái đẹp của Chân Thiện Mỹ không chỉ có một, mà hằng hà sa số tinh quang lấp lánh làm diệu kỳ thêm cho kiếp sống.
Có lúc Hồ Chí Bửu bước đi bằng trái tim vô quái ngại, trên một không gian nghệ thuật kỳ ảo quen thuộc của chính mình, nên ý kiến của anh về Thơ đôi lúc khiến tha nhân phải phân vân. Túi thơ nặng trĩu suốt cuộc hành trình hóa sinh cho riêng mình, khi mở ra trưng bày trong trời đất bằng tất cả chân thật, thì chắc chắn nhà thơ biết rõ mình là ai, làm gì và dĩ nhiên bảo vệ được quan điểm mình đã bước qua trải nghiệm, giúp cuộc soi bóng kỳ thú với nghệ thuật, biểu lộ đầy đủ chất người…Đích tới gần hay xa, cỏ hoa hay gai góc, dĩ nhiên còn nằm riêng vất vưởng cô độc trong thế giới mà nhà thơ đang dìu bước thơ đi, chiêu niệm lại bản sắc đầy tịch liêu, chắc hẳn để thấy lòng mình đỡ quạnh hiu.
Vùng đất địa linh biên cương Tây Ninh, không gian thơ kỳ thật có nét u trầm phưởng phất lãng bạt của bóng dáng đạo sĩ thỏng tay bước vội giữa kẻ đời, giữa bao ngát núi rừng lất phất mùi trầm hương đẫm ngát sự tuôn chảy cho nhiều dòng thơ tài hoa kỳ thú. Lắm lúc, tôi có cái nhìn so sánh vùng huyền mặc Tây Ninh với quê tôi vời vợi tiếng gió núi đầy mặc khải của cụm Thất sơn bao ngát sấm giảng. Hình như cả hai bao trùm trong một tinh hoa hựu huyền vượt thoát gần tương đồng mọi mặt : âm dương diệu hoặc của cuộc đất, khí lực bát ngát phủ đầy trên ngõ tới của quê hương…Trước 1975, lớp trẻ văn nghệ mang đầy nhiệt huyết, tạo lập nên một khuynh hướng nghệ thuật, lăn xả vào những cuộc dấn thân trước cuộc chiến tranh đang phủ đầy ngõ ngách quê hương. Tiếng nói và lương tri người làm văn nghệ, là ngọn đuốc góp phần soi sáng cho tiếng nói văn học nghệ thuật miền Nam . Ngoài các nhà văn lão thành như Từ Trẩm Lệ, Trường Anh, Phan Phụng Văn, Huỳnh Phan Anh… anh em văn nghệ trẻ hơn như Trần Thy Dã Tràng, Sa Chi Lệ, Hồ Chí Bửu, Điệp Thuyên Ly, Nguyễn Quốc Nam, Vũ Anh Sương, Vũ Miên Thảo, Hồ Thi Ca, Khaly Chàm…cũng lập dựng được cho văn nghệ vùng đất nầy một sức sống mãnh liệt. Hồ Chí Bửu gắn chặt với văn nghệ Tây Ninh, bằng tiếng nói của tờ tạp chí Biên Giới, nhưng khi tập san Động Đất ra mắt, cùng với sự gánh vác của Sa Chi Lệ, thì Động Đất là chỗ đứng bề thế hơn, góp mặt nhiều cây viết tiếng tăm của miền Nam.
Sự say mê kiên trì bay nhảy trên sáng hóa văn hóa văn học nghệ thuật, Hồ Chí Bửu với một bề dầy văn nghệ bao năm phiêu bạt, nên sự hòa quyện sâu sát với cuộc đời và chữ nghĩa đã là dấu ấn trân trọng cho nhà thơ, suốt hành trình hòa âm trong cuộc lữ. Bởi lúc nào cũng hòa quyện trong thơ, như một thánh hóa cuồng nhiệt, nên nhiều lúc thơ Hồ Chí Bửu nghênh ngang ngẫu hứng, như bạch mã (phi mã) chưa kìm được yên cương, nhiều lúc muốn xoay đầu về núi, về chôn đất hứa/ rớt lại nơi đây một chút ngậm ngùi/ mà ước mong ngồi bên ngày tháng đếm sầu trên lá/ còn lại gì ngoài mấy vần thơ. Cái định hướng huyễn hoặc nhào lộn giữa một không thời gian mênh mông, hình như để thỏa chí bạt ngàn, không chấp nệ ý hướng, sự buông thõng nhiều lúc làm xáo trộn cái tịnh yên của thần trí, cái bốc đồng quang quả, khiến thơ hồng hộc đầy hơi thở nghịch ngợm trong nguyên lý đối chiếu, tầm chân : quá buồn nôn trước cái trò chữ nghĩa/ kẻ hứng người tung trông thật tức cười/ ôi nghưỡng mộ với mấy con trâu đỉa/ giữa rừng già mà dỡ thói đười ươi.
Thơ Hồ Chí Bửu nhiều bất chợt kỳ lạ, không định hướng trước được, phải chăng thơ đến với anh cũng chớp nhoáng như những ngôn ngữ đã bộc phát thành thơ ? Hồ Chí Bửu có lẽ làm thơ rất nhanh, nhỏ giọt thành thơ, và sự hoàn chỉnh bài thơ chắc nhà thơ cũng ít chu toàn, chỉnh sửa. Hình như thơ tự nhiên đến, và tự nhiên đi, thanh thoát vô cùng cho nẻo đi – về, tung tăng bay nhảy không rào đón, nên nhiều khi bằng hữu chỉ thấy mặt nổi của bài thơ, vì cái ngông cuồng phiêu bạt lướt thướt dày đặc chính diện. Phóng túng, lý sự, đùa cợt trước cửa hạo nhiên, nhưng thật sự Hồ Chí Bửu còn nhiều ẩn ức, đầy nổi u buồn miên viễn, thấm ngầm giữa hồng tâm. Tung hứng trong thơ Hồ Chí Bửu, có phần nào trừu tượng diệu hoặc, mà giữa chữ nghĩa lý thú tung tăng đùa giỡn có nét thông thái đầy phá phách.. Nhưng khi tôi lặng lẽ chong ngọn bạch lạp, soi lại mặt lẫn khuất, chìm lắng trong dòng thơ anh, tại sao trăm lần như một, mỗi câu kết trong từng đoạn thơ lãng bạt của Hồ Chí Bửu vẫn hát hò mà nước mắt rưng rưng. Cái buồn cố hữu, quả thật đã thấm đẫm từ nguồn cội trải dài suốt 5 thi tập mới nhất, được Hồ Chí Bửu xuất bản từ đầu thiên niên kỷ nầy.
Tôi hiểu Hồ Chí Bửu, ngoài cái chịu đựng của một kẻ lữ hành, đang cô độc ôm thơ bay lượn ngạo nghễ lang bạt, đầy kẻ ghét người thương, nhưng chắc chắn cái không gian thơ đầy rẫy phù sa sông núi, khí thiêng cố thổ, vạch riêng cho một hồn thơ khung trời sinh hóa, bất khả xâm phạm, thì thế tục thường tình xin hãy ngẩn ngơ ! Bên cạnh cây bạch lạp vừa soi, bóng dáng kẻ lang bạt ngao du trần thế, vẫn làm chau đi ngọn gió, hàng hàng câu thơ vừa hát được ra lời…
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
(*)Trích trong tuyển tập TÁC GIẢ TÁC PHẨM- NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI 2 của NGÔ NGUYÊN NGHIỄM-
Subscribe to:
Posts (Atom)