văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Wednesday, December 19, 2012

Trần Vấn Lệ * Hai Ngày Trước Ngày Tận Thế





Hai ngày nữa Tận Thế?  Chắc không xảy ra đâu!  Sáng nay nước dưới cầu sáng trưng màu của nắng. Nước chảy êm, phẳng lặng, sóng chỉ gợn lăn tăn, cầu thấy cả bóng chân đứng rung rinh trong nước…

Người ta nói cho được những gì người ta lo?  Sao người ta không cho tấm lòng vui mình có?  Hay người ta nghèo khó đến niềm vui cũng nghèo?

Lá sắp rụng còn reo khi bay vàng trong gió!  Người sắp tàn hơi thở, nói Tận Thế…cho xong?  Trái đất vẫn xoay vòng.  Bánh luân hồi vẫn chuyển.   Chao ôi lời đồn miệng làm thế giới lung tung! 

Người bình thường không mong chuyện bất thường sẽ đến…mà họ như chim én sống đợi mùa Xuân về. 

Hãy để thời gian đi tới đường cùng của nó!  Chỗ đó ngàn hoa nở sau ba tháng mùa Đông, chỗ đó vui trong lòng hãy chia chung thiên hạ!

Hai ngày nữa gần quá, Tận Thế…chắc còn xa!

Trần Vấn Lệ

Tuesday, December 18, 2012

Đặng Phùng Quân * Khoa học văn chương



Trong bài viết Cơ sở phê bình luận vị lai [106], tôi đặt vấn nạn: Thế kỷ của khoa học văn chương còn lại gì? Tôi muốn xác định ở đây thế kỷ nói đến là thế kỷ hai mươi. Con người kinh qua hai thế kỷ đều thấy những biến động lớn của thế kỷ vừa chấm dứt để lại những di sản khổng lồ mà hàng ngàn năm trước nhân loại chưa từng thấy.

Đỗ Hồng Ngọc * Thiền với CLB 2030



Thư gởi bạn xa xôi,
Không đợi bạn phải nhắc đâu, mình cũng sẽ “tường trình” vắn tắt buổi trò chuyện về Thiền với Doanh nhân trẻ ở CLB 2030 vừa qua cho bạn đây!
Bạn biết đó, mình ít khi ra khỏi nhà vào buổi tối. Tuy ở Saigon hơn nửa thế kỷ mình vẫn là một người nhà quê, chưa biết cái “hộp đêm” nó khác với cái “hộp ngày” ra sao. Vậy mà lần này nhận lời mời của CLB 2030 chịu “xuống núi” một phen cũng lạ. Một phần cũng do cái thiết tha của các bạn trẻ CLB 2030, phần khác cũng do mình… tò mò, muốn biết giới trẻ – nhất là doanh nhân trẻ- bây giờ đời sống ra sao, tại sao họ lại quan tâm một đề tài có vẻ trái nghịch với nếp sống của họ: Thiền là buông bỏ, là thanh tịnh, độc cư…

Từ ngày Âu Mỹ phát hiện ra Thiền có những hiệu quả tích cực trong chữa trị tâm bệnh, thân bệnh thì họ đã cật lực khai thác và không hiếm các “thiền sư” đưa ra rất nhiều lời khuyên dạy, nhiều người viết sách bày vẻ đủ thứ từ thần bí tâm linh đến khoa học hiện đại, gây khá nhiều hoang mang… Kông ít những doanh nhân trẻ vốn có cuộc sống luôn bận rộn, nhiều stress tìm đến Thiền như một giải pháp trị liệu hoặc phòng ngừa. Không chỉ thiền mà yoga, khí công, dưỡng sinh, quyền thuật các thứ vô cùng phong phú cũng được quảng bá. Không ít các lớp huấn luyện mở ra, rước thầy Ta, thầy Tây thầy Tàu, thầy Ấn về dạy, ai cũng muốn học trò mình mau đạt kết quả đến nỗi nhiều người lửng lửng lơ lơ, đau xương nhức khớp, thậm chí…tẩu hoả nhập ma! Ngành tâm lý trị liệu, tâm thần phát triển nhanh chóng hơn bao giờ hết.  Chính vì thế mà Chương trình Chăm sóc sức khỏe ban đầu của Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO) đã coi vấn đề “sức khỏe tâm thần” là một trong 3 ưu tiên bên cạnh sức khỏe người già và trẻ em. Thuốc điều trị tâm thần nay được coi là thuốc thiết yếu, đưa về tận y tế cơ sở như lao, sốt rét…

CLB 2030 của doanh nhân trẻ Saigon định kỳ có một buổi sinh hoạt vào tối thứ sáu cuối tháng gọi là Happy Friday. Số lượng thành viên khoảng 80 người. Khung cảnh là một quán café… lịch sự và sang trọng. Các bạn đều có vẻ thoải mái, tự tin, nồng nhiệt. Họ gặp mặt vừa để vui chơi, chia sẻ kinh nghiệm, quảng bá sản phẩm, làm marketing, PR các thứ và trao đổi một chuyên đề nào đó như lần này là về Thiền và doanh nhân!
Mình cũng đã có nhiều lần trò chuyện về Thiền, có khi ở… chùa với các nhà sư, ở toà  báo với nhiều đối tượng khác nhau, ở một quán Café với một nhóm trí thức, ở một đại học với các thầy cô và sinh viên… Lúc nào mình cũng chia sẻ những trải nghiệm thực tế từ góc độ của một người thầy thuốc, một người làm “khoa học thực nghiệm”, không đề cập các vấn đề tâm linh, siêu hình, lãnh vực “bất khả thuyết”, “bất khả tư nghì”, dễ rơi vào dị đoan mê tín.
Với mình, mỗi buổi trao đổi trò chuyện như vậy đều là những cơ hội tốt để học hỏi, trui rèn, làm sáng tỏ, hiểu thấu đáo các vấn đề hơn.
Mình nói đôi lời về lý do mình đến gặp các bạn, các doanh nhân trẻ hôm nay, biết họ đang muốn tìm một giải pháp cho một lối sống hạnh phúc, an lạc thân tâm và thành công trong sự nghiệp. Thiền có thể phần nào giúp có sức khỏe tốt hơn, ít phải lệ thuộc vào thầy vào thuốc, có tâm an lạc, đời sống cân bằng và hạnh phúc hơn. Nhờ biết chánh niệm tỉnh giác mà bữa ăn sẽ ngon hơn, giấc ngủ sẽ yên hơn; nhờ biết từ bi hỷ xả mà cuộc sống có ý nghĩa hơn, biết đối đầu với thất bại, biết “thưởng thức” thành công. Thiền còn giúp cho đầu óc sáng suốt hơn vì đã tạo ra những khoảng “không” cho trí tuệ. Steve Jobs cũng đã thiền mỗi ngày, nhờ đó mà “sáng tạo” ra nhiều ý tưởng mới lạ, mang lại hiệu quả kinh doanh cao… Mình chân thành chia sẻ những kinh nghiệm riêng tư rồi từng bước đi vào các phương pháp thực hành. Vì không nhiều thời gian, chỉ nếu những vấn đề thực tiễn có thể áp dụng ngay trong cuộc sống. Nhiều câu hỏi đặt ra rất hay. Có bạn lâu nay đã thực hành thiền, thấy có hiệu quả mà lù mù không hiểu tại sao, có bạn hỏi thiền giúp ích gì cho một… quan tòa, thiền giúp ích gì cho một người quá bận rộn trong thời buổi hiện nay…

Khi chương trình chuyển qua phần khác, mình vội chạy về theo dõi trận đá banh Việt Nam – Thái Lan AFF Cup tối hôm đó.  Thái Lan đưa đội hình hai vào đá, còn… bị đuổi bớt một người vậy mà vẫn thắng dễ. Mình nghĩ các cầu thủ và huấn luyện viên của mình cần thiền hơn ai hết. Đừng nên mất sức vì tập thể lực quá nặng, cũng đừng tuyên bố hùng hồn nhất định thắng, nhất định vào chung kết, không được phạm sai lầm v.v…!
Còn bạn, nghĩ sao?

Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc

Văn Quang * “Một bộ phận cán bộ” là cái chi chi?




Lâu lắm rồi, người dân mới được nghe một vị “cán bộ cao cấp” có một lời tố cáo cụ thể về tình trạng tham nhũng tại Việt Nam. Không cần mở ngoặc đơn, ngoặc kép, ai cũng hiểu đây chỉ là một trong muôn hình vạn trạng những “kịch bản” tham nhũng lâu nay người dân nào cũng biết, biết nhiều quá đến nỗi phải thốt lên như cụ Cố Hồng trong tiểu thuyết Số Đỏ: “Biết rồi khổ lắm, nói mãi”.
Nhưng đây lại là chuyện không phải người dân nào cũng biết, chỉ có “một bộ phận cán bộ” không nhỏ biết rất rõ, song không bao giờ dám nói ra. Bởi các vị này đã từng phải thi để được vào “biên chế cán bộ nhà nước”. Xin nói rõ thêm câu trên có nghĩa là được công nhận chính thức là công chức nhà nước, một thứ chức sắc thời đại, có quyền hành chưa biết tới đâu và tất nhiên có quyền lợi cũng như thế, tùy theo “vai vế” to nhỏ và tùy theo cái sự “phục vụ” của anh đến đâu. Lại nói về “cái sự phục vụ” ở đây không có nghĩa hoàn toàn là phục vụ người dân, phục vụ đất nước mà còn nhiều hình thức phục vụ khác nữa như phục vụ cấp trên, đôi khi “phục” luôn cả các phu nhân và gia quyến các sếp nữa, từ đám cưới đến đám ma nhà sếp cũng phải lo. Hoặc phục vụ những chủ trương đường lối của “đoàn thể, của tổ chức”, không cần biết đúng sai, cứ phục vụ trước cái đã, đừng ý kiến ý cò gì là “ngoan” nhất và dễ sống nhất. Sự tận tụy ấy được trả giá bằng sự thăng cấp nhanh. Nói thẳng ra ở nhiều cơ quan, cơ sở công hay công ty tư cũng có “tiêu chuẩn” này. Nhưng ở các cơ quan công lập thì hầu hết sự phục vụ đó là thước đo cho “năng lực” của nhân viên.

“Một bộ phận cán bộ” là cái chi chi?
Có một câu nói mà các vị quan chức lớn thường dùng, thí dụ như “một bộ phận cán bộ suy thoái đạo đức…”. Nóí lơ mơ như thế khiến người dân chẳng hiểu “một bộ phận cán bộ” là cái gì. Xin nêu ngay một dẫn chứng cụ thể:
Ngày 1-12 vừa qua, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, tiếp xúc với cử tri, hàng chục vị lão thành đã bày tỏ tâm tư về “một bộ phận không nhỏ cán bộ thoái hóa, biến chất”. Băn khoăn về vấn đề này, cử tri Nguyễn Khắc Thịnh (phường Giảng Võ, Ba Đình) chất vấn Tổng Bí Thư:
“Tôi xin hỏi, bộ phận không nhỏ chiếm bao nhiêu phần trăm? Bộ phận không nhỏ ấy nằm ở đâu? Trung ương bảo như vậy nhưng về các tỉnh thành chúng tôi chẳng thấy bộ phận không nhỏ ấy nằm ở đâu cả”.
Chuẩn bị sẵn bài phát biểu công phu, cử tri Trần Viết Hoàn, nguyên giám đốc khu di tích Phủ Chủ Tịchbày tỏ nhiều tâm tư. Theo ông, Nghị Quyết trung ương 4 khóa 11 của Đảng đã chỉ rõ bộ mặt thật của một “bộ phận không nhỏ” những kẻ tranh thủ một thời làm quan, cậy quyền vơ vét, đục khoét tiền của dân, của nước.
“Lớp người này lấy đồng tiền làm cứu cánh, làm cái đà cho danh vọng, làm cái lọng che thân, làm cái cân cho công lý, làm cái cần cho lý trí và tiền với họ là hết ý. Vì vậy, đó là những kẻ quá giàu có, giàu hơn cả thời địa chủ, tư bản. Đảng, Nhà nước, và nhân dân coi đây là giặc nội xâm, giặc quốc nạn”.

Hòa cả làng
Vị này cho rằng, chưa bao giờ có nghị quyết của Đảng mà dân coi Tổng Bí Thư là kiến trúc sư và được dân chúng đón nhận, tranh luận như “trời hạn gặp mưa rào”. Song, ông lo ngại cho Nghị Quyết này cũng như Luật Phòng Chống Tham Nhũng Sửa Đổi, bởi “nếu không làm triệt để thì mọi thứ lại trở về như cũ, thậm chí còn tồi tệ hơn”.
Ông Hoàn nói tiếp:
"Đảng chắc không còn nghị quyết nào hơn nữa, Quốc Hội chắc không còn Luật Phòng Chống Tham Nhũng nào hơn nữa. Và như vậy, Đảng, Nhà nước gặp gian nguy gấp bội phần. Theo dõi bước tự phê bình, phê bình vừa qua thì như hòa cả làng, chẳng biết ai tốt ai xấu. Theo dõi những buổi chất vấn được truyền hình trực tiếp tại kỳ họp Quốc Hội vừa rồi, cử tri hài lòng bao nhiêu với chất vấn thì lại không hài lòng bấy nhiêu với trả lời chất vấn”.
Ông Hoàn kết luận:
“Chẳng lẽ diễn ra tình hình như bây giờ, tham nhũng hàng trăm nghìn tỷ chỉ cần một lời xin lỗi là xong hay sao? Nếu vậy muôn thuở không chống được tham nhũng mà chỉ mở đường cho tham nhũng hơn” - ông Hoàn bày tỏ: “mong mỏi của người dân là phải trị bằng được quốc nạn này”.

Mất một miếng ăn lộn gan lên đầu
Trước chất vấn của các cử tri về “một bộ phận không nhỏ cán bộ thoái hóa, biến chất”, Tổng Bí Thư nói: “Trả lời câu hỏi này không đơn giản”. Dù điều này đã được nói đến từ lâu nhưng chỉ rõ ra bộ phận không nhỏ là bao nhiêu thì “khó” và “trừu tượng”. Tuy nhiên, ông khẳng định, phải tìm cho ra những yếu tố trọng tâm trọng điểm, nếu không sẽ “hòa cả làng”.
Ông Nguyễn Phú Trọng nói tiếp:
“Nói xây dựng Đảng, tổ chức thì điều quan trọng nhất vẫn là xây dựng con người. Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu. Chả bao giờ mình thấy khuyết điểm của mình đâu. Đụng đến lợi ích của mình là phản ứng, nhất là lợi ích nhóm khi đã móc ngoặc với nhau thì vô cùng phức tạp”.
Theo Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, yêu cầu trước mắt đối với cán bộ, đảng viên trước hết phải cảnh tỉnh, đánh thức những người lâu nay bỏ quên những nguy cơ đối với sự sống còn của Đảng. Tiếp đó, là cảnh báo, răn đe và ngăn chặn, cuối cùng mới xử lý kỷ luật.

Chuyện chạy “làm công chức” mất 100 triệu 

Trở lại với chuyện một “cán bộ cao cấp” có lời tố cáo cụ thể về một trong những kiểu tham nhũng “cơ bản” dễ thấy ở Việt Nam. Sáng 7-12 vừa qua, trong buổi họp bàn về Nghị Quyết phân bổ biên chế hành chính, sự nghiệp năm 2013, ông Trần Trọng Dực, trưởng ban Kiểm Tra Thành Ủy Hà Nội lên tiếng tố cáo:
“Tôi xin mách với lãnh đạo quận huyện là trưởng phòng Nội Vụ quận, huyện đang là đầu mối tiếp nhận hồ sơ nhận tiền chạy của các thí sinh để đỗ công chức,số tiền không dưới 100 triệu đồng”.
Lời tố cáo rõ ràng minh bạch, chỉ ra cơ quan nào, ai đang nhận hối lộ. Một thái độ quá dễ dàng, quá đường hoàng, chỉ là lời nói thật của một quan chức cấp cao, nhưng ở Việt Nam lại quá hiếm hoi. Người dân thường chỉ được nghe toàn những lời kết tội mù mờ như “một bộ phận” không tên không tuổi, không đầu không cuối mà người dân thường bị nghe sau các “hội nghị”, các “diễn đàn”, các cuộc “kiểm điểm nghiêm túc”.

Nhiều cán bộ yếu kém nhưng không thể cho nghỉ việc!

Trưởng ban Kiểm Tra Thành Ủy Hà Nội Trần Trọng Dực cho rằng thời gian qua, việc tuyển chọn cán bộ có phẩm chất hơn, song mục tiêu giảm biên chế chưa thực hiện được. Bộ máy không được tinh giản mà năm sau cao hơn năm trước. Ông kể:
“Cơ quan tôi có khoảng 30% cán bộ làm việc tốt, 35% làm việc khá và trung bình, còn lại là giao việc không yên tâm. Điều này cho thấy khoảng 40% cán bộ đang hưởng lương nhà nước không đáp ứng được công việc, nhưng không thể cho nghỉ vì động chạm đến quyền lợi của một bộ phận cán bộ”.
Lại vì “một bộ phận cán bộ” mà không thể cho nghỉ việc những anh lười, anh dốt. Tiền của dân cứ phải nuôi báo cô mấy anh ăn hại đái nát. Chỉ vì sợ những anh này là tay chân, là đàn em, là họ hàng hang hốc của “một bộ phận cán bộ”, tất nhiên “bộ phận” này là những ông quyền cao chức trọng. Và những “ông lớn” ấy tất nhiên là cũng thuộc loại hách xì xằng, mưu đồ riêng tư nên mới dung túng một loại đàn em như vậy trong các cơ quan nhà nước. Đôi khi, lại do chính các “thủ trưởng” cơ quan đó sợ bóng sợ vía thế thôi nên không dám đuổi thẳng cánh những con sâu trong cơ quan mình.
Ông Dực còn chỉ ra nhiều bất hợp lý trong biên chế công chức, như UBND quận Long Biên có 230 biên chế thì thanh tra chiếm 70. Tương tự, huyện Sóc Sơn có 274 biên chế thì có tới 121 thanh tra xây dựng.
Theo ông Dực, thí điểm thành lập thanh tra xây dựng để quản lý trật tự xây dựng trong bối cảnh đang đô thị hóa nhanh, nhưng thành phố vẫn cónhiều công trình xây dựng sai phép. “Thanh tra xây dựng chiếm một nửa hay 1/3 biên chế”.
Người dân không thể hiểu trong một huyện làm gì mà cần nhiều thanh tra xây dựng đến thế, hơn một trăm ông! Nhiều thanh tra mà công trình nào cũng làm sai, làm ẩu. Càng nhiều thanh tra công trình xây dựng càng nhiều sai sót, dân chỉ có chết oan. Một ngôi nhà, một cây cầu, một ngôi trường, ngôi chợ chỉ toàn cát và sắt vụn là dựng lên một tai nạn chực chờ sẵn ngày sụp đổ chụp lên đầu nhân dân.
Ôi! Tai hại thay là cái “một bộ phận không nhỏ” này.

Thi công chức còn loạn hơn 
Ông Dực cho biết: “Thời gian qua một số quận huyện tổ chức thi biên chế tốt, song một số nơi chạy chọt để vào, có nơi người xin vào biên chế chi không dưới 100 triệu đồng”. Ông kể về việc ông đi chấm thi tuyển công chức:
“Tôi từng chấm thi và phát hiện 2 giáo viên tự ý lấy bài của thí sinh để chấm. Tôi yêu cầu Trường Đào Tạo Cán Bộ Lê Hồng Phong phải kiểm điểm giáo viên này. Ví dụ này cho thấy chất lượng tuyển công chức của chúng ta không ổn tý nào”. Trưởng ban Kiểm Tra Thành Ủy Hà Nội còn nhận xét, phẩm chất các cuộc thi công chức có nhiều vấn đề, bài thi của một số công chức không sai so với đáp án một dấu phẩy.
Cũng theo ông Trưởng Ban Kiểm Tra: “Nhiều người nói chi dưới 100 triệu đồng không có chuyện đỗ. Nói đến điều này là rất đau lòng, nhưng đây là thực trạng đang tồn tại”.
Rõ ràng là việc thi cử để được vào làm công chức nhà nước chỉ là chuyện làm cho các quan chấm thi, được ăn hối lộ vô tội vạ. Tất nhiên là có sự chia chác với các giới chức có thẩm quyền khác tại địa phương. Không thiếu những người dân lương thiện cũng xách bút nghiên đi thi và họ rất giỏi nhưng chẳng bao giờ đậu nếu không có đủ 100 triệu và không phải là loại CCCC (tức con ông cháu cha). Những thí sinh VIP có bài mẫu sẵn nên cứ việc chép vô, dốt quá thì thầy đến tận nơi đọc cho mà chép hoặc thầy mang bài của thí sinh về nhà, thay bài khác vào là xong. Bởi vậy nên bài thi mới không sai một dấu phẩy, anh có giỏi đến đâu cũng không thể thuộc nguyên văn như thế được. Chỉ những anh dốt mới “thuổng” nguyên văn mà thôi. Chuyện thi cử, bằng cấp ở Việt Nam đã loạn, thi công chức còn loạn hơn. Như thế thì làm sao tìm ra những công chức giỏi được, hầu hết là những anh kém mới đậu.
Số tiền 100 triệu bỏ ra, tất nhiên là anh công chức ấy sẽ phải lấy lại trong túi dân khi ngồi vào “bàn làm việc” của cán bộ. Không chỉ lấy lại đủ số tiền đã “đầu tư” mà số tiền đó còn sinh lời triền miên đến hết đời công chức… phục vụ nhân dân!!!

Có nhiều nơi còn phải chạy nhiều hơn 100 triệu

- Bạn Nguyễn Hạnh(vntradere4@yahoo.com) viết trên báo Dân Trí:
“Theo như tôi thấy thì ngoài một số ngành như Điện lực, Ngân hàng, Dầu khí... có cơ chế lấy con em người đã phục vụ trong tổ chức cơ quan thuộc bộ máy chính quyền, nhà nước đã công tác lâu năm. Còn hiện tại, các cơ quan Bộ hoặc ngang Bộ hay các cơ quan nhà nước được quyền tuyển dụng cán bộ công chức, đều có giá trên 100 triệu hết. Đơn cử như vào Kho Bạc Nhà nước, Tổng Cục Thuế, Tổng Cục Hải quan, với các đơn vị hành chính sự nghiệp thì tiền lót tay để vào theo tôi được biết là khoảng từ 200 triệu trở lên. Muốn vào các đơn vị có thu, có thu nhập được trích riêng thì lại càng phải lót tay nặng hơn quãng 400-500 triệu VNĐ. Gần đây có Tổng Cục Hải quan, Kho Bạc và Thuế cùng thi, các nhà báo cứ mạnh dạn hỏi xem người ta muốn vào được thì phải chi bao nhiêu tiền. Bây giờ kinh tế khó khăn, nhiều gia đình muốn con cái, người nhà vào được các cơ quan nhà nước để vừa nhàn, vừa ổn định, thôi thì đành chấp nhận đóng một cục tiền như thế để yên tâm hơn so với việc làm ngoài vì chả biết họ đuổi lúc nào, nợ lương ra sao. Chưa kể còn đầy rẫy các tiêu cực xã hội nhăm nhe với những tâm hồn non trẻ”.
- Độc giả Thuy Nga(thuynga201085@yahoo.com) viết:
“Vấn đề này tồn tại lâu rồi mà, nhưng dù sao cũng đáng khen ngợi ông Dực không ngại ngần thẳng thắn đề cập tới nó. Nhưng không làm thế thì các vị có chức quyền làm sao có tiền mà tiêu xài xông xênh như vậy? Lương công chức thì thấp mà cứ nhà lầu, xe hơi ầm ầm. Một số người giỏi thực sự thì không nói làm chi nhưng đó chỉ là thiểu số, còn đa sốmà không bằng cách này cách kia lót tay thì vô sao nổi. Học thì dốt toàn chạy điểm kiếm cái bằng đẹp ra trường, nhà lại có cơ thì còn gì phải lo nữa. Vậy nên, nếu các vị để ý vụ mà dân phản đối ầm ĩ thời gian gần đây như vớinghị định 71 được đưa vào áp dụng đã bộc lộ rất nhiều điểm yếu. Phải chăng đó cũng là hệ quả của một số thành viên soạn thảo không có trình độ (do chạy chọt mà lên), để rồi khi ban hành ra rồi lại rút đi rút lại, dư luận cũng chả hiểu họ làm ăn kiểu gì mà a bờ cờ (ABC) đến vậy???”.
- Độc giảNguyen Van A(tronghoiTNMT@gmail.com) viết:
“Nếu 100 triệu ở Hà Nội còn là quá rẻ. Ở một huyện nghèo thuộc Nghệ An mà muốn vào công chức xã cũng hết hơn 100 triệu, nhiều khi còn mất tiền oan nữa chứ” .

Tại sao người đứng đầu không tự mình giải quyết tệ nạn này?
Có một điều người dân thắc mắc là tại sao ông Trần Trọng Dực, người đứng đầu cơ quan có nhiệm vụ bảo đảm sự trong sạch của đội ngũ công bộc lại chọn cách phát biểu theo kiểu khuyến cáo tại một phiên họp toàn thể của Hội Đồng Nhân Dân (HĐND) mà không phải là tự mình, với chức năng quyền hạn được giao giải quyết vấn đề? Và ngay sau phát biểu này, báo chí bằng nhiều cách mong làm rõ đều chỉ nhận được cái lắc đầu không chỉ của một mình ông Dực. Tại sao các vị có trách nhiệm, có quyền hành lại phải “tránh né” như tránh bom vậy? Thì ra vị nọ còn sợ vị kia ở trên nhìn xuống.
Cũng bởi cái kiểu tuyển chọn công chức như vậy nên trình độ của công chức quá kém, vì quá kém nên mới “tham mưu” cho cơ quan đẻ ra nhiều luật lệ, nhiều quy định lạ đời khiến người dân choáng váng. Tôi sẽ đề cập đến những quy định đó trong một bài sau.
Có lẽ, khi nào phải chỉ ra được một công chức đã làm được những gì, làm như thế nào thì mới hết cảnh phải chạy tiền cả trăm triệu và người dân mới biết được “một bộ phận cán bộ là cái chi chi”. Bà con cứ đợi nhé!

Văn Quang

Minh Nguyễn * Những bước lên trời với ruộng bậc thang


Đang tháp tùng cùng nhóm họa sĩ Mê-Kông Art đi thực tế tại làng gốm đỏ Vĩnh Long .Bất ngờ,tôi nhận được tin nhắn của Mây trên mạng “ – Anh rảnh không ? Lên Sapa đi.Mùa thu nơi đây có hàng trăm thửa ruộng bậc thang đang vào mùa giáp hạt.Lúa chín vàng ươm, đẹp không thua gì Flowering Garden của Van Gogh “. Ôi! Cái tin nhắn có bấy nhiêu chữ, vậy mà nó thật sự lôi cuốn máu đi giang hồ vặt trong tôi, bởi từng chữ từng chữ hàm chứa biết bao sự lãng mạng trông chờ.

Ừ ! Thì lên Sapa – Lào Cai xem mùa thu của Mây dát vàng nương rẩy núi đồi và từng bước dẩn lên tới trời với ngàn thửa ruộng bậc thang, xem ra cũng thú vị,hơn là cứ ngồi ở Sàigòn hứng chịu cái nóng kinh người.

Cơ hội không đến với ai hai lần. Câu nói mang tính triết lý của ai đó đã giúp tôi quyết định cắt ngang chuyến đi “ vọoc “đất cùng với nhóm bạn hoạ sĩ.Bay một mạch về nhà sửa soạn cho chuyến đi liền kề ngay trong ngày hôm sau.

Hà Nội mùa thu đón tôi bằng lá cây sấu,cây cơm nguội,cây xà cừ rơi đầy trên hè phố cùng với mùi hoa sữa nồng nàn cuốn theo hương cốm vòng gói trong lá sen, làm nhớ quay quắc giọng nữ “ Có bóng mùa thu thức ta lòng son muộn.Một ngày về xuôi chân ghé Thăng Long buồn.Có phải em là mùa thu Hà Nội.Ngày sang thu anh lót lá em nằm.Bên trời xa suơng tóc bay “. (* )

Mây đón tôi ngay cửa ga Lào Cai.Trông cô đẹp hơn,thiếu nữ hơn so với lần gặp trước.Nhưng nụ cười thì chẳng lẫn vào đâu bởi hai chiếc răng vàng hé lộ nét duyên con gái H ‘ Mông, dễ làm cháy lòng bất kỳ chàng trai nào,trong đó có tôi.” – Anh đi tàu có mệt lắm không ? – Nếu mệt, em sẽ đền  cho anh được gì nào ? – Những ngày ở Sapa em dành tất cả thời gian đưa anh đi ngắm ruộng bậc thang – Không có gì hơn à ? – Mời ăn cơm “ lam “ với “ thắng cố “ – Còn chợ tình? – Eo ơi ! Anh tham lam quá.”

Hai má Mây tự dưng ửng hồng lên với vẽ thẹn thùng khi nghe điều tôi nói.Chẳng lẽ tới từng tuổi này Mây chưa lần ghé mắt qua chợ tình ? Tôi chợt nhớ Mây mới 16 tuổi. Cái tuổi ngày xưa các cụ ví von “ bẻ gảy sừng trâu “.Còn Mây thì có thể làm hơn gì trong cái dáng con cò bé bé ? Có lẽ do đóan được ý nghĩ trong tôi nên Mây bẻn lẻn hỏi : “ Con trai miền xuôi có dám lên đây ở rể không ? Của hồi môn chỉ vài con trâu và một ít thổ cẩm “.Tôi cười đáp lại : “ Con trai miền xuôi, dám yêu dám liều không ai bằng “.

Con đường 4 D  từ Lào Cai lên Sapa vào mùa thu mây màu biên biếc.Gió heo may bãng lãng, hôn nhẹ trên từng khóm hoa cúc dại mọc ven đường, đang dậy lên sắc vàng hoang dã.Mây ngồi nép sát người bên cửa xe.Mắt cô hướng nhìn lên dãy Hòang Liên Sơn trong veo màu núi. Vô tình,những sợi tóc mai lùa trong gió, hững hờ đậu trên cánh mũi tôi,để lại một mùi hương ngai ngái Sapa.Cái mùi thơm đặc trưng chỉ có ở người con gái miền cao Tây Bắc.Tôi vờ nhắm mắt,căn phồng lồng ngực hít hà thật sâu hương vị núi rừng. Tưởng tôi ngủ say bên cạnh.Mây lay gọi tôi thức tỉnh để chỉ cho thấy những mảng màu sắc ruộng bậc thang do bàn tay những “ nghệ sĩ nông dân “ sắp đặt.Cảm xúc thật sự òa vỡ khi tôi kịp nhìn thấy hình ảnh từng thửa ruộng  rực lên trong nắng .Những thửa ruộng đan xen với nhau giữa màu xanh lúa non,màu vàng lúa chín mọc ra từ khe đá, phủ lên các sườn đồi,để rồi thóang chốc mất hút trong làn mây. Hình ảnh ruộng bậc thang là hiện thực.Là những cung đường ngoằn ngòeo mơ màng ngái ngủ trong mây.Là đồi núi trong mùa lúa chín, ruộng nương cứ tròn đầy dâng mãi lên tận mây xanh những mâm xôi vàng hực.Là từng bậc chân thang  phối màu hình họa cho ruộng lúa thêm lung linh,kỳ ảo bước chân Từ Thức lên trời.Ôi ! Làm sao kể cho thật đủ đầy những đường nét đặc trưng phong phú khi nói về ruộng bậc thang. Không chỉ riêng ở Sapa – Lào Cai mà còn phải kể tới ruộng bậc thang Banaue – Philippines ,Yuangyang – Vân Nam , Ubad – Indonesia , Annapuma – Népal , Mea Rim – Chiang Mai, Long Ji – Quế Lâm . . . mà đọc giả tạp chí du lịch Travel and Leisure bình chon là đẹp nhất châu Á và thế giới.

Không thấy tôi có ý kiến gì. Mây thắc mắc hỏi :” Chắc,mới bao nhiêu đó hình ảnh chưa đủ chinh phục trọn vẹn tình cảm của anh đối với những thửa ruộng bậc thang nơi đây ? Điều này cũng dễ hiểu thôi.Rồi ngày một ngày hai,sau khi đã mục thị sở tại, hẳn anh sẽ kềm lòng không đậu trước vẽ đẹp vô cùng lộng lẩy do thiên nhiên ban tặng cho vùng đất này mà xem. Tới lúc đó chưa biết ai phải lụy ai à nghe ? “. Tôi cười. Không vội trả lời Mây,bởi tôi đang muốn tự hỏi xem hình ảnh ruộng bậc thang Sapa – Lào Cai có gì đặc biệt so với hình ảnh ruộng bậc thang ở Banaue mà tôi đã xem trên Youtube ? Tôi hòan tòan thất vọng khi kịp nhận ra sự so sánh khập khiểng của mình.Bởi  không có sự so sánh nào giống với sự so sánh nào.May mà tôi chưa đem chuyện này ra nói với Mây,nếu không cô sẽ có được trận cười no bụng.Hơn nữa, ruộng bậc thang Banaue tuy có khỏang 2000 năm tuổi tại vùng núi Lflugao – Philippines, được tổ tiên người Batad tạo dựng.Nhưng xem ra đời sống cư dân lẫn cảnh quang thiên nhiên đã bị thời gian bào mòn ,làm mất đi ít nhiều vẽ đẹp hoang sơ vốn quyến rũ trước đó, dù có được Unesco công nhận.Và nếu chỉ cần bầu chọn giữa hai  ruộng bậc thang Banaue và Sapa – Lào Cai thôi ( trong số bảy cảnh quan thiên nhiên đẹp nhất được đề cử ) tôi sẽ không do dự chọn ruộng bậc thang Sapa – Lào Cai. Điều này không hẳn chỉ có riêng nơi tôi mà ,hầu như các nghệ sĩ nhiếp ảnh nào cũng say mê và tốn nhiều phim ảnh để mang về cho mình nhiều tấm huy chương giá trị khi chụp các thửa ruộng bậc thang quê hương

Tuy nhiên,ít ai hiểu được “ đằng sau vẻ đẹp “ của những dải lụa vắt lên trời.Những mảng màu không chủ đích do nông dân tạo nên.Thì ruộng bậc thang kia là cả một nền văn minh ruộng rẩy lúa nước.Là cả một triết lý nhân sinh mà bao đời nay bà con người Mông,người Dao,Tày,Giáy . . .khó khăn khai khẩn, canh tác trong điều kiện khắc nghiệt của khí hậu cùng với sự kiến tạo địa hình nhiều núi non, nên phải canh tác trên các sườn núi có dộ dốc cao,dễ gặp nhiều bất trắc.Hành vi đó không chỉ là sự ứng xử mà còn là thành tựu cả về mặt văn hóa lẫn tri thức dân gian.Qua đó đã phát huy tác dụng, tạo ra năng xuất lúa nước cao hơn sản xuất lúa nương rẩy. Và từ những thách thức của thiên nhiên. Muốn hạn chế những rủi ro cho con người và trong sản xuất người xưa hình thành ra các nghi thức tín ngưởng.Bởi họ quan niệm động thực vật xung quanh con người đều có phần hồn lẫn phần xác.Cho nên để ổn định tâm lý cũng cần tới sự cúng kiến như ; lễ cầu mưa,lễ mừng cơm mới,lễ cúng ma,lễ cúng các dụng cụ nông nghiệp . . .

Mây giải thích : “ đó không phải là hủ tục mà là nét văn hóa đặc trưng của dân tộc vùng cao Tây Bắc, cần được phát huy nhiều hơn nữa trong các buổi hội hè, nếu muốn lôi kéo du khách  đến với Sapa “.

Thực tế. Đến Sapa – Lào Cai đi du lịch. Ngoài việc được thưởng thức khí hậu trong lành,tham quan phong cảnh đẹp,leo núi,ăn các món ăn đặc sản;mà không biết chút gì về phong tục tập quán của người dân bản địa,quả thật thiếu xót .Mây nói đúng. Tiếc rằng tôi không có nhiều thời gian đi tham quan hết các điểm danh lam thắng cảnh trong cùng một dịp. Nhưng việc chia nhỏ mỗi chuyến đi cũng có cái hay của nó. Vì ít ra tôi còn được gặp lại sơn nữ “ thành phố trong mây thành phố trong sương “ của tôi nhiều lần. Mây cũng đồng tình với tôi về điều này .Cho dù cô một mực ta thán “ đàn ông con trai miền xuôi chỉ nói cho vui vậy thôi “.

Đến ki-lô-mét 24 xe dừng lại. Mây cho biết nơi đây thuộc xã Trung Chải, có ruộng bậc thang cao 121 bậc nằm ở thôn Vù Lùng Sung, được đọc giả báo du lich Mỹ đề cử là một trong bảy ruộng bậc thang đẹp nhất.Nghe giới thiệu không thôi chưa đủ.Phải thực tế tận nơi mới thấy hết sự vất vả,nhọc nhằn do sức người biến núi cao,đất dốc bạc màu thành những “ bồ thóc di động “; đồng thời cũng tạo ra cảnh quan xinh đẹp để mọi người thưởng lãm.

Từ đường 4D tôi theo Mây rẻ phải. Đi bộ trong khỏang thời gian khá lâu về hướng núi Fanxipăng. Dọc hai bên đường, ngoài dốc cao dựng đứng, là hàng ngàn cái thang lúa vàng đua chiều cao, vút lê tận trời. Phải thừa nhận nông dân ở đây hẳn phải là nghệ nhân đẽo ruộng,đẽo đá chuyên nghiệp, đã tạo ra hình thù ruộng bậc thang không thửa nào giống thửa nào.Cái hình chóp, cái hình mâm xôi,hình da hổ,hình cái thang . . .  trông thật quyến rũ. Có lẽ,do thấy tôi bị mê hoặc bởi màu sắc nửa vàng óng,nửa vàng sậm giữa mùa lúa đang vừa chín tới. Mây cười nói : “ ở trên này có hai mùa tuyệt đẹp để ngắm nhìn sự kỳ thú từ ruộng bậc thang – mùa nước đổ ( tháng 5-6 ) – và mùa thu. Mùa nước đổ là mùa nước từ trên trời rơi xuống. Lúc đó nước từ đỉnh núi hay đầu nguồn chảy đầy suối rồi dẩn qua hệ thống mương mán thô sơ, chia nước ra đều khắp các thửa ruộng.Sao cho nước ngập chân lúa không sâu để không bị úng khi mưa,không bị hạn khi nắng lớn. Điều đó gọi là gì nếu không phải là nghệ thuật ? Tiếc rằng anh không đến đây sau mùa gặt. Lúc đó đất ở sườn đồi, sườn núi được san ủi thành thửa ,có cùng độ dốc, hé lộ ra từng vạt đất đỏ chói chưa kịp bừa ngấu bên từng bậc, từng bậc thang đất xếp từ chân lên tận đỉnh núi trông đẹp đến mê hồn “.

Nghe Mây tả ruộng bậc thang vào mùa hè làm tôi nghe bắt thèm.Ừ ! Nếu muốn thì lần sau lại lên đây. Vừa được xem ruộng bậc thang trong mùa đổ nước cấy, vừa được ngắm Mây. Có mất mát gì đâu.

Mệt.Tôi ngồi xuống cạnh đường.Trên đầu mây di chuyển rất nhanh,mới đó đã phủ che cả bầu trời,che luôn cả những thửa ruộng thơm lừng hương lúa, khiến tôi có cảm giác như chỉ cần đưa tay ra là có thể tóm gọn được những phiến mây nhẹ như bông.

Thấy cũng vừa đủ cho một ngày đi ngắm các thửa ruộng bậc thang ở Trung Chải.Tôi đề nghị  Mây đón xe đi tiếp lên Sapa để còn ăn uống, nghỉ ngơi.Bởi lẽ từ sáng tới giờ tôi chưa có chút gì trong bụng;ngoại trừ ổ bánh mì ba-ghét và chai nước tinh khiết do nhà tàu cung cấp đêm qua.

Tội nghiệp,khi biết được điều này, Mây luôn miệng xin lỗi tôi về sự vô ý của mình. Mây hứa ngày mai sẽ bắt đền cho tôi một chuyến ghé xuống thung lũng Mường Hoa của người Giáy ở xã Tả Van. Xem các nghệ sĩ nông dân triển lãm sắp đặt ruộng bậc thang từ các sườn đồi một cách tài tình, lãng mạn ở hai bên bờ suối.Tới lúc đó tôi sẽ có cái nhìn chân thật hơn về sự kiên cường và phóng khóang của con người; thông qua việc cày cấy,gieo trồng lúa nước trên vùng đồi núi cao khắc nghiệt. Để có sự cảm thông,chia xẻ nỗi khó khăn vất vả trong việc dùng sức người để thắng thiên nhiên,nhằm tạo ra của cải vật chất cho đời sống phong phú sau này.

Dĩ nhiên. Tôi không có gì phải bàn thêm về lời hứa hẹn xem ra khá quyến rũ của Mây, trước việc đi xem ruộng bậc thang ở thung lũng Mường Hoa. Một địa danh không chỉ nổi tiếng  đẹp nhất trên bản đồ du lịch Sapa; mà còn có nhiều thửa ruộng lung linh, huyền ảo không thua gi ruộng bậc thang ở Trung Chải./.

(*) Nhớ mùa thu Hà Nội – TQL & TNC


Minh Nguyễn

TRẦN VĂN SƠN * L ờ i t h ề S á t T h á t


 

Người xưa cuối đời
Rửa tay gác kiếm
Lên non ẩn dật
Thong dong bầu rượu túi thơ
Ngày bày ván cờ
Phá thế trận hỗn mang
Đêm nằm tréo cẳng
Nhìn trời
Ngâm thơ vịnh nguyệt

Ta sinh thời mạt vận
Học không thông vần quốc ngữ
Đọc hoài chưa hiểu sách thánh hiền
Tuổi trẻ ta
Ăn chưa no lo chưa đủ
Mẹ cha còn đùm bọc áo cơm
Đã phải lao đầu vào cuộc chiến tranh
Xông pha trận mạc
Bạn bè ta
Đứa mất tích Tết Mậu Thân
Thằng vùi thây Mùa Hè Đỏ Lửa

May mà ta sống sót trở về
Mang trái tim Trường Sơn rướm máu
Để ta còn nhìn thấy ngày ba mươi tháng tư
Bầy thú dữ về thành
Nhốt người trong chuồng nuôi súc vật
Tuổi trẻ ta
Bị dìm xuống tận cùng địa ngục
Hoàng Liên Sơn
Nam Hà
Gia Trung
Bùi Gia Mập
Hàng trăm trại tù khổ sai
Hàng vạn nấm mồ vô chủ
Bạn bè ta
Nằm xuống
Khí uất xông lên
Mịt mờ trời đất

Ta nay cuối đời
Bẻ súng xa quê
Lưu lạc năm châu bốn bể
Ngày còng lưng may vá nuôi con
Kiếm từng xu bạc lẻ
Sức kiệt thân tàn
Đêm trằn trọc năm canh
Vọng lời thề SÁT THÁT
Đầu óc trăm ngàn mủi kim châm
Loạn tâm
loạn trí

Hận ta là kẻ bất tài
Không như Ức Trai Nguyễn Trãi
Truyền hịch Bình Ngô Đại Cáo
Hận ta là kẻ bất tài
Không như vua Trần Thánh Tông
Mở hội nghị Diên Hồng
Luận bàn việc nước
Đồng lực
Đồng tâm
Đánh đuổi ngoại xâm
Bảo vệ giang sơn tổ quốc

Thôi ta đành tập tễnh văn chương
Viết lời thơ chính khí
 

TRẦN VĂN SƠN

7/2011

hoànglonghải * Chuyến xe




Khi anh ấy lên khỏi cửa xe “buýt”, đứng lại giữa lối đi thì tôi chú ý đến anh ấy ngay.
Dáng người “cao ráo” - như người ta thường nói. Mũ lưỡi trai cầm nơi tay. Có phải anh ấy muốn khoe cái đầu tóc: tóc cắt kiểu hơi dài, tài tử ciné, hơn là tóc ngắn của các ông nhà binh. Mái tóc cong tự nhiên, không phải uốn. Hai mái chừa đen, dài. Anh còn dáng vẻ một học sinh, một sinh viên hơn là một người lính. Bộ đồ nhà binh tuy ủi thẳng nhưng mầu đã phai. Với nước da xạm nắng, trông anh phong sương, có lẽ đi hành quân nhiều.
Anh nhìn mấy dãy ghế bên kia. Ghế nào cũng đã đầy khách. Phía tôi cũng có mấy dãy, nhưng chỉ có cái ghế sát tôi là còn trống. Có tiếng chân người bước lên xe. Sợ mất chỗ, anh ấy đến gần tôi, hỏi:
- “Có ai ngồi đây chưa cô?”
Tôi trả lời cộc lốc:
- “Không.”
Anh ấy lại hỏi:
- “Tôi ngồi được không?”
Tôi trả lời một cách khó chịu:
- “Xe của chủ, ai muốn ngồi đâu cứ ngồi.”
Anh ấy ngồi xuống, lặng lẽ.
Một lúc sau, tôi nói:
- “Khi nãy có thằng cha ngồi đây, cứ giả bộ ngọ nguậy, đụng tôi hoài. Tôi mắng cho, bỏ lên ngồi trên kia.”
Có lẽ câu tôi nói làm anh ấy e ngại thêm, ngồi im, không nói, không nhúc nhích như người ta. Tự nhiên tôi thấy “tội nghiệp” cho ảnh.
Em bé trên tay tôi đang ngủ say. Một chốc, khi xe bắt đầu chạy thì nó dậy, khóc ụ ẹ. Tôi nói:
- “Để mẹ lấy sữa cho cưng!”
Nói rồi, tôi cúi xuống, lôi cái xách tay phía dưới chân của tôi ra, lấy bình sữa đưa cho em bé. Chưa bú được bao nhiêu, thằng bé lại ọ oẹ, nghiêng mặt, đẩy nuốm vú bình sữa ra. Biết em bé không muốn bú nữa, tôi đậy nắp bình sữa, bỏ lại vào xách.
Khi lấy bình sữa ra cũng như khi đem cất, để rộng chỗ, tôi giang chân tôi ra. Đầu gối tôi đụng vào đầu gối anh ấy tới hai lần. Lần đầu, anh ấy có vẻ hốt hoảng, nói “Xin lỗi”. Tôi vẫn làm mặt nghiêm, trong lòng vẫn thấy buồn cười. Tự tôi chớ có phải tự anh ấy muốn đụng chạm chân tay gì đâu. Anh ta sợ tôi cự nự không đúng chỗ hay anh là người lịch sự?
Em bé thức dậy, chơi với mẹ, cười toe toét mỗi khi tôi ghẹo nó. Anh ấy ngồi bên cạnh, nhìn em bé, cười, không nói gì.
Một lúc sau, anh ấy hỏi:
- “Bé dễ thương quá, được mấy tuổi, cô?”
Thấy người khác khen con mình, tôi cũng vui, trả lời nhỏ nhẹ hơn trước:
- “Em bé gần hai tuổi.”
- “Cô đưa em bé đi thăm cha?” Anh ấy hỏi.
Tôi trả lời:
- “Ba nó tử trận rồi, khi tôi sắp sinh.”
Tôi nghe tiếng thở dài, rồi tiếng anh ấy, nghe như than:
- “Tôi nhiệp quá. Chiến tranh khủng khiếp thật!”
- “Ông đi lính mà cũng sợ giặc giã?” Tôi nói.
- “Với tôi hay những người như chúng tôi, rồi cũng quen. Đáng thương là nhiều đứa bé lớn lên không có cha. Tương lai chúng nó sẽ ra sao, tội nghiệp lắm!”
Tôi làm thinh, cũng thấy buồn cho con mình.
Một lúc, anh ấy lại hỏi:
- “Vậy cô đưa em đi đâu đây?”
Thấy anh ta ăn nói nhỏ nhẹ, dễ chịu, tôi trả lời:
- “Đi thăm ông bà nội. Bởi vì tôi sắp lấy chồng?”
Anh ấy không nói gì cả. Tôi lại nghe tiếng thở dài.
Tại sao anh ấy thở dài. Nếu tôi lấy chồng, em bé sẽ đáng thương hơn nữa hay sao? Việc tôi lấy chồng không đúng với phong tục nước ta hay sao? Chồng chết là phải ở vậy nuôi con, “phu tử tòng tử”. Tôi không chống lại phong tục ấy, nhưng tôi đang gặp hoàn cảnh oái ăm. Tôi nói:
- “Tôi sắp lấy chồng, mà lại ông chồng già bằng tuổi ba tôi.”
Vừa khi đó, xe dừng lại ở bắc Cần Thơ. Tôi chuẩn bị xuống xe đi bộ qua “bắc”. Anh ấy cầm cái xách đựng đồ của tôi, nói:
- “Để tôi cầm cho, cô bồng em bé đi.”
Chúng tôi xuống xe. Tôi đi trước, anh đi sau. Tôi thấy ngại! Nếu ai nhìn vào, có thể nghĩ rằng anh ấy và tôi là một cặp vợ chồng.
Sau khi qua “bắc”, xe chạy trên quốc lộ 4, em bé lại ngủ. Tôi lại nói chuyện với anh. Tôi nhớ tiếng anh thở dài nên nghĩ anh là người có lòng tốt. Bỗng anh ấy hỏi tôi:
- “Cô buồn lắm à?”
- “Buồn! buồn lắm!” Tôi nói.
- “Cô sắp lấy chồng, lại có lứa đôi. Cô còn trẻ, tự nhiên thôi! Sao lại buồn?” Anh ấy nói.
- “Nếu lấy chồng bình thường, đâu có gì phải suy nghĩ. Đằng nầy, cha mẹ tôi lại ép buộc!” Tôi than thở.
- “Sao lại ép buộc? Đâu như ngày xưa!” Anh ấy nói.
- “Ba má tôi thấy tôi góa chồng, muốn tôi lấy một ông Tầu già, góa vợ nhưng giàu có.” Tôi tâm sự.
- “Có lẽ mấy ông bà thực tế. Ông Tầu già đâu phải đi lính, lại giàu có, cô khỏi sống thiêu thốn. Lấy chồng quân đội như chúng tôi, vợ con thiếu thốn lắm. Phải không?” Anh ấy nói.
- “Tôi không sợ hiếu thốn, tôi chỉ sợ nghe tin chồng tử trận, khủng khiếp lắm. Nghe như trời đất sập dưới chân.”
- “Tôi cũng nghĩ vậy!”
- “Vậy là anh sợ cho... vợ?” Tôi hỏi.
- “Cũng vì vậy mà tôi không lấy vợ, mặc dù mẹ tôi muốn tôi có vợ. “Lấy vợ đi cho mẹ yên tâm”. Mẹ tôi nói hoài.”
- “Vậy thì lấy vợ đi!” Tôi khuyến khích.
- “Để vợ tôi chịu cảnh như cô à? Cô biết rồi đó!”
Tôi thở dài. Nỗi đau khổ tôi đã đi qua, tôi không muốn ai phải như vậy.
- “Nhưng tôi thì khác! Anh à!” Tôi nói.
- “Khác là sao?”
- “Cha mẹ tôi là cha mẹ nuôi. Tôi là con lai Ấn Độ. Họ xin tôi từ khi tôi còn nhỏ. Nay cha mẹ tôi đã già, sống khó khăn. Nếu tôi lấy chồng giàu, cũng giúp đỡ cha mẹ chút ít. Tôi thương cha mẹ tôi, dù họ không đẻ tôi ra. Tôi vâng lời, nhưng lấy chồng như vầy thì buồn, buồn lắm! Tôi mới về thăm ba má chồng. Đi một vòng cho khuây khỏa, chờ ngày về với ông Tầu già.”
Anh ấy nói:
- “Cô lai Ấn Độ nên cô đẹp. Đẹp lắm. Có vợ đẹp hạnh phúc chán!”
Nghe khen đẹp, tôi chỉ cười. Tôi từng được nhiều người khen đẹp, có gì lạ ở lời anh ấy khen đâu!
Thế rồi qua câu chuyện ấy, tôi và anh ấy không nói gì cả, ngồi im rất lâu. Có lẽ chúng tôi thấm nỗi đau của mỗi người. Tôi thì đi lấy chồng, anh ấy thì không muốn lấy vợ.
Xe qua khỏi Cai Lậy, tôi nói:
- “Tới Trung Lương thì tôi xuống. Anh đi Saigon thăm ai?”
- “Thăm mẹ. Hơn 6 tháng nay, tôi mới về thăm. Tôi về nhà thì vui. Cô về nhà chắc không được vậy?”
- “Vui gì đâu, bao giờ cũng nặng trĩu trong lòng.” Tôi than thở.
- “Bao giờ cô lấy chồng?” Anh ấy hỏi.
- “Cả tháng nữa.”
Anh ấy lại thở dài. Tôi thấy anh thường thở dài, khi nghe điều gì không vui, ngay cả cái buồn đó là cái buồn của tôi, không phải cái buồn của anh ấy.
Chúng tôi lại trầm ngâm, không nói chuyện gì.
Xe gần tới ngã ba Trung Lương, anh ấy nói:
- “Hay cô đi Saigon một chuyến cho khuây khỏa!”
- “Tôi có quen ai ở Saigon đâu!” Tôi nói.
- “Cần gì quen. Saigon có nhiều thứ giải trí. Rạp cải lương, rạp hát bóng, nghe nhạc sống. Tôi có thể đãi cô một chầu.”
Anh không nói sẽ ngủ lại ở đâu. Tôi biết anh ấy tránh, không nói chuyện ấy. Tôi cũng chẳng thèm hỏi và cũng không muốn anh ấy nói tới chuyện đó!....
Xe tới ngã ba Trung Lương, nhiều người xuống xe, tôi ngồi yên. Anh ấy cũng làm như không để ý việc tôi không xuống. Xe lại tiếp tục hướng về Saigon.
Khi chúng tôi xuống xe ở bến xe Nguyễn Hoàng, anh ấy tay cầm cái xách của tôi, tôi bồng em bé. Anh ấy đứng sát bên tôi nói nhỏ:
- Mình vô khách sạn ở đằng kia, rửa mày rửa mặt chút dỉnh rồi đi ăn cơm.
Tôi làm theo anh ấy, như một cái máy.
Anh ấy chọn một phòng ngủ có một giường rộng, thay vì hai giường. Tôi biết thâm ý anh ấy nhưng cũng không nói gì. Tôi có thiện cảm với anh ấy ngay từ đầu, khi anh vừa lên khỏi cửa xe buýt.
Khi vào tiệm cơm, anh ấy chăm sóc rất chu đáo, gọi từng các món ăn tôi chọn và món ăn cho em bé.
Ăn xong, tôi bảo “Thôi về đi!” Anh ấy hỏi tôi:
- “Không đi coi ciné hay nghe nhạc sao?”
Tôi nói “Không”. Một lúc tôi nói thêm: “Em muốn về tắm, đi xe tối ngày, dơ dáy lắm.
Về tới phòng, tôi để em bé ngồi chơi với anh ấy, tôi đi tắm và giặt bộ quần áo đi đường, phơi ở phòng ngoài. Xong đâu đó, tôi nói với anh, nửa đùa nửa thật:
- “Anh đi tắm đi, em không nằm chung với người ở dơ đâu nghe!”
Anh ấy vội vàng nghe lời tôi.
Khi anh ấy đang tắm, trời mới hoàng hôn, tôi bồng em bé ra ngồi trước hành lang. Bên kia có một quán càphê nhạc, đang phát ra những bài do Duy Khánh hát, khá hay.
Một lúc tắm xong, anh ấy kéo ghế ra hành lang, ngồi bên cạnh tôi. Tôi nói:
- “Ngồi đây nghe nhạc đi, hay lắm.”
Bấy giờ Duy Khánh đang hát bài “24 giờ phép”. Anh ấy nói:
- “Bài nầy dâm lắm! Gì mà “Ta đưa ta tới đỉnh tuyệt vời”. Em có biết nó nói gì không?”
Tôi cười:
- “Em có chồng rồi. Anh làm như em đang còn con gái. Việc ấy cũng bình thường thôi, nếu người ta yêu nhau.”
- “Tôi thì không may mắn, hành quân “mút mùa Lệ Thủy”, lâu lâu mới về Saigon, đi chơi lang thang ở mấy cửa hàng càphê.”
- “Anh đi hành quân ở những đâu?”
- “Bốn vùng chiến thuật thì chưa đủ, nhưng vùng Bốn thì mòn rách nhiều áo quần rồi.”
- “Cực không?” Tôi hỏi.
- “Cực, nguy hiểm, súng đạn, mìn bẩy, đủ cả, sống chết chớp mắt.” Anh ấy trả lời.
- “Nên anh không lấy vợ?” Tôi lại hỏi.
- “Lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ...” Anh ấy đọc câu thơ ấy coi như để trả lời tôi.
Băng nhạc, bây giờ, tình cờ vừa hết bài “Trên bốn vùng Chiến thuật” chuyển qua bài “Kẻ ở miền xa.”
Tôi hỏi:
- “Anh thấy bài hát đang hát đó có thật không?”
- “Thật chớ! Đêm ở tiền đồn, đi hành quân, nghe hát thì cũng đỡ buồn, nhưng phải chi có ai đó đến với mình!”
- “Để ôm trong tay? Người ta có muốn vậy không?”
Anh ấy cười:
- “Thèm chết đi được.”
Ham nói chuyện, tôi không ngờ chúng tôi đang ngồi rất khít nhau. Bỗng nhiên, tôi thấy thương anh ấy. Anh cầm tay tôi, bóp nhè nhẹ. Rồi anh ấy hỏi, ngập ngừng, sợ hãi:
- “Tối nay, em... em... có cho... anh không?”
Tôi biết anh ấy nói gì, nhưng tôi không trả lời. Một lúc sau, lâu lắm tôi nói:
- “Chồng em chết gần hai năm nay, em chưa từng gần đàn ông lại. Anh đừng mạnh bạo nghe, em sợ lắm!”
Anh ấy cười và hôn nhẹ vào má tôi.

Tôi nằm nghiêng về phía vách tường, dỗ cho em bé ngủ.. Anh ấy nằm ngoài, sau lưng tôi, áp người vào lưng tôi. Hơi ấm từ người anh ấy tỏa ra sau lưng tôi, khiến tôi có cảm giác rất dễ chịu. Tôi biết chuyện gì sắp xảy ra, và... liệu tôi có đi quá xa?
Tôi là đứa con gái, con nuôi, không rõ cha mẹ đẻ là ai, nên từ nhỏ, muốn sống, và để sống, tôi luôn luôn ngoan ngoãn, nếu không muốn nói là cam chịu, cam chịu số phận, cam chịu những gì cuộc đời đem đến cho tôi, dù ngọt, dù bùi hay đắng cay, chua chát. Tôi chưa bao giờ đòi hỏi cái gì cho tôi, của tôi, ngay cả thể xác nầy, con người nầy. Thân xác nầy cũng không phải là của tôi khi tôi cam chịu hoàn cảnh đưa tới.
Trong nỗi u sầu và tuyệt vọng đó, gặp anh ấy, sự hòa nhã, hiền dịu của anh, anh ấy như một cái gì đó, nâng tôi lên. Thái độ tác phong của anh đối với tôi, làm cho tôi thấy tôi có cái gì đó là của tôi, được tôn trọng và được.... thương yêu thật sự. Tôi hy vọng như vậy. Điều ấy, cái ấy như một động lực đẩy tôi đi xa hơn, khi tôi quyết định không xuống xe ở ngã ba Trung Lương. Tôi lại suy nghĩ tới nó, cảm nhận nó, cảm nhận một điều gì đó, tuy mơ hồ nhưng chắc chắn, rằng tôi được tôn trọng, thương yêu. Cái gì đó là con người tôi, của tôi, được giải phóng khỏi những gì ràng buộc, ép uổng tôi trong suốt cuộc đời vừa qua...
Có phải đó là số phận, là cái nghiệp, là cái gì Chúa cho, Phật độ. Hay nó chỉ là một sự tình cờ trong cuộc đời nầy, một sự tình cờ khiến tôi và anh ấy đi chung chuyến xe, chung một chỗ ngồi, chung một chỗ nằm. Tôi không tin có một động lực thiêng liêng nào xui khiến anh ấy đến với tôi trên chuyến xe đò Cần Thơ - Saigon. Chính cái cá tính, sự dịu dàng và khéo léo của anh đã đưa tôi vào vòng tay anh ấy, trong chút nữa đây...
Tôi không cho rằng đây là một là sự liều lĩnh, nhắm mắt đưa chân. Tôi cảm nhận rất rõ cái tốt, cái hiền nơi anh ấy, một sự giải thoát nào đó anh ấy đem lại cho tôi, dù chỉ trong một ngày, một đêm hay một khoảnh khắc nào đó. Tôi thấy tôi được tôn trọng, tự do và tôi cần sự tự do ấy. Tôi không biến tôi thành kẻ nô lệ, cấp dưới, thua thiệt với anh ấy mà chính là một sự ngang hàng, bỉnh đẳng. Vậy thì những gì xảy ra giữa tôi vơi anh ấy, ngay lúc nầy hay đêm nay, ngày mai, với tôi là giải phóng, một sự tự do chọn lựa của tôi. Nó cho tôi được công bằng với con người thật của tôi.
Một lúc sau, anh ấy gác một bàn chân lên cổ chân tôi. Tôi biết đây là một sự thăm dò. “Thăm dò địch” trước một cuộc hành quân đó có phải không, như tôi đã từng nghe chồng tôi nói tới.
Tôi muốn anh ấy bạo dạn hơn, đừng e ngại nên tôi đưa lên một chân và cặp bàn chân anh ấy giữa hai cổ chân của tôi, giữ chặt lại, không cho nhúc nhích.
Biết phản ứng ấy, đúng như ý tôi muốn, anh ấy đặt một bàn tay lên vai trần của tôi, thoa lên xuống nhè nhẹ. Tôi nói nhỏ: “Chờ chút, để em bé ngủ say!” Nói xong câu đó, tôi biết tôi thành thật, thú thiệt lòng tôi với anh. Nó có nghĩa là đợi em bé ngủ say, tôi sẽ cho anh ấy chớ gì. Biết vậy, nhưng tôi không hối hận gì về sự thành thật của tôi cả.
Một lúc sau, tôi quay người lại phía anh ấy, và nói trong hơi thở: “Con em ngủ rồi anh ơi...” Tôi biết ngay câu tôi vừa nói có hai ý nghĩa: Tôi phải lo cho con tôi trước, trước khi làm những gì cho tôi. Đó là “văn minh Việt Nam” mà thầy giáo đã giảng ở một giờ triết nào đó năm tôi học lớp cuối bậc trung học. Câu nói đó cũng là một lời tự thú của tôi với anh ấy nữa. Tôi tự thú con người tôi, ý muốn và cảm xúc của tôi khi nằm bên anh ấy.
Khi tôi nói xong câu đó, anh ấy ôm nghiền lấy tôi mà hôn, khắp mặt mày. Tôi hưởng ứng môt cách nồng nhiệt trong khi tôi chấp nhận nó và cho đó là việc bình thường. Tôi góa chồng đã hai năm nay. Từ đó đến giờ tôi không gần gủi với bất cứ người đàn ông nào. Bây giờ, tôi yêu anh ấy và tôi cho anh ấy, có gì đâu!
Anh ấy thì hành quân liên miên, hơn 6 tháng chưa về Saigon. Những người “chinh chiến bấy lâu” có muốn chuyện ấy, có thèm chuyện ấy, cũng là bình thường. Đó là chưa kể tâm lý những người sống rày chết mai, “một chút huy hoàng” trước khi một chuyện gì đó sẽ xảy ra, ở một trận đánh, hôm nay hay ngày mai, đâu biết trước được.
Tôi và anh ấy chìm ngập trong sự nóng bỏng của thể xác. Khi anh ấy trườn lên mình tôi, tôi thấy ngộp thở một cách dễ chịu. Tới khi anh ấy đi sâu vào người tôi, tôi níu chặt lấy anh ấy như một người bị nước cuốn, cố bám vào một cái phao để khỏi chết đuối. Tôi sắp chết đuối. Anh ấy nói thầm bên tai tôi: “Em thấy sướng không?” Tôi trả lời trong hơi thở: “Anh, anh... đng hỏi...” Anh ấy cứ nói: “Anh phải là người làm cho em sướng nhứt...” Và rồi tiếng rên, tiếng thở gấp của anh và tôi quyện lấy nhau...
Tôi không còn là con người tự chủ. Tôi như con thú hoang giữa đồng cỏ hoang dã. Tôi tận hưởng những gì tạo hóa cho. Tôi sẽ thấy đau đớn, tôi sẽ không còn sung sướng khi tôi vượt khỏi cái cái bản năng của loài vật mà trở lại làm người như tôi đã sống từ khi còn bé đến giờ.

&


Tôi ngồi trên chiếc xe đò để về Mỹ Tho, em bé ngồi trên chân tôi. Một tay tôi giữ nó, một tay tôi đưa ra ngoài cửa xe, nắm chặt bàn tay anh ấy đang đứng bên hông xe. Tôi biết vậy là hết, hết một thời gian ngắn ngủi chưa quá 24 giờ đồng hồ, kể từ chiều hôm qua, khi tôi quyết định không xuống xe ở ngã ba Trung Lương, cho đến sáng hôm nay, giờ phút nầy, khi xe đang chuẩn bị chạy về miền Tây. Thời gian ngắn ngủi ấy, người ta có thể gọi bằng nhiều cái tên khác nhau: nổi loạn, vùng dậy, một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nhắm mắt đưa chân... Tôi không cần suy nghĩ về những cái tên gọi ấy, cái tên nào là chính xác. Nhưng tôi biết đó là một quãng thời gian tôi tự làm chủ con người tôi, làm chủ cái quyền sống của tôi, không bị ràng buộc, không bị câu thúc vào một cái gì hết. Tôi được tự do, hoàn toàn tự do, ngay cả tự do trước những yêu cầu, đòi hỏi của anh ấy. Cho hay không cho, tự tôi quyết định lấy. Anh ấy hay bất cứ một ai, không ép buộc tôi được.
Chút nữa đây, khi tôi về tới nhà, tất cả những tự do ấy sẽ hết. Tôi lại bị ràng buộc vào gia đình, vào xóm làng, vào xã hội, vào lễ giáo, lễ nghi, vào phong tục, tập quán. Tự do sẽ hết và tôi không còn tự tôi làm chủ con người tôi được nữa. Tôi không thể làm được những gì tôi muốn, tôi cần.
Vui buồn sướng khổ, tất cả không phải tự tôi mà có, cũng không có ai, một quyền lực thiêng liêng nào đó, ban phát cho tôi. Tất cả đều do những người chung quanh tôi đem lại cho tôi, biếu tôi, tặng tôi hay ép buộc tôi. Tôi muốn quăng bỏ hết, để được sống tự do như quãng thời gian ngắn ngủi tôi đi theo anh ấy. Nhưng anh ấy cũng chẳng làm gì được. Anh ấy không giúp gì tôi được. Anh ấy đâu dừng lại đây, ở đất Saigon nầy. Chiến tranh đã kéo anh ấy đi, vào những vùng đất xa xôi nào đó, trong ruộng rẫy, trên núi cao. Và ngay chính anh, trong cuộc chiến tranh ấy, cũng không nắm được tính mạng anh. Chính anh cũng sợ một ngày kia không về thì bao nhiêu người sẽ buồn khổ, trong đó có cả tôi, nếu tôi cứ đi theo anh ấy.
Mỗi người, sau khi tạo hóa sinh ra, tự tìm cách để mà sống, bằng chính mình hay ràng buộc vào những người chung quanh. Không có cái gì là thượng đế ban cho cả, cũng không có cái gì là thượng đế lấy đi mất. Tôi thấy thượng đế không can hệ gì tới cuộc sống của tôi, ngoại trừ sự sống khi tôi ra đời và sự chết khi tôi nhắm mắt, dù chết già, chết bệnh hay chết vì súng đạn, tai nạn. Thượng đế đã bỏ luống chúng ta. Kinh nghiệm đó tôi thấy rõ lắm, trong việc đi chùa và cầu xin của cha mẹ nuôi tôi, cũng như trong việc cầu kinh mỗi sáng mỗi chiều, trong việc đi nhà thờ mỗi Chúa nhựt như cha mẹ chồng tôi. Cả hai bên cha mẹ, không ai van nài hay cầu xin được cái gì hết, ngay cả cái ăn cái mặc hằng ngày hay cái chết mà vốn là con người, tôi cũng như cha mẹ chồng, đều rất sợ hãi, thường khi xin cho chồng tôi được sống bình an mà không được.
Và chồng tôi đã chết. Thượng đế điếc, thượng đế không nghe tới lời cầu xin nào.
Đến khi chiếc xe đò chuyển bánh, chúng tôi rời tay nhau ra. Anh ấy nhìn theo tôi, hai mắt anh ấy buồn. Còn tôi, tôi dững dưng như không. Đúng ra thì tôi phải buồn chớ! Tại sao tôi lại dững dưng. Tôi cũng không hiểu lòng tôi nữa!

&

Khi đại đội của tôi đang rút từ Thạnh Trung về Cờ Đỏ thì tôi được lệnh về Ngã Bảy Phụng Hiệp để gặp tiểu đoàn trưởng. Tuy trời đã chiều, đại úy đại đội trưởng biểu tôi gọi hai tà lọt hộ tống mà đi gấp vì sáng mai, tiểu đoàn trưởng sẽ về hậu cứ ở Bình Thủy. Tôi sẽ quá giang trực thăng mà về với ông. Theo đại đội trưởng thì có “một cô nường nào đó, một em gái hậu phương” xin gặp tôi rất gấp vì chuyện gia đình. Cũng may, nhờ cuộc hành quân chấm dứt, trên đường rút về, nên tôi được tiểu đoàn trưởng cứu xét dễ dàng hơn, lại cho quá giang trực thăng về cùng ông. Tôi đoán biết “cô nường” ấy là ai, chắc là cô ta sắp “lên xe hoa, về nhà chồng” như cô ta nói hôm gặp nhau. Tôi cũng dặn hai tà lọt: “Tối nay ngủ lại Phụng Hiệp, chờ đại đội về tới thì cùng về hậu cứ luôn.” Như thế, hai đứa nó đỡ vất vả mà cũng đỡ nguy hiểm phải trở lại chỗ đại đội đang dừng quân. Trên đường đi về từ đại đội tới tiểu đoàn, tuy Việt Cộng đã chém vè, nhưng cũng rất nguy hiểm. Tụi nó thường núp bắn sẻ.
Cô ấy đón tôi ở nhà riêng tiểu đoàn trưởng. Bà vợ ông tỏ ra rất có cảm tình với cô ta. Bà đã nhờ trung úy trưởg ban Tư, xin cho tôi và cô ấy một chuyến bay quân sự từ Bình Thủy về Tân Sơn Nhất. Tôi phải thay quần áo đi gấp. Cô ta nói: “Anh với em đi Vũng Tầu chơi. Về Saigon đi “xe ca” ra Vũng Tầu ngay. Ở chơi với em vài hôm. Tuần sau là em về với ông già Tầu rồi.” Tôi hiểu cái gì sẽ xảy ra sau khi cô ta “về với ông già Tầu”. Nó có nghĩa là chấm dứt mọi sự quan hệ, coi như hết, coi như cô ta với tôi không còn gì. Cô ta muốn níu kéo một chút gì đó, còn được tự do, trước khi mọi sự chấm hết. Tôi như người bị cô ta dắt đi, ngoan ngoản. Vâng, tôi muốn ngoan ngoản, để cô ta hoàn toàn được vui.
Ở phi trường Bình Thủy, hơi lo một chút vì sợ về Saigon trễ, hết xe đi Vũng Tầu. Cũng may, chiều hôm đó, khi chúng tôi tới nơi thì trời còn sớm. Lấy phòng ở khách sạn xong, chúng tôi ra tiệm ăn qua loa rồi đi thăm Thích Ca Phật Đài, mục đầu tiên trong chương trình của chúng tôi.
Khi leo lên mấy bậc cấp cao, chúng tôi gặp một người đàn ông không già lắm, đang quét sân chùa. Ông ta chận chúng tôi lại và... xin tiền mua thuốc hút. Ông ta không phải là người tu hành ở đây, chỉ là một cư sĩ làm công quả nhưng ăn ở tại chùa. Chưa phải là người già, sao lại không đi lính? Tôi nói đùa với cô ta: “Ông “củ xì” nầy dám là một tay trốn quân dịch lắm. Bao nhiêu người đang đánh giặc, ông ta vô đây núp bóng Phật đài.” Cô ta nói: “Kệ họ anh, nghĩ tới việc đó, chúng ta mất vui.” Rõ ràng cô tang đang tìm một nguồn vui chót, trước khi chấm dứt một đoạn đời.
Chương trình ngày hôm sau của chúng tôi là một chương trình... đi bộ. Sau khi ăn sáng xong, chúng tôi thuê xe ngựa ra Bãi Sau, nghỉ chân ở đó một lúc rồi sẽ đi bộ từ Bãi Sau ra Bãi Trước, dọc theo con đường quanh sườn núi. Tôi không hiểu kế hoạch của cô ta có “điên khùng” không, nhưng đi giữa nắng, từ Bãi Sau ra Bãi Trước giữa cái nắng gắt thì tôi không ham. Những cuộc hành quân bao giờ cũng nhiều gian khổ, không lầm lủi trong mưa thì cũng dãi dầu giữa nắng cháy. Tôi ham gì khi đi trên con đường ven núi giữa nắng nầy. Cũng may, gió biển Vũng Tầu mát quá, làm cho nắng dịu đi nhiều. Nhưng khi tới cái nhà hàng ở trên chiếc tầu thủy Nhật bị đánh đắm hồi Thế giới Chiến tranh thứ hai thì tôi và cô ấy “rã giò”, vào ngồi nghỉ chân ở cái nhà hàng ấy rất lâu. Chúng tôi ngồi uống nước dừa và nghe nhạc. Đó là cái thú tôi chưa từng được hưởng từ trước tới nay.
Hôm sau, chúng tôi đi xem phim La fille de Ryan. Cuốn phim khá hay, kể lại câu chuyện một cô gái sinh ra và lớn lên ở một miền quê Ái Nhĩ Lan, một miền quê mùa, còn phong tục hủ lậu. Cô gái muốn vượt ra khỏi những thừ quê mùa hủ lậu đó nên kết duyên với ông thầy già góa vợ của cô. Cuối cùng, qua nhiều gian khổ và nhục nhã, cô ta được toại nguyện. Còn ở đây, cô ấy thì ngược lại. Cô ta cũng muốn thoát ra khỏi những ràng buộc và buồn bã của cuôc sống hiện tại, nhưng cô ta đã thất bại.
Mấy hôm ở khách sạn, chúng tôi ôm nhau mà ngủ, nhưng cái ham muốn như lần đầu tiên không còn nữa. Nỗi buồn sắp chia tay mãi mãi làm chúng tôi mất đi cái hứng khởi như lần gặp gỡ dầu tiên. Tôi đọc cho cô ta nghe câu thơ của Xuân Diệu: “Trong sum họp đã có mầm ly biệt”. Cô ta chỉ thở dài. Một lúc, cô ta nói: “Em thở dài như anh khi mình gặp nhau lần đầu tiên. Anh nhớ không?” Tôi nói: “Anh hay thở dài, khi có chuyện gì không vui. Mẹ anh rầy hoài nhưng anh không bỏ được. Hết anh nay lại tới em. Bệnh buồn là bệnh hay lây.”

&


Ba mươi năm sau...
Bảy giờ sáng, tôi là người cuối cùng lên chiếc xe đò Hoàng đậu trước chợ ABC để đi San José. Cửa xe sau lưng tôi đóng lại. Tôi ngồi xuống cái ghế ngay sau tài xế. Xe chuyển bánh.
Một lúc, sau khi chạy qua vài đường phố, xe bắt vào đường số 5 North.
Chưa được 20 phút, xe lại rẻ vào phố, chạy lòng vòng vài con phố, dừng trước một ngôi nhà. Có cô gái chờ sẵn ở bên đường. Cửa xe mở ra, cô gái bước lên. Cô ta đứng lại, nhìn vào chỗ tôi ngồi, có vẻ như vừa ngạc nhiên, vừa bực mình.
Người tài xế rời khỏi ghế, đứng phía trước mặt tôi, hơi chếch về bên phải, nói:
- “Cho tôi xin lỗi. Ghế nầy có “rề-dẹc”. Hồi nãy gấp chạy cho đúng giờ, tôi chưa kịp nói với bà. Bà thông cảm cho.”
Tôi hỏi lại, hơi bực mình:
- “Dzậy tôi ngồi ở đâu?”
- “Có sẵn chỗ cho bà, ở phía sau.”
Nói xong, anh ta đi trước, tôi đi theo. Bên cạnh cửa sau có hai cái ghế. Một cái có người ngồi sẵn, một cái còn trống. Người tài xế dừng lại ngang cái ghế đó. Tôi hiểu ý, ngồi xuống. Người tài xế trở lại ghế của ông, xe lại chạy. Tôi hơi bực mình.
Khi xe trở lại chạy trên đường số 5 North, khung cảnh đồng trống hai bên bắt đầu hiện ra, làm tôi thấy thoải mái đôi chút. Tôi đưa mắt nhìn ra cửa. Tầm nhìn của tôi ngang qua người đàn ông ngồi bên cạnh.
Tôi nghe tiếng hỏi (tôi):
- “Hình như cô...”
Và tôi chợt nhận ra anh ấy. Tôi nói, gần như la lên: “Trời ơi! Ba mươi năm mới gặp lại anh.” Rồi tôi chồm ngang, ôm lấy anh ấy, bất cần những người chung quanh đang nhìn tôi, ngạc nhiên và tôi khóc nức nở...
Tôi nói trong tiếng khóc:
- “Em muốn tìm anh, em tìm anh khắp nhưng không biết anh ở đâu. Hồi đó ỷ y, không biết nhà mẹ anh ở Saigon là ở đâu! Đơn vị anh thì tan hàng. Rồi anh đi học tập, phải không?”
- “Không phải học tập.” Anh ấy nói, vẫn từ tốn. “Cải tạo. Nói cho đúng là “tù cải tạo”, ra ngoài bắc. Mười năm, mười năm tù!”
- “Anh có tội chi mà “học tập” lâu dzậy? Rồi đi HO?”
- “Sau lần gặp cô, tôi được về làm ban 2 Trung Đoàn. Công việc nầy ở tù lâu là đúng thôi. Đi ra bắc cũng đúng thôi. “An ninh tình báo”, về sớm sao được?” Anh ấy kể lại, cũng từ tốn như trước kia.
- “Anh có cưới vợ?” Tôi lại hỏi.
- “Vợ đâu. Tôi nói với cô rồi mà. Chưa bao lâu thì ở tù.”
- “Học tập về sao không cưới vợ đi?” Tôi lại hỏi.
- “Tôi đi tù cải tạo được ba năm thì mẹ tôi qua đời. Khi về, chẳng còn ai. Anh em, bà con vượt biên đi hết rồi, trơ trọi, một mình... Lại nghe được Mỹ cho đi. Thôi cứ chờ vậy mà đi cho xong. Còn cô thì sao?”
- “Cũng buồn lắm anh ơi! Sau “giải phóng”, bị đánh tư sản. May mà ông Tầu lo trước, dấu bớt tài sản, nên của chìm thì còn. Nhờ dzậy mà đi được hồi có nạn kiều.”
- “Bây giờ cô đang ở đâu, ở với ai?”
- “Qua đây ít lâu, ông Tầu già qua đời. Ông tiếc của quá mà chết. Năm 1977, bị đánh tư sản, người anh con ông bác của ông uất ức quá mà tự tử ở Saigon. Năm 1979, ông ta và em đi “bán chính thức”. Qua đây, ông dựng lại cửa hàng, cửa hàng bây giờ giao cho em. Hình như ông không quên được cái cũ, tiền bạc, tài sản... Cũng nhờ ông, em sống đầy đủ. Ổng chết rồi, em được tự do. Được tự do mà không có anh. Bao giờ em cũng thấy thiệt thòi, thiếu thốn, nhất là tình cảm, khi còn trẻ cũng như khi đã già. Nhờ có con, có cháu nội nên cũng khuây khỏa. Thằng bé hồi đó, anh còn nhớ không, bây giờ có vợ con rồi đó. Lấy ông già Tầu, em cũng có thêm một con gái, nay đã xong high school. Anh qua đây với ai, ở đâu?”
- “Anh thì bao giờ cũng cu-ki một mình. Trước nay ở Orange County, nay chuẩn bị lên sống gần trên Ventura. Anh có một công việc ở gần thành phố đó.”
- “Anh không có vợ, sao không ở với em?”
- “Thôi em à! Khi còn trẻ đã không ở được với nhau. Nay già rồi, sống chung gì nữa! Con cháu của em chúng nó nghĩ làm sao khi thấy tới chừng nầy tuổi mà em có chồng?”
Tôi không trả lời, chỉ thở dài. Lấy chồng! lấy chồng khi quá sáu mươi tuổi. Người Việt Nam làm thế là không tránh khỏi bị người ta cười. Bao giờ cái “người ta” cũng cứ ràng buộc tôi, trói chân trói tay và trói cả tâm hồn tôi lại. Khi còn trẻ, lấy một người chồng trẻ mà tôi không yêu cũng vì cái “người ta” đáng ghét đó. Tôi lấy ông Tầu già, cũng vì cái “người ta” đáng ghét đó. Tới bây giờ, khi tôi hoàn toàn tự do để chọn anh ấy, cũng lại bị “người ta” cấm cản. Tôi đưa mắt nhìn những “người ta” ngồi chung quanh, trong cái xe nầy. Tôi thấy họ đáng ghét lạ. Vậy mà họ cứ đi chùa, đi nhà thờ để đọc kinh, thờ lạy, cầu xin. Tại sao họ không cầu xin cho họ lột bỏ cái “người ta” đó đi để tôi khỏi phải sống vì họ, để tôi được chọn lựa mà sống với anh ấy trọn đời.
Tôi ngồi lại, ngay ngắn, nói với anh ấy những chuyện vu vơ, không trúng đâu vào đâu! Cuối cùng, tôi hỏi anh đi đâu giờ nầy, anh bảo:
- “Đến Val Verde Park, tôi sẽ xuống xe. Rồi tôi kiếm xe đi thêm bốn chục “mai” nữa, theo quốc lộ 126. Tôi sẽ tới thành phố Ventura trên đường 101. Con đường nầy gần như song song với đường số 5 nầy. Ngày mai, có người đón tôi vào Casitas Springs trên quốc lộ 33, gần đó có một cái nông trại. Tôi sẽ sống ở đó, gần với thiên nhiên hơn với con người. Nông trại thì lớn mà người thì ít lắm.”
- “Sao đi xa vậy? Em nghe nói vùng ấy hẻo lánh, nhiều nông trại trồng cà chua, hành, dưa leo... Chỗ đó là hóc mò tó đó anh.”
- “Tôi biết. Tôi muốn đi xa vào chỗ ấy, tôi muốn tự do, muốn sống chân thật. Vậy không hơn xin vào chùa sao? Cô nhớ ngày xưa tôi là nguời lính đánh giặc, dân tác chiến. Người lính cầm súng đánh nhau với Việt Cộng đêm ngày thì đâu cần phải hạ mình xin ai một chữ thọ.”
Vậy cũng được, còn hơn anh ấy vào chùa! Tôi lại nói:
- “Phải chi em bỏ được con, bỏ được cháu mà theo anh đến đó thì... hạnh phúc biết mấy.”
Anh ấy lại thở ra, gần như ngày xưa vậy! Không nói gì cả.
Đến Val Verde Park, anh ấy xuống xe. Tôi cũng xuống theo và ôm anh ấy khá lâu. Rồi tôi khóc. Khi xe sắp chạy, tôi lại lên xe. Anh quay lưng đi vào con đường phố, tôi nói với theo:
- “Anh nhớ gởi thư cho em. Em có đưa địa chỉ.”
Anh ấy quay lại, gật đầu, đưa tay vẫy rồi tiếp tục đi. Bóng anh xa dần.
Tôi không hy vọng gì anh ấy sẽ gởi thư cho tôi như tôi đã dặn. Ít ai cảm nhận được một cách rõ ràng và thực tế rằng cuộc đời như cánh bèo trôi! Vậy thôi! Còn trông mong gì thêm một lần gặp gỡ nữa!

hoànglonghải