Khi
anh ấy lên khỏi cửa xe “buýt”, đứng lại giữa lối
đi thì tôi chú ý đến anh ấy ngay.
Dáng
người “cao ráo” - như người ta thường nói. Mũ lưỡi
trai cầm nơi tay. Có phải anh ấy muốn khoe cái đầu tóc:
tóc cắt kiểu hơi dài, tài tử ciné, hơn là tóc ngắn
của các ông nhà binh. Mái tóc cong tự nhiên, không phải
uốn. Hai mái chừa đen, dài. Anh còn dáng vẻ một học
sinh, một sinh viên hơn là một người lính. Bộ đồ nhà
binh tuy ủi thẳng nhưng mầu đã phai. Với nước da xạm
nắng, trông anh phong sương, có lẽ đi hành quân nhiều.
Anh
nhìn mấy dãy ghế bên kia. Ghế nào cũng đã đầy khách.
Phía tôi cũng có mấy dãy, nhưng chỉ có cái ghế sát tôi
là còn trống. Có tiếng chân người bước lên xe. Sợ
mất chỗ, anh ấy đến gần tôi, hỏi:
-
“Có ai ngồi đây chưa cô?”
Tôi
trả lời cộc lốc:
-
“Không.”
Anh
ấy lại hỏi:
-
“Tôi ngồi được không?”
Tôi
trả lời một cách khó chịu:
-
“Xe của chủ, ai muốn ngồi đâu cứ ngồi.”
Anh
ấy ngồi xuống, lặng lẽ.
Một
lúc sau, tôi nói:
-
“Khi nãy có thằng cha ngồi đây, cứ giả bộ ngọ
nguậy, đụng tôi hoài. Tôi mắng cho, bỏ lên ngồi trên
kia.”
Có
lẽ câu tôi nói làm anh ấy e ngại thêm, ngồi im, không
nói, không nhúc nhích như người ta. Tự nhiên tôi thấy
“tội nghiệp” cho ảnh.
Em
bé trên tay tôi đang ngủ say. Một chốc, khi xe bắt đầu
chạy thì nó dậy, khóc ụ ẹ. Tôi nói:
-
“Để mẹ lấy sữa cho cưng!”
Nói
rồi, tôi cúi xuống, lôi cái xách tay phía dưới chân của
tôi ra, lấy bình sữa đưa cho em bé. Chưa bú được bao
nhiêu, thằng bé lại ọ oẹ, nghiêng mặt, đẩy nuốm vú
bình sữa ra. Biết em bé không muốn bú nữa, tôi đậy
nắp bình sữa, bỏ lại vào xách.
Khi
lấy bình sữa ra cũng như khi đem cất, để rộng chỗ,
tôi giang chân tôi ra. Đầu gối tôi đụng vào đầu gối
anh ấy tới hai lần. Lần đầu, anh ấy có vẻ hốt
hoảng, nói “Xin lỗi”. Tôi vẫn làm mặt nghiêm, trong
lòng vẫn thấy buồn cười. Tự tôi chớ có phải tự
anh ấy muốn đụng chạm chân tay gì đâu. Anh ta sợ tôi
cự nự không đúng chỗ hay anh là người lịch sự?
Em
bé thức dậy, chơi với mẹ, cười toe toét mỗi khi tôi
ghẹo nó. Anh ấy ngồi bên cạnh, nhìn em bé, cười, không
nói gì.
Một
lúc sau, anh ấy hỏi:
-
“Bé dễ thương quá, được mấy tuổi, cô?”
Thấy
người khác khen con mình, tôi cũng vui, trả lời nhỏ nhẹ
hơn trước:
-
“Em bé gần hai tuổi.”
-
“Cô đưa em bé đi thăm cha?” Anh ấy hỏi.
Tôi
trả lời:
-
“Ba nó tử trận rồi, khi tôi sắp sinh.”
Tôi
nghe tiếng thở dài, rồi tiếng anh ấy, nghe như than:
-
“Tôi nhiệp quá. Chiến tranh khủng khiếp thật!”
-
“Ông đi lính mà cũng sợ giặc giã?” Tôi nói.
-
“Với tôi hay những người như chúng tôi, rồi cũng
quen. Đáng thương là nhiều đứa bé lớn lên không có
cha. Tương lai chúng nó sẽ ra sao, tội nghiệp lắm!”
Tôi
làm thinh, cũng thấy buồn cho con mình.
Một
lúc, anh ấy lại hỏi:
-
“Vậy cô đưa em đi đâu đây?”
Thấy
anh ta ăn nói nhỏ nhẹ, dễ chịu, tôi trả lời:
-
“Đi thăm ông bà nội. Bởi vì tôi sắp lấy chồng?”
Anh
ấy không nói gì cả. Tôi lại nghe tiếng thở dài.
Tại
sao anh ấy thở dài. Nếu tôi lấy chồng, em bé sẽ đáng
thương hơn nữa hay sao? Việc tôi lấy chồng không đúng
với phong tục nước ta hay sao? Chồng chết là phải ở
vậy nuôi con, “phu tử tòng tử”. Tôi không chống lại
phong tục ấy, nhưng tôi đang gặp hoàn cảnh oái ăm. Tôi
nói:
-
“Tôi sắp lấy chồng, mà lại ông chồng già bằng tuổi
ba tôi.”
Vừa
khi đó, xe dừng lại ở bắc Cần Thơ. Tôi chuẩn bị
xuống xe đi bộ qua “bắc”. Anh ấy cầm cái xách đựng
đồ của tôi, nói:
-
“Để tôi cầm cho, cô bồng em bé đi.”
Chúng
tôi xuống xe. Tôi đi trước, anh đi sau. Tôi thấy ngại!
Nếu ai nhìn vào, có thể nghĩ rằng anh ấy và tôi là một
cặp vợ chồng.
Sau
khi qua “bắc”, xe chạy trên quốc lộ 4, em bé lại ngủ.
Tôi lại nói chuyện với anh. Tôi nhớ tiếng anh thở dài
nên nghĩ anh là người có lòng tốt. Bỗng anh ấy hỏi
tôi:
-
“Cô buồn lắm à?”
-
“Buồn! buồn lắm!” Tôi nói.
-
“Cô sắp lấy chồng, lại có lứa đôi. Cô còn trẻ, tự
nhiên thôi! Sao lại buồn?” Anh ấy nói.
-
“Nếu lấy chồng bình thường, đâu có gì phải suy
nghĩ. Đằng nầy, cha mẹ tôi lại ép buộc!” Tôi than
thở.
-
“Sao lại ép buộc? Đâu như ngày xưa!” Anh ấy nói.
-
“Ba má tôi thấy tôi góa chồng, muốn tôi lấy một ông
Tầu già, góa vợ nhưng giàu có.” Tôi tâm sự.
-
“Có lẽ mấy ông bà thực tế. Ông Tầu già đâu phải
đi lính, lại giàu có, cô khỏi sống thiêu thốn. Lấy
chồng quân đội như chúng tôi, vợ con thiếu thốn lắm.
Phải không?” Anh ấy nói.
-
“Tôi không sợ hiếu thốn, tôi chỉ sợ nghe tin chồng
tử trận, khủng khiếp lắm. Nghe như trời đất sập
dưới chân.”
-
“Tôi cũng nghĩ vậy!”
-
“Vậy là anh sợ cho... vợ?” Tôi hỏi.
-
“Cũng vì vậy mà tôi không lấy vợ, mặc dù mẹ tôi
muốn tôi có vợ. “Lấy vợ đi cho mẹ yên tâm”. Mẹ
tôi nói hoài.”
-
“Vậy thì lấy vợ đi!” Tôi khuyến khích.
-
“Để vợ tôi chịu cảnh như cô à? Cô biết rồi đó!”
Tôi
thở dài. Nỗi đau khổ tôi đã đi qua, tôi không muốn ai
phải như vậy.
-
“Nhưng tôi thì khác! Anh à!” Tôi nói.
-
“Khác là sao?”
-
“Cha mẹ tôi là cha mẹ nuôi. Tôi là con lai Ấn Độ. Họ
xin tôi từ khi tôi còn nhỏ. Nay cha mẹ tôi đã già, sống
khó khăn. Nếu tôi lấy chồng giàu, cũng giúp đỡ cha mẹ
chút ít. Tôi thương cha mẹ tôi, dù họ không đẻ tôi
ra. Tôi vâng lời, nhưng lấy chồng như vầy thì buồn,
buồn lắm! Tôi mới về thăm ba má chồng. Đi một vòng
cho khuây khỏa, chờ ngày về với ông Tầu già.”
Anh
ấy nói:
-
“Cô lai Ấn Độ nên cô đẹp. Đẹp lắm. Có vợ đẹp
hạnh phúc chán!”
Nghe
khen đẹp, tôi chỉ cười. Tôi từng được nhiều người
khen đẹp, có gì lạ ở lời anh ấy khen đâu!
Thế
rồi qua câu chuyện ấy, tôi và anh ấy không nói gì cả,
ngồi im rất lâu. Có lẽ chúng tôi thấm nỗi đau của
mỗi người. Tôi thì đi lấy chồng, anh ấy thì không
muốn lấy vợ.
Xe
qua khỏi Cai Lậy, tôi nói:
-
“Tới Trung Lương thì tôi xuống. Anh đi Saigon thăm ai?”
-
“Thăm mẹ. Hơn 6 tháng nay, tôi mới về thăm. Tôi về
nhà thì vui. Cô về nhà chắc không được vậy?”
-
“Vui gì đâu, bao giờ cũng nặng trĩu trong lòng.” Tôi
than thở.
-
“Bao giờ cô lấy chồng?” Anh ấy hỏi.
-
“Cả tháng nữa.”
Anh
ấy lại thở dài. Tôi thấy anh thường thở dài, khi nghe
điều gì không vui, ngay cả cái buồn đó là cái buồn
của tôi, không phải cái buồn của anh ấy.
Chúng
tôi lại trầm ngâm, không nói chuyện gì.
Xe
gần tới ngã ba Trung Lương, anh ấy nói:
-
“Hay cô đi Saigon một chuyến cho khuây khỏa!”
-
“Tôi có quen ai ở Saigon đâu!” Tôi nói.
-
“Cần gì quen. Saigon có nhiều thứ giải trí. Rạp cải
lương, rạp hát bóng, nghe nhạc sống. Tôi có thể đãi
cô một chầu.”
Anh
không nói sẽ ngủ lại ở đâu. Tôi biết anh ấy tránh,
không nói chuyện ấy. Tôi cũng chẳng thèm hỏi và cũng
không muốn anh ấy nói tới chuyện đó!....
Xe
tới ngã ba Trung Lương, nhiều người xuống xe, tôi ngồi
yên. Anh ấy cũng làm như không để ý việc tôi không
xuống. Xe lại tiếp tục hướng về Saigon.
Khi
chúng tôi xuống xe ở bến xe Nguyễn Hoàng, anh ấy tay cầm
cái xách của tôi, tôi bồng em bé. Anh ấy đứng sát bên
tôi nói nhỏ:
-
Mình vô khách sạn ở đằng kia, rửa mày rửa mặt chút
dỉnh rồi đi ăn cơm.
Tôi
làm theo anh ấy, như một cái máy.
Anh
ấy chọn một phòng ngủ có một giường rộng, thay vì
hai giường. Tôi biết thâm ý anh ấy nhưng cũng không nói
gì. Tôi có thiện cảm với anh ấy ngay từ đầu, khi anh
vừa lên khỏi cửa xe buýt.
Khi
vào tiệm cơm, anh ấy chăm sóc rất chu đáo, gọi từng
các món ăn tôi chọn và món ăn cho em bé.
Ăn
xong, tôi bảo “Thôi về đi!” Anh ấy hỏi tôi:
-
“Không đi coi ciné hay nghe nhạc sao?”
Tôi
nói “Không”. Một lúc tôi nói thêm: “Em muốn về tắm,
đi xe tối ngày, dơ dáy lắm.
Về
tới phòng, tôi để em bé ngồi chơi với anh ấy, tôi đi
tắm và giặt bộ quần áo đi đường, phơi ở phòng
ngoài. Xong đâu đó, tôi nói với anh, nửa đùa nửa thật:
-
“Anh đi tắm đi, em không nằm chung với người ở dơ
đâu nghe!”
Anh
ấy vội vàng nghe lời tôi.
Khi
anh ấy đang tắm, trời mới hoàng hôn, tôi bồng em bé ra
ngồi trước hành lang. Bên kia có một quán càphê nhạc,
đang phát ra những bài do Duy Khánh hát, khá hay.
Một
lúc tắm xong, anh ấy kéo ghế ra hành lang, ngồi bên cạnh
tôi. Tôi nói:
-
“Ngồi đây nghe nhạc đi, hay lắm.”
Bấy
giờ Duy Khánh đang hát bài “24 giờ phép”. Anh ấy nói:
-
“Bài nầy dâm lắm! Gì mà “Ta đưa ta tới đỉnh tuyệt
vời”. Em có biết nó nói gì không?”
Tôi
cười:
-
“Em có chồng rồi. Anh làm như em đang còn con gái. Việc
ấy cũng bình thường thôi, nếu người ta yêu nhau.”
-
“Tôi thì không may mắn, hành quân “mút mùa Lệ Thủy”,
lâu lâu mới về Saigon, đi chơi lang thang ở mấy cửa
hàng càphê.”
-
“Anh đi hành quân ở những đâu?”
-
“Bốn vùng chiến thuật thì chưa đủ, nhưng vùng Bốn
thì mòn rách nhiều áo quần rồi.”
-
“Cực không?” Tôi hỏi.
-
“Cực, nguy hiểm, súng đạn, mìn bẩy, đủ cả, sống
chết chớp mắt.” Anh ấy trả lời.
-
“Nên anh không lấy vợ?” Tôi lại hỏi.
-
“Lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ...”
Anh ấy đọc câu thơ ấy coi như để trả lời tôi.
Băng
nhạc, bây giờ, tình cờ vừa hết bài “Trên bốn vùng
Chiến thuật” chuyển qua bài “Kẻ ở miền xa.”
Tôi
hỏi:
-
“Anh thấy bài hát đang hát đó có thật không?”
-
“Thật chớ! Đêm ở tiền đồn, đi hành quân, nghe hát
thì cũng đỡ buồn, nhưng phải chi có ai đó đến với
mình!”
-
“Để ôm trong tay? Người ta có muốn vậy không?”
Anh
ấy cười:
-
“Thèm chết đi được.”
Ham
nói chuyện, tôi không ngờ chúng tôi đang ngồi rất khít
nhau. Bỗng nhiên, tôi thấy thương anh ấy. Anh cầm tay
tôi, bóp nhè nhẹ. Rồi anh ấy hỏi, ngập ngừng, sợ
hãi:
-
“Tối nay, em... em... có cho... anh không?”
Tôi
biết anh ấy nói gì, nhưng tôi không trả lời. Một lúc
sau, lâu lắm tôi nói:
-
“Chồng em chết gần hai năm nay, em chưa từng gần đàn
ông lại. Anh đừng mạnh bạo nghe, em sợ lắm!”
Anh
ấy cười và hôn nhẹ vào má tôi.
Tôi
nằm nghiêng về phía vách tường, dỗ cho em bé ngủ.. Anh
ấy nằm ngoài, sau lưng tôi, áp người vào lưng tôi. Hơi
ấm từ người anh ấy tỏa ra sau lưng tôi, khiến tôi có
cảm giác rất dễ chịu. Tôi biết chuyện gì sắp xảy
ra, và... liệu tôi có đi quá xa?
Tôi
là đứa con gái, con nuôi, không rõ cha mẹ đẻ là ai, nên
từ nhỏ, muốn sống, và để sống, tôi luôn luôn ngoan
ngoãn, nếu không muốn nói là cam chịu, cam chịu số
phận, cam chịu những gì cuộc đời đem đến cho tôi, dù
ngọt, dù bùi hay đắng cay, chua chát. Tôi chưa bao giờ
đòi hỏi cái gì cho tôi, của tôi, ngay cả thể xác nầy,
con người nầy. Thân xác nầy cũng không phải là của
tôi khi tôi cam chịu hoàn cảnh đưa tới.
Trong
nỗi u sầu và tuyệt vọng đó, gặp anh ấy, sự hòa nhã,
hiền dịu của anh, anh ấy như một cái gì đó, nâng tôi
lên. Thái độ tác phong của anh đối với tôi, làm cho
tôi thấy tôi có cái gì đó là của tôi, được tôn
trọng và được.... thương yêu thật sự. Tôi hy vọng
như vậy. Điều ấy, cái ấy như một động lực đẩy
tôi đi xa hơn, khi tôi quyết định không xuống xe ở ngã
ba Trung Lương. Tôi lại suy nghĩ tới nó, cảm nhận nó,
cảm nhận một điều gì đó, tuy mơ hồ nhưng chắc chắn,
rằng tôi được tôn trọng, thương yêu. Cái gì đó là
con người tôi, của tôi, được giải phóng khỏi những
gì ràng buộc, ép uổng tôi trong suốt cuộc đời vừa
qua...
Có
phải đó là số phận, là cái nghiệp, là cái gì Chúa
cho, Phật độ. Hay nó chỉ là một sự tình cờ trong cuộc
đời nầy, một sự tình cờ khiến tôi và anh ấy đi
chung chuyến xe, chung một chỗ ngồi, chung một chỗ nằm.
Tôi không tin có một động lực thiêng liêng nào xui khiến
anh ấy đến với tôi trên chuyến xe đò Cần Thơ -
Saigon. Chính cái cá tính, sự dịu dàng và khéo léo của
anh đã đưa tôi vào vòng tay anh ấy, trong chút nữa đây...
Tôi
không cho rằng đây là một là sự liều lĩnh, nhắm mắt
đưa chân. Tôi cảm nhận rất rõ cái tốt, cái hiền nơi
anh ấy, một sự giải thoát nào đó anh ấy đem lại cho
tôi, dù chỉ trong một ngày, một đêm hay một khoảnh
khắc nào đó. Tôi thấy tôi được tôn trọng, tự do và
tôi cần sự tự do ấy. Tôi không biến tôi thành kẻ nô
lệ, cấp dưới, thua thiệt với anh ấy mà chính là một
sự ngang hàng, bỉnh đẳng. Vậy thì những gì xảy ra
giữa tôi vơi anh ấy, ngay lúc nầy hay đêm nay, ngày mai,
với tôi là giải phóng, một sự tự do chọn lựa của
tôi. Nó cho tôi được công bằng với con người thật
của tôi.
Một
lúc sau, anh ấy gác một bàn chân lên cổ chân tôi. Tôi
biết đây là một sự thăm dò. “Thăm dò địch” trước
một cuộc hành quân đó có phải không, như tôi đã từng
nghe chồng tôi nói tới.
Tôi
muốn anh ấy bạo dạn hơn, đừng e ngại nên tôi đưa
lên một chân và cặp bàn chân anh ấy giữa hai cổ chân
của tôi, giữ chặt lại, không cho nhúc nhích.
Biết
phản ứng ấy, đúng như ý tôi muốn, anh ấy đặt một
bàn tay lên vai trần của tôi, thoa lên xuống nhè nhẹ.
Tôi nói nhỏ: “Chờ chút, để em bé ngủ say!” Nói
xong câu đó, tôi biết tôi thành thật, thú thiệt lòng
tôi với anh. Nó có nghĩa là đợi em bé ngủ say, tôi sẽ
cho anh ấy chớ gì. Biết vậy, nhưng tôi không hối hận
gì về sự thành thật của tôi cả.
Một
lúc sau, tôi quay người lại phía anh ấy, và nói trong hơi
thở: “Con em ngủ rồi anh ơi...” Tôi biết ngay câu tôi
vừa nói có hai ý nghĩa: Tôi phải lo cho con tôi trước,
trước khi làm những gì cho tôi. Đó là “văn minh Việt
Nam” mà thầy giáo đã giảng ở một giờ triết nào đó
năm tôi học lớp cuối bậc trung học. Câu nói đó cũng
là một lời tự thú của tôi với anh ấy nữa. Tôi tự
thú con người tôi, ý muốn và cảm xúc của tôi khi nằm
bên anh ấy.
Khi
tôi nói xong câu đó, anh ấy ôm nghiền lấy tôi mà hôn,
khắp mặt mày. Tôi hưởng ứng môt cách nồng nhiệt
trong khi tôi chấp nhận nó và cho đó là việc bình
thường. Tôi góa chồng đã hai năm nay. Từ đó đến giờ
tôi không gần gủi với bất cứ người đàn ông nào.
Bây giờ, tôi yêu anh ấy và tôi cho anh ấy, có gì đâu!
Anh
ấy thì hành quân liên miên, hơn 6 tháng chưa về Saigon.
Những người “chinh chiến bấy lâu” có muốn chuyện
ấy, có thèm chuyện ấy, cũng là bình thường. Đó là
chưa kể tâm lý những người sống rày chết mai, “một
chút huy hoàng” trước khi một chuyện gì đó sẽ xảy
ra, ở một trận đánh, hôm nay hay ngày mai, đâu biết
trước được.
Tôi
và anh ấy chìm ngập trong sự nóng bỏng của thể xác.
Khi anh ấy trườn lên mình tôi, tôi thấy ngộp thở một
cách dễ chịu. Tới khi anh ấy đi sâu vào người tôi,
tôi níu chặt lấy anh ấy như một người bị nước
cuốn, cố bám vào một cái phao để khỏi chết đuối.
Tôi sắp chết đuối. Anh ấy nói thầm bên tai tôi: “Em
thấy sướng không?” Tôi trả lời trong hơi thở: “Anh,
anh... đừng hỏi...” Anh ấy cứ nói:
“Anh phải là người làm cho em sướng nhứt...” Và rồi
tiếng rên, tiếng thở gấp của anh và tôi quyện lấy
nhau...
Tôi
không còn là con người tự chủ. Tôi như con thú hoang
giữa đồng cỏ hoang dã. Tôi tận hưởng những gì tạo
hóa cho. Tôi sẽ thấy đau đớn, tôi sẽ không còn sung
sướng khi tôi vượt khỏi cái cái bản năng của loài
vật mà trở lại làm người như tôi đã sống từ khi
còn bé đến giờ.
&
Tôi
ngồi trên chiếc xe đò để về Mỹ Tho, em bé ngồi trên
chân tôi. Một tay tôi giữ nó, một tay tôi đưa ra ngoài
cửa xe, nắm chặt bàn tay anh ấy đang đứng bên hông xe.
Tôi biết vậy là hết, hết một thời gian ngắn ngủi
chưa quá 24 giờ đồng hồ, kể từ chiều hôm qua, khi tôi
quyết định không xuống xe ở ngã ba Trung Lương, cho đến
sáng hôm nay, giờ phút nầy, khi xe đang chuẩn bị chạy
về miền Tây. Thời gian ngắn ngủi ấy, người ta có thể
gọi bằng nhiều cái tên khác nhau: nổi loạn, vùng dậy,
một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nhắm mắt đưa chân...
Tôi không cần suy nghĩ về những cái tên gọi ấy, cái
tên nào là chính xác. Nhưng tôi biết đó là một quãng
thời gian tôi tự làm chủ con người tôi, làm chủ cái
quyền sống của tôi, không bị ràng buộc, không bị câu
thúc vào một cái gì hết. Tôi được tự do, hoàn toàn
tự do, ngay cả tự do trước những yêu cầu, đòi hỏi
của anh ấy. Cho hay không cho, tự tôi quyết định lấy.
Anh ấy hay bất cứ một ai, không ép buộc tôi được.
Chút
nữa đây, khi tôi về tới nhà, tất cả những tự do ấy
sẽ hết. Tôi lại bị ràng buộc vào gia đình, vào xóm
làng, vào xã hội, vào lễ giáo, lễ nghi, vào phong tục,
tập quán. Tự do sẽ hết và tôi không còn tự tôi làm
chủ con người tôi được nữa. Tôi không thể làm được
những gì tôi muốn, tôi cần.
Vui
buồn sướng khổ, tất cả không phải tự tôi mà có,
cũng không có ai, một quyền lực thiêng liêng nào đó,
ban phát cho tôi. Tất cả đều do những người chung quanh
tôi đem lại cho tôi, biếu tôi, tặng tôi hay ép buộc
tôi. Tôi muốn quăng bỏ hết, để được sống tự do
như quãng thời gian ngắn ngủi tôi đi theo anh ấy. Nhưng
anh ấy cũng chẳng làm gì được. Anh ấy không giúp gì
tôi được. Anh ấy đâu dừng lại đây, ở đất Saigon
nầy. Chiến tranh đã kéo anh ấy đi, vào những vùng đất
xa xôi nào đó, trong ruộng rẫy, trên núi cao. Và ngay
chính anh, trong cuộc chiến tranh ấy, cũng không nắm được
tính mạng anh. Chính anh cũng sợ một ngày kia không về
thì bao nhiêu người sẽ buồn khổ, trong đó có cả tôi,
nếu tôi cứ đi theo anh ấy.
Mỗi
người, sau khi tạo hóa sinh ra, tự tìm cách để mà sống,
bằng chính mình hay ràng buộc vào những người chung
quanh. Không có cái gì là thượng đế ban cho cả, cũng
không có cái gì là thượng đế lấy đi mất. Tôi thấy
thượng đế không can hệ gì tới cuộc sống của tôi,
ngoại trừ sự sống khi tôi ra đời và sự chết khi tôi
nhắm mắt, dù chết già, chết bệnh hay chết vì súng
đạn, tai nạn. Thượng đế đã bỏ luống chúng ta. Kinh
nghiệm đó tôi thấy rõ lắm, trong việc đi chùa và cầu
xin của cha mẹ nuôi tôi, cũng như trong việc cầu kinh mỗi
sáng mỗi chiều, trong việc đi nhà thờ mỗi Chúa nhựt
như cha mẹ chồng tôi. Cả hai bên cha mẹ, không ai van nài
hay cầu xin được cái gì hết, ngay cả cái ăn cái mặc
hằng ngày hay cái chết mà vốn là con người, tôi cũng
như cha mẹ chồng, đều rất sợ hãi, thường khi xin cho
chồng tôi được sống bình an mà không được.
Và
chồng tôi đã chết. Thượng đế điếc, thượng đế
không nghe tới lời cầu xin nào.
Đến
khi chiếc xe đò chuyển bánh, chúng tôi rời tay nhau ra.
Anh ấy nhìn theo tôi, hai mắt anh ấy buồn. Còn tôi, tôi
dững dưng như không. Đúng ra thì tôi phải buồn chớ!
Tại sao tôi lại dững dưng. Tôi cũng không hiểu lòng tôi
nữa!
&
Khi
đại đội của tôi đang rút từ Thạnh Trung về Cờ Đỏ
thì tôi được lệnh về Ngã Bảy Phụng Hiệp để gặp
tiểu đoàn trưởng. Tuy trời đã chiều, đại úy đại
đội trưởng biểu tôi gọi hai tà lọt hộ tống mà đi
gấp vì sáng mai, tiểu đoàn trưởng sẽ về hậu cứ ở
Bình Thủy. Tôi sẽ quá giang trực thăng mà về với ông.
Theo đại đội trưởng thì có “một cô nường nào đó,
một em gái hậu phương” xin gặp tôi rất gấp vì chuyện
gia đình. Cũng may, nhờ cuộc hành quân chấm dứt, trên
đường rút về, nên tôi được tiểu đoàn trưởng cứu
xét dễ dàng hơn, lại cho quá giang trực thăng về cùng
ông. Tôi đoán biết “cô nường” ấy là ai, chắc là
cô ta sắp “lên xe hoa, về nhà chồng” như cô ta nói
hôm gặp nhau. Tôi cũng dặn hai tà lọt: “Tối nay ngủ
lại Phụng Hiệp, chờ đại đội về tới thì cùng về
hậu cứ luôn.” Như thế, hai đứa nó đỡ vất vả mà
cũng đỡ nguy hiểm phải trở lại chỗ đại đội đang
dừng quân. Trên đường đi về từ đại đội tới tiểu
đoàn, tuy Việt Cộng đã chém vè, nhưng cũng rất nguy
hiểm. Tụi nó thường núp bắn sẻ.
Cô
ấy đón tôi ở nhà riêng tiểu đoàn trưởng. Bà vợ ông
tỏ ra rất có cảm tình với cô ta. Bà đã nhờ trung úy
trưởg ban Tư, xin cho tôi và cô ấy một chuyến bay quân
sự từ Bình Thủy về Tân Sơn Nhất. Tôi phải thay quần
áo đi gấp. Cô ta nói: “Anh với em đi Vũng Tầu chơi. Về
Saigon đi “xe ca” ra Vũng Tầu ngay. Ở chơi với em vài
hôm. Tuần sau là em về với ông già Tầu rồi.” Tôi
hiểu cái gì sẽ xảy ra sau khi cô ta “về với ông già
Tầu”. Nó có nghĩa là chấm dứt mọi sự quan hệ, coi
như hết, coi như cô ta với tôi không còn gì. Cô ta muốn
níu kéo một chút gì đó, còn được tự do, trước khi
mọi sự chấm hết. Tôi như người bị cô ta dắt đi,
ngoan ngoản. Vâng, tôi muốn ngoan ngoản, để cô ta hoàn
toàn được vui.
Ở
phi trường Bình Thủy, hơi lo một chút vì sợ về Saigon
trễ, hết xe đi Vũng Tầu. Cũng may, chiều hôm đó, khi
chúng tôi tới nơi thì trời còn sớm. Lấy phòng ở khách
sạn xong, chúng tôi ra tiệm ăn qua loa rồi đi thăm Thích
Ca Phật Đài, mục đầu tiên trong chương trình của chúng
tôi.
Khi
leo lên mấy bậc cấp cao, chúng tôi gặp một người đàn
ông không già lắm, đang quét sân chùa. Ông ta chận chúng
tôi lại và... xin tiền mua thuốc hút. Ông ta không phải
là người tu hành ở đây, chỉ là một cư sĩ làm công
quả nhưng ăn ở tại chùa. Chưa phải là người già, sao
lại không đi lính? Tôi nói đùa với cô ta: “Ông “củ
xì” nầy dám là một tay trốn quân dịch lắm. Bao nhiêu
người đang đánh giặc, ông ta vô đây núp bóng Phật
đài.” Cô ta nói: “Kệ họ anh, nghĩ tới việc đó,
chúng ta mất vui.” Rõ ràng cô tang đang tìm một nguồn
vui chót, trước khi chấm dứt một đoạn đời.
Chương
trình ngày hôm sau của chúng tôi là một chương trình...
đi bộ. Sau khi ăn sáng xong, chúng tôi thuê xe ngựa ra Bãi
Sau, nghỉ chân ở đó một lúc rồi sẽ đi bộ từ Bãi
Sau ra Bãi Trước, dọc theo con đường quanh sườn núi.
Tôi không hiểu kế hoạch của cô ta có “điên khùng”
không, nhưng đi giữa nắng, từ Bãi Sau ra Bãi Trước giữa
cái nắng gắt thì tôi không ham. Những cuộc hành quân
bao giờ cũng nhiều gian khổ, không lầm lủi trong mưa thì
cũng dãi dầu giữa nắng cháy. Tôi ham gì khi đi trên con
đường ven núi giữa nắng nầy. Cũng may, gió biển Vũng
Tầu mát quá, làm cho nắng dịu đi nhiều. Nhưng khi tới
cái nhà hàng ở trên chiếc tầu thủy Nhật bị đánh đắm
hồi Thế giới Chiến tranh thứ hai thì tôi và cô ấy “rã
giò”, vào ngồi nghỉ chân ở cái nhà hàng ấy rất lâu.
Chúng tôi ngồi uống nước dừa và nghe nhạc. Đó là cái
thú tôi chưa từng được hưởng từ trước tới nay.
Hôm
sau, chúng tôi đi xem phim La fille de Ryan. Cuốn phim khá hay,
kể lại câu chuyện một cô gái sinh ra và lớn lên ở
một miền quê Ái Nhĩ Lan, một miền quê mùa, còn phong
tục hủ lậu. Cô gái muốn vượt ra khỏi những thừ quê
mùa hủ lậu đó nên kết duyên với ông thầy già góa vợ
của cô. Cuối cùng, qua nhiều gian khổ và nhục nhã, cô
ta được toại nguyện. Còn ở đây, cô ấy thì ngược
lại. Cô ta cũng muốn thoát ra khỏi những ràng buộc và
buồn bã của cuôc sống hiện tại, nhưng cô ta đã thất
bại.
Mấy
hôm ở khách sạn, chúng tôi ôm nhau mà ngủ, nhưng cái
ham muốn như lần đầu tiên không còn nữa. Nỗi buồn
sắp chia tay mãi mãi làm chúng tôi mất đi cái hứng khởi
như lần gặp gỡ dầu tiên. Tôi đọc cho cô ta nghe câu
thơ của Xuân Diệu: “Trong sum họp đã có mầm ly biệt”.
Cô ta chỉ thở dài. Một lúc, cô ta nói: “Em thở dài
như anh khi mình gặp nhau lần đầu tiên. Anh nhớ không?”
Tôi nói: “Anh hay thở dài, khi có chuyện gì không vui. Mẹ
anh rầy hoài nhưng anh không bỏ được. Hết anh nay lại
tới em. Bệnh buồn là bệnh hay lây.”
&
Ba
mươi năm sau...
Bảy
giờ sáng, tôi là người cuối cùng lên chiếc xe đò
Hoàng đậu trước chợ ABC để đi San José. Cửa xe sau
lưng tôi đóng lại. Tôi ngồi xuống cái ghế ngay sau tài
xế. Xe chuyển bánh.
Một
lúc, sau khi chạy qua vài đường phố, xe bắt vào đường
số 5 North.
Chưa
được 20 phút, xe lại rẻ vào phố, chạy lòng vòng vài
con phố, dừng trước một ngôi nhà. Có cô gái chờ sẵn
ở bên đường. Cửa xe mở ra, cô gái bước lên. Cô ta
đứng lại, nhìn vào chỗ tôi ngồi, có vẻ như vừa ngạc
nhiên, vừa bực mình.
Người
tài xế rời khỏi ghế, đứng phía trước mặt tôi, hơi
chếch về bên phải, nói:
-
“Cho tôi xin lỗi. Ghế nầy có “rề-dẹc”. Hồi nãy
gấp chạy cho đúng giờ, tôi chưa kịp nói với bà. Bà
thông cảm cho.”
Tôi
hỏi lại, hơi bực mình:
-
“Dzậy tôi ngồi ở đâu?”
-
“Có sẵn chỗ cho bà, ở phía sau.”
Nói
xong, anh ta đi trước, tôi đi theo. Bên cạnh cửa sau có
hai cái ghế. Một cái có người ngồi sẵn, một cái còn
trống. Người tài xế dừng lại ngang cái ghế đó. Tôi
hiểu ý, ngồi xuống. Người tài xế trở lại ghế của
ông, xe lại chạy. Tôi hơi bực mình.
Khi
xe trở lại chạy trên đường số 5 North, khung cảnh đồng
trống hai bên bắt đầu hiện ra, làm tôi thấy thoải mái
đôi chút. Tôi đưa mắt nhìn ra cửa. Tầm nhìn của tôi
ngang qua người đàn ông ngồi bên cạnh.
Tôi
nghe tiếng hỏi (tôi):
-
“Hình như cô...”
Và
tôi chợt nhận ra anh ấy. Tôi nói, gần như la lên: “Trời
ơi! Ba mươi năm mới gặp lại anh.” Rồi tôi chồm
ngang, ôm lấy anh ấy, bất cần những người chung quanh
đang nhìn tôi, ngạc nhiên và tôi khóc nức nở...
Tôi
nói trong tiếng khóc:
-
“Em muốn tìm anh, em tìm anh khắp nhưng không biết anh ở
đâu. Hồi đó ỷ y, không biết nhà mẹ anh ở Saigon là ở
đâu! Đơn vị anh thì tan hàng. Rồi anh đi học tập, phải
không?”
-
“Không phải học tập.” Anh ấy nói, vẫn từ tốn.
“Cải tạo. Nói cho đúng là “tù cải tạo”, ra ngoài
bắc. Mười năm, mười năm tù!”
-
“Anh có tội chi mà “học tập” lâu dzậy? Rồi đi
HO?”
-
“Sau lần gặp cô, tôi được về làm ban 2 Trung Đoàn.
Công việc nầy ở tù lâu là đúng thôi. Đi ra bắc cũng
đúng thôi. “An ninh tình báo”, về sớm sao được?”
Anh ấy kể lại, cũng từ tốn như trước kia.
-
“Anh có cưới vợ?” Tôi lại hỏi.
-
“Vợ đâu. Tôi nói với cô rồi mà. Chưa bao lâu thì ở
tù.”
-
“Học tập về sao không cưới vợ đi?” Tôi lại hỏi.
-
“Tôi đi tù cải tạo được ba năm thì mẹ tôi qua đời.
Khi về, chẳng còn ai. Anh em, bà con vượt biên đi hết
rồi, trơ trọi, một mình... Lại nghe được Mỹ cho đi.
Thôi cứ chờ vậy mà đi cho xong. Còn cô thì sao?”
-
“Cũng buồn lắm anh ơi! Sau “giải phóng”, bị đánh
tư sản. May mà ông Tầu lo trước, dấu bớt tài sản,
nên của chìm thì còn. Nhờ dzậy mà đi được hồi có
nạn kiều.”
-
“Bây giờ cô đang ở đâu, ở với ai?”
-
“Qua đây ít lâu, ông Tầu già qua đời. Ông tiếc của
quá mà chết. Năm 1977, bị đánh tư sản, người anh con
ông bác của ông uất ức quá mà tự tử ở Saigon. Năm
1979, ông ta và em đi “bán chính thức”. Qua đây, ông
dựng lại cửa hàng, cửa hàng bây giờ giao cho em. Hình
như ông không quên được cái cũ, tiền bạc, tài sản...
Cũng nhờ ông, em sống đầy đủ. Ổng chết rồi, em được
tự do. Được tự do mà không có anh. Bao giờ em cũng thấy
thiệt thòi, thiếu thốn, nhất là tình cảm, khi còn trẻ
cũng như khi đã già. Nhờ có con, có cháu nội nên cũng
khuây khỏa. Thằng bé hồi đó, anh còn nhớ không, bây
giờ có vợ con rồi đó. Lấy ông già Tầu, em cũng có
thêm một con gái, nay đã xong high school. Anh qua đây với
ai, ở đâu?”
-
“Anh thì bao giờ cũng cu-ki một mình. Trước nay ở
Orange County, nay chuẩn bị lên sống gần trên Ventura. Anh
có một công việc ở gần thành phố đó.”
-
“Anh không có vợ, sao không ở với em?”
-
“Thôi em à! Khi còn trẻ đã không ở được với nhau.
Nay già rồi, sống chung gì nữa! Con cháu của em chúng nó
nghĩ làm sao khi thấy tới chừng nầy tuổi mà em có
chồng?”
Tôi
không trả lời, chỉ thở dài. Lấy chồng! lấy chồng
khi quá sáu mươi tuổi. Người Việt Nam làm thế là không
tránh khỏi bị người ta cười. Bao giờ cái “người
ta” cũng cứ ràng buộc tôi, trói chân trói tay và trói
cả tâm hồn tôi lại. Khi còn trẻ, lấy một người
chồng trẻ mà tôi không yêu cũng vì cái “người ta”
đáng ghét đó. Tôi lấy ông Tầu già, cũng vì cái “người
ta” đáng ghét đó. Tới bây giờ, khi tôi hoàn toàn tự
do để chọn anh ấy, cũng lại bị “người ta” cấm
cản. Tôi đưa mắt nhìn những “người ta” ngồi chung
quanh, trong cái xe nầy. Tôi thấy họ đáng ghét lạ. Vậy
mà họ cứ đi chùa, đi nhà thờ để đọc kinh, thờ lạy,
cầu xin. Tại sao họ không cầu xin cho họ lột bỏ cái
“người ta” đó đi để tôi khỏi phải sống vì họ,
để tôi được chọn lựa mà sống với anh ấy trọn
đời.
Tôi
ngồi lại, ngay ngắn, nói với anh ấy những chuyện vu
vơ, không trúng đâu vào đâu! Cuối cùng, tôi hỏi anh đi
đâu giờ nầy, anh bảo:
-
“Đến Val Verde Park, tôi sẽ xuống xe. Rồi tôi kiếm xe
đi thêm bốn chục “mai” nữa, theo quốc lộ 126. Tôi sẽ
tới thành phố Ventura trên đường 101. Con đường nầy
gần như song song với đường số 5 nầy. Ngày mai, có
người đón tôi vào Casitas Springs trên quốc lộ 33, gần
đó có một cái nông trại. Tôi sẽ sống ở đó, gần
với thiên nhiên hơn với con người. Nông trại thì lớn
mà người thì ít lắm.”
-
“Sao đi xa vậy? Em nghe nói vùng ấy hẻo lánh, nhiều
nông trại trồng cà chua, hành, dưa leo... Chỗ đó là hóc
mò tó đó anh.”
-
“Tôi biết. Tôi muốn đi xa vào chỗ ấy, tôi muốn tự
do, muốn sống chân thật. Vậy không hơn xin vào chùa sao?
Cô nhớ ngày xưa tôi là nguời lính đánh giặc, dân tác
chiến. Người lính cầm súng đánh nhau với Việt Cộng
đêm ngày thì đâu cần phải hạ mình xin ai một chữ
thọ.”
Vậy
cũng được, còn hơn anh ấy vào chùa! Tôi lại nói:
-
“Phải chi em bỏ được con, bỏ được cháu mà theo anh
đến đó thì... hạnh phúc biết mấy.”
Anh
ấy lại thở ra, gần như ngày xưa vậy! Không nói gì cả.
Đến
Val Verde Park, anh ấy xuống xe. Tôi cũng xuống theo và ôm
anh ấy khá lâu. Rồi tôi khóc. Khi xe sắp chạy, tôi lại
lên xe. Anh quay lưng đi vào con đường phố, tôi nói với
theo:
-
“Anh nhớ gởi thư cho em. Em có đưa địa chỉ.”
Anh
ấy quay lại, gật đầu, đưa tay vẫy rồi tiếp tục đi.
Bóng anh xa dần.
Tôi
không hy vọng gì anh ấy sẽ gởi thư cho tôi như tôi đã
dặn. Ít ai cảm nhận được một cách rõ ràng và thực
tế rằng cuộc đời như cánh bèo trôi! Vậy thôi! Còn
trông mong gì thêm một lần gặp gỡ nữa!
hoànglonghải