văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Monday, February 11, 2013

Hồ Nam * Phan Bá Thụy Dương : Một Hồn Thơ Bất Hủ

Trên đời này có một người xem thường danh lợi, năm tháng lãng đãng ’’ngao du ‘’ cùng rượu với thơ, nhưng lại coi cả rượu lẫn thơ cũng chỉ là những thứ ’’ngọai vật’’ chẳng cò gì đáng kể. Được sinh ra ở đất Tuy Phong [một huyện núi và biển của tỉnh Bình Thuận] có lúc khoác áo trận, có lúc làm quan văn trong 2 thập niên 60-70 của thế kỷ hai mươi, chàng trai ấy tên Phan Bá Thụy Dương.

Trần Kiêm Đoàn * NGÀY ĐẦU NĂM TRÊN QUÊ MẸ











 Lễ Giao Thừa trên quê tôi làng Liễu Hạ
 Mưa lâm râm lành lạnh đón Xuân về
 Ba mươi năm làm ly khách xa quê
 Đêm trừ tịch được kề bên gối Mẹ

 Bà Mẹ Quê mỉm cười sau nhang khói
 Ngày Mẹ đi đất khách tủi thân buồn
 Với riêng con Lòng Mẹ là quê hương
 Và tình nước là tình thương của Mẹ

 Đã lâu lắm giữa cuộc đời dâu bể
 Vẫn nương về tim Mẹ một kỳ quan
 Mẹ khuất núi nếp nhà xưa mất dáng
 Đá vàng phai và bụi đỏ giăng tràn

 Lời Mẹ ru xưa xác xơ đồng vọng
 Đường con về hoa lá rụng hoang sơ
 Dối trá tham ô thô bạo lọc lừa
 Bụi dục vọng phủ mờ khung đạo lý

 Xông lư trầm khói lam bay phơ phất
 Hương nghìn xưa sao nếp cũ phôi pha
 Trên quê mẹ bỗng thấy mình khách lạ
 Đêm nằm mơ Thục Đế thuở tan nhà

 Nhang đã lụn xin chúc mừng Năm Mới
 Van vái Mẹ Hiền xin phù hộ cho con:
 Một thằng con trong trăm triệu đứa con
 Biết thương Mẹ phải làm người trung thực

 Tổ quốc Mẹ hiền sẽ không bao giờ mất
 Dẫu thay tên nhưng sự thật vẫn nguyên dòng
 Con lạy Mẹ ra đi đời viễn xứ
 Việt Nam còn quê Mẹ vẫn trong con

 Thôn Liễu Hạ, mồng một Tết Quý Tỵ 2013
 Trần Kiêm Đoàn 










Saturday, February 9, 2013

trúc thanh tâm * em như cánh én mùa xuân



Xa nhau từ lúc tan chinh chiến
Ta thương đời gạo chợ, nước sông
Tay trắng quê người, thương xứ sở
Nhìn mắt em, ta thấy chạnh lòng

Chiều nay, biên giới mưa dai dẳng
Ta ngồi quán cũ góc bàn quen
Cà phê, khói thuốc lưng chừng mộng
Rớt xuống hồn ta những nhớ, quên

Đêm trần gió trải tình trên lá
Ly rượu tình thân buổi hẹn về
Mấy mươi năm đó đời dâu bể
Chưa cạn lòng ta nỗi nhớ quê

Sông trôi ra biển nguồn ở lại
Bên bồi, bên lở nhớ thương nhau
Em như cánh én mang xuân đến
Chia bớt đời ta những khổ đau

hồchíbửu * NHỮNG BÀI THƠ CUỐI ĐÔNG





1. hoàng thị
anh trở lại vườn xưa chiều đông nhạt
ai ngậm ngùi ?ai thương nhớ ai đây ?
gốc cây bưỡi dấu khắc tên hai người mờ nhạt
ba mươi năm chớp mắt đã vơi đầy



2. minh dung
giả sử bây giờ anh trẻ lại
thì vẫn yêu em như thuở ban đầu
giả sử bây giờ anh già thêm chút nữa
vẫn trợt dài theo hết cuộc tình sâu !

3. mộng th..
tội nghiệp em hơn một lần qua bến
đục hay trong chắc em đã biết rồi
trong thì tuyệt - đục bỏ phèn uống tiếp
lỡ qua cầu không lẽ lại nghỉ chơi ?

4. tuyết nhung
tuyết thì lạnh – nhung mềm - mềm mà lạnh !
cũng giống như gió biển lộng Ba Tri
xa xa tít một phương trời hiu quạnh
ta hôn người sao nước mắt hoen mi ?

5. xuân hồng
mùa xuân đẹp - hồng tươi là khoe sắc
nhưng xuân buồn nên hồng cũng héo khô
đất Cẫm Mỹ mặn mà hơi gió biển
vì thương người gió đọng lại thành thơ

hồchíbửu.

Nguyễn Mạnh Trinh * Mưa tháng hai ở California


Tháng hai ở California có những cơn mưa. Mưa. Mang theo hơi lạnh và mang theo cả những nỗi buồn man mác. Buồn, cũng như nước giọt bất chợt từ trời cao, có khi chỉ là những nỗi sầu lan man không duyên cớ.
Đêm mưa, nằm nghe nước giọt bên ngoài, trong nệm êm chăn ấm và da thịt của người thân yêu, dường như có nỗi niềm nào lẩn khuất từ tiếng gió, từ tiếng mưa. Cái giây phút hiện sống sao nó cũng mơ hồ, y như những ngày nào đã qua, hệt như thuở nào đã hết. Tôi mơ màng trong cái cảm giác không biết mình ở nơi đâu, sống chỗ nào. Những ngày tháng cũ trôi qua, từ thuở ấu thơ tắm truồng ở một xóm lao động Sài Gòn đến những cơn mưa trưa bất chợt, đứng trú mưa ở một hàng hiên và nghe lòng xôn xao khi thoảng nghe mùi tóc của một người nữ bên cạnh. Hay những cơn mưa của Pleiku, của xôn xao mật ngọt tình đầu, của những đêm mưa mù mịt đất trời trở về phi trường trong nỗi buồn của một người tưởng như bị biếm vào đất trích…
Những câu thơ trở lại với tôi trong canh khuya. Nguyễn Bính. Một thân lận đận nơi trời xa / nằm nghe mưa rơi trên mái nhà / gió bấc vào thu đầy tiếng lá / đời tan mộng đẹp tiếc xuân qua... Tôi ở phương xa nhưng đâu có lận đận? Sao vẫn tiếc hoài khi sống lại những cơn mơ.
Buổi sáng nay trên xa lộ. Trời mưa. Đáng lẽ giờ này lười lĩnh trong chăn ấm với giấc ngủ nướng mà phải lặn lội đường xa trong cái hiu hắt của đất trời. Những rặng núi xám phía hướng trước mặt vẫn là nền đen thẳm trong màn mưa mù mịt. Chạy vào lane trong, với tốc độ chậm, vặn nhạc hòa tấu nhẹ nhẹ, tôi miên man trong từng ý nghĩ. Dường như có tiếng gọi nào, của mơ mộng thanh xuân, của thuở nào hăm hở với giấc mộng cho đời, cho người. Mỗi một lúc trong thăng trầm của cuộc đời, mỗi nỗi niềm riêng. Khi rời giảng đường vào lính, giấc mộng chẳng to tát vá trời lấp biển, nhưng cũng là những cảm nhận khá ngây thơ về đường binh nghiệp.
Khi vượt biên, tưởng như mang theo thông điệp của những người còn kẹt lại ở quê nhà, cao giọng cất lên tiếng nói của người yêu tự do dân chủ. Và khi sang định cư ở xứ người, hăm hở bước vào con đường lập nghiệp mới cho bản thân, vừa học vừa làm để tròn trách nhiệm với bản thân và còn mong góp vào những công việc chung của một cộng đồng lập nghiệp ở xứ người vì tìm kiếm những ý nghĩa cho cuộc sống đời xa xứ. Những ước vọng ấy, thôi thúc, có khi thành một ám ảnh và là ray rứt trong cái nhịp sống thúc đẩy đến chóng mặt của xã hội hiện tại.
Hình như tôi có một bài thơ nói về cảm giác ấy. Mưa buổi sáng trên xa lộ phía nam. Bài thơ có những đoạn như:
những buổi sáng mưa dài trước mặt
nước ào ạt tung tóe khoảng trời
đèn thắp lên thiên thu đừng tắt
gọi ai người khản tiếng tàn hơi
đường trải ra chuyến xe mỗi nặng
đi về phương bắc hay phương nam
sao tiếng sóng đằng sau còn vẳng
hay là đời nhịp của chia tan
mưa vỗ vỗ nhạt nhòa khung kính
ru ta ru ta mưa thầm thầm
ngọn núi thẳm trước sau vô định
cánh chim bay vào chốn biệt tăm
một tiếng đồng hồ trên xa lộ
nghĩ mãi về đời mãi về mình
với lúc thực hư dường chẳng rõ
thấy mình heo hút giữa lặng thinh
tự giải thích với ngàn câu hỏi
ta hôm nay ta sống làm gì
ngày tiếp ngày không chờ không đợi
chuyến xe sang tiếp nối về đi…
tóc dần phai mộng dần phia nhạt
vui như lá cỏ đọng sương mai
mà buồn như hàng hà hạt cát
ta làm gì làm gì hôm nay...”
Có người đọc thơ cho rằng đây là một khuynh hướng thơ “hội nhập bình thản”. Một kết luận chắc nịch cho bài thơ : vừa lòng với hiện tại, với công việc làm và yên phận. Thực ra cái từ ngữ hội nhập bình thản tự nó đã có những định nghĩa mơ hồ và người đọc thơ đã hiểu một cách nào khác để có những kết luận đầy tính suy diễn. Mà suy diễn thì ít khi có tính chính xác! Bài thơ trên không có chữ nào để nói lên tâm trạng vừa lòng với hiện tại và cũng chẳng có ngôn ngữ nào để chỉ rằng vừa lòng với công việc làm đang có cũng như yên phận với những sự đều đều nhàm chán của cuộc sống.
Trong bài thơ, là cảm giác của một người vừa phải sống đời của một người bình thường đánh vật với cơm áo lại vừa bị ray rứt của những nỗi niềm của một người muốn dấn thân nhưng chưa có dịp thì tuổi già sắp đến. Những ngôn ngữ như “khản tiếng tàn hơi”, như “tiếng sóng đằng sau còn vẳng”, hay hình ảnh như ”ngọn núi thẳm trước sau vô định? Cánh chim bay vào cõi biệt tăm”, đều muốn nói lên cái tâm tư của một người tị nạn xứ người nhưng vẫn thầm canh cánh những nỗi niềm ấp ủ từ lúc thanh xuân…
Giải thích một bài thơ, nhiều khi giống như một công việc giết chết thơ. Đâu có ai mang cảm xúc ra để kể lể, mang tâm sự ra để đối chiếu với thơ. Nhưng, nhiều khi viết với cái tâm cảm của mình mà bị cảm nhận bởi những ý nghĩ sai lạc đến một trăm tám chục độ thì cũng là điều đáng buồn cho người làm thơ…
Thực ra, mỗi người có một lối cảm nhận thơ riêng. Nhất là không thể dùng sự suy diễn từ những yếu tố khác ngoài văn bản để kết luận về một điều này điều nọ. Đọc thơ và hiểu được thơ, thực cũng hiếm có mấy ai...
Những cơn mưa tháng hai. Những cơn mưa của người vừa qua tuổi sáu mươi sống song hàng giữa thực tế và mơ mộng. Nhưng cũng may, vẫn còn mơ mộng, vẫn còn văn chương để nghĩ về và viết đến. Nếu không, ôi thôi, đời sống sẽ đơn điệu biết bao. Cái tâm trạng ở Tần nhớ Tấn ấy, hễ là người tị nạn thì ai mà chẳng có. Mỗi khi nghĩ đến lại có điều gì vướng bận trong lòng. Có mấy ai vừa lòng với công việc ở đây, dù là người khoác lác cỡ nào. Lao động, dù cổ xanh hay cổ trắng cũng là đem mồ hôi hay tâm sức để đổi lấy miếng ăn. Ngay cả những người bản xứ da trắng, và ở những cấp vị cao, khi kinh tế trồi sụt, cũng còn thấy được đi làm và có công việc là hạnh phúc. Huống chi, người tị nạn, đòi “hội nhập bình thản” thì có lẽ chỉ là chuyện phong thần…
Mưa tháng hai hình như có hạt nào rơi từ quá khứ. Mới gần đây thôi, những tháng ngày lạ lẫm, những bước đến chập chùng cảm giác. Mưa trên buổi chiều nào gần gũi nhưng lại xa vắng. Mưa trong trí nhớ của tôi
Mưa đã rơi đã rơi ở thành phố chúng ta
trên góc phố Los Angeles
bảng xe bus lặng thinh
chuyến xe không hành khách trở về
tôi lạnh run đứng ngó.
Mưa ngủ quên giây phút nào
Hạt mưa quá khứ.
Vỡ vụn trên mặt nhựa nâu
Cho anh hơi thở muộn
Mưa đã rơi đã rơi ở thành phố chúng ta
Trên đời sống hôm nay kẻ lạ
Góc phố biển một mình
Con hải âu nhìn trời xanh chết rũ
Từng chiếc lá lạnh buốt
Rơi trong ngày đầu năm vừa qua
Đâu tóc bạc tuổi già
Tuổi thơ ơi tuổi thơ chúng ta
Là âm bản cơn mưa mù mịt
Mưa đã rơi đã rơi ở thành phố chúng ta
Con phố Bolsa mỗi sáng mỗi chiều
Như Sài Gòn nỗi niềm
Gánh trên vai trí nhớ
Giọt nhạc nào rơi rơi
Như bóng chiều tàn phai nắng rụng
Anh nói nhỏ với thinh không
Vừa chết lặng màu hồng
Khi một trời chập chùng gió tím.
Mưa đã rơi đã rơi từ hư không.”
Làm thơ, có phải là chiêu niệm quá khứ và hướng vọng tương lai. Mưa. Giọt ẩm hơi nước đọng lại trong đời sống trong da thịt những sợi cảm xúc nào của riêng một người hay của chung những hệ lụy cuộc đới. Những giọt mưa tháng hai rơi hoài trong tâm thức một người luôn không bằng lòng với tháng ngaỳ hiện tại hôm nay…

Nguyễn Mạnh Trinh

Wednesday, February 6, 2013

LAN ĐÀM * THÁNG GIÊNG, NHỚ LONG ÂN



Thì thôi, rượu cạn, bình không,
Còn chi để giót cho giòng sông xưa.
Tóc tiên vườn cũ ơ thờ,
Trà quên lưu khách, thu vừa tàn phai.

Thì thôi, im ngủ sông dài,
Nửa chai, chắc đủ gửi người chút ta.
Chiều hội hữu, khói hương pha,
Lạnh cà phê đắng, vàng hoa mộ phần.

Thì thôi, đời vẫn phù vân,
Cây ngô đồng đã mấy lần lá rơi.
Cơn say thiên cổ xa rồi,
Hóa thân ngươi, vạt nước trôi lạnh lùng.

LAN ĐÀM


Sơn Nam * Bác vật xà bông


So với các rạch khác ở ven vịnh Xiêm La, vùng Xẽo Bần thuộc vào hàng tương đối sung túc. Dân ở đấy sanh sống bằng hai nghề : phá rừng lấy củi và khi tiết trời thuận tiện, họ ra biển đánh lưới tôm. Tiền bán củi vừa đủ cho họ mua gạo ăn, thuốc hút ; nghề đi lưới thì chỉ đem lợi riêng cho một số người có ghe, có lưới. Người đi bạn thường lãnh tiền buổi, tùy theo lưới trúng hoặc thất - tay làm hàm nhai.
Ðôi mươi mái nhà lá, vài ba gốc dừa không trái : ngọn Xẽo Bần xơ rơ như vậy đó. Chung quanh là cánh đồng cò bay thẳng cánh nhưng đầy năng kim, ô rô, cỏ ống. Cò lông bông, trích, cúm núm bay lượn tối ngày.
Dân làng nào tha thiết đến vùng đất phù sa nê địa ! Vì vậy, khi ông bác vật X. đến xây nền đúc, cất nhà ngói, tự xưng là chủ đất thì không một ai xao xuyến cảm thấy quyền lợi mình bị đụng chạm.
Trái lại, họ rất vui mừng.
Trước tiên, ông bác vật đích thân đến thăm từng nhà trong xóm. Hễ gặp ai chào hỏi quá khúm núm, ông can gián :
- Bà con cứ bình đẳng, đừng nên gọi tôi bằng ông, tôi còn nhỏ tuổi lắm. Cứ gọi tôi bằng dượng Hai. Ðất này của bên vợ ; vợ tôi thứ hai.
Hỏi qua vấn đề nền nhà, ông bác vật trả lời :
- Ai lỡ cất nhà nơi đâu, cứ yên lòng ở đó. Tôi không bao giờ có ý đuổi bà con. Tôi còn muốn kêu gọi bà con đến thêm, ở đông chừng nào vui chừng nấy. thỉnh thoảng mời bà con vô nhà tôi chơi. Lúc nào tôi cũng ở nhà để lo việc khoa học. Tánh tôi bình dân lắm, ai có chuyện gì khó hiểu tôi sẵn sàng giải thích.
Kể từ đó, buổi trưa hoặc buổi tối, nhà ông bác vật luôn luôn tấp nập. Ði rừng bắt được rùa, săn được heo rừng là bà con nghĩ đến ông, đem lại tặng. Ðáp tạ thạnh tình ấy, ông bác vật dắt từng người vào phòng làm việc của mình. Trên vách, hai hàng kệ đầy sách mỗi quyển dày hơn tấc tây, lưng da mạ chữ vàng lấp lánh. Một cái bàn tròn chiếm giữa phòng. Trên đó đủ kiểu ly, hũ, bầu... Toàn bằng pha lê trong vắt : cái thì méo miệng, cái thì tròn như trái dừa, có cổ dài uốn éo như cổ cò. Lại thêm chiếc đũa bằng pha lê dựng đứng trong ống, dài theo ống có lằn đỏ như vạch đo từng phân, từng ly tỉ mỉ.
- Thứ gì ngộ quá vậy, dượng Hai.
Ðáp :
- Ðồ dùng để thí nghiệm hóa học.
- Hóa học là chi vậy, thưa dượng.
Ông bác vật mỉm cười :
- Khó cắt nghĩa lắm. Thủng thỉnh, bà con sẽ rõ. Hóa là biến hóa... Các chất hóa học hiện nay còn thiếu mới mua được chút ít. E nguy hiểm, tôi chưa dám cho bà con xem.
Mãn buổi thăm viếng, bà con xóm ngọn Xẽo Bần vô cùng thắc mắc. Ban nãy, còn biết bao nhiêu câu hỏi mà họ không dám hở môi thố lộ ra. Giờ đây, họ xúm xít lại bàn tán cho hả hơi :
- Bà con biết không ? Nghe tới hóa học tôi điếng hồn. Rủi ro nó nổ bất tử. Nội mấy cái ly, cái bầu của ổng cũng đủ ghim miểng nát bấy thi thể bà con mình.
- Ðừng nói bậy ! Người ta dùng nó được nên mới dám chứa chấp. Tôi nghi dượng Hai mình làm... Quốc sự. Nhè ổng chế tạo bom đạn, dân chúng ở đây, ắt phải liên can.
- Ừ, tôi coi ổng là người có kỳ tài.
- Kỳ tài gì ? Thực lộc chi thê. Chắc ổng có bằng cấp bên Tây. Nhờ vậy...
- Bằng cấp gì ? Có thì ổng nói rồi. Chắc là "nhảy đầm" ở bển rồi về đây. Năm ngoái tôi đi Trà Vinh gặp ông nọ xưng là bác vật canh nông. Ổng trồng mười cây đu đủ ; lớn lên toàn là đu đủ đực...
- Nói xấu thiên hạ đi ! Biết đâu ổng muốn trồng đu đủ đực để thí nghiệm.
- Ối thôi ! Hơi đâu mà cãi. Xứ mình không bao giờ có nhơn tài được. Ði qua học bên Tây, nếu người Việt Nam nào trổ tài thì Tây ám sát hết. Tụi nó "muối nước đá" bắt nhơn tài của mình đem ướp cho chết, không cần đâm chém hoặc chích thuốc cho loạn óc, tê bại... Dầu sao Dượng Hai mình cũng là người dễ thương biết chữ nghĩa nhiều hơn mình.
Rồi thì ai về nhà nầy, sáng thì đi lưới, tối lại phá rừng. Công việc sanh nhai của họ ngày thêm đình trệ. Làm ra được, ngặt bán không ai mua. Vải bô giá càng mắc, kiếm không ra. Có điều lạ là dạo ấy thuốc ký ninh mua rất rẻ, thứ ký ninh bọc đường uống ngọt ngọt. Thiên hạ bảo đó là phát minh của Nhựt Bổn, thuộc giòng giống da vàng như người Việt Nam mình, nhưng họ biết chế thứ máy bay có mặt trời đỏ sau đuôi, thường bay lượn dài theo ven biển này.
***
Dượng Hai bỗng trở nên vui vẻ lạ thường, kể từ ngày đi Bến Tre về.
Trước mặt bà con chòm xóm, dượng tuyên bố :
- Mình ở đây sống trên kho vàng mà không hay. Nay mai, ai nấy đều có công ăn chuyện làm. Tôi sẽ cất một cái xưởng lớn.Thời Trời giúp tôi.
Có người hỏi :
- Mình dùng hóa học để chế tạo ra vàng, phải không ?
Dượng im lặng mỉm cười rồi mở tủ, lấy cho mọi người xem một khối vuông, màu vàng như đất sét :
- Ðây là xà bông của tôi mới chế tạo như ở Bến Tre. Cỡ này, nó lên giá gấp ba vì không nhập cảng nguyên liệu hóa học được. Tôi hy vọng giúp bà con công ăn việc làm, xưởng xà bông của tôi sẽ cất tại đây thật gấp, cần dùng hàng trăm nhân công.
Họ trố mắt nhìn cho biết thứ xà bông mới lạ đó. Hồi nào tới giờ, ở đâu ít ai cần dùng đến xà bông nên không mua về. Họ dùng cám hoặc vỏ trái khóm chà vào bàn tay là bao nhiêu bụi bặm, dầu mỡ đều trôi hết.
Dượng Hai nói tiếp :
- Lúc này Nhựt Bổn đánh giặc với Ðồng Minh. Ðường giao thông tiếp tế bị ngăn cản. Vì vậy, thiếu xà bông. Giá xà bông từ hai cắc một kí lô đến sáu cắc. Nay mình chế tạo xà bông bổn xứ, bán chừng bốn cắc thì thiên hạ xúm lại giành mua như tôm tươi, mặc dầu xấu hơn chút ít !
- Ở Xẽo Bần nầy, làm sao đủ vật dụng ?
- Sao không đủ ! Mình cần dùng có hai món : dầu dừa với nước tro. Dầu dừa đã sẵn sàng : Ra Hòn Tre mua dừa khô về thắng lại. Nước tro thì nào là tro than đước, tro bẹ dừa, tro cây mắm. Nhứt là cây mắm, mọc đầy bãi biển, tro nó mặn hơn hết và rẻ vốn hơn hết.
- Nấu cách nào vậy dượng ? Ðể tụi tôi về nấu thử.
"Ðể tụi tôi về nấu thử". Mấy tiếng đó khiến cho vầng trán của dượng Hai nhăn lên, thoáng qua chút gì lo ngại. Nhưng chỉ thoáng qua thôi ! Dượng cười to, lấy trong tủ đem ra một cái ống thiếc.
Mở ống, bên trong ló ra một vật khác bằng thủy tinh nhỏ hơn chiếc đũa, bề dài cũng ngắn hơn, một đầu thì tròn vo. Dượng nói :
- Ðây là... Cái ống thủy. Phải có nó mới nấu xà bông được. Dùng để cân nước tro.
- Cân là làm sao dượng ?
- Cân là đo lường sức nặng của nước. Thí dụ như chén nước tro này : muốn biết mặn hay lạt, phải thả cái ống thủy vô coi thử nó mặn tới mấy độ.
Nói xong, dượng bỏ ống thủy vào nước tro. Lạ thay ! Ống thủy dựng đứng. Dượng nói :
- Số 32, bà con thấy chưa. Bây giờ tôi đổ nước lạnh từ từ. Nước tro bớt mặn, ống thủy nổi không phải ngay số 32 mà thấp hơn : con số 31, 30, 29. Phải mặn đủ chữ nước tro mới hiệp với dầu dừa để thành xà bông. Bằng không hai thứ ấy cứ lỏng bỏng. Ống thủy này bây giờ mắc lắm, bên Tây không còn gởi qua được. Bí mật của nghề làm xà bông là vậy... Thôi, mai này bà con lại đây, tôi nấu thử cho coi.
Buổi gặp gỡ khi nãy mở đầu cho bao nhiêu hậu quả tai hại mà dượng Hai không đoán trước được. Dân chúng ở ngọn Xẽo Bần suy nghĩ : nếu mình chế tạo được xà bông thì tội gì đi làm mướn cho dượng Hai. Bà con lối xóm có thể tự ý mở ra mỗi người một xưởng nhỏ. Diều quan trọng là nấu một lần coi nó có đặc không, thay vì dùng ống thủy để cân nước tro, họ dùng lưỡi mà nếm thử.
Trong khi Dượng Hai thí nghiệm xà bông tại nhà, đằng này bà con xóm Ngọn cũng bỏ hết công việc làm để... "nấu" với kiến thức tối thiểu của mình. Nước tro cây mắm, dầu dừa và nước lạnh trộn trong chảo, bắc lên bếp. Họ ngóng xem kết quả. Nhắm chừng xà bông có thể đặc, họ cho nhiễu vài giọt trên giấy hút thuốc. Nhưng lạ thay ! khi đổ ra khuôn, xà bông chỉ đặc trên mặt, lớp dưới lỏng bỏng toàn nước tro mặn đắng.
- Tại mình thiếu cái ống thủy để cân nước tro - Một người nói.
- Phải đó ! Tro cây mắm mặn không đồng đều, cây già mặn hơn cây non, khúc gốc mặn hơn khúc ngọn, tôi chắc như vậy.
Có người thỏ thẻ :
- Hay là... để tôi lại đẳng lén ăn cắp cái ống thủy đem về đây cho bà con mình xài.
Người khác can gián :
- Ở tù chết. Hơn nữa, đem về đây mình biết xài nó theo cách nào ? Ai biết số, biết chữ ? Tôi tưởng mình nên ăn cắp một chút nước tro, thứ nước tro mà ổng đã thí nghiệm, được coi là đúng chữ. Ðem chén nước đó về đây, mình cứ chế tạo một cái ống thủy khác, không cần mua ở bên Tây như ổng.
- Làm cách nào ?
- Mình kiếm cái chai dầu gió cũ, bỏ dằn vào đó một hột chì rồi đậy nút lại, để chai nọ không nằm ngang khi nổi trên mặt nước. Ðó là ống thủy của mình tạm chế tạo. Bấy giờ mình thả chai dầu gió nọ vô nước tro, thứ nước tro mà dượng Hai đã cân rồi, đúng chữ. Hễ chai dầu gió chìm xuống đến mức nào, mình ghi lằn mặt nước ấy vào hông chai.
Ý kiến đó được hoan nghinh và thi hành.
Thế là vài ngày sau mỗi người đều có một ống thủy riêng biệt. Dượng Hai nào hay biết chuyện gì, ngày hai buổi, dượng đinh ninh rằng với một kế hoạch châu đáo, theo qui mô to lớn, xóm ngọn Xẽo Bần sẽ trở thành một trung tâm quan trọng.
Nhưng có điều khiến dượng khó hiểu : Từ nửa tháng qua, bà con lối xóm ít lại đây để nói chuyện như mọi lần.
***
Một buổi sáng, chú Xồi bơi chiếc xuồng "tạp hóa" đến bến, mời dượng :
- Dượng Hai mua xà bông không ? Xóm mình chế tạo thứ này nhiều quá rồi. Ðem giặt quần áo bọt cũng nhiều như xà bông bên Tây.
Dượng Hai thất sắc :
- Ai chế tạo vậy ?
Chú Xồi đáp :
- Nhà nào cũng có nấu. Không tin dượng đi dạo coi thử.
Ðến bây giờ, dượng Hai mới hiểu tại sao hổm rày mấy người trong xóm khi gặp dượng là họ chào hỏi sơ qua rồi kiếu từ lập tức, sắc mặt không được tự nhiên.
Dượng thở dài :
- Trách ai bây giờ ! Tại mình "sanh bất phùng thời"
Bao nhiêu xà bông sản xuất ở ngọn Xẽo Bần được tung ra khắp thị trường miền Hậu Giang. Cạnh tranh có hiệu quả với loại xà bông chế tạo bằng tro dừa ở Bến Tre vì tro cây mắm ở đây mặn hơn. Mỗi khi đi bán từ xa trở về, họ không quên mua tặng cho dượng vài gói trà Kỳ Chưởng.
- Trăm sự cũng nhờ khoa học của dượng đó, dượng ạ !
Dượng Hai đáp :
- Tôi mừng giùm bà con. Bà con đi dọc đường có gặp ai nấu xà bông như xóm mình đây không ? Phải thận trọng, giấu nghề...
- Có. Nhưng xấu hơn xà bông mình nhiều. Họ bán chạy nhờ có hiệu. Kỳ này tôi tính khắc con dấu Việt Tân, Việt Hưng gì đó để đóng vô, kèm theo hình mặt trời cho cục xà bông nó "mạnh" một chút.
...Năm 1945, cả xóm ngọn Xẽo Bần không nấu xà bông nữa. Họ phải lo những chuyện khác cao cả hơn. Nhưng ý nghĩa của cuộc chiến đấu mới nào có gì lạ hơn là làm cho dân giàu nước mạnh, phát triển nội hóa. Có lẽ vì lý do đó mà họ hăng hái hơn ai hết. Vì họ đã thấy rõ một lần rồi.


phù hư dật sĩ Võ Thạnh Văn * Chúc Xuân


Tuesday, February 5, 2013

Trần Vấn Lệ * Bây Giờ Mà Em Nhỉ

























Bây giờ mà em nhỉ minh về Đà Lạt xưa. Tháng Giếng chắc trời mưa, cơn mưa phùn như bụi, mình nhìn nhau không nói, “Ai Hôn Giùm Cho Mình!”

Tháng Giêng cỏ rất xanh, hoa đào thì vẫn đỏ. Em là đóa hoa nở trong lòng anh, biết không? Em hãy đứng quay lưng, anh so từng sợi tóc, có sợi choàng qua ngực, anh hôn em, ăn gian…

Em! Em cứ mơ màng. Mình đang về Đà Lạt. Mình đi xuống Trại Mát, mình vòng qua Dốc Đu. Những ngon đồi mưa mưa, mưa là thơ anh rải cho một người con gái anh gọi là Giai Nhân!

Em! Em là mùa Xuân…Quê người anh đang nói về Quê Hương vời vợi, về một Đà Lạt xưa…Nếu em đừng qua đò, nếu anh đừng tuổi lính, bao nhiêu điều dự tính, Đà Lạt là…hôm nay!

Trời đang mưa. Mưa bay. Em ơi em, Đà Lạt. Anh nhớ lại bài hát “Ai Lên Xứ Hoa Đào…”. Nhớ lúc em nghẹn ngào mà muốn trào nước mắt. Xưa anh không tin Phật, anh mất em, buồn ơi!

Em đi vào cuộc đời, anh đi vào cuộc chiến, bao nhiêu năm khấn nguyện, bây giờ…anh hôn em!

Trần Vấn Lệ


Sunday, February 3, 2013

Phương Triều * Giọt sữa đất




Thương giọt phù sa như là sữa đất
Đêm quê nghèo mưa trắng lạnh Tiền giang...
Em thả tóc hương lài thơm gối mộng
Búp tay mềm với gọi giấc mơ tan

Mùa ốc gạo anh còn đi xúc tép
Chiều Tân Hưng ngõ bướm rợp hoa vàng
Mai họp chợ Nha Mân xuồng ghé sớm
Em buổi chiều Rạch Rắn đợi anh sang!

Mấy nhỏ bạn miệt Nàng Hai, Xóm Cửi
Dặn mua dùm xoài tượng với dưa gang
Anh hái mận ra Cái Tàu đổi rẻ
Thêm chục xoài cát ngọt cúng trên trang!

Van vái được cưới em ngày mới lớn
Hạnh phúc đơm đầy hoa lá bình an
Đâu biết được mộng đau vùi giấc bướm
Nha Mân buồn Rạch Rắn đã sang ngang!

Đêm trở lại ngậm ngùi trăng cố thổ
Bóng hình xưa bèo bọt giấc mơ tàn

Phương Triều