Hoang sơ tím áo nữ kiều, Ngọt môi mùa loạn ngàn xiêu gió thành. Mộng vừa rụng ngọc Oanh Oanh, Nửa đêm cùng nửa tuổi xanh dâng chàng. Tình xưa sử nến dăm hàng, Gối hai thứ tóc, tay choàng tâm tư. Sơ giao, tiết tấu, tờ thư: Chữ Chân cùng với chữ Hư hẹn hò: Rằng em người xứ Long Hồ, Rằng nhà em ở bên bờ Tiền Giang… Bỗng dưng không tiếng oanh vàng, Mà sao giấc mộng yêu nàng bỗng dưng… Thương thương huyền hoặc, nửa chừng, Bóng gầy chiếm hết một vùng không gian. |
Monday, August 12, 2013
TẠ KÝ * Tình xưa sử nến
TRẦN VẤN LỆ * Năm Năm Rồi Không Gặp
Mới
đó mà năm năm, năm mùa trăng lạnh lẽo. Trăng theo
em lẽo đẽo núi đèo sông biển nao?
Mới
đó như chiêm bao, ngắn dài cũng một giấc. Hạt kê
chưa ứa mật, lửa tàn, tro than bay…
Mới
đó mà hôm nay vẫn về bầy quạ cũ. Ngưu Lang và
Chức Nữ chưa kịp cầm bàn tay…
Mới
đó mà mây mây bay qua cầu bay hết. Năm năm em biền
biệt như là mây đầu non…
Mới
đó hoa héo hon bên từng bia đá dựng. Anh đến đây
không đứng mà quỳ xuống, Thưa Em!
Em
đi về cõi Tiên? Em đi về cõi Phật? Ôi trời!
Trời cao ngất, em tới Phượng Trì chưa? Mới
đó mà mưa mưa, Rằm Trung Nguyên em ạ.
Người ta thả thuyền lá nước xuôi về Âm Ty… Mới đó mà lưu ly giọt lệ người dương thế. Yêu thương làm sao kể, nước mắt lại đầm đìa!
Người ta thả thuyền lá nước xuôi về Âm Ty… Mới đó mà lưu ly giọt lệ người dương thế. Yêu thương làm sao kể, nước mắt lại đầm đìa!
Con
sông ba ngả chia. Ngả nào về Đại Lựơc? Ngả
nào chân em bước con đường mòn Kim Long? Mới
đó, em biết không? Năm mùa trăng rồi đó! Con
trăng Rằm sáng tỏ sao mắt anh lại mờ…
Trần
Vấn Lệ
Friday, August 9, 2013
PHẠM TÍN AN NINH * chim bay về biển
Một
mai chim bỏ bay về biển
Ta đứng một mình ngó nhánh
sông
Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy
Nghe trăm ngọn
sóng vỗ trong lòng
(Sương Mai)
Buổi
chiều, mùa hè Bắc Âu thường có những ngày mưa, ảm
đạm. Tôi nhận được thư của bạn Dương Hiệp, giám
đốc Đài Phát Thanh Nationwide Viet Radio (NVR) từ Hoa
Thịnh Đốn, báo tin Phan Công Minh vừa mới ra đi,
trước đó chừng một tiếng đồng hồ. Lòng tôi chùng
xuống, điều mất mát lớn lao ấy đã cho tôi cái cảm
giác trống rỗng, mọi thứ chung quanh bỗng dưng đều trở
thành vô nghĩa. Ngoài trời dường như gió đã ngưng thổi,
một cơn mưa hạ vừa đổ xuống những hàng thông đứng
lặng yên như chịu tang. Cơn mưa rào, đến ào ào nhưng
dứt sớm. Đứng trên bao lơn nhìn ra phía trước. Cả một
vùng không gian tĩnh lặng. Trước mắt tôi chỉ còn một
điểm cử động duy nhất: cánh chim. Cánh hải âu lẻ
loi, thư thả, nhịp đôi cánh như hai mái chèo của con
thuyển nhỏ trên dòng sông tĩnh mịch, rồi từ từ mất
hút giữa không trung. Bất chợt, tôi hình dùng đến Phan
Công Minh, một cánh chim Hải Âu (*) vừa trở về với
biển.
HẢI PHƯƠNG * chân dung mùa Xuân và biển
tóc xao vừa độ nắng hanh
gió
hiu hiu đủ phiêu bồng mái hiên
liềm
trăng lục bát nghe thèm
trầm
hương cỏ mượt môi em dậy thì
nét
mày vẽ một đường thi
tuyệt
chiêu em nước cờ đi qua thành
mềm
môi cắn một lằn ranh
nụ
hôn vỡ vụn tan nhanh miếng sầu
thắp
lòng tĩnh lặng trước sau
đường
cong biển dội trộn màu chân dung
bỗng
dưng lại bỗng không dưng
bỗng
dưng bỗng nữa lưng chừng nhớ em
mở
trang vô tự ra xem
thấy
trong lá biếc biển đêm dịu dàng
|
Tuesday, August 6, 2013
HUY PHƯƠNG * những người muôn năm cũ
Âm nhạc thường mang kỷ niệm của quá khứ. Âm nhạc không có phần hoài tưởng là những nốt nhạc vô hồn. Tôi xin cám ơn nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã cho chúng ta bài “Ly Rượu Mừng” bất hủ. Những năm đón giao thừa trong nhà tù tập trung giữa không khí giá lạnh của miền Bắc, chúng tôi hát “Ly Rượu Mừng” mà dàn dụa nước mắt nhớ lại những mùa xuân êm ấm đã qua, mà buồn đến vận nước, mà thương mẹ, nhớ em, nghĩ đến đàn con nheo nhóc. Chính những hình ảnh “người công nhân ấm no”, “binh sĩ lên đàng,” “chúc non sông hoà bình” làm bọn cai tù không để ý, mà chúng tôi ẩn dấu nỗi niềm “có bà mẹ già, từ lâu mong con mắt vương lệ nhoà”, “bước con về hoà nỗi yêu thương…”, “đợi anh về trong chén tình đầy vơi,” và “nhấc cao ly này! hãy chúc ngày mai sáng trời tự do!” Bài hát này chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần như là một thứ biểu tượng cho ngày Xuân bên cạnh tiếng pháo hay chiếc bánh chưng xanh.
Chúng ta đi, mang theo Ly Rượu Mừng.
TRẦN VẤN LỆ * Nếu Cầm Bút Vẽ Hơi Mình Thở
Sáng.
Trời xanh biếc. Trắng mây bay
Vệt
mây như lát chỗi. Không dài.
Chắc
mây không đủ làm mưa tới.?
Thì…chắc
là mình vẫn nhớ ai!
Mỗi
bữa nói hoài câu nói đó
Từ
khi mười tám, thuở hai mươi
Từ
khi, đêm ngó trời thăm thẳm
Ngó
bóng trăng…hình như trăng trôi?
Trăng
một mình trăng, trăng có buồn?
Có
lòng không nhỉ để sầu thương?
Xưa
nay không có…Trăng-Thi-Sĩ
Chỉ
thấy người – Thơ Đẵm Khói Sương!
Trăng
một mình trăng – Trăng Mồ Côi
Măt
trời không tới đứng thành đôi
Nên
trăng tròn đó rồi trăng khuyết
Khuyết
với tròn, trăng vẫn lẻ loi!
Tôi
miên man rồi…tôi miên man
Ra
sân cúi xuống nụ hoa vàng
Con
hummingbird xoay, xoay tít
Mây
trăng trên trời bỗng gió tan…
Nhưng…nhớ
em thì tôi vẫn nhớ
Câu
này kết lại dứt bài thơ
Nếu
cầm bút vẽ hơi mình thở
Ai
đọc…Làm sao? Có bất ngờ?
Trần
Vấn Lệ
VĂN QUANG * cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
Nhân
dịp chính phủ ban hành Nghị Định về minh bạch tài
sản, thu nhập của công chức các cấp và ủy ban Tư Pháp
của Quốc Hội VN đã tổ chức phiên điều trần về
việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng thuộc trách
nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước, hãy nhìn qua
tình hình tham nhũng hiện nay biến chuyển như thế
nào.
Thưa bạn, câu tục ngữ “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan” đã có từ ngàn xưa, ông cha ta để lại qua những kinh nghiệm thực tế các cụ đã sống. Trộm cướp vốn là nỗi lo sợ chung của xã hội từ lâu đời chứ chẳng phải bây giờ mới có. Khác nhau chăng là thời thanh bình, dân cư an lạc, mọi tệ nạn ít hơn, thời nhiễu nhương thì sinh đạo tặc như rươi. Kể cả cướp ngày và cướp đêm. Phải nói thẳng là đất nước ngày nay không có chiến tranh, đang sống trong “hòa bình” nhưng ngược lại “đạo tặc” lại nhiều vô kể. Hành động cướp của giết người ngày càng táo bạo, man rợ chưa từng bao giờ xảy ra. Chỉ cần cướp 1 chiếc xe gắn máy của người đi trên con phố vắng là vài tên cướp sẵn sàng khua mã tấu chém xối xả vào nạn nhân rồi cướp xe tẩu thoát. Chúng không từ thủ đoạn dã man nào không dùng. Đến chuyện bắt trộm chó, chuyện ăn cắp vặt mọi lúc mọi nơi, xông vào nhà cướp từ cái điện thoại của trẻ con, cứ xảy ra như cơm bữa, ngày nào báo chí cũng đầy rẫy những chuyện trộm cướp đủ mọi kiểu, đủ mọi thủ đoạn.
Thưa bạn, câu tục ngữ “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan” đã có từ ngàn xưa, ông cha ta để lại qua những kinh nghiệm thực tế các cụ đã sống. Trộm cướp vốn là nỗi lo sợ chung của xã hội từ lâu đời chứ chẳng phải bây giờ mới có. Khác nhau chăng là thời thanh bình, dân cư an lạc, mọi tệ nạn ít hơn, thời nhiễu nhương thì sinh đạo tặc như rươi. Kể cả cướp ngày và cướp đêm. Phải nói thẳng là đất nước ngày nay không có chiến tranh, đang sống trong “hòa bình” nhưng ngược lại “đạo tặc” lại nhiều vô kể. Hành động cướp của giết người ngày càng táo bạo, man rợ chưa từng bao giờ xảy ra. Chỉ cần cướp 1 chiếc xe gắn máy của người đi trên con phố vắng là vài tên cướp sẵn sàng khua mã tấu chém xối xả vào nạn nhân rồi cướp xe tẩu thoát. Chúng không từ thủ đoạn dã man nào không dùng. Đến chuyện bắt trộm chó, chuyện ăn cắp vặt mọi lúc mọi nơi, xông vào nhà cướp từ cái điện thoại của trẻ con, cứ xảy ra như cơm bữa, ngày nào báo chí cũng đầy rẫy những chuyện trộm cướp đủ mọi kiểu, đủ mọi thủ đoạn.
TRÚC THANH TÂM * tình ơi, sao quên được
Những nhánh sông chở phù sa tăm tắp
Lúa đồng xa, hoa trái nhởn nhơ cười
Em, thôn nữ vẫn làm duyên e ấp
Anh, trai làng mơ mộng tuổi đôi mươi !
Trưa nắng nóng, uống nước dừa ngọt lịm
Cơm trắng đậm đà sau buổi vần công
Cá lóc nướng trui chấm cùng muối ớt
Kèm rau đắng đồng vị ngọt lâng lâng !
Điệu nhạc quê hương gió hòa sóng lúa
Tiếng hót của chim thanh thoát lòng người
Ai gọi ai giữa chiều quê êm ả
Hay tiếng đời rớt khẽ với riêng tôi !
Hỡi em yêu, còn thương mưa nhớ nắng
Thuở mùa xuân hoa lá chẳng muộn phiền
Thuở tiếng ve, tôi yêu người nông nổi
Thuở biết buồn nhìn lá rụng cuối hiên !
Như thế đó, tình ơi, sao quên được
Bóng dừa lung linh ru nhịp thở ngoan hiền
Tôi cúi xuống nghe tình yêu của đất
Lắng tiếng chim gù thong thả, bình yên !
TRÚC THANH TÂM
(
Châu Đốc )
TRẦN VĂN NAM * Nhân Có Tập Văn Đưa Triết Học Vào Sáng Tác, Nhớ Lại Đặc Điểm Một Thời Kỳ
(BÀI
VIẾT
KHI ĐỌC CUỐN CẢO-BÚT CỦA TRẦN NHỰT TÂN, sáng tác năm 1973, xb. năm 1996)
Triết lý tàng ẩn trong văn thơ, đây không phải
là một điều
hiếm hoi, mà thường có trong các sáng tác lưu danh bất hủ từ hàng
trăm năm trước,
hoặc có thể xa hơn từ hàng ngàn năm trước trong Thơ Đường của
Trung Quốc. Nhưng
triết học, nói rõ hơn, những thuật-ngữ chuyên về môn triết học
được đưa vào
sáng tác, đó là điều hơi lạ mà cũng đã là nguồn cảm hứng cho đôi
nhà văn nhà
thơ. Đọc đến, ta nhớ lại có một thời triết học như luồng gió mới
thổi vào từ thập
niên 1960 đến gần giữa thập niên 1970.Ta thử nêu ra đặc điểm của
thời kỳ này để
thử giải thích tại sao có những hứng thú trong sáng tác như vậy.
Ta nhớ bối cảnh
lịch sử Miền Nam từ khi hiệp định Genève 1954, kế tiếp theo có
những luồng tư
tưởng đổ vào đây.
Subscribe to:
Posts (Atom)