(BÀI
VIẾT
KHI ĐỌC CUỐN CẢO-BÚT CỦA TRẦN NHỰT TÂN, sáng tác năm 1973, xb. năm 1996)
Triết lý tàng ẩn trong văn thơ, đây không phải
là một điều
hiếm hoi, mà thường có trong các sáng tác lưu danh bất hủ từ hàng
trăm năm trước,
hoặc có thể xa hơn từ hàng ngàn năm trước trong Thơ Đường của
Trung Quốc. Nhưng
triết học, nói rõ hơn, những thuật-ngữ chuyên về môn triết học
được đưa vào
sáng tác, đó là điều hơi lạ mà cũng đã là nguồn cảm hứng cho đôi
nhà văn nhà
thơ. Đọc đến, ta nhớ lại có một thời triết học như luồng gió mới
thổi vào từ thập
niên 1960 đến gần giữa thập niên 1970.Ta thử nêu ra đặc điểm của
thời kỳ này để
thử giải thích tại sao có những hứng thú trong sáng tác như vậy.
Ta nhớ bối cảnh
lịch sử Miền Nam từ khi hiệp định Genève 1954, kế tiếp theo có
những luồng tư
tưởng đổ vào đây.
Có thể nói thời ấy là thời của bốn nguồn tư
tưởng lớn. Thứ nhất,Triết
học Karl Marx, phát huy do chính thể Miền Bắc, nhưng chính quyền
Miền Nam đối lập
nên đã là nguồn bàn luận lai vãng gây lưu ý cho giới sáng tác. Thứ
hai, Triết
lý Thần Học Thiên Chúa Giáo, phát huy dưới thời chính quyền Ngô
Đình Diệm thành
Chủ Nghĩa Nhân Vị. Thứ ba, Triết Học Phật giáo, phát huy sau năm
1963 lật đổ
chính quyền Ngô Đình Diệm, đem đến luồng cảm hứng sáng tác đồng
điệu với những diệu
vợi của Thiền Tông trong Văn chương Nhật Bản; và huyền ảo từ kinh
sách Ấn Độ và
Tây Tạng. Thứ tư, Triết học Hiện sinh, luồng tư tưởng được đề cập
đến nhiều
trong giới văn nghệ với hai ngành Hiện Sinh Hữu Thần của các triết
gia Gabriel
Marcel, Karl Jasprers; và Hiện Sinh Vô Thần với Sartre, Heidegger
(có thể thêm:
nguồn sâu thẳm do từ những cuốn sách phân tích tinh vi kỳ diệu
Hiện Tượng Luận
của Husserl và Merleau Ponty; và nguồn tìm thấy lại những tương
đồng đã viễn kiến
từ lâu của Nietzche).
Văn học Miền Nam trước 1975 đã có lắm bài bàn
luận triết lý
và văn thơ chứa đựng triết lý, lưu lại trong dồi dào sách báo, của
các tác giả được
khởi sắc do ít nhiều chịu ảnh hưởng từ bốn luồng tư tưởng kể trên,
như Nhất Hạnh,Tuệ
Sỹ, Phạm Thiên Thư, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn,
Quách Thoại,
Hoài Khanh; nhóm “Tinh Việt Văn Đoàn”,Tạp chí Trình Bầy,Tạp chí
Đối Diện; và những
tác giả tiểu thuyết tạm gọi là Hiện Sinh Đời Sống nhưng có thể
không do từ Hiện
sinh Tư tưởng như Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn thị Thụy Vũ, Túy Hồng,
Trần Thị NgH.
Có những bài bàn luận triết học gây cảm hứng sáng tác cho giới văn
thơ, như bài
“Người Sống Ở Đời Như Thi
Sĩ” của
Giáo sư Nguyễn Văn Trung mà từ đây giới sáng tác có được những
thuật ngữ triết
học nhưng đậm chất thi ca như “ngôn từ là nhà ở của hữu thể” hoặc
“thi sĩ là kẻ
chăn cừu hữu thể” (hữu thể hoặc bản thể trong môn Siêu Hình Học,
ta nên nắm bắt
như “ẩn-thể của sự vật” cho bớt tính trừu tượng của thuật ngữ ).
Nhờ bài nêu
trên, người viết bài này đã tìm thấy tờ Tạp chí Pháp “Cahier Du Sud” số 344 ấn hành năm 1958 trong Thư
Viện riêng của Đại
học Văn Khoa Sài Gòn (nhớ khoảng năm 1963 hoặc 1964). Đại Học Văn
Khoa lúc ấy còn
tọa lạc tại đường Nguyễn Trung Trực Sài Gòn. Trong số Tạp chí ấy
có bài “L’homme habite en
poète” qua bản Pháp
ngữ của André Préau chuyển ngữ từ tiếng Đức của Heidegger. Và bản
Pháp ngữ ấy
có một câu làm sáng rõ tính kỳ diệu “ở bên kia lời” trong thơ,
khớp với phát lộ
của Heidegger “ngôn từ của thi sĩ ẩn dấu chân lý” (chân lý đó là
Thực tại hay Hữu-thể,
tức là ẩn-thể mà triết lý Heidegger miệt mài truy tầm). Miệt mài
tìm cho ra vì
theo Heidegger thì Hữu-thể đã bị sự-vật-hóa từ lâu trong lịch sử
triết học Tây
phương. Câu Pháp ngữ ấy như sau: “Plus
l’oeuvre d’un poète est poétique et plus son dire est libre:
plus ouvert à
l’imprévu, plus prêt à l’accepter”. Hoặc như bài “Thiên Nhiên Trong Thi Ca Holderlin” của Giáo Sư Lê
Tôn Nghiêm mà từ
đây giới sáng tác như cũng theo đà bàn luận mà thấy có những huyền
diệu từ lời
thơ tưởng như chỉ tả về thiên nhiên và sinh hoạt, chẳng hạn những
thân nho uốn
mình vươn lên cao sau cơn mưa tưới mát, nước sông trong bờ cõi của
mình, hoặc
dòng người đi lễ một sáng chủ nhật hay bác nông phu đi thăm một
cánh đồng. Trở
về quê hương trong thơ Holderlin là trở về để thấy ẩn thể huyền
diệu của cảnh vật
bình thường chung quanh ta: “Thiên
nhiên
và cảnh vật chung quanh ta vẫn là những gì như rất quen thuộc
với ta mà vẫn như
phải tìm kiếm luôn mãi. Tất nhiên vì trong Thiên nhiên, cảnh vật
vẫn còn xa lạ
như giấu kín cái gì bí ẩn… Ý tưởng đó của Heidegger được gặp lại
trong “Bài ca
Hồi hương” của Holderlin... Holderlin hình dung người thi sĩ như một nhà nông
sau trận bão
không bị lụt hay bị đe dọa, trái lại cánh đồng lại hiện ra mới
mẻ với một bộ mặt
hoan hỉ làm vui sướng tâm hồn... Thiên nhiên già hơn mọi thời
gian nên Thiên
nhiên mới không già hơn thời gian… Vì thiên nhiên chính là thời
gian… Thiên
nhiên là khởi thủy nên bắt đầu lại mãi… Thiên nhiên không phải
một đối tượng
tri thức khách quan.. Chỉ vì ta muốn có một tri thức về Thiên
nhiên mà Thiên
nhiên lẫn tránh ta. Nhưng bên ngoài mọi định nghĩa ta còn gặp
được bằng nhiều lối
khác. Thi sĩ chính là người hướng dẫn ta trở về phía đó”.
Hoặc như bài “Heidegger và
Bản Chất Thi Ca” của Giáo
sư Trần Thái Đỉnh mà từ đây giới sáng tác rất ái mộ những từ ngữ
“Hữu-Tại-Thế”
chuyển ngữ từ “Être-Au-Monde” của Heidegger, hoặc làm sáng rõ từ
ngữ “Sáng Tác”
đồng nghĩa với “Thi Ca” trong ngôn ngữ xưa của Hy Lạp (mà sáng tác
là đưa cái
gì từ Hư Vô ra ánh sáng, nghĩa là đưa ẩn thể (tức hữu thể) phải
xuất đầu lộ diện
trong lời thơ đầy trực giác của thi sĩ. Hoặc như bài “Một Lối Tìm Về Triết Lý Cuộc Đời Trong Ca Dao Việt Nam”
của Giáo sư
Lê Tuyên, ông nhìn lại ca dao dồi dào tính thiên nhiên đồng quê
trong viễn tượng
“phân tâm học vật chất” của triết gia Gaston Bachelard.Triết gia
này viết hai
cuốn sách triết học chứa đựng chất thơ rất độc đáo, tìm hiểu sâu
xa sự mơ màng
và tìm hiểu những tiếp xúc từ ấu thơ về không gian gần gũi của con
người: cuốn
“La poétique de la rêverie” và cuốn
“La
poétique de l ‘espace”. Giáo sư Lê Tuyên trong bài trên, viết như
sau: “Như Gaston Bachelard
đã quan niệm: La
conscience d’émerveillement devant ce monde créé par le poète
s’ouvre en toute
naiveté… ý thức bừng chói trước cuộc đời là một ý thức mộc mạc,
vì ước vọng
không vượt qua được, chưa vượt qua được những hiện tượng đời…vì
thế vũ trụ dự ước
của con người cũng chỉ là những cảnh đời thực, và hình ảnh phóng
kết vào Thúng
Xôi Vò, Con lợn Béo, Vò Rượu Tăm, Đôi Chiếu, Đôi Chăn, Đôi Tằm,
là đã phóng kết
trên hiện tượng của cuộc sống… Nhưng với cái bé bỏng của mình,
với hiện tượng
bé bỏng mà mình đang tự ví, bản thể con người đã phóng ra để bắt
gặp mênh mông,
để thể hiện nên lời ca điệu hát, và tất cả lời ca điệu hát đó sẽ
được bát ngát
mênh mông như vũ trụ đang dàn trải trước mắt con người hiện
tượng, vì nói như
Gaston Bachelard: … et cette oeuvre serait grandiose puisque le
monde rêvé est
automatiquement grandiose “. Hoặc như cuốn sách “Đi Tìm Một Căn Bản Tư Tưởng” của nhà văn Nghiêm
Xuân Hồng, có chủ
đích chính trị đề cao giai cấp trí thức tiểu tư sản đối chọi với
đề cao giai cấp
vô sản (có bài viết của Giáo sư Nguyễn Văn Trung phê bình, cho
rằng tỷ lệ thành
phần giai cấp tiểu tư sản không quá cao trong xã hội Việt Nam như
nêu ra trong
sách này). Riêng ta tìm thấy trong cuốn sách ấy những kiến thức
mới về Triết Lý
Tồn Tại (tức Triết Lý Hiện Sinh) qua chuyển ngữ từ Pháp văn những
trích đoạn đặc
sắc trong tác phẩm “L’être
et le Néant”
của Jean Paul Sartre, mà vào năm 1957 (năm xuất bản cuốn sách trên
của tác giả
Nghiêm Xuân Hồng) thì những kiến thức này thật mới mẻ, trước thật
lâu so với
các phổ biến lớn rộng về Triết Học Hiện Sinh chỉ đến từ đầu thập
niên 1960 tại
Miền Nam Việt Nam.
Trong khi đó có đôi người vẫn miệt mài với sáng
tác dưới ảnh
hưởng triết học, nhưng không được nổi tiếng như các tác giả sáng
tác văn thơ
khác (đã kể trên). Sáng tác ở đây không phải chứa đựng sâu xa tàng ẩn triết lý; mà là sáng
tác văn thơ áp dụng
lộ liễu những thuật ngữ triết học. Một người trong số hiếm hoi đó
là tác giả Trần
Nhựt Tân. Điều này không khỏi gây dị ứng, bị phê phán “làm dáng
triết học”. Nếu
xét cuốn sách tác giả Trần
Nhựt Tân đã
xuất bản, dầy gần 300 trang, cuốn “Dư
Vang Nghệ Thuật” (xuất bản năm 1971) và tập cảo-bút “Ngủ Trong Thành Sầu” (xuất bản năm 1996, sách dầy
74 trang), ta thấy
lòng đam mê triết học và văn chương của tác giả thật bền bĩ, và
tác giả đã phát
biểu lòng đam mê ấy như sau: “… bài văn
chương nào cũng thấp thoáng bóng các em bay bay và nhớ. Triết
học là vợ, văn
chương là tình”. Tác giả công khai nói về kiến thức triết
học trong sáng
tác, đưa thuật ngữ chuyên môn vào văn sáng tác. Nếu nói tác giả
“làm dáng” thì
thật không thích đáng, vì làm dáng kiến thức thì được điều gì thêm
khi ông đã có
Cao Học Triết Tây phương trước năm 1975. Đó chỉ là do lòng đam mê
triết học và
văn chương. Thử đọc một đoạn trong cảo-bút đã kể trên, sẽ thấy rõ
những giao
thoa do đam mê cả hai lãnh vực này của tác giả Trần Nhựt Tân: “… nghe Sartre bảo khi nhìn đôi
mắt ai thì điều
ta thấy không phải là đôi mắt ấy mà chính là bản ngã thầm kín
của họ (trang
12)… Nhớ là chạy trốn hiện
tại, để giáp mặt
với một quá khứ, với một hiện sinh tình yêu đã thăng hoa thành
hữu-thể-thời-gian
(trang 48)… chợt biết rằng ta đã quá duy-lý thì một nửa đời
người đã đánh mất tự
bao giờ… Trong khi tâm tình ta chỉ muốn phóng vọt vào quỹ-đạo
của mời gọi lẳng
lơ trên từng sóng lá và đài hoa của một thời thẩm mĩ Kierkegaard
để sống lại với
màu xanh, cùng những nếp huy hoàng của tuổi dại đa tình, thì ý
thức tung mạnh
những cánh tay vạm vỡ để ghì chặt hết mọi khả tính hiện sinh mơ
màng (trang
54)”… Khuôn mặt em. Người con gái mùa thu tóc ngắn. Mái tóc của
Jean Seberg, của
Dominique trong Un CertainSourire, A Certain Smile. Chỉ là một
thoáng nắng trên
môi cười. Un Certain Sourire (trạng7). Những trích đoạn trên
có lẽ làm cho
độc giả thấy khó hiểu, họ đâu có thời giờ quy chiếu với những kiến
thức như
“duy lý” hoặc “thẩm mỹ Kierrkegarrd” hoặc “khả tính hiện sinh”
hoặc cuốn tiểu
thuyết “Un Certain Sourire” của Francoise Sagan.Trách sao tránh
khỏi sự thờ ơ
khi độc giả chạm trán với những thuật ngữ triết học, kiến thức
văn-học, kiến thức
mỹ-học, kiến thức Tâm Lý Học.
Cả những người chuyên về Triết học cũng không
ưa lối đan
chen triết học và sáng tác văn thơ. Khác với độc giả ưa tính thuần
ngôn ngữ văn
chương đã phê phán loại văn chương này làm dáng triết học; những
nhà chuyên môn
triết học lại chê trách kiểu văn chương đan xen ấy có thể làm mất
tính chính
xác kiến thức triết học, sáng tác có thể tùy tiện trình bày kiến
thức mà lại có
thể bào chửa là do cảm hứng văn chương không cần chính xác. Chẳng
hạn như phán
xét những sáng tác theo hướng triết học của Phạm Công Thiện, Bùi
Giáng, Nguyễn
Văn Trung, như sau đây của Giáo sư Trần Văn Đoàn trong phần chú thích từ bài viết “Hiện Tượng Học Tại Việt Nam” (bản dịch từ Anh ngữ
trình bày tại
Oxford Anh Quốc, dịp Hội Nghị Quốc Tế Về hiện Tượng Học, tháng 7
năm 2004); như
Chú thích số 57: “Trừ những học gia trên (Trần
Thái Đỉnh, Lê
tôn Nghiêm), còn khá nhiều “trí thức” tự xưng (hay tự tôn) mình
là những triết
gia thông hiểu hiện tượng học. Tôi còn nhớ một vị trẻ tuổi
(nhưng tài cóp nhặt
rất cao)… Ông này không
những chỉ bị ảnh
hưởng, mà có thể nói, bị ám ảnh bởi Heidegger và Nietzche trong
những tác phẩm
với đầu đề rất kêu, với những thuật ngữ tự nó đã rất tối tăm như
“Hố Thẳm…”;
“Im Lặng...”. Chú thích
số 58: Những
tác phẩm của Giáo sư Nguyễn Văn Trung (như Nhận Định, Ca Tụng
Thân Xác, vân
vân) là một thí dụ điển hình của lối “vẽ vời hiện tượng theo
Jean Paul Sartre.
Trong một số bài viết khác của các tác giả như thi sĩ Bùi Giáng…
ta thấy “hiện
tượng học” thì ít, nhưng “vẽ hươu vẽ vượn”, “tán rộng ra” thì
nhiều”. Riêng
về tác giả Phạm Công Thiện bị nhận xét như kể trên, chắc ở phần
văn, còn ở phần
thơ thì từ ngữ Phạm Công Thiện rất đạt chất thơ; chất thơ như được
lấy từ sâu
thẳm hay từ một tầng cao xa cách cõi đời nhưng chưa quá cao như ở
cõi Thiên Đường,
chẳng hạn “Đi cho hết một
đêm hoang vu
trên mặt đất… Tôi đứng trên đồi mây trổ bông… Trên tất cả đỉnh
cao là lặng im…”.
Hoặc những câu có vẻ bình thường nhưng lại mang tính huyền diệu
của tạo vật
xoay vần trong lẽ tuần hoàn sinh sinh diệt diệt: “Buổi chều thứ bảy tôi về muộn/ Cây khế trên đồi trổ hết
bông”…
Trong chiều hướng đi tìm nhưng câu văn thơ thóat ra ngoài hấp dẫn
lực của kiến
thức văn học và kiến thức triết học, ta cũng thấy hiện hữu những
câu đặc sắc,
chỉ thuần túy văn chương, nghĩa là không pha trộn thuật ngữ triết
học, trong cuốn
“Ngủ Trong Thành Sầu” của Trần Nhựt Tân: “… gọi
ta lên miền nắng ấm phía bên kia thế giới của mây (trong lời
tựa)… Anh nhớ hồi
nhỏ rất thích nhìn con tàu sắt chạy qua cầu sắt kêu rầm rầm rồi
bỏ lại sau lưng
nó những vắng lặng hoang vu (trang 16)… Đường chân trời mỏng hơn
chợt về nằm
dài trên mi mắt em (trang 23)… đường chân trời buồn bã đuổi giấc
ngủ trăng sao
ra khỏi bầu trời (trang 32)… Hình như em mới thức giấc theo lệnh
mặt trời
(trang 40)… mái tóc em là một khu vườn trinh nguyên làm lạc bước
gã thợ săn
già, một mê lộ đưa thi sĩ vào tận xứ sở của yếu đuối (trang 47)…
chiều nay ta vội
vã chạy đuổi bắt thời gian giữa lòng thành phố, vội vã níu bóng
tối và cuộc đời
(trang 56).
Trong bài kể trên của Giáo sư Trần Văn Đoàn,
ông nói về sự
“vẽ hươu vẽ vượn, tán rộng ra” của các tác giả viết về triết học,
nhưng có lẽ
ông chưa đề cập đến điều “làm lệch hướng” qua các bài bàn luận
triết lý. Làm lệch
hướng ở đây không có ý đồ xấu mà chỉ vì cảm bài văn theo hướng
thích thú của
mình. Không phải tán rộng ra cho nhiều chi tiết hơn hay mở rộng
kiến thức hơn,
mà chính vì nương theo sở thích sẵn có của mình. Tác giả Trần Nhựt
Tân chỉ mê
văn chương, mê triết học, sẵn có sở học được đào tạo từ hàn lâm
trường ốc, nên
đôi lúc ông cảm nội dung bài văn theo ý hướng sở thích của mình.
Lời bàn của
ông song hành, nghĩa là không cùng một hướng, tuy nhiên chấp nhận
đường ai nấy
đi không cần phải nhập vào độc đạo. Ví như trên bình nguyên hướng
về duyên hải,
ta có thể chọn đi ghe đò trên sông hay chọn đi xe ngựa trên đất
liền, trong thời
kỳ phương tiện xe ô-tô chưa có. Ví dụ rõ hơn, có liên hệ đến các
bài viết trong
hai cuốn sách kể trên của Trần Nhựt Tân, đó là về nội dung từ ngữ
“viễn mơ” mà
tác giả Trần Nhựt Tân nhiều lần viết đến, trong năm 1971 với cuốn
sách tiểu luận
“Dư Vang Nghệ Thuật”, và năm 2004 với tập cảo bút “Ngủ Trong Thành
Sầu”.Tác giả
Trần Nhựt Tân có lẽ thích hiểu nội dung từ ngữ “viễn mơ” theo
hướng về Thiên
Thai như trong âm nhạc của Văn Cao hay trong thơ của Tản Đà. Ông
cũng có bàn
nhiều về quan niệm “thời
gian chủ-quan-tính”
trong triết học Hiện Tượng Luận của Husserl hoặc “thời gian dự phóng” trong triết học Heidegger. Nhưng
cảm nhận từ ngữ
“viễn mơ” cao vời như trên, nên có lẽ ông thích từ ngữ “bến trần
gian” hơn “bến
thời gian” (bến thời gian trong diễn tả “dòng
thời gian từ quá khứ sang hiện tại về tương lai như nước sông
hôm qua đi từ nguồn
hôm nay qua chỗ tôi ở và ngày mai ra biển”, vậy “bến thời
gian” là bến hiện
tại có người đang đứng ngóng trông, chỉ có vẻ đẹp cụ thể ở một bến
sông trên
Trái Đất, chưa đến mức độ lung linh của “bến trần gian” đợi hoàng
hạc đưa về bồng
lai tiên cảnh (Điều này thấy ở trang 272
và 273 trong cuốn “Dư Vang Nghệ Thuật”. Hoặc có thể vì nhà
in lúc ấy xếp chữ
sai lầm “bến nước thời gian” thành “bến nước trần gian”?). Ở chỗ
khác, trong cuốn
cảo-bút “Ngủ Trong thành Sầu”, tác giả Trần Nhựt Tân bàn theo
hướng triết lý của
Albert Camus nói về nỗi bi-đát và phi lý của đời người cứ lặp đi lặp lại những công việc ràng buộc trong
thân phận đang tồn
tại. Triết lý của Albert Camus là tạo ra lẽ sống ở đời trong Cõi
Phi Lý Hiện Hữu.Tác
giả Trần Nhựt Tân gợi thêm ý kiến : “Huyền thoại con dã tràng xe
cát biển đông”
lặp đi lặp lại một công việc còn đáng buồn rầu hơn “Huyền thoại
Sisyphe” lặp tới
lặp lui công việc đưa tảng đá lên tới đỉnh đồi rồi tảng đá lại rơi
xuống (trang
68 trong cuốn “Ngủ Trong Thành Sầu”). Đó là do tác giả Trần Nhựt
Tân liên tưởng
đến bài thơ văn xuôi lấy sự tích con dã tràng xe cát biển đông để
tìm viên ngọc
quý nó đánh rớt chìm vào đại dương (*) mà Tác giả
Trần Nhựt Tân có trích
dẫn một câu trong cuốn “Dư Vang Nghệ thuật” (trang 282).Thực sự là
dã tràng lặp
đi lặp lại một bản năng từ muôn kiếp; hoặc con ve sầu vốn là con
nhộng ở dưới đất
tới 17 năm mới trồi lên một lần để ca hát và truyền giống vỏn vẹn
trong một
tháng hè rồi chết; các thế hệ sau cứ xoay vần 17 năm như vậy. Bài
thơ văn xuôi đó
là một văn-ảnh diễn tả theo ý tưởng khác, nghĩa là không phải theo
hướng “Huyền
Thoại Sisyphe” mà theo hướng của thuyết “Sự Tái Hồi Vĩnh Viễn” (Le
Retour Éternel
– The doctrine of Eternel Recurrence ) trong triết học của
Nietszche triển khai
từ thuyết “thời gian thì vô
tận mà tạo vật
thì hữu hạn, cho nên mọi sự đều phải tái diễn, hồi phục lại chất
liệu”,
trùng trùng là những chu kỳ vũ trụ (The evolutionary process into
cosmic
cycles: The theory is based upon the assumption that time is of
infinite
duration, but that the possible combinations and arrangements of
matter are
limited in time – William S. Sahakian - Giáo sư Đại học - Tiến sĩ
Triết học tại
Đai học Boston Hoa Kỳ, năm 1951).
Bài viết này không cốt đánh giá những thơ văn
thích đưa thuật
ngữ triết học vào sáng tác, mà cốt yếu tìm lại bối cảnh tạo nên xu
hướng này ở
đôi người. Đây hẳn không phải “sự làm dáng trí thức” đối với
trường hợp Trần Nhựt
Tân, mà có thể khẳng định do lòng đam mê văn chương đồng thời đam
mê triết học
của ông. Mà lòng đam mê ấy phải chăng do nằm lọt vào thời kỳ (ông
sinh vào năm
1938) có bốn luồng tư tưởng lớn mặc dù có thể xung khắc nhưng
“được liên-hệ bàn
tới hoài” trong đời sống ở Miền Nam Việt Nam: Triết học Karl Marx;
Triết lý Thần
học Thiên Chúa giáo; Triết học Phật giáo, Triết học Hiện sinh.
Không phải ai
cũng dính líu vào vòng xoáy tư tưởng, mà thực ra đa số lo về thực
tế đời sống
nhiều hơn; hoặc có sáng tác nghệ thuật thì còn có những nguồn gây
hứng cảm
khác. Sự thật có lắm người dù ít quan tâm về tư tưởng mà còn nghe
tới hoài những
bình luận về chủ nghĩa hay triết lý, huống chi tác giả Trần Nhựt
Tân từ khi vào
Đại Học đã chọn học chuyên ngành Triết học Tây phương và đi dạy
cũng chuyên về
môn triết học trước 1975. Có người chọn giải pháp: những ý tưởng
với thuật ngữ
triết học nên tách riêng ra một bên, văn thơ diễn tả thiên về hình
ảnh mang
tính nghệ thuật thì phải đứng qua một bên khác. Và có người chủ
trương văn
chương dĩ nhiên phải là văn chương trước đã, nhưng thỉnh thoảng
cũng thấy cần thiết
đưa vào những thuật ngữ đẫm chất siêu hình của triết học.
TRẦN VĂN
NAM
(City of Walnut,
California, tháng 5 năm 2013).
(*) Bài thơ văn
xuôi trong “Tập
Thơ Độc Nhất” của Trần Văn Nam, xb. 1963 tại Sài Gòn, đăng lại
trong Tạp chí “Thời Tập” số
3 năm 1990, Westminster,
California, nhan đề: Nhền Nhện Và Dã Tràng
Một đêm
đen như mực bầu
trời không trăng sao, nhền nhện từ trong một góc rừng chập
choạng trên con đường
gió thổi, lần mò xuống bãi biển thì thầm với dã tràng như sau
đây: Nó kể chuyện
một đêm mon men đến gần nhà tiên tri Zarathoustra đang giảng dạy
cho bọn đệ tử
ngồi chung quanh một chiếc cột trụ có ghi hàng chữ “Khoảnh
Khắc”đánh dấu phía
sau là con đường dĩ vãng mất hút vào Vĩnh Cửu và phía trước là
con đường tương
lai mù mịt kéo dài đến Vô Biên.
Nhà tiên
tri cho biết
mọi vật khi đã đi đến đây kể cả ngài và con nhện đang chậm chạp
bò dưới ánh
trăng trên sườn đồi đều phải trải qua từ con đường quá khứ rồi
sẽ trở về từ con
đường tương lai phía trước để sống lại cuộc đời tiền kiếp nơi
Cột Trụ Khoảnh Khắc
này.
Dã tràng
nghe kể như vậy
gật gù công nhận mình cũng đã tái-hồi vĩnh-viễn sống lại cuộc
đời cũ cách đây
hàng triệu năm lịch sử để hoài công lặp đi lặp lại công việc xe
cát tìm tòi nơi
biển Đông bởi vì ngày xưa nó lỡ làm rơi một viên ngọc quý xuống
đáy trùng dương
vô tận.
Dã tràng
cho rằng bao
nhiêu loài côn trùng khác từ con muỗi đi tìm ba giọt máu đến con
ve ve sống âm
thầm trong lòng đất hơn mười bảy năm trời, tất cả đều đã trở về
vĩnh viễn sống
lại cuộc đời tiền kiếp ở nơi đây nên mãi mãi còn rỉ rả dọc theo
bờ biển dài suốt
một đêm không trăng sao.