NGỌN NẾN
Mù mịt trùng dương sóng bủa vây
quê che bóng núi khuất bờ mây
khói hun mái rạ thời gian giục
ngọn nến nhân sinh thắp có ngày
ĐÔNG PHONG
Thoáng hồn qua cửa sổ
chợt thấy bóng xuân hồng
nâng ly trăng biến mất
còn lại mảnh tình không
NGỌN NẾN
Mù mịt trùng dương sóng bủa vây
quê che bóng núi khuất bờ mây
khói hun mái rạ thời gian giục
ngọn nến nhân sinh thắp có ngày
ĐÔNG PHONG
Thoáng hồn qua cửa sổ
chợt thấy bóng xuân hồng
nâng ly trăng biến mất
còn lại mảnh tình không
Hôm nay ông Trời mệt sẽ không mưa trọn ngày. Tin thời tiết nói mai mưa trở lại dai dẵng...
Nắng! Ít nhiều cũng nắng. Vui. Một chút cũng vui. Xe hút rác qua thôi. Những lòng đường lại sạch...
Nắng đỏ ngời viên gạch, khói bốc hơi lên xanh. bầy chim chuyền trên cành hót những lời nhí nhảnh...
Nhưng mà trời vẫn lạnh, người đi đường còn run... Mẹ nâng tay con hôn. Mẹ con cười thật đẹp...
Những nhịp cầu như những lưng còng
Gánh sức nặng suốt buổi chiều ảm đạm
Ngó sang sông mờ nét tiêu hao
Tây thành cũ hay là thôn bản?
Tự hỏi mãi. Đến chưa? Chưa đến?
Hay chỗ này Thanh Hóa ngày xưa
Ngó lên mây bạch y thương cẩu
Nhìn xuống dòng bóng cũ mù mưa
Dạ tiệc tháng chạp
ở san francisco gió
cây cầu treo giấu trăm ngàn nút rối
gởi lại thông điệp của thế kỷ hai mươi lãng mạn sắc mầu
và giọt lệ trắng trong veo hồ mắt em
râm ran ngân lên
âm thanh vỡ vụn cảm xúc trừu tượng
mặt trời chín ngọt
ngôn ngữ đỏ lửng mê muội.
Vũ Đức Vinh thân,Hôm nay viết thư cho bạn cũng là một ngày rất đáng nhớ của tôi. Ngày 20 tháng 10 âm lịch. Bà nó nhà tôi (bây giờ lên chức bà rồi không còn là mẹ cháu như trước nữa) đang thổi xôi, nấu chè. Chiều hôm nay bà ấy cũng làm thêm mấy món chay nữa…Hôm nay là ngày giỗ hết một ông bạn tù già của tôi.. Ông Thượng tọa nguyên Giám đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo Thích Thanh Long. Có thể nói trong những năm đi tù, người tôi kính trọng nhất là ông Thượng tọa này. Ông như một ông già nhà quê, không bao giờ nói một lời ”đạo đức”, cứ từ từ, cười cười “đừng có lo”, “rồi đâu có đó” mà ở gần ông mình thấy “vững“ ra nhiều. Có lẽ ông đạt đến mức “vô úy” nên không thấy ông lo lắng, sợ sệt cái gì bao giờ. Tôi ở chung với nhiều vị tu hành nhưng theo con mắt tôi và cũng theo số đông những người tù khác nữa thì không ai được trọng bằng ông Thượng tọa “nhà quê”này. Mấy vị linh mục Công giáo sồn sồn chừng trên 40 tuổi, mỗi khi gặp Thượng tọa “nhà quê” này đều cúc cung “Lạy bố, hôm nay bố có cần gì con lấy”( đại loại như bó rau, bó củi…).
Tặng Phan Bá Thuỵ Dương
Thơ bay vàng cánh hạc chiều
Núi sông trăng mới bên triều biển xanh
Mươi năm lỡ bước thị thành
Mộng đời ủ lại mái tranh sau vườn
Herbert Hoover vị tổng thống thứ 31 của Hoa Kỳ đã nói: “Giới lãnh đạo già tuyên bố chiến tranh nhưng chính giới trẻ là người phải chiến đấu và chịu chết.” [1]
Chiến tranh đã tạo nên không biết bao nhiêu cảnh ly tán, hủy diệt không biết bao nhiêu sinh mạng một cách oan uổng và làm kiệt quệ trầm trọng tài nguyên quốc gia. Nhưng, nếu nhìn từ một góc độ khác, chiến tranh cũng đã sản xuất, tạo nên nhiều vĩ nhân lừng danh trong quân sử, những văn thi sĩ lỗi lạc trong nền văn học sử thế giới.
Tuy nhiên, để có thêm hương vị, khai triển chủ đề rộng hơn đôi chút, người viết sẽ đề cập, dẫn trích thêm một số ít thơ về chiến tranh của các văn thi sĩ Việt, Mỹ khác – những người đã trực tiếp cùng THT tham dự cuộc chiến “ý thức hệ” trong giai đoạn đầy nhiễu nhương đó. Nếu thấy cần thiết, sau này người viết sẽ trở lại, bàn về đề tài sâu rộng hơn, với nhiều thi sĩ tiêu biểu cho cả 2 miền Nam Bắc, cùng những cảm nhận, khuynh hướng đối kháng… hay quan điểm tương đồng.
TUỔI HẠC
Mới đó mà nay đã tám-tư,
Lưu vong từ ấy đến bi chừ.
Quê hương tù ngục bao đời nhỉ?
Đất khách đọa đày mãn kiếp ư!
Tuổi hạc thảnh thơi không vướng bận,
Thân già an phận sống nhàn cư.
Thi ca xướng hoạ vui bầu bạn,
Trẩy hội non sông, viếng thảo lư.