văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Friday, March 9, 2012

Vũ Hoàng Chương * Sai Lạc




Nao nao tiếng sắt dội trên đường
Sầu chở đầy xe nẻo cố hương
Đá gập ghềnh nghiêng đôi bánh gỗ
Tre làng mươi đảo biếc trong sương

Dĩ vãng mơ hồ sau khóm tre
Đâu đây trường học trống tan về
Bờ ao gợn đỏ màu hoa sắn
Kỷ niệm khơi cùng vết bánh xe

Bâng khuâng vòng sắt nặng nề quay
Vang bóng thời xưa tản mác đầy
Sông ngủ hoàng hôn đều đượm khói
Men chiều nghiêng ngả chiếc xe say

Lưỡi tê thành bại đắng giang hồ
Bánh lệch thăng bằng lối mấp mô
Nao nức thăm quê sầu chểnh mảng
Phong Trần sai nhịp với Ngây Thơ

Vũ Hoàng Chương  

PHẠM NHÃ DỰ * GIỮA ĐỜI BAO LA

















Ta cõng em lên núi
Quẳng vô tay thiền sư
Hỏi thăm ngài giác ngộ
Thiền sư ngữa mặt cười
Bóng phù vân vu vơ.

Ta vác em xuống đồng
Hoá thân cùng chim cá
Tâm mọc đầy rong rêu
Hồn bỗng dưng xa lạ
Trơ giữa đời bao la.


Ta mang em ra phố
Ném vào giữa chợ tình
Trăm người hỗn mang lạ
Rao bán cuộc bình sinh
Ta ngẫn nhìn ngơ ngác.

Ta đưa em vào đời
Nhảy múa cùng tử sinh
Trái oan khiên rớt hột
Đâm chồi giữa điêu linh
Ta rùng mình phiêu hốt.


Ta cõng em lên núi
Quẳng vô tay thiền sư
Hỏi thăm ngài giác ngộ
Thiền sư ngữa mặt cười
Bóng phù vân vu vơ.

phạm nhã dự

BÙI NGỌC TUẤN * Trần Tuấn Kiệt, mây phiêu du

Bùi Ngọc Tuấn

Tóc bay khuất giải Ngân Hà
Tuyệt vời thấm mộng, đêm là đêm xưa


Một buổi tối cuối năm - đâu đó vào năm 1965, 1966 - trong sân trường Đại Học Văn Khoa, vắng lặng, yên tĩnh ngay giữa những ồn ào của trung tâm thành phố Saigon đang chờ đón Tết, Trần Tuấn Kiệt vời tay lên vầng trăng đọc cho tôi nghe hai câu thơ tuyệt vời ấy.
Kiệt đọc xong, đứng im lặng. Tôi đứng im lặng. Hồi lâu. Bởi vì không còn gì để nói vào lúc đó. Bởi vì không có gì nên nói vào lúc đó. Những câu thơ ngân vọng mãi đến bây giờ. 40 năm sau.
Tôi quen Trần Tuấn Kiệt một cách tình cờ, khi anh đến trường Đại Học Văn Khoa tìm Phạm Quốc Bảo. Chúng tôi đi uống café ở góc đường Gia Long và Nguyễn Trung Trực, trước cổng trường Văn Khoa, rồi thân với nhau từ đó. Không ngày nào không đi lang thang với nhau, nhiều hôm cả sáng, cả chiều, cả tối. Trần Tuấn Kiệt thủa ấy có một cái xe velo solex, tôi đi một cái xe mobylette. Tôi thường chở Kiệt trên cái mobylette đó. Nơi chúng tôi lang thang là hè phố Saigon, những hành sách cũ, những quán vỉa hè. Cả hai đứa ít khi nào vào La Pagode ngồi, hình như vì cái phong thái giang hồ của hai đứa ít hợp với nơi 'bàn cao, cửa kính' ấy. Quán café, quán ăn vỉa hè là nơi hai chàng 'tọa thị' hàng giờ. Ngoài việc làm thơ, Kiệt không làm gì cả. Còn tôi thì đi học như đi chơi. Đầu năm đến ghi danh rồi mỗi ngày đến trường gửi xe, xong ra quán café ngồi, cuối năm đi thi. Hai đứa tôi có nhiều thì giờ hơn ai hết, ở Saigon lúc đó.
Trước đây, khi viết về Nguyễn Đức Sơn, tôi có nói rằng: '…ở Việt Nam tuy có rất nhiều người làm thơ hay, nhưng chỉ có ba người thật sự sống cuộc đời thi sĩ, họ và thơ là một, ngoài thơ ra họ không có gì khác, không còn gì khác, không muốn gì khác, không là gì khác. Sơn là một, hai người kia là Bùi Giáng và Trần Tuấn Kiệt…’Quả tình ngoài thơ ra, Kiệt không làm gì cả, không có gì cả. Hình như khi viết về Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền có nhắc lại lời Khổng Tử nói về Lão Tử (trong Nam Hoa Kinh) để ví Bùi Giáng như là một 'con rồng'. Nếu Bùi Giáng như ‘rồng’ thì tôi thấy Trần Tuấn Kiệt như một 'vầng mây trắng', bay lang thang vô định. Vầng mây trắng không làm gì cho trời, cho đất. Nhưng đất trời sẽ không còn là đất trời nếu thiếu đi những vầng mây phiêu du khắp chốn ấy.
Hãy đọc mà nghe:

Nai

Lên theo đỉnh núi mơ màng
Một con nai đứng vọng ngàn trong sương
Vách cao đá dựng trăng buồn
Tơi bời tiếng lá, mưa luồng lũng sâu
Gót thầm nai tếch ngàn thâu
Nhân gian nghe cũng vọng sầu bao la

Mới đọc lần đầu, nhạc điệu, âm hưởng man mác của bài thơ làm ta bâng khuâng. (Như tiếng hòn sỏi vừa ném xuống hồ nước). Đọc lại những lần nữa, những ý tình tiềm ẩn thấp thoáng ẩn hiện, chợt vang vọng lên, ngân dài bất tuyệt (như những vòng sóng lan ra trên mặt nước lặng).
Thơ Trần Tuấn Kiệt như thế.
Và hãy đọc thêm vài bài khác:

Hạc thiêng

Thơ bay vàng cánh hạc chiều
Núi sông trăng mới bên triều biển xanh
Mươi năm lỡ bước thị thành
Mộng đời ủ lại mái tranh sau vườn
Bao người đánh mất quê hương
Trăm năm hiện hữu ai buồn vì ai!
Tuổi đời mỏng cánh hạc bay
Động lòng thiên cổ gió mây qua đèo


Đường xuân

Ta về đâu những con đường
Lệ sầu ai rãi phấn hương mau tàn
Xuân đời nhan sắc truy hoan
Rượu tình tri kỷ trần gian mấy người
Ca thâu đàn hát tan rồi
Mây xuân chở mộng qua trời về đâu


Biển khuya

Biển khuya sóng vổ lên hồn
Ta nằm nghe lặng tiếng cồn dâu xanh
Vầng trăng lửa Hạ treo nhành
Vực sâu rêu phủ mấy cành củi khô
Ngàn xưa hoa trắng phiêu du
Nước sa buồn với mùa Thu cách nguồn
Trăm sông buồn cũng xô luôn
Quanh co bến lạ máu xương rụng sầu
Sóng dồi giấc ngủ đêm thâu
Vầng trăng ngọc thạch ửng mầu tồn sinh


Khúc Phượng Cầu Hoàng

Chiều nghe khúc Phượng Cầu Hoàng
Nỗi buồn thiên cổ tiếng đàn nghìn năm
Lệ châu rơi xuống âm thầm
Tương Như Tư Mã cánh bằng đã xa


Mùa vu lan

mộng vàng ai thếp màu son nhạt
kiếm khách mài gươm dưới nguyệt tàn
ta về trễ quá muôn năm trước
trống đồn bi ký cõi nhân gian
em đẹp còn đây dáng mỹ nhân
Tây Thi gái Việt sắc mê hồn
ta say tình sử thương thiên cổ
mấy nếp lâu đài rộn gót son
ấy ai cưỡi ngựa chơi vườn cũ
khua trống chiêng xưa bóng chập chờn
kìa xem trăng mộng thành thiên cổ
hoa lá vin cành điệp dưới thôn
Em đi lễ Phật Vu Lan mới
dạo chùa lễ Phật nức hương sen
cho anh gởi chút tình ân ái
về dưới Phật đài vui với Em


Tượng

Em đi chân bước lạc đà
Suốt miền ải hạn giữa sa mạc người
Phượng hoàng xuống đậu hai vai
Ngậm hoa quỳ nhớ thiên thai không về
Ngàn năm mây trắng trôi đi
Với hồn xưa động bốn bề không gian


Bến ngựa

tặng Bùi Ngọc Tuấn

Khi xưa ta đến bên thành
Cỏ cây cũng nhớ thương mình ra hoa
Vầng trăng bến ngựa giang hồ
Bia thành vách mộ lòng ta chợt buồn


Em còn hái trái

tặng Phan Bá Thụy Dương

Em còn hái trái bên cây
Vết son mùa để dấu hài đầu tiên
Loi choi bước nhảy chân chim
Gió tan mây tụ đảo điên hồn người
Em còn hái nữa hay thôi
Vết tay chín móng đã mười yêu thương
Phiêu-du trở bến trong vườn
Một giòng nước thẳm bên nguồn em đang…
Vườn chim trái mộng hoa vàng
Nửa đêm trăng cũng huy hoàng bên em


Quê hương

tặng PhươngTriều

Lòng ta vì quá đỗi nhớ thương
Cành hoa bụp cũ khóc bên đường
Bến khuya Sa đéc trăng mười sáu
Mấy độ chìm theo sóng lớp lang
Hỡi người con gái bến Tân quy
Nàng hát ta nghe hát những gì?
Tóc xõa bốn trời trăng gió tụ
Mây vờn âm điệu nét phương phi
Hát nữa nàng ơi! não bốn trời
Cành hoa bụp cũ bến kia rơi
Quê hương khúc hát chừng đưa lại
Lớp sóng trường giang lạnh đến trời

 

Từ thời còn rất trẻ, vào thập niên 1950, Trần Tuấn Kiệt đã xuất hiện trên ‘Văn Hoá Ngày Nay’ của nhà văn Nhất Linh. Ngay từ bài thơ đầu tiên trong đời được đăng báo, Kiệt đã được trả tiền nhuận bút, khá hậu hĩnh. Cái tên Sa Giang Trần Tuấn Kiệt ngay từ buổi đầu đã có chỗ đứng riêng biệt, vững vàng trong thi đàn Việt Nam.

 

Tiếng thơ Trần Tuấn Kiệt đầy những âm vọng của thơ Lý Thương Ẩn và Đỗ Phủ, thêm vào đó là những ngậm ngùi, mênh mang của giòng thơ lục bát nói về những u sầu của lòng người mà ngàn năm cứ trầm vang những nỗi niềm của cuộc phù sinh. Ngoại trừ tập ‘Triều Miên Ngâm Khúc’ nói về những đớn đau của một người cha mất con, nhìn vào cuộc đời đầy sinh ly tử biệt; Những tập khác như ‘Nai’, ‘Cổng Gió ‘, ‘Thơ Trần Tuấn Kiệt’, ‘Em Còn Hái Trái’, ‘Lời Gởi Cây Bông Vải’ … là những tiếng lòng u hoài miên viễn trước kiếp người hữu hạn giữa giòng thời gian bất tận, và của đời người trầm luân trong một thời ‘Xuân Thu mới’ nhiễu nhương không khác gì thời Xuân Thu trong cổ sử. Trần Tuấn Kiệt không có những loại thơ tình của những tình nhân bình thường, như ta thường thấy trong thơ tình của những thi sĩ lừng danh khác. Không có những đắm say nồng nàn, không có những đáng cay, quằn quại. Chỉ có những mối sầu miên viễn, sầu tình hòa cùng sầu đời, man mác, ngậm ngùi. Thơ tình của Trần Tuấn Kiệt không bao giờ có những lời tỏ tình trực tiếp, mà luôn luôn là những ẩn dụ và mối sầu tình cũng luôn luôn hòa với mối sầu thiên cổ.

 

Ngôn ngữ Trần Tuấn Kiệt giản dị mà chở đầy những hình ảnh dù man mác mà thê thiết, trong một nhạc điệu trầm ngân như một tiếng thở dài. Tình yêu quê hương Việt Nam, yêu tiếng Việt vốn tràn ngập trong thơ văn Trần Tuấn Kiệt, nhưng ngắn gọn, rõ ràng và quyết liệt nhất là trong quyển ‘Tiếng Đồng Nội’, với vài giòng bố cáo đơn sơ ở đầu sách, đại khái là: cấm dịch ra bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Nghĩa là phải người đọc phải đọc cuốn tiểu thuyết này bằng tiếng Việt Nam…

 

Kiệt viết rất nhiều, thơ, truyện ngắn, truyện dài, biên khảo (‘Tác Giả, Tác Phẩm’, Thi Ca Việt Nam Hiện Đại’ dày hàng nghìn trang…., nhưng thơ vẫn là thể loại chính, hàng 5, 7 nghìn bài trong 50 năm qua.

 

Thủa đó, nơi hai chàng lãng du là những quán vỉa hè. Ngồi trên những chiếc ghế đẩu thấp sát đất. Uống những ly rượu đế nhỏ. Nhắm những con khô mực nướng thơm. Kiệt thường nói: 'tao nghèo mà vui'. Nghèo thì cũng đúng, nhưng vui thì đúng hơn. Tôi cho rằng trên đời này chỉ có một mình Trần Tuấn Kiệt là không biết buồn, biết lo. Những nỗi buồn, lo của sinh kế, của đời sống hàng ngày, của mọi người. Kiệt hồn nhiên như một đứa trẻ. Chỉ biết có thơ và rượu mà thôi.

 

Một buổi chiều tối, trong lúc đang ngồi uống café ở bên lề đường Lê Thánh Tôn, Tôi rủ Kiệt đi ăn tối. Kiệt không chịu, nhất định kéo tôi về nhà ăn cơm. Nhà Kiệt thời đó ở trong một ngõ hẻm nhỏ trên đường Phan Đình Phùng, gần chợ Vườn Chuối. Căn nhà hẹp hơn một căn phòng của người khác. Rộng chừng 2 thước, sâu chừng 4, 5 thước. Phòng khách là một cái bàn nhỏ với hai cái ghế. Phòng ngủ (và cũng là phòng ăn) là một cái giường. Sau một bức vách ngăn là nhà bếp nhỏ. Trên vách nhà treo đầy tranh của những họa sĩ hàng đầu thời đó (Nguyễn Trung, Nguyên Khai, Nghiêu Đề…) tặng cho Kiệt. Đó là nơi hai vợ chồng Kiệt và cháu gái nhỏ sống (Lúc đó cháu Trần Triều Miên - con đầu của vợ chồng Kiệt đã gặp nạn, qua đời).

 

Về tới nhà Kiệt bảo vợ: 'anh Tuấn ăn cơm tối với tui'. Nói rồi, Kiệt kéo tôi xuống bếp khoe gà. Kiệt ham mê gà chọi. Anh có thể đói, nhưng gà phải no, phải có rượu bóp. Kiệt mở bu, bế gà ra vuốt ve hồi lâu. Hãnh diện nói với tôi: 'mày thấy con gà này ngon không, đá vô địch'. Tôi biết gì về gà đá… Cười. Vợ Kiệt dọn cơm lên giường. Một niêu cơm nhỏ, một nồi cá kho nhỏ. Trong nồi chỉ có một con cá kho, trắng, to bằng 4 ngón tay. Nồi cơm được chừng 2 bát lớn, 3 bát nhỏ. Vợ Kiệt bế con đi, chừng 5 phút sau chị trở về với một ca sắt đầy bia. Kiệt với tôi chuyền nhau ca bia, uống. Vợ Kiệt bế con, đứng nhìn chúng tôi ăn, mặt cười rặng rỡ. Tôi chợt biết rằng mình đang ăn phần cơm của chị. Lòng đau thắt.

 

Kiệt làm thơ rất tức cười, gặp tờ giấy nào cũng viết lên đó, nào là tờ lịch, bì thư, bản vỗ… Viết xong bài thì bỏ vào một cái sọt tre lớn treo trên vách, kế cái bàn nhỏ tiếp khách. * (Sau này nhớ lại, tôi mới thấy là trong nhà không có tủ, mà chỉ có vài ba cái sọt treo trên tường đựng đồ dùng. Cái sọt treo ở phòng khách là để đựng thơ). Những tờ báo hỏi xin bài, thì Kiệt quơ tay vào trong sọt, lấy ra dăm bảy, bài đưa cho họ. Kiệt làm thơ gần như không sửa đổi bao giờ. Thơ viết ra giấy là xong rồi. Hình như thơ đẵ nằm trong đầu hàng loạt, hàng mươi bài mỗi lần. Có sửa gì, thì sửa trong đầu, chứ đã viết ra giấy là xong rồi. Không nghĩ đến nữa. Tuy thế, mỗi bài thơ là một hoàn chỉnh. Không thể sửa gì nữa. (Cũng giống như cách Bùi Giáng và Nguyễn Đức Sơn làm thơ). Ba ông này quả thật là kỳ tài.

 

Trần Tuấn Kiệt là một cao thủ của trường phái Tây Sơn Nhạn. Có thời anh dạy võ. Một hôm tôi bảo Kiệt chỉ cho một vài ngón để phòng thân. Kiệt nói: 'mày không học tới nơi mà chỉ biết vài thế, tụi nó đánh chết'. Nói rồi anh bảo tôi khi sắp đánh nhau thì tay trái chống vào cạnh sườn, tai phải nắm lại, nhưng ngón trỏ thì thẳng ra chỉ chỉ vào mặt đối phương mà tiếp tục cãi, rồi bất thình lình cụp ngón trỏ lại, đấm ngay giữa trán đối phương, trước khi bỏ chạy. Cái cú giả vờ cãi rồi lừa địch thủ mà đấm trước rồi chạy này tôi chưa có dịp thử, nên không biết hiệu nghiệm ra sao.

 

Một buổi tối kia. Hai đứa tôi vào hiệu ăn Chung Nhuận Hy (ở góc đường Công Lý - Lê Thánh Tôn), ngồi ở một bàn ngay bên lề đường, không gọi món ăn, mà chỉ uống 2 ly café bí-tất, mặc chủ hiệu lườm nguýt. Kiệt nói chờ lát nữa vào nhà sách Khai Trí lấy tiền nhuận bút. Đến 7 giờ rưỡi, mà Kiệt vẫn không chịu đi. Nói chờ đến 8 giờ, nhà sách đóng cửa mới gặp ông Khai Trí. Chúng tôi đến đó lúc Khai Trí đang sửa soạn đóng cửa, đang đếm tiền. Kiệt hỏi tiền bản quyền cuốn sách. Ông Khai Trí trả cho Kiệt hai ngàn - rẻ mạt. Chúng tôi đi về, Kiệt chia xấp tiền ra làm hai. Lật bọc yên xe Solex lên dấu xuống đó một phần, nói là để mang về cho vợ nuôi con. Còn một phần bỏ túi dắt tôi vào quán nhậu. Ăn nhậu hồi lâu, Kiệt bỏ tôi ngồi đó, đứng dậy đi ra ngoài chừng mươi phút. Khi trở vàogọi thêm rượu, thêm món ăn. Hai thằng say tuý luý. Ăn nhậu xong còn rủ đi uống café. Tôi bảo Kiệt đi về đưa tiền cho vợ. Kiệt nói tỉnh queo: 'hồi nãy tao ra lấy để trả tiền nhậu hết rồi'. Tôi lạnh người, tỉnh hẳn rượu nhưng càng choáng váng. Viết một quyển sách mất rất nhiều thời giờ, tim óc, nhà xuất bản trả không được bao nhiêu, vậy mà không mang về cho vợ lấy được một nửa, dắt bạn đi nhậu hết. Có ai như ông trời này?

 

Ông Khai Trí còn nắm trọn bản quyền của hơn chục cuốn tiểu thuyết Kiệt viết, mỗi quyển trả vài ngàn bạc mà chỉ có đôi ba cuốn được in. Độc giả không bao giờ được đọc những quyển kia. Trong 40 năm nay tôi vẫn tự hỏi nên khen hay nên trách ông Khai Trí. Ông đã mua rẻ bản quyền cất tủ, hay ông đã tìm cách giúp nhà văn nghèo?

 

Để có thêm tiền, Kiệt làm cách khác. Thấy tôi có tí vốn chữ Hán, còn mình vốn đã giỏi võ, Kiệt bắt tôi chở vào Chợ Lớn, đến những hàng sách bên đường của người Tàu, tìm mua sách dạy võ. Gặp quyển nào có hình người khoa chân múa tay cũng cầm lên hỏi tôi 'quyển gì đây?'... Cứ vài ngày chúng tôi lại mua được đôi ba quyển. Khi thì Thiếu Lâm, khi thì Võ Đang…Chúng tôi lại về khu trường Văn Khoa cũ, tôi ngồi uống café dịch miệng cho Kiệt nghe, từng thế đánh, thế đá. Nhiều chữ không rành, vậy mà Kiệt nhờ giỏi võ biết ngay và hiểu rõ. Sau đó anh dựa trên những quyển sách này mà viết một lô sách dạy võ. Bán rất chạy. Kiếm được tiền nuôi gia đình.Tôi cười gần chết.

 

Tôi rất nhớ và mến đời sống giản dị của Kiệt. Giản dị đến không ngờ, như có lần tôi hỏi Kiệt hồi còn ở Sa Đéc sống ra sao. Kiệt nói: ‘mỗi ngày tao đặt cái lờ ở ngoài mương bắt cá. Buổi sáng ra gỡ lấy 3 con cá lớn nhất.Một con tao đổi lấy một lít rượu, một con tao đổi lấy một lít gạo, nấu cháo, còn con thứ ba tao nướng, rồi ngồi nhậu’ Tôi hỏi tiếp: ‘rồi ngày mai làm sao?’ Kiệt đáp tỉnh queo: ‘mơi làm dzậy nữa!’.

Đời trôi về mỗi hướng. Sau mấy chục năm tôi vẫn là kẻ lãng du ở cuối vườn ảo mộng. Kiệt vẫn là vầng mây trắng, phiêu du giữa đất trời vô định. Đêm nay nhớ lại bạn xưa, lòng dạt dào thương nhớ. Chén rượu đêm mưa đầu mùa thu ở Minnesota xót xa như nước mắt. Năm xưa có viết 2 bài thơ tặng Trần Tuấn Kiệt, như sau:

 

đêm buồn uống rượu một mình

(gửi Trần Tuấn Kiệt)
nửa đêm nhớ một vầng trăng
chén nâng mời rượu - từng giòng lệ sa
sóng bên này giải ngân hà
thoảng âm tiếng khóc từ bờ bên kia
xuôi giòng tử biệt sinh ly
quê nhà nơi đó mà về được đâu
kể từ dâu biển rời nhau
trăng đêm nay vẫn nguyên mầu cố hương
biết đây là cõi vô thường
mà tâm thể vẫn đoạn trường xiết bao
buồn ơi đầy đọa mãi sao
lòng tươi muối xát - gan bào tái tê
buồn ngồi uống rượu nửa khuya
chén này chưa cạn - chén kia nối tràn
chén sầu dằn vặt tâm can
trăng vàng đêm lạnh lời than não nề
buồn ơi! ta đã làm chi
ta ơi! buồn đã làmgì đời ta

và:

mới ốm dậy đêm nằm nghe mưa

viết gửi Trần Tuấn Kiệt
đêm khuya không rượu mưa rơi
quạnh hiu bốn cõi - ngậm ngùi tâm tư
nằm im nghe động mái nhà
những năm tháng đã ra ma trở về
rượu không mà tưởng say nhè
tay bưng mặt khóc hỏi quê chốn nào
tang thương tàn cuộc binh đao
cơ trời sao để nghẹn ngào sử xanh
đêm mưa không rượu buồn tênh
đầm đầm lệ đổ - ý tình héo hon
mưa như đêm ở Saigon
trời se se lạnh theo buồn xa xăm
lòng rung theo tiếng mưa thầm
giơ tay vuốt mặt lặng nằm nghe mưa
giọt sa, giọt nhẹ mơ hồ
giọt dài, giọt ngắn, nghe như giọt sầu
một mình không rượu, đêm sâu
năm qua, ngày hết, mái đầu gió sương
quê nhà mù mịt đôi phương
một mình thương tưởng, sao buồn chứa chan
rượu không, mưa ngớt, đêm tàn
nàm im nghe vọng thời gian nặng nề
rượu không mà tưởng say nhè
tay bưng mặt khóc hỏi quê chốn nào
 
BÙI NGỌC TUẤN

Wednesday, March 7, 2012

TƯỜNG LINH * MÂY SỚM HẢI VÂN




Không rỏ nét một nơi nào đã nhớ
Và cũng không tròn bóng dáng để quên
Khi có một chốn biển trời rộng mở
Say sưa nhìn mây sớm mãi dâng lên

Cửa ải xưa là nơi nào đấy nhỉ
Phải chăng triền gió thốc, suối phun tia?
Thuở trạm ngựa vó băm đường thiên lý
Hẳn ngại ngùng bên mé vực sâu kia

Mây lãng đãng qua rừng buông cánh thấp
Choàng áo màu tuyết nhẹ xuống hàng cây
Biển Đông thả gió vào chưa đủ cấp
Giữ bình yên cho lũng tiếp đong mây

Buồm xa tít, sóng viền ghềnh lượn trắng
Biển dày công tạc dũa những ngàn năm
Những nghìn năm với sớm mai phớt nắng
Với đêm dài thao thức hải triều âm..

Chưa nghe hết lời đại ngàn kể lể
Mùa chiến chinh đá dội tiếng quân reo
Biệt Hải Vân, đi tiếp về với Huế
Mây vươn tầm như gởi luyến lưu theo.


TƯỜNG LINH

Đặng Lệ Khánh * Tưởng tượng khi mình là hạt bụi

 
 

 
Chủ nhật lên chùa dự cầu siêu
Khoanh chân ngồi dưới đất buồn hiu
Sau lưng những vành khăn tang trắng
Quấn hờ giữa sợi muối sợi tiêu
Tưởng tượng mai kia thành tro bụi
Mình chắc vờn quanh nhành ngọc lan
Sẽ lăn giữa những vồng hoa cải
Sẽ theo suối đổ tự trên ngàn
 
Mình sẽ lang thang như cánh bướm
Sẽ trôi như ngọn gió mùa thu
Sẽ nằm trên đỉnh thông cao ngất
Sẽ bơi theo tiếng sáo vi vu
 
Mình sẽ thả mình trên ngọn lúa
Sẽ sà bên bếp lửa ngày đông
Sẽ đậu trên nắng chiều sắp úa
Sẽ vào trong mộng một người dưng
 
Mình sẽ nằm đầy phím dương cầm
Trong góc một căn phòng bỏ không
Góp nhặt từng âm thanh vất vưởng
Trên bốn bức tường đã lặng câm
 
Mình sẽ lơ mơ nhìn trăng chiếu
Trên mái hoàng thành một thuở xưa
Nghe rêu, nghe cỏ ru nhè nhẹ
Văng vẳng câu hò mái nhị đưa
 
Nhưng … lỡ như mình là hạt bụi
Dính trên lưng áo lính phương xa
Thấm giọt mồ hôi cay nắng gió
Nghe súng dồn theo nhịp nhớ nhà
 
Nếu lỡ như mình là hạt bụi
Chờ khô trên má trẻ ngu ngơ
Đang ngồi đợi mẹ trên thềm đất
Một nắm cơm là một giấc mơ ...
 
Một mai nếu khi mình nằm xuống
Muốn làm hạt bụi cũng không xong
Phật độ đưa về miền Cực Lạc
Lòng chắc buồn tênh, tội cõi trần ...
 
Xếp lại tờ kinh trả lại chùa
Chuông mõ đã im từ bao giờ
Chỉ có khói nhang còn nhẹ tỏa
Và mình, hạt bụi đứng lơ ngơ
 
 
Đặng Lệ Khánh

Monday, March 5, 2012

VÕ THỊ ĐIỀM ĐẠM * BÌNH MINH TRÊN BIỂN RẠNG




Rạng của Phan Thiết bây giờ không còn là nơi picnic cho học sinh hay gia đình từ thành phố Phan Thiết nữa. Bãi biển đã bị các resort làm chủ bằng cách dọn sạch phần bãi trước khu vực resort, đặt một hàng ghế nằm nghỉ với tấm đệm lót có mang dấu hiệu riêng với ngụ ý không muốn cho ai ngồi xuống bãi cát mà hưởng thụ biển trời mênh mông trước mặt. Cho nên, từ Đá Ông Địa ra cầu Đá gần Mũi Né, bãi biển dài bốn-năm kilomet chỉ có hai con hẻm nhỏ để người dân chài từ làng quê nằm sâu phía sau hàng quán và ruộng vườn bên kia đường, nghĩa là dân chài nhưng không sống ven biển, dùng đó mà ra biển, mà tiếp tục nghề chài cha truyền con nối. Còn người không quen nước quen cái, muốn đến Rạng để tắm biển thì... chịu thua vì biển Rạng không muốn có người chỉ ghé thăm chơi vài ba tiếng đồng hồ, biển Rạng đã bị ai đó bán cho các resort rồi. Vậy ra biển Rạng không hiểu gì sao? Hay biển Rạng cũng biết là đồng tiền đã mua đứt biển Rạng và biển Rạng không làm gì được hết, bởi quyền lực quá mạnh, quá cao? Biển Rạng biết đó, ở những nước khác trên thế giới, chủ nhân có toàn quyền trên phần đất của mình nhưng bãi biển là của mọi người, là nơi công cộng, không ai được làm chủ. Còn ở Việt Nam mình, không phải chỉ Biển Rạng không thôi, nhiều bãi biển khác nữa, những bãi biển có hấp lực với khách du lịch, cả bãi, cả biển là của nhà nước, nhà nước muốn bán cho ai thì đó là quyền của nhà nước, mình làm dân, muốn yên thân thì phải ngậm miệng, cúi đầu nghe theo.

Không còn là của người dân Phan Thiết, biển Rạng có buồn không?

Sáng sớm khi chân trời vừa hơi ưng ửng đỏ, tiếng sóng biển dồp dập gọi tôi, mời tôi cùng đón, cùng chia sẻ một cảnh sống đã được lưu truyền từ bao thế hệ nay thì đang ngắc ngoải, níu kéo được ngày nào hay ngày đó. Tôi biết, vì tôi đang ở một resort nào đó của Rạng cho nên tôi mới có ”quyền” nhận lời mời này của biển Rạng, tôi mới được đi dạo dọc bờ biển, mới được để bọt biển mơn trớn đôi bàn chân trần. Trong khi đó, bãi vừa cựa mình thức dậy vì bị các anh nhân viên của resort dùng cái cào cỏ để xóa đi những dấu chân người của ngày hôm trước, để bãi được mang hình ảnh trinh nguyên đón một ngày mới.

Mặc cho sóng biển rì rào gọi vì sóng tưởng tôi sẽ đi lần ra, sải tay bơi ra xa, nghịch đùa cùng biển như những buổi sáng trước, tôi tiếp tục đi để kịp có mặt ngay từ đầu. Tôi đi ngược về phía Phan Thiết, ranh giới giữa Rạng và khu vực Đá Ông Địa là nơi những chiếc thúng trở về sau một đêm dòng dã ngoài biển khơi. Mười một giờ đêm hôm qua, mỗi người đàn ông một chiếc thúng được trang bị bằng một chai nước ngọt và một chiếc đèn bão treo lủng lẳng trên cái cây cao vừa quá đầu người, lặng lẽ chèo ra khơi, nhưng bao giờ cũng phải ra khơi cặp đôi để phòng khi mưa to gió lớn và khi trở về cùng có đôi có bạn nương tựa nhau.

Biển tháng bảy vẫn còn hiền hoà để các anh thả thúng lềnh bềnh, giăng mảng lưới và lập bập điếu thuốc ngắm trăng sao. Chờ. Cá lớn, cá nhỏ thơ thẩn tìm miếng ăn hoảng hốt tìm lối thoát khi đột nhiên khám phá biển không còn mênh mông nữa, và nhìn quanh mới thấy không phải chỉ mình ên mà lắm bạn bè khác cũng đã bị giam hãm bởi một vùng lưới trắng bao quanh. Khi mặt trời phía Mũi Né vừa lên trọn vẹn, tung sức sáng xuống vùng biển rộng ngan ngát thì bóng đen những chiếc thúng bắt đầu nhấp nhô theo đợt sóng đẩy đưa hiện ra ở cuối tầm mắt. Từng cặp, không rời xa nhau mấy, từ nhiều hướng, nhắm tòa nhà đang cất dở trên bãi mà tiến dần vào bờ.

Nương theo từng đợt sóng đánh vào, dùng mái chèo, anh thanh niên lừa lách chiếc thúng vào bờ. Từ khi chấm đen hai chiếc thúng xuất hiện ngoài khơi cho tới khi hiện rõ trong tầm mắt người đứng trên bờ, mất cũng nửa giờ đồng hồ. Đôi chân vửng chải giữ thăng bằng cho chiếc thúng trong khi hai cánh tay lúc chèo bên phải, khi chèo bên trái đưa thúng từ từ vào bờ. Càng vào gần bờ thì sóng càng mạnh và sức rút ngược cũng nhanh cho nên mái chèo càng thay đổi liên tục. Khi đẩy, khi chống, khi chèo, cho tới khi chiếc thúng chạm bờ cát để sức nặng của đáy thúng bám xuống cát thì thúng mới không bị sóng biển rút ngược ra. Anh nhảy xuống lắc lắc cái thúng như để xác định độ bám bờ cát của thúng đã chắc ăn chưa.

Đòn gánh, dây thừng đã được dùng để đưa thúng xuống biển hồi tối hôm qua, nằm giấu dưới mấy cái thúng không dùng tới. Người này phụ người kia thay nhau khiêng thúng lên bờ. Nhìn dáng điệu gồng mình, chân bám chặt xuống để phụ nhau nhấc đòn gánh lên vai và từng bước từng bước di chuyển thì cũng đủ hiểu là cái thúng nặng đến cỡ nào cho hai người đàn ông lực lưỡng. Không phải nặng vì số cá đánh được, cũng không phải vì chiếc thúng quá lớn, mà vì cái thúng được đan bằng lát tre dầy, trở nên cứng và không thấm nước vì lớp dầu hắc ở mặt trong và cả chục lớp dầu rái được phết bên ngoài. Và với độ nặng và chắc như vậy thì thúng mới chịu đựng được sóng biển không phải lúc nào cũng hiền hòa. Độ lớn của thúng cái nào cũng như cái nào, độ mét rưỡi, vừa đủ chỗ cho mớ lưới trắng.

Đặt cái thúng này xuống, hai anh thanh niên quay ra phụ nhau khiêng cái thúng kia vào bờ. Như đã thỏa thuận, năm-mười phút sau là hết chiếc thúng này đến chiếc thúng kia lần lượt tấp vô bờ, chừng mười cái, từng đôi. Không cần một lời nhờ vả, không cần một câu hỏi thăm, các anh lặng lẽ phụ nhau lắc, nhấc từng bước một để chiếc thúng nằm vững chắc trên bãi cát và được khiêng lên bờ.

Và từ con hẻm nhỏ, con và vợ hay cha mẹ của các anh thanh niên thư thả tràn ra, làm đầy khoảng bãi cát độ chừng mười mét may mắn còn trống vì tòa nhà của một resort chưa cất xong. ”Không biết khi tòa nhà resort này cất xong, nghĩa là bãi cát này không còn là nơi công cộng nữa thì các người dân chài này sẽ đưa thúng vào đâu?” Đó là câu hỏi vương hoài trong đầu tôi mà không có ai trả lời dùm, cho đến bây giờ.

Cùng trong số đám đông tràn ra bãi biển, có những người đàn bà đến mua cá để đem ra chợ bán hay cho bữa cơm gia đình. Những người đàn bà này đi tới đi lui, ngắm nhìn, phân lượng loại cá đã được tháo ra khỏi lưới nằm trên bãi cát. Hình như đã quen biết nhau từ lâu và giá cả cũng không khi trên trời khi dưới đất nên coi bộ sự mua bán diễn ra khá nhanh chóng và lời kèo nài trả giá hay mời mua cũng không cần thiết lắm.

Không cần chờ lâu, theo bước chân má, đám con lần lượt ra bãi. Từ khoảng bốn tuổi đến mười tuổi, các em đang nghỉ hè nên tay cầm gói xôi vò, gói bắp hầm, ổ bánh mì ngồi rải rác quanh đó, gần gần thúng của ba mình. Còn nhỏ thì vừa chơi, vừa ăn, vừa ngắm nhìn những con cá tươi cứng, bóng nhảy mà ba má vừa gỡ ra, nằm ngổn ngang trên mặt cát. Những em lớn hơn tí thì phụ ba má gỡ cá, xếp lưới...
Anh này dùng loại lưới lổ lớn nên anh chỉ việc ngồi trên thành thúng, vừa gỡ cá vừa xếp tấm lưới cho gọn gàng để chuẩn bị chuyến ra khơi tối nay. Không bao nhiêu, chừng hơn nửa cái sô xanh, hai đến ba kilo loại cá có bề ngang cỡ hai đến ba ngón tay và dài bằng bàn tay. Loại cá sẽ giữ nguyên con khi kho hay chiên hay nấu canh chứ không cần cắt làm đôi, và càng không cần cắt lát. Theo ”kiến thức” tôi thâu lượm được thì tôi có thể phỏng đoán lợi tức hôm nay của anh cỡ chừng ba mươi đến bốn mươi ngàn.
Không một lời trao đổi, người vợ xách sô cá đi lại con hẻm, ra đường, mà theo suy đoán của tôi là chị muốn mang cá ra chợ bán để được giá hơn.

Hút xong điếu thuốc, quay đi quẩn lại, không thấy vợ đâu cả, anh chỉ nghe tiếng thằng con trai của anh nhắc em mình:
- Em ăn hết gói bắp hầm đi, chút anh cho uống sữa đậu nành.
Tiếng thằng anh mười tuổi dổ em, như muốn an ủi em vì bỏ em ngồi một mình.
- Dạ.
Thằng em như đã quen, vừa dạ trả lời anh vừa chăm chú múc từng hột bắp trắng tươi nở to tròn. Coi bộ bịch sữa đậu nành không hấp dẫn lắm nên không mè nheo đòi. Hoặc là biết thế nào cũng được. Hoặc là anh biểu sao làm vậy vì giọng thằng anh nghe nghiêm nghị lắm, cậu bé này ra đây để giúp ba mà.
Ba đã gỡ rồi nhưng coi bộ không kỹ nên còn mấy con cá nhỏ dính trong đống lưới. Hai anh em lui cui ráng tìm, được con nào hay con đó. Cá liệt nhỏ vầy chớ nấu canh cà, cho thêm ngò là ngon lắm, hay kho mặn nhiều tiêu cay cay ăn với cơm trắng cũng ngon vậy.
Em phụ ba nghiêng cái thúng để múc hết nước đã ngấm vô thúng suốt một đêm qua và cũng để dọn sạch rong rêu phía trong. Với dáng điệu xăng xái của một dân chài lành nghề, em phụ ba xếp mớ lưới ngăn nắp để dễ dàng cho ba khi giăng lưới tối nay ngoài khơi. Hai cha con lui cui làm việc, không nói với nhau một lời. Người cha không cần sai biểu hay nhắc nhở. Thằng con trai mười tuổi rành rẽ công chuyện sẽ làm, như một hợp đồng không văn bản của hai người làm việc chung, hai người cùng trang lứa.

Hai tay hai thùng nước được múc từ biển, bước chân em nhanh nhẹn lên bờ. Dùng hết sức, em tát mạnh thùng nước vào thành thúng. Sức tát nước này đủ để những rong rêu, vỏ ốc sò li ti rớt xuống đáy thúng, như vậy sẽ dễ cào múc hơn.

Trở ra, em lại xách thêm hai thùng nước biển, tát mạnh quanh lòng thúng. Và cũng với sức tát nước này, cái thúng trông sạch sẽ hẳn ra, sẵn sàng cho chuyến ra khơi tối nay của ba.

Cái thúng được dựng đứng, hơi nghiêng nghiêng. Người cha xách sô cá vụn đi, chắc về nhà để ăn sáng và nghỉ ngơi. Anh không cần dặn dò con một lời, chứng tỏ một sự tin tưởng tuyệt đối nơi thằng con trai mười tuổi của mình.

Đang lui cui rửa lòng thúng, chợt nhớ tới em mình, em quay lại, biểu, giọng âu yếm: ”Bịch sữa đậu nành anh để trong nón đó em, ráng uống hết nghen em.” Đứa em dạ một cách ngoan ngoãn, chạy lại cái thân dừa gần đó để tìm bịch sữa đậu nành được anh cẩn thận giấu khuất ánh nắng ban mai. Vừa hút chất sữa beo béo, ngọt ngọt, vừa nhìn anh làm việc.
Uống xong bịch sữa đậu nành, tiếng các bạn khác vừa chạy đuổi nhau vừa cười giỡn làm thằng em bỏ anh, chạy lại coi. Tiếng anh nhắc: “Đội nón, em!”
Buổi sáng của em là thế đó, công việc và trách nhiệm.

Anh kia dùng loại lưới lổ lớn nên cá không nhiều và công việc hoàn tất nhanh chóng, trong khi anh này dùng loại lưới nhỏ lổ nên từ loại cá nhỏ độ một ngón tay đến cá lớn độ ba ngón tay dính rải rác đây đó trong lưới. Cả gia đình phải phụ nhau gỡ cá.

Vừa gỡ cá vừa xếp lưới, công việc kéo dài chừng một tiếng đồng hồ. Biển phải thở dài ngao ngán khi nhìn số cá nằm thưa thớt trên tấm đệm nylon và than: ”Tội nghiệp bà con, cùng túng lắm mới đành lòng quơ càng hốt đại, chớ bà con đánh cá kiểu này thì tôi làm sao nuôi cá lớn, dưỡng cá béo to cho bà con. Rồi đây tôi không còn sức để cung cấp cá nữa thì bà con sống sao đây. Và rồi đây các resort còn lại được hoàn tất thì bãi cát đâu mà đưa thúng ra mỗi tối, gánh thúng vào mỗi sáng. Thôi thì hy vọng bà con tìm được chân quét rác hay dọn phòng cho các resort này mà kiếm sống qua ngày.”

- Lạ nhỉ, có loại thúng nhựa nữa sao chi?
- Loại này không mất công quét dầu.
- Chắc mắc hơn?
- Ờ, nhưng bền hơn.
- Mỗi ngày được bao nhiêu vậy chị?
- Vô chừng lắm, hôm bán được ba chục ngàn đồng, hôm nào tốt lắm thì được trăm ngàn. Làm như vầy thì đâu mà đủ nuôi sống cả gia đình bảy miệng ăn. Nhờ cái tụi tui có ba công đất mới có thể bù đắp, qua nổi những hôm trở mùa, giông bão. Cũng may là con chị nó làm cho khách sạn, đủ xài thân nó. Quanh đây toàn là bà con, hai thằng con trai với đám cháu đàng kia.
- Từ ngày tui bị bịnh, thằng Út nghỉ học thay tui đi biển. Sáng sáng tui với bả ra gỡ cá, xếp lưới cho nó về ngủ. Không đi chài được tui còn sanh bịnh thêm nên chỉ mong thằng Út chịu khó đi chài để tui còn được ra đây.
- Chị không đi biển thế anh được sao?
- Không được, đàn bà không được đi biển. Chị đừng vuốt con cá, xui lắm.
- Xin lỗi anh. Cậu Út về nghỉ rồi hả chị?
- Ờ, về ăn cái gì cho chắc bụng rồi nó ngủ một giấc, dậy là đi ngồi quán cho tới tối thì đi biển lại.
- Ngày nào cậu Út cũng ngồi quán sao chị.
- Ờ, thì nó biết làm gì bây giờ.

Võ Thị Điềm Đạm

KIM TUẤN * Với Long Xuyên





ngập đồng sóng dạt phù sa
mùa này nước nổi trời oà cơn mưa
tiếng gà gáy ngọn tre thưa
mênh mông sóng gọi thuyền đưa ai về ?
trăm năm tiếng hát não nề
trăm câu vọng cổ xuống xề bi thương
thả hồn mây lạc tha phương
thả đời ta lạc cuối đường phiêu du
chạnh lòng chiếc lá mùa thu
con sông giờ đã xa mù khói mây
tiếng đàn ai đó quanh đây
chén nâng bạn tiễn cuối ngày lênh đênh...

Kim Tuấn

MÙI QÚY BỒNG * MỘT THƯỞ YÊU ĐÀN



Trung ngồi trước chiếc dương cầm, thở dài. Đã mấy tháng nay chàng cố gắng tập trung tư tưởng, điều động những ngón tay trên làn phím ngà, hy vọng khả năng mình sẽ thăng tiến, nhưng vô ích. Chàng vẫn không thể nào vượt qua khỏi cái mức tầm thường, nhạt nhẽo. Những âm thanh chỉ “nghe được” mà không cách nào vươn cao hơn. Yêu nhạc, Trung đã bỏ bao nhiêu thời giờ luyện tập từ những ngày còn học tiểu học. Đến năm 12 tuổi, Trung đã xử dụng vĩ cầm thành thạo, và hai năm sau trở thành một cây đàn có hạng.

Nhưng Trung vẫn mê dương cầm. Chàng có một người chú là một nhạc sĩ dương cầm và saxophone danh tiếng. Nhạc sĩ Anh Hoàng. Khắp các phòng trà, vũ trường ở Sài ̣gòn không ai không biết danh ông. Ông đã cùng với các nhạc sĩ Lê Văn Thiện, Huỳnh Anh, Đan Thọ, Ngọc Chánh…tung hoành tại những giải trí trường của hòn ngọc Viễn Đông trong thập niên 60 và đầu 70. Tiếng đàn huyền diệu của ông làm Trung say mê, ngơ ngẩn. Một lần được ông đệm cho buổi trình diễn tài tử cuối niên học của mình, Trung sung sướng đến độ xuất thần. Tiếng vĩ cầm của chàng như được một đôi cánh đỡ đần, nâng lên cao vút. Buổi trình diễn thành công rực rỡ. Chú Hoàng xoa đầu khen Trung tuổi nhỏ tài cao. Trung cảm động, ấp úng nói với chú Trung muốn học đánh dương cầm. Chú Hoàng cười, hứa sẽ dậy Trung. Nhưng rồi chú bận này, bận nọ, buổi học đầu tiên chẳng bao giờ thành hình.

Trung không nản chí. Chàng tự lần mua sách về tập lấy bằng cây đàn ở nhà bà chị họ. Với khả năng sẵn có, Trung đạt kết quả không mấy khó khăn. Chàng đã xử dụng được hàng phím ngà một cách thành thạo. Mỗi lần Trung ngồi trước cây đàn, những tiếng vỗ tay khen thưởng đã vang lên. Nhưng Trung biết đó chỉ là những tiếng vỗ tay khuyến khích. Chàng mới chỉ đạt đến mức độ của một người “thợ đàn”, loay hoay với những nốt nhạc một cách máy móc, chứ chưa phải là một nhạc sĩ có thể bay lượn với âm thanh. Những tháng sau này Trung càng nóng ruột, bực bội. Chàng có cảm tưởng như mình là một nhân vật trong truyện kiếm hiệp. Sở học đã đầy ắp mà kinh mạch vẫn chưa đả thông. Chỉ cần một hóa giải nào đó là công lao luyện tập sẽ viên mãn. Chàng muốn nhắc chú Hoàng lời hứa của chú, nhưng vốn tự ái, chàng không làm. Vẫn cứ tự mình lần mò, đào xới cố tìm một ánh sáng đưa mình ra khỏi chỗ bế tắc. Không thành công, chàng càng nóng nẩy, bực bội. Càng nóng nẩy, bực bội, chàng càng đi sâu vào chỗ bế tắc. Lắm lúc Trung đã phẫn chí, định bỏ hẳn giấc mộng dương cầm.

Tin nhạc sĩ Anh Hoàng bị một người học trò sát hại làm chấn động Sài gòn. Chỉ vì muốn chiếm hữu chiếc kèn saxophone của nhạc sĩ, tên học trò bất lương ấy đã giết thầy.
Nhạc sĩ Anh Hoàng mở lớp dậy saxophone ngoài những giờ làm việc ở các phòng trà và vũ trường. Tính nết tài tử, ông không để tâm lắm đến chuyện sinh sống bằng nghề dậy nhạc. Ông chỉ nhận một hai học trò, những người ông thấy có khả năng trở thành nhạc sĩ thật sự. Trong hai người học trò ấy Như Phong là người ông qúy nhất. Phong có ngón đàn vô cùng bay bướm. Hắn có biệt tài đem những nốt nhạc thêu dệt vào nhau tạo ra những âm thanh mới lạ và quyến rũ. Ông Hoàng nhì́n thấy nơi Phong một truyền nhân thích đáng của mình nên coi hắn như con, hết lòng chỉ dẫn, khai thông những khúc mắc Phong chưa cảm nhận được. Tài nghệ Phong càng lúc càng thăng tiến. Nhưng một con người như thế, có ai ngờ đâu, lại là một tên vô lại. Những tưởng tinh thần nghệ thuật, tài năng âm nhạc chỉ nằm trong một bộ óc nghệ sĩ, ngờ đâu bộ óc ấy lại ẩn chứa một tâm địa sát nhân. Phong rất mê chiếc kèn saxo của nhạc sĩ Anh Hoàng. Chiếc kèn đó như có một ma lực quyến rũ hắn. Nhiều lần đến nhà nhạc sĩ Anh Hoàng chờ thầy – ông Hoàng tin cậy Phong, trao cho chìa khoá riêng để hắn có thể đến bất cứ lúc nào không cần phải đợi lúc ông có mặt ở nhà – Phong đã lén lấy cây saxo đó ra thử. Và hắn thấy mình như đã thăng hoa. Đôi môi hắn, những ngón tay hắn và chiếc kèn như hòa lẫn vào nhau. Khi những nốt nhạc đầu tiên vừa trổi lên, Phong và cây kèn biến thành một khối. Những tiếng kèn thoát ra cuồn cuộn bay lượn trong không gian. Phong đã trở thành một phần tử của cây kèn. Hắn quên hết không gian, thời gian và mọi vật chung quanh, thoát hồn theo những âm thanh trầm bổng. Khi tiếng kèn đã ngừng, Phong vẫn không rời môi khỏi cây saxo, lâng lâng trong một cơi mộng nào thật xa vời.

Từ đó không ngày nào Phong không đến nhà thầy những lúc ông vắng mặt để lén lút mê mẩn với cây saxo của ông. Nhạc sĩ Anh Hoàng vô tình không hay biết, vẫn tận tâm chỉ dậy cho Phong. Nỗi đam mê chiếc kèn mỗi ngày một lớn mạnh trong tim Phong. Nhiều hôm trằn trọc không ngủ, Phong tơ tưởng đến chiếc kèn đó như một người tình tương tư. Mỗi lần chợp mắt hắn lại thấy hình ảnh mình và cây saxo uốn lượn trong tiếng nhạc mê hồn. Những thôi thúc ấy dần dần trở thành một ám ảnh, rồi đúc kết thành một tư tưởng mờ ám.

Phong nhất định phải chiếm hữu chiếc kèn. Phong và chiếc kèn phải là một, không thể xa rời. Phong đinh ninh chiếc kèn đó đă được tạo ra riêng cho ḿnh. Hắn sẽ đạt đến mức tột cùng của tài năng hắn với chiếc kèn ấy. Chỉ có chiếc kèn ấy mới khiến hắn thăng hoa, mới đem hắn lên đài danh vọng.

Và Phong đã dàn cảnh một vụ trộm để chiếm đoạt cây saxo. Không ngờ nhạc sĩ Anh Hoàng hôm ấy bất chợt trở về bắt gặp. Để khỏi lộ hành tung, Phong dùng dây cà vạt xiết cổ ông đến chết. Khi thấy nhạc sĩ Hoàng đã ngưng thở, Phong nới lỏng chiếc cà vạt. Nhưng trong cái giây phút cuối cùng ấy, nhạc sĩ Anh Hoàng chợt mở mắt, thu hết tàn lực, gắng gượng, thều thào hỏi Phong:
- Tại sao con giết thầy?
Phong cười nhạt, đôi mắt ánh lên những nét điên loạn:
- Tôi phải lấy cây saxo của ông. Nó là của tôi, chỉ riêng tôi mà thôi. Ông không thể là sở hữu chủ của nó được!
- Thầy vẫn định sẽ tặng con cây saxo ấy khi con đã thành tài, Phong ạ!
Phong gằn lên:
- Ông nói láo! Ông nói láo!
Rồi hai tay dang ra, kéo mạnh. Chiếc cà vạt hằn sâu vào cổ nhạc sĩ Anh Hoàng, kết thúc cuộc đời một nghệ sĩ tài ba nhưng không may có một tên học trò vô hạnh.

Trung khóc suốt một tuần vì thương nhớ ông chú. Mỗi lần ngồi trước chiếc dương cầm, nước mắt chàng lại tuôn rơi. Những tiếng đàn như nức nở, uất hận. Bao nhiêu tâm tư Trung dồn vào những phím ngà. Hai bàn tay chàng như muốn đập tan những thỏi trắng đen ấy. Âm thanh vang dội trong nỗi tức tối, cay đắng, nghẹn ngào của chàng. Nhưng vẫn có một cái ǵ bế tắc, không cho Trung bộc lộ được hết những xúc cảm mănh liệt trong lòng chàng. Trung dơ hai tay lên trời, hét lớn:
- Chú ơi! Sao cháu khổ thế này? Tại sao chú lại bỏ cháu trong khi cháu vẫn chờ đợi sự dì́u dắt của chú, chú ơi!

Như Phong đă bị bắt và đã thú tội. nhưng điều đó không giúp Trung nguôi ngoai. Chàng tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa để một ngày nào đó làm sống lại cái tài năng hiếm có của ông chú, và tiếp tục vùi đầu tập luyện. Nhưng tất cả những cố gắng ấy đều vô ích.Trung vẫn không sao vượt quá khỏi cái mức tầm thường. Tiếng đàn có ngọt hơn, thấm hơn như nhiều người chung quanh nhận xét, nhưng với Trung, đó vẫn chỉ là những âm thanh hời hợt, vô hồn, kích động người nghe trong phút chốc, rồi thôi. Trung càng ngày càng thất vọng. Cuối cùng, chàng đập cả hai bàn tay lên hàng phím ngà, tự bảo:
Thôi, ta nhất định không đụng đến một chiếc dương cầm nào nữa! Ta chỉ là một tên vô dụng!
Và quả nhiên, Trung bỏ hẳn dương cầm, ai nói thế nào cũng nhất định không chịu ngồi dạo phím nữa.

Một buổi tối mùa đông, trời trở lạnh. Những cơn gió vi vút thổi làm rụng từng lớp lá vàng tơi tả trước sân. Trung vừa kéo xong bài Sérénade của Schubert, nằm xuống ghế sofa, ôm cây vĩ cầm, nhìn hình ảnh thu vàng trong gió, tự nhiên nhớ chú Hoàng, nước mắt chạy quanh. Trung để tâm hồn ngược giòng dĩ vãng, quay lại khúc phim thiếu thời. Nào những ngày còn học tiểu học, chú Hoàng thường dẫn chàng đi dạo phố, ăn quà vặt. Nào những buổi tập vĩ cầm, chú hay làm bộ nhéo tai Trung mỗi lần kéo sai nốt, xoa đầu chàng khi chàng đàn đúng, vỗ tay khen khi chàng chơi hay. Chú không xử dụng vĩ cầm, nhưng thỉnh thoảng chú đưa chàng đến gặp nhạc sĩ Đan Thọ, một tay vĩ cầm nổi tiếng, để khoe đứa cháu tài ba. Nhạc sĩ Đan Thọ khen Trung có năng khiếu và tiên đoán Trung sẽ thành danh sau này. Đôi lần chú Hoàng cho Trung theo đến phòng trà nghe chú và các bạn chú chơi nhạc. Nhìn các nhạc sĩ say mê trình tấu, Trung có cảm tưởng ḿnh đang sống trong một thế giới khác, một thế giới của âm thanh và mầu sắc thật dị thường. Trung không nh́n thấy những người chung quanh nữa, mà chỉ thấy một vùng không gian mờ ảo, những nhạc sĩ trình tấu như những vị tiên giữa những đám mây ngũ sắc đang đùa giỡn với những làn âm thanh trầm bổng, tung qua, bắt lại, tạo nên một khung cảnh tuyệt vời. Chàng đặc biệt chăm chú trên những ngón tay và thân hì́nh chú Hoàng. Những ngón tay nhẹ lướt trên phím ngà, thân h́nh chú hơi lắc lư theo tiếng nhạc. Mỗi động tác của chú quyện vào với những âm thanh tạo nên một hòa hợp kỳ diệu. Trung như mê đi, nhiều khi quên cả những món ăn chú Hoàng đã cẩn thận gọi cho chàng trước giờ khai diễn.

Những kỷ niệm dồn dập kéo đến, quay cuồng trong trí óc Trung, và chàng thiếp đi lúc nào không hay. Đột nhiên Trung giật mình. Một bàn tay đang xoa đầu chàng, và một giọng nói quen thuộc nhẹ vang lên:
- Trung! Chú Hoàng đây.
Trung mở bừng mắt. Trời ơi! Chú Hoàng của Trung, bằng xương bằng thịt, đang đứng cạnh sofa, nụ cười hiền dịu trên môi, mái tóc bồng bềnh hơi hoa râm rủ xuống vầng trán rộng.
- Chú! Cháu vừa mới mơ thấy chú. Cháu nhớ chú quá!
- Chú biết. Chú còn biết là chú vẫn thiếu cháu một món nợ. Chú về đây để trả món nợ đó.
- Nợ gì chú? Chú có nợ gì cháu đâu?
Chú Hoàng cười buồn:
- Có chứ cháu! Chú đã hứa dậy cháu dương cầm, mà chú bậy quá, quên bẵng đi, cứ lo những chuyện đâu đâu, không giữ lời hứa với cháu.
Trung nắm tay chú:
- Không, chú không nợ gì cháu đâu. Cháu đã cố hết sức, nhưng tự thấy không có khả năng, nên đã quyết định thôi không học nữa. Cháu đã bỏ dương cầm cả mấy tháng nay rồi. Mà cháu đâu cần gì. Có chú đây là cháu vui rồi. Cần gì học. Mà, sao chú lại về được? Có thật chú trở về với cháu không chú?
Chú Hoàng đăm chiêu:
- Không đâu cháu. Chú đã chết rồi cọ̀n làm sao về được. Nhưng lời đã hứa, chú không thể không giữ. Chú về đây trong giấc mơ của cháu để truyền thụ cho cháu những gì chú đã học hỏi, thu thập và sáng tạo trong suốt cuộc đời dương cầm thủ cùa chú. Chú muốn cháu làm sống lại cái mà chú đã đạt được. Chú muốn cháu sẽ đi đến tột đỉnh của nghệ thuật dương cầm. Như thế chính là cháu đã làm chú sống lại. Chính là cháu đã đưa chú trở về với cháu đấy, Trung ạ! Nào bây giờ chúng ta bắt đầu.
- Nhưng nhà cháu làm gì có đàn dương cầm. Mỗi lần mưốn tập, cháu vẫn phải qua nhà chị Mai Lan.
- Cần gì cây đàn. Cây đàn ấy vẫn ở trong tim, trong óc cháu. Cháu cứ nhắm mắt lại mà xem. Có phải cây đàn đang ở trước mặt cháu không nào?
Trung nhắm mắt theo lời chú. Quả nhiên chàng thấy hiển hiện một cây đàn. Cây đàn dương cầm của chú Hoàng.
Nhạc sĩ Anh Hoàng nắm tay Trung dẫn đến ngồi trên ghế và bảo chàng khởi sự.
Trung nhắm mắt định thần, tập trung tư tưởng, đưa nhẹ tay lên, chờ vài giây, rồi nhẹ nhàng nhấn phím. Nhạc sĩ Anh Hoàng im lặng lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu tán thưởng, hay nhíu mày, tỏ vẻ không hài lòng. Trung đánh xong bản nhạc, ông Hoàng vỗ vai chàng:
- Được lắm, tuy vẫn ̣còn chỗ chưa thoát. Bởi thế bản nhạc chưa được diễn tả trọn vẹn. Nhưng với khả năng của cháu bây giờ, công việc của chú thật dễ dàng. Cháu đã đạt đến trình độ cao cấp rồi, chú không cần phải chỉ dậy thêm nhiều nữa. Nhờ biết vĩ cầm nên cháu đă hấp thụ nhanh chóng dương cầm. Nhưng vì cháu tự học. mua sách vở về theo đó tập dượt, thành ra vẫn bị sách vở chi phối, bởi thế cháu thiếu mất một yếu tố quan trọng: sự phóng khoáng! Chú thấy cháu thực sự có khả năng thiên phú, nhất định sẽ thành công. Chỉ cần quên những nguyên tắc khô cứng đã học từ sách vở đi. Cháu còn nhớ trong truyện Đồ Long Ỷ Thiên Kiếm khi Trương Tam Phong truyền võ công cho Trương Vô Kỵ có hỏi Vô Kỵ ̣còn nhớ những gì đã học. Vô Kỵ trả lời còn nhớ một nửa, rồi một phần ba, phần tư gì đó. Trương chân nhân vẫn bảo chưa được, phải đợi đến khi Vô Kỵ nói đã quên hết chân nhân mới mừng rỡ khen Vô Kỵ luyện võ đã thành công. Trong âm nhạc cũng vậy, những ̣ gò bó của sách vở đã trói chặt cảm hứng của mình, tạo ra một bế tắc làm cho khả năng của mình không phát xuất được trọn vẹn, khiến mình không hòa được vào với âm thanh và linh hồn bản nhạc. Người nhạc sĩ sáng tác viết ra bản nhạc theo cảm xúc của họ. Người nhạc sĩ tŕnh diễn phải diễn tả bản nhạc theo cảm xúc của mình, phải hiểu bản nhạc, phải sống với bản nhạc. Nếu không, một ngàn, một vạn người đến với bản nhạc ấy cũng chỉ rập khuôn một thể thức trình diễn, có gì khác nhau đâu? Một người cũng đă quá đủ! Bây giờ cháu đánh lại bản nhạc, quên đi những gì đã học, cứ để tâm ý mình đưa mình vào linh hồn bản nhạc đó, xem sao.

Trung nghe lời, dợt lại bản nhạc. Ông Hoàng lần lượt vạch ra những chỗ chưa chỉnh cho chàng, chỉ bảo những kỹ thuật biến báo, và những chi tiết nho nhỏ khác thật cặn kẽ.
Sau mươi lần tập dượt, Trung bỗng giác ngộ. Những bế tắc trước đây đã hoàn toàn khai thông. Nhũng âm thanh mượt mà vang lên một cách hồn nhiên như những cánh bướm tung tăng giữa một bầu trời trong sáng. Không vấp váp. Không g̣ò bó. Thong dong. Vô định.
Nhạc sĩ Anh Hoàng nở một nụ cười mãn nguyện. Ông xoa đầu Trung, rồi vỗ tay:
- Cháu đã thành công rồi đó Trung! Món nợ của chú cũng đă trả xong. Không còn gì vương vấn nữa. Bây giờ chú có thể yên tâm rời xa cõi thế rồi. Thôi, chú đi.
Trung hoảng hốt đưa tay gọi với:
- Không! Chú đừng đi. Chú ở lại với cháu.
Tiếng kêu của Trung làm chàng giật mình thức giấc. Chiếc vĩ cầm vẫn nằm trên ngực. Âm thanh bản nhạc như vẫn cọ̀n vương vấn đâu đây. Trung nhìn qua cửa sổ. Trời đã tối. Những hàng cây chỉ cọ̀n là những bóng xám mờ mờ. Đột nhiên chàng thấy một vùng sáng lập loè xuất hiện. Chạy lại gần cửa sổ hơn thì ra đó là một cánh bướm tỏa ánh lân tinh chập chờn trong bóng đêm. Cánh bướm như đang bay theo một điệu luân vũ vui tươi. Dường như thấy Trung đứng trước cửa sổ, cánh bướm đảo một vòng theo hì́nh khóa “Sol”, nhún nhẩy thêm vài lần như cử chỉ xoa đầu của chú Hoàng, rồi khuất dần trong màn đêm đã bắt đầu dầy đặc.

Một năm sau ở Sài gòn xuất hiện một nhạc sĩ vĩ cầm và dương cầm nổi tiếng với một nghệ thuật trình diễn kỳ diệu làm mê hoặc khán, thính giả. Không bao giờ người ta chán nghe người nhạc sĩ này tŕnh diễn vì mỗi lần trình bầy một bản nhạc là ông ta lại diễn tả một cách khác nhau, mà lần nào cũng khiến người nghe thấy mình như lạc vào một cơi thiên tiên với những đám mây ngũ sắc và những âm thanh huyền diệu làm họ quên cả thực tại chung quanh. Chỉ khi tiếng nhạc đã dứt, họ mới sững sờ chợt tỉnh, để rồi những tràng pháo tay nổ ran đem họ trở về trần thế. Người nhạc sĩ ấy là Hoàng Trung. Trung đã lấy tên chú Hoàng ghép vào tên mình để ghi nhớ công ơn khai thông của ông.


MÙI QÚY BỒNG

phan bá thụy dương * bài tưởng niệm Hoàng Trúc Ly



gởi Trần Tuấn Kiệt



bụi trần phủ áo phong sương
mà người nay đã hà phương thăng trầm

rượu nồng tưởng niệm cố nhân
ngàn chung cay ngọt một lần từ ly


hỏi người, người đã bỏ đi
nằm trong đáy mộ có gì nhớ thương -

tóc bồng nẻo vắng cô đơn
một thân lưu lạc u hồn lạnh mê


người xa chưa lạc lối về
sao hiền huynh chẳng chờ nghe đôi lời

ngủ yên Hoàng Trúc Ly ơi
chuyển thân hóa kiếp đời đời cuồng say


rượu ngon còn một chai này
hãy chia nhau chút men cay thâm tình

cõi trần dẫu có phiêu linh
cõi hư vô hẳn hồi sinh non Bồng. 

phan bá thụy dương

SA GIANG TRẦN TUẤN KIỆT * một mùa xuân trở lại

Hải Xuân

Ngày giáp Tết ở Saigon nóng ran ran, tôi đến Linh ở đường Nguyễn Thiện Thuật, cũng để nhờ anh ta giúp vài chuyện về dịch thuật.
Trước nhà Linh có hai người đàn bà Trung hoa bán khoai lang nướng. Tôi mua hai củ khoai tím Dương Ngọc ăn rất thơm ngon, ngồi xuống xe nước mía, tôi hỏi bà chủ Linh chừng nào về. Bà ta bảo cậu mới đi uống cà phê đâu đó. Bác ngồi đợi không bao lâu Linh sẽ về. Ít khi nào Linh đi đâu vì bà mẹ bắt anh ta coi nhà không cho ra ngoài. Tôi cười Linh đã là bác sĩ rồi mà.


Cách đây khoảng gần bốn mươi năm, đây là con đường thân thương của tôi nhất. Tôi ở đậu để đi học trong xóm ở đường Hai Mươi bây giờ đổi tên là ĐBPhủ. Lịch sử đã thay đổi hết. Và lớp trẻ như Linh lớn lên sau 75 không còn biết gì về những người tăm tiếng trước kia nữa.

Con đường này trước 75 có rất nhiều quán cà phê văn nghệ. Quán nào cũng vang lên bài Sang Ngang của Đỗ Lễ "Đưa em sang sông…". Bọn thanh niên cứ quây lấy các cô gái xinh xinh và lãng mạn suốt ngày yêu cầu quán cho nghe cứ sang sông sang ngang… Xuyên qua đường này đến Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ), tôi thường đi với người bạn cùng quê lên là dân Sa đéc bạn học lớp ba, lớp tư tiểu học. Hắn lên Saigon trước và gặp tôi ở quán cà phê vỉa hè ở đó. Hắn bảo:
- Tôi có đọc anh trên báo Phổ thông. Anh có biết Đàm trường viễn kiến của ông Nguyễn Đức Quỳnh trong hẻm gần chùa đó không?
- Không.
- Ở đó, ngày nào cũng nhiều người tụ tập nói chuyện xôm tụ lắm.

Lúc này tôi và Hàn Giang Dương Thành Long và anh Mẫn bút hiệu Giang Châu, cả ba thành lập thi đoàn Tam Giang, sau có thêm Chương Đình Thu (Bạch Lộ) nữa. Bọn trẻ chúng tôi thời đó mê thơ văn quên cả ăn cơm, thường thì chỉ lấy cà phê, thuốc lá làm thức ăn chính.
Hắn dẫn tôi vào nhà cụ Nguyễn Đức Quỳnh, căn nhà nằm ngang chắn ở cuối con đường hẻm rộng. Thường khi có xe bộ trưởng Công dân vụ Ngô Trọng Hiếu vào đó. Cụ Quỳnh là cố vấn của ông Hiếu. Tôi nhớ hôm đó cụ Quỳnh đang ca ngợi tranh Nguyễn Trung, cho họa sĩ là người vẽ ngựa giỏi nhất. Cũng không ngờ trong buổi đầu tiên đến, tôi gặp nhiều người đã nghe danh trên văn đàn ở đó. Lý Đại Nguyên như đệ tử ruột của cụ Nguyễn Đức Quỳnh cùng Duy Sinh là con cả cụ Quỳnh lý luận, tranh luận sôi nổi về vấn đề văn hóa mới và văn hóa dân tộc.

Ban đầu tôi ngỡ tất cả cùng nhóm nhưng không phải. Duy Lam và Thế Uyên thường bài bác tranh Tạ Tỵ, Duy Sinh lại có vẻ chống lại bố là cụ Quỳnh với tư tưởng hiện sinh mới nhập vào VN đang cùng nhóm Sáng Tạo có Mai Thảo làm chủ súy. Có mặt rất nhiều người như Hoàng Bảo Việt, Hồ Nam, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Tô Thùy Yên, Mai Sử Giương là Nguyễn Nghiệp Nhượng…

Hôm đó là ngày đầu xuân nên có bánh mứt Tết. Ngồi cạnh tôi là Trần Dạ Từ bút hiệu Hoài Nam dường như có xuất bản quyển thơ Hương Cau Quê Ngoại. Cả nhà nhiếp ảnh Nguyễn Cao Đàm đang phàn nàn về cái giải thưởng hạng nhất Quốc tế chưa được đi lãnh vì nhà nước bắt đóng thuế. Phần nhiều ở đó là các nhà văn miền Bắc di cư 54 vào Nam thời đệ nhất Cộng hòa Ngô Đình Diệm.

Cụ Quỳnh nói dõng dạc:
- Tôi bảo đảm anh em cứ tự do phát biểu, cả chỉ trích chính quyền. Các anh em sẽ không hề bị hỏi han bắt bớ gì cả khi ở nhà này trở về.
Tất nhiên cụ Quỳnh đã có bảo đảm của Ngô Trọng Hiếu, một ông bộ trưởng quyền uy đứng vào hàng thứ ba chỉ sau Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu thời đó. Cho nên anh em văn nghệ tranh luận nhau quyết liệt nhất là nhóm Sáng Tạo có Duy Thanh với nhóm Văn Hóa Ngày Nay, hậu thân của Tự Lực Văn Đoàn với Thế Uyên và Duy Lam là hai kiện tướng.
Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ Từ, Hồ Nam… phát biểu hầu như thao thao bất tuyệt. Đã gọi là Đàm Trường Viễn Kiến thì tất mọi khuynh hướng, mọi tư tưởng văn hóa tôn giáo chính trị nghệ thuật đều được đem ra mổ xẻ thẳng thừng và với các nhà văn hóa mới đầy nhiệt huyết.

Chẳng bao lâu, cái lò luyện người với tư tưởng tổng hợp, gọi là Tổng Thức Vận đó tiêm nhiễm tôi hồi nào không hay. Hồi đó còn có nhóm Hoa Mười Phương của Kiều Thệ Thủy. Tờ Mã Thượng của Linh Thi và Sinh Lực của Đồng Tân đã viết về tôi khi ấy chưa đầy mười tám tuổi. Có lần mọi người đề cập đến Bùi Giáng cho là một hiện tượng lạ. Cụ Quỳnh nói Bùi giáng là Lão tử thời nay. Tôi chơi thân và hiểu Bùi Giáng nên không đồng ý với nhận xét này. Tôi về ghé kể cho Bùi Giáng nghe. Ông cười cười lôi tôi ra khỏi nhà, nói:
- Mình đi ăn tiết canh vịt ở Ngã Bảy đi. Ông rất thích tiết canh.
Rồi ông đem chiếc xe Mobylette ra chở tôi đến Ngã Bảy bây giờ là đường Lý Thái Tổ gần Ngã sáu Chợ Lớn, nơi đó bày đủ các hàng ăn uống nhậu nhẹt. Lúc này Bùi Giáng còn làm giáo sư dạy ở trường Tân Thanh, có cả nhà viết sử Thiên Giang, triết gia Đệ Tam là Tam Ích sau dạy Pháp văn, nghiên cứu viết về Hiện sinh và Phật giáo.

Những người này là thày tôi ở trường Tân Thanh. Lúc đó tôi theo Nguyễn Vỹ muu sinh và hằng ngày vào nhà cụ Lê văn Trương ở Ngã tư quốc tế chơi, có lúc Trầm Tử Thiêng từ Khánh Hội cũng qua chơi. Cả Thanh Quang sau chịu ảnh hưởng Phi Lạc Sang Tàu của Hồ Hữu Tường cùng bà Trúc Lâm Nương làm giáo chủ đạo Hồng Môn ở Vạn Kiếp (Gia Định).

Đi du xuân mà ăn tiết canh thì tôi không thích nhưng chiều Bùi Giáng nên theo cũng đi theo. Cách cái quán tiết canh đó là quán chị Lệ Liễu. Chị mở quán ca nhạc gần đó bày sân khấu nhỏ để các ca sĩ lên mà ca hát ngâm nga thâu đêm suốt sáng, phía trong quán nổi tiếng nhất là nơi ăn chơi một thời. Đại đức Trí Minh, bạn của Vũ Anh Khanh lúc chưa đi tu thường đến đây vừa nhậu, vừa hát và ngâm thơ của ông, dẫn theo Mặc Tưởng và Thùy Dương Tử. Tôi muốn dắt Bùi Giáng vào quán Lệ Liễu chơi nhưng ở đây quá bụi không thích hợp với ông nên thôi.

Trời xuân rộn rã, tôi vừa uống chút bia thấy ngà ngà. Nhìn qua bên kia đường, một dãy nhà dọc Lý Thái Tổ đang bán đủ loại hàng hóa, máy móc như mọi con đường khác. Phía sau lưng dãy nhà mơí xây này ngày xưa bãi cỏ mọc vô tội vạ, con đường đó vào sâu hơn là nơi "cát cứ" của ban Văn nghệ địa phương quân do đại úy Tô Công Biên coi. Tôi không nhớ lúc đó Du Tử Lê là thiếu úy hay trung úy cũng ở đó.

Hằng ngày Anh Thuần  dẫn ca sĩ lên Đài phát thanh quân đội nơi có đại tá Cao Tiêu, Tô Kiều Ngân, Tô Thùy Yên, Tường Linh và Phan Bá Thụy Dương thường có mặt. Đó là Cục Chiến Tranh Tâm Lý ở ngay Sở Thú. Khi tôi đang làm báo, viết báo cho Phổ Thông, trong Tao Đàn Bạch Nga của Nguyễn Vỹ, một hôm đại tá Phát (Nguyễn Tấn Phát), một bác sĩ từng là bác sĩ riêng của Ngô Đình Diệm bảo tôi vào lính Văn Nghệ Địa Phương Quân. Ông Phát cũng gia nhập tao Đàn Bạch Nga với Thu Nhi, Minh Đức Hoài Trinh, Tuệ Mai, Nguyễn Thu Minh, Bạch Yến. Thế là tôi vào Ban văn nghệ Địa phương quân, có nhiệm vụ viết sapô cho ca sĩ giới thiệu các bài hát.

Ban văn nghệ này rất nổi tiếng, người điều khiển là anh Nguyễn Hữu Sáng, em ruột Nguyễn Hữu Thiết là người điềm đạm, ít nói và có tài.
Thời ở Địa phương quân, tôi biết Lam Phương, anh hiền lành, cũng ít nói nhưng hay vào trại trễ, bị phạt chạy vòng sân. Cái thân hình bệ vệ của Lam Phương lúc bị đại úy Tô Công Biên phạt chạy vòng sân khiến ai cũng tức cười. Ngày nào mọi người cũng tập dượt ầm ĩ cả trại. Sáo có Nguyễn Đình Nghĩa, Khả Năng, Phi Thoàn là hai cây cười rôm rả nhất. Có một anh hề nổi tiếng chịu chơi nhất, hễ buổi sớm lôi nhạc cụ ra thấy thiếu cây đàn gì thì y như bắt anh ta phải "đi chuộc" ở tiệm cầm đồ về là có ngay. Đó là danh hề Thanh Việt có cả Tùng Lâm nữa. Cũng một ngày Tết khác, tôi gặp Khả Năng sau 75 ở rạp Rex thì anh vui vẻ nói "Mới ở trại cải tạo về". Nghe nói anh trốn qua Thái lan hay Mã lai gì đó rồi mất tăm hơi luôn.

Tôi ngồi với Bùi Giáng mà nhớ tới những ngày cùng Du Tử Lê ở ban Văn nghệ Địa phương quân, sau tôi bị chuyển qua hậu bị quân đưa vô Rừng sác rồi biến luôn không vào trại nữa.
Bùi Giáng gọi thêm rượu rồi ra ngoài, lát sau có người cầm vào hai dĩa bánh ướt to tướng. Bùi Giáng nói:
- Ăn đi. Anh còn vào Đàm trường viễn kiến không ?
Tôi vừa ăn vừa lắc đầu.
- Viết báo với Chu Tử lo kiếm cơm. Từ ngày cụ Quỳnh mất tôi không tới đó nữa.
Bùi Giáng hỏi:
- Chu Tử có tốt không?
- Tốt, vui với anh em lắm. Có Hồ Nam, Trần Dạ Từ, Duyên Anh làm ở đó nữa, nhất là Tú Kếu.
Tôi hỏi:
- Ông có đọc thơ Tú Kếu?
Bùi Giáng trả lời:
- Tú Kếu làm thơ lục bát hay lắm. Còn thơ đen thì không có đọc.

Sau đó tôi nói với Chu Tử lấy tập sách kiếm hiệp của Ngọa Long Sinh là Kim Kiếm Điêu Linh do Bùi Giáng dịch đưa vào báo Sống. Sau biến cố 75, mọi sự đều thay đổi. Bạn tôi Trầm Tử Thiêng qua Mỹ viết bản trường ca Áo dài Việt Nam tôi được nghe một lần. Rồi anh mất bên đó.


Mùa xuân này tôi chợt có dịp trở về con đường hẻm Bàn cờ cũ gần nhà cụ Quỳnh nơi cư xá Đô Thành có trường Tân Thanh xưa nay đã biến thành khách sạn. Đi sâu vào cư xá Đô Thành tôi từng vào thăm chị em Khánh Ly ở một căn gác nhỏ dường như mướn trong đó. Thấy tôi đến cả hai ngó nhau cười như không tiền đãi cà phê đen nữa. Em gái Khánh ly rất đẹp, lần nào tôi đến cũng nói: Anh Kiệt ngâm thơ cho em nghe đi, sau này cô lấy Văn Quang, anh vẫn còn ở lại VN.

Tôi ngồi tư lự một lát thì Linh và San Hà đi đâu trờ về. Linh mời:
- Vào nhà chơi đi anh
- Thôi mình ngồi uống nước mía, anh có việc nhờ em.
San Hà báo tin:
- Từ ngày chị Huệ Thu ghé thăm anh bị trợt thang gác đến nay cũng chưa lành.
- Chị Huệ Thu là người có lòng tốt. Nghe nói chị tửu lượng cao. Trùng Dương không những viết truyện hay mà uống rượu cũng cừ lắm, Tú Trinh cũng vậy. Có lần Tú Trinh ghé nhà không gặp nói với con gái anh sẽ chở anh đi nhậu. Những người bạn trước đều rủ anh nhậu cả chỉ có em bảo anh thôi hút thuốc.
- Anh bị bệnh, hút nhiều quá làm sao du xuân. Sao cây hải đường năm rồi anh không giữ lại?
- Phải, cây hải đường cành lá xum xuê đẹp lộng lẫy, Phạm Cung xuống xem nói đó là đại hồng trà, hái lá nấu làm trà xanh uống ngon lắm. Nhà Hồ Hữu Thủ rộng rãi, năm nay anh định mua tặng anh ấy một cây hải đường, nhà mình chật hẹp không trồng lâu được.

À quên nhắc lại ban Văn nghệ Địa phương quân, anh em văn nghệ kẻ còn người mất. Vừa rồi xem băng Thúy Nga thấy có chương trình về Lam Phương. Nhưng anh nay đã già, bị tai biến mạch máu não, tay phải không còn đàn được nữa. Nhớ tới Lam Phương ngày nào với hàng trăm bản nhạc đi vào lòng người. Thật buồn cho số phận tài hoa của một nhạc sĩ.
Khi tôi làm báo Sống, thỉnh thoảng Khánh Ly ghé chơi. Chúng tôi hay ngồi ăn hủ tíu ở quán Tàu đường Gia Long. Lúc đó, ghế chủ tịch đại diện sinh viên Văn khoa có Trần Lam Giang, sau là Phạm Quân Khanh, Phạm Quốc Bảo, Ngô Vương Toại. Thêm anh em Cung Văn Nguyễn vạn Hồng, nhà thơ nữ Hồng Khắc Kim Mai ở Văn khoa thường lui tới nhà tôi. Chúng tôi ngồi quán bên hông Lê Thánh Tôn. Thường xuyên có Khánh Ly và các anh em nhà báo, nhạc sĩ, họa sĩ cũng ở đó. Một lần khách lạ quen với Khánh Ly tạt vào, nàng vội giới thiệu. Anh Kiệt nhà thơ nổi tiếng đấy… nhưng em không biết được thơ hay hay dở… rồi Khánh Ly cười rất vui.

Ngày đó trong khuôn viên đại học Văn khoa có dựng một gian nhà gỗ nhỏ của nhóm họa sĩ trẻ gồm Mai Chửng điêu khắc, Nguyễn Trung, Nghiêu Đề, Hồ Thành Đức… Căn nhà gỗ này do Nguyễn Trung và Hồ Thành Đức xin được trong không quân đem về dựng lại. Hằng ngày Nguyên Khai và Nguyễn Thành Nhơn đến điêu khắc chơi và thoạt tiên cũng là chỗ ngủ của Nguyễn Nghiệp Nhượng và Cù Nguyễn. Sau 75, khi qua đường Lê Thánh Tôn, tôi nhớ lại cái quán cà phê cũ đã thay mới, các cây điệp (phượng đỏ) cội rất lớn, thân cây bị cưa cụt đã đâm ra thêm nhiều cành nhánh mới, có nhánh đã ra hoa. Tôi đứng lặng nhớ về bạn bè hay gặp nhau ở đấy. Trần Lam Giang, Lê Tài Tấn, Phạm Quốc Bảo và Bùi Ngọc Tuấn, nhớ tới các bạn họa sĩ, Khánh Ly, Nguyễn Thụy Long, Lam Thiên Hương thuở còn xuân sắc tươi đẹp. Bây giờ Lam Thiên Hương trở thành bà ngoại già thường dắt cháu ngoại đến Cung văn hóa Lao động chơi.

Lê Thánh Tôn và những cành điệp cũ gợi cho tôi rất nhiều về lịch sử của một thời. Nay mùa xuân trở lại, con đường vẫn rộn ràng xe cộ, khách nước ngoài đi lại dập dìu. Cả mấy chục năm ở Saigon mà tôi cứ quanh quẩn mãi Thị Nghè như một thằng Mán không biết gì nhiều sự đổi thay. Năm 2005 Phan Bá Thụy Dương lần đầu tiên về nước ghé thăm tôi hai đứa mới trở lại nơi đây nhìn sang Pagoda cũ với tâm trạng ngậm ngùi. Cũng chính từ gốc phố nhộn nhịp này tôi và PBTD đã làm 2 bài thơ Tưởng Niệm Hoàng Trúc Ly.

San Hà chở tôi trên chiếc xe Honda thời tiền sử chậm chạp, tôi nóí:
- Chạy cẩn thận thôi coi chừng đụng người ta đấy
San Hà cười.
- Không sao đâu. Để đó em chạy an toàn chở anh đi xem hoa.
- Anh nghe nói trong Tao đàn có dựng đền Hùng vương, xem hoa xong rồi ta vào lễ đền tổ nghe .
Rồi San Hà cho xe rẽ qua cửa Tây Saigon đi về phía bùng binh. Chợ hoa chỗ ấy thật đông đúc, Hải đường, dạ lý và muôn hồng nghìn tía đua nhau khoesắc mừng mùa xuân mới.



SA GIANG TRẦN TUẤN KIỆT