Trần Vấn Lệ |
Trong nhiều ngày liên tiếp - người bạn thâm niên cùng trường, cùng lớp với tôi 55 năm trước tại Trường Công Lập Phan Bội Châu, Phan Thiết khi chúng tôi vừa bước vào ngưỡng cửa trung học đã chuyển về Trang Thơ Cuối Tuần và Quán Bên Đường hơn 20 bài thơ mới với nhiều bút hiệu khác nhau mà anh đã xử dụng: Trần Vấn Lệ [TVL], Trần Trung Tá, Lê Phụng An, Lê Nhiên Hạo...
Trước khi Luật Báo Chí ra đời năm 72, lúc tôi còn viết feuilleton và phụ trách vài trang VHNT, Văn Nghệ Quân Đội, anh Tường Linh [TL] đã trao cho tôi đọc mấy bài thơ của Trần Vấn Lệ mà anh khen hay và cho biết người này gốc “xứ nước mắm, biển mặn” như tôi. Tôi hỏi anh TL có phải tác giả này là một bút hiệu khác của anh Thế Viên hay Kiều Thệ Thủy chăng. Hoặc giả là của Tôn Thất Trâm [Thi Thi/Đài Nguyên Vu] vì trong lớp bấy giờ trong khi tôi, Trần Thiện Thanh, Lê Văn Nghê, Lê Văn Trung, Bùi Minh Ngọc, Lê Bá Hùng chơi đàn giây, thổi sáo, tiêu, hoặc hát cho ban nhạc của vợ chồng “nhạc sĩ mù”, trình diễn cuối tuần trong khu công viên chateau d’eau Phan thiết - giúp Ty Thanh Niên và gia đình Phật tử - thì vào năm đệ ngũ Tôn Thất Trâm và anh tôi là Phan Bá Thuần Hậu [Anh Thuần/Phóng Viên Kính Trắng] đã khởi sự “giở chứng” mần thơ “tán gái”. Thơ của hai me xừ oắt con “mắc dịch” này thì luôn chứa chan khổ lụy, ướt đẫm tình sầu. Còn Bùi Thanh Minh, Bùi Nhật Huy, Nguyễn Thanh Liêm, Huỳnh Ngọc Hùng, Trần Thiện Trung, Phan Đổng Lý, Nguyễn Thượng Huyền, Huỳnh Tấn Thời, Tôn Thất Quý … thì y như bầy thú dữ luôn tìm cách vào sân banh nhà trường hay sân vận động Phan thành để phá phách, “đá cẳng” bạn bè. Trần Vấn Lệ thì lúc nào cũng ngoan hiền và chỉ lặng lẽ theo dõi các cuộc vui.
Anh Tường Linh nói rằng anh không rõ, anh chỉ nghe anh Tô Kiều Ngân [TKN] - người thay thế cố thi sĩ Đinh Hùng chăm sóc chương trình thi ca Tao Đàn, nói như vậy khi giao bài để anh chọn, phổ biến. Hỏi thêm các anh Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Thu Minh, Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang Hà Huy Hà, Hoài Thương, những người phụ trách việc tuyển chọn, giới thiệu thơ cho các báo lúc bấy giờ, thì họ cũng chẳng biết gì hơn . Bởi lúc đó Trần Vấn Lệ đang ở Đà Lạt và tên anh tương đối còn hơi mới mẻ đối với giới văn nghệ, làm báo tại Sàigòn.
Bạn học cũ bấy giờ lưu lạc khắp nơi. Kẻ vào quân ngũ, người về dạy lại trường xưa.
Hỏi thăm vài bạn đồng môn đang làm việc tại Sài Gòn thì cũng chẳng ai biết rằng anh học sinh chất phác, hiền hòa năm nào nay chẳng những đã làm thi sĩ mà còn dám gởi một tập bản thảo mỏng - bất hợp lệ - về dự thi giải sáng tác VHNT của tổng thống VNCH [Giải Văn Chương Toàn Quốc] để tranh tài với các “kiện tướng” đã có nhiều tác phẩm ấn hành như Trần Tuấn Kiệt, Trần Dạ Từ, Du Tử Lê…
Khi Luật Báo Chí ban hành năm 1972, tôi ngưng viết hẳn, nên thắc mắc trên cũng lắng chìm. Mãi đến năm 2005 sau hơn 5 năm tự cho phép mình về hưu, trôi nổi đó đây, ngao du Âu Á, tôi “ngứa nghề” bỏ tiền ra hợp tác, cứu sống một tạp chí đang “ngất ngư” theo lời đề nghị, kêu gọi của một số thân hữu cũ ở VN và hải ngoại mà Trần Vấn Lệ thường xuyên gởi bài. Nhờ nguyên do này cùng sự xác nhận của Nguyễn Tân Dân, Bùi Thanh Minh tại San José và Bùi Nhật Huy ở Falls Church - VA, tôi mới nhận ra người mà tôi tìm hỏi hơn 35 năm trước là người bạn ít năng động ngày xưa của xóm vắng Xuân Phong. Tôi chỉ còn biết tự trách trí nhớ kém cõi của mình. Vào lúc này tôi gặp chưởng môn Hà Thượng Nhân thì tiên sinh cho biết ông là người duy nhất trong ban giám khảo đề nghị hội đồng thông qua, hợp thức hóa để tác phẩm nhỏ bé kia có thể được cứu xét, chấm điểm. Thiểu số phục tùng đa số, nên tập bản thảo của bạn tôi đã bị loại. Thấy uổng tiên sinh đã trao những bài thơ này lại cho anh em quen biết tùy nghi sử dụng.
Trần Vấn Lệ sang Mỹ theo diện H.O và hiện cư ngụ tại Los Angeles. Mỗi cuối tuần đều chạy về quận Cam để hội ngộ, tửu đàm, nhàn đàm cùng bằng hữu. Tính tình Lệ vẫn trầm mặc, ít nói như thủa nào.
Cho tới nay, Trần Vấn Lệ đã có hơn 30 thi phẩm ấn hành. Một số do anh xuất bản, một số do những người ái mộ thực hiện mà anh còn nhớ được:
bay về đâu đó ở quê hương ▪ hồn tan trong thơ ▪ nắng rớt vườn xuân ▪ gửi em một đóa hoa hồng ▪ ta nhớ người xa cách núi sông ▪ trăm năm để lại ▪ nếu bước chân ngà có mỏi ▪ từ lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng ▪ may mà có em đời còn dễ thương ▪ mấy ai biết mình sống ▪ một thời trong trang thơ ▪ nói thầm với thơ ▪ áo dài em trắng bay trong gió nón lá bài thơ chuyện của chàng ▪ con trao trảo bờ ao bay đi buồn lẳng lặng ▪ hình như từ trong chiêm bao ▪ chiều bên sông đứng trông làn khói…
Tháng vừa rồi anh lại cho ra đời thêm một ấn phẩm thi ca mới: Trưa Buồn Bát Ngát Con Sông do họa sĩ Dương Ngọc Sum tại Westminster vẽ bìa.
Thơ Trần Vấn Lệ, vì thường viết liên tục nên có nhiều bài mới nhìn qua, người không rành chia nhịp, ngắt câu, có thể ngỡ anh làm thơ biền ngẫu, văn xuôi [poèm en prose]. Thí dụ một số bài tiêu biểu tôi giới thiệu dưới đây: Tùy Bút: Ngũ Ngôn, Đói Lòng Ăn Nửa Chén Cơm: Lục Bát, Mãi Mãi Sông Hương Nước Một Dòng: Thất Ngôn, Cúi Lậy Trời Cao, Gieo Gió: Bát Ngôn... thỉnh thoảng phá thể - chứ không phải hợp thể, một đôi câu thêm bớt chữ cho câu tròn ý hoặc để nhấn mạnh, truyền đạt nguồn cảm xúc. Xin hãy đọc qua một số thi phẩm của Lệ:
◙ Tùy Bút
Mấy hôm nay thật buồn. Buổi mai chim không hót. Trời mùa đông rét ngọt. Và mưa. Mưa bay. Bay... Mùa đông trong vòng tay, nhìn, mà thương, thương quá. Không còn gì nói nữa, những gì muốn nói thêm, giống như sợi tóc mềm nằm ngoan trên vầng trán. Người ta thấy chút nắng rơi hồn nhiên trong thơ... Ðó là một cơn mơ, kể không dài đến nỗi đưa người ta lạc lối về một chỗ xa xăm.
Lắng nghe mưa nói thầm chuyện ngàn năm kim cổ. Tôi bỗng nghe nhơ nhớ hơi rượu nào rất xưa qua những bàn tay đưa ấm nồng mùi khói đạn. Thời chiến chinh lãng mạn, nhớ lắm những nụ cười, mi với tao đang ngồi biết đâu lát nằm xuống bên gốc tre, bờ ruộng, thì cũng là... thời gian!
Ôi ba mươi ba năm! Tôi ngồi nhìn mưa rụng. Âm vang từng tiếng súng, vòng tay ôm mùa đông. Mưa vương vương mênh mông trên cành cây không lá. Buổi mai không gì nữa, cả tiếng chim bình minh! Tôi thảng thốt thấy mình cô đơn bao giờ vậy? Cái rét hay lửa cháy đốt hết bình minh xanh? Những tàu chuối mong manh cuộn tròn dòng nước mắt. Ruột gan nào không thắt hỡi Quê Hương xa xôi?
Hãy vỗ lên vai tôi hỡi những người khuất mặt! Tôi muốn mình đừng mất những tiếng chim ngày xưa, những buổi sáng không mưa, khu rừng thưa nắng rọi...
◙ Đói Lòng Ăn Nửa Chén Cơm
Nhiều khi muốn nói, lại ngừng Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, nghĩa gì? Vẫn là một cái vòng xoay Vẫn là trời, đất, bên này, bên kia Nếu trời có một, không chia! Nếu đất muôn dặm, đường về là đâu? Này em, tay hãy kê đầu Nhắm con mắt lại, quên màu thời gian...
Thời gian, xanh, đỏ, tím, vàng... Bao nhiêu màu cũng trong làn khói sương! Có người từng hỏi Quê Hương Cũng con người đó đáp buồn...mây bay! Từng con chim hạc bỏ bầy Trời xanh, mây trắng chan đầy thơ thơ... Đó là chuyện của ngày xưa Đó là chuyện của bây giờ, giống nhau!
Nhiều khi chẳng nói câu nào Lạ thay lau lách bên rào cứ vang Em ơi buồn chẳng muộn màng Cái vui chớp mắt đã tàn lửa rơm! Đói lòng ăn nửa chén cơm Uống lưng bát nước rồi ôm bóng mình Chiến Tranh, sau đó Hòa Bình. Tóc mai mấy sợi, ta hình dung em! Một lần tôi ngước mặt lên Em ơi sông núi đang nguyền rũa ai?
◙ Mãi Mãi Sông Hương Nước Một Dòng
Vẫn chảy kia em, chảy chẳng dừng. Sông Hương là Huế, nhớ là thương. Tại sao anh chẳng là Vua nhỉ, khi nhớ khi thương núi Ngự nằm? Tại sao em lại là mây nhỉ bay mãi trên đầu anh Nước Non? Anh nhắm mắt mơ mình ở Huế nghe sông Hương khóc sóng leo bờ, nghe cau Vỹ Dạ rung rinh lá, nghe rất êm tai những tiếng hò. Ôi Huế Huế thương và Huế nhớ ngàn năm ly biệt được trời ơi! Máu anh có lúc rồi ngưng chảy, mừng nhé sông Hương nước một dòng, em có thành tro hay cát bụi thì mưa tháng Chạp còn rưng rưng...
Em à em ạ em ơi Huế, ai khiến lòng anh đắm đuối mình? Ai khiến gặp em tan buổi học, tóc thề vai áo, dáng xinh xinh...Hồi nao tiếng súng vang vang dội nát hết tình ai những khối tình, còn chỉ sông Hương là khối nhớ, còn nguyên núi Ngự nắng bình minh! Còn anh từng bước đi lầm lũi đạp giẫm lên từng vũng máu khô. Tổ Quốc mênh mông không một chỗ, sông Hương thương quá lại hai bờ! Em trên bờ Bắc qua Nam học, Đại Nội nằm trong nón lá tình. Tình tứ tình tang tình bất tận, tình bao la tới núi rừng xanh!
Hồi xưa hồi xửa hồi xa lắm, xa lắm bây giờ em ở đâu? Anh biết chứ em, lòng đất lạnh, tro tàn nhang tắt, cõi Thiên Thu. Hỡi ơi một dãi sông Hương đó chảy mãi chảy hoài trong mắt anh! Muốn nói ghét em mà ghét được, tương tư không kể ngói trên đình!
◙ Cúi Lậy Trời Cao
Buổi sáng. Buổi trưa. Buổi chiều. Buổi tối. Chưa buổi nào mình quên gọi nhau! Em cuối chân mây, anh đầu ngọn ba đào, nghe chút gió cũng muốn trào nước mắt! Bao nhiêu năm chỉ một lần xa cách mà thiên thu không lẽ đã an bài? Hẹn. Hẹn hoài, không thấy một ngày mai, chỉ thấy sáng, thấy trưa, thấy chiều, thấy tối...
Nhiều lúc nghĩ: Chắc thời gian lạc lối, nên tháng ngày là lịch gió bay bay...Lá mùa Xuân xanh biếc đậu trên cây. Lá mùa Thu vàng mơ rơi xuống đất. Mùa Hạ ơi, nắng hồng chi chất ngất? Mùa Đông à, mưa bão tại vì sao? Trái đất xoay, thời tiết đổi ào ào. Mình, hai đứa, cứ đầu non, cuối biển!
Có nhiều lúc tôi làm thơ tê điếng, như lúc này, tôi mới gọi tên ai. Những câu thơ, tôi viết nối thành bài rồi tôi đốt thả ra ngoài muôn dặm. Thơ tôi đó...Không ai cầm, ai nắm. Chỉ em nhìn mây xám mỗi hoàng hôn. Tôi nhớ em từng ngõ ngách tâm hồn. Em nhớ tôi từng lối mòn đất nước...
Những con đường hai đứa từng chung bước, bây chừ răng? Có đau gót chân em? Hãy xuống bến sông Hương và vả nước cho mềm, cho anh ướt những bài thơ mai mốt...Nếu tới lúc không còn ai thưa thốt, cúi lây Trời xóa bỏ chữ Tang Thương! Con rất thèm nhìn lại nắng Quê Hương, nhưng lúc đó hai mắt mòn, con khép...
◙ Gieo Gió
Tôi gieo gió sang nhà em buổi sáng, cả buổi trưa, buổi xế buổi chiều. Nếu gió trời làm cây cối ngã xiêu mà em lạ, bình yên như diều cao vút! Tôi gieo gió sang nhà em tối mực, gió nói gì em có nghe không? Em ở đâu, trong một góc căn phòng, hay đang đứng ở hành lang đón gió?
Nếu gió trời làm cho hoa, cho cỏ phải tiêu điều như buổi chợ vừa tan. Gió của tôi sao chẳng động lòng nàng? Tôi chờ đợi một tờ thư, không thấy! Tôi gieo gió sang nhà em Thứ Bảy. Chúa Nhật, em, vẫn đi lễ nhà thờ! Bão mô hè? Tôi gặt những câu thơ thời con nít, tôi làm cho em, làm lại!
Em đi nhà thờ, em làm người con gái, rất hiền ngoan, quỳ kia, ôm hai tay. Tôi, con trai, nên phải đứng bên này, tôi ôm gió, thả ở đây, Chúa phạt! Tôi gieo gió hay gieo buồn ngơ ngác? Yêu người ta chi vậy, gió lang thang? Gió hình như...không đến cửa nhà nàng? Tôi nghe lạnh như trong tâm bão!
Ôi gió ơi hãy bay giùm tà áo, hãy bay giùm chút tóc mai kia, vắn, dài, thương ngàn nỗi phân chia mà mãi mãi không lìa câu dấu ái Ai bảo em được sinh làm con gái để tôi thề chê hết thảy giai nhân! Nếu em đừng tôi gặp một ngày Xuân, gió đâu đến nỗi nào thê thiết vậy! Tôi gieo gió sang nhà cho em thấy, em nhìn gì không thấy gió tôi bay?
Thơ anh nhẹ, rất nhẹ nhàng như hơi thở liên tục, như những sợi nắng chiều buông lơi trên kẻ lá, cành sen, phảng phất màu sắc hoài niệm u ẩn, hoài tình. Đó là những tiếng lòng chân ái, và tha thiết, nồng nàn. Đó cũng là những dấu ấn kỷ niệm, những lời kể lể, tự sự ngọt ngào hoặc đôi khi bởn cợt thân thiết với người yêu dấu hay bằng hữu cùng những hệ lụy, vấn nạn nhân sinh, thời thế... vương mang nỗi niềm hoài nhớ quê hương, tình yêu cũ.
Thơ Trần Vấn Lệ cấu trúc chặt chẽ, âm vận chuẩn mực, êm đềm đầy nhạc tính và biết khéo léo tận dụng để lồng hay đặt “deep images” vào những chỗ đắc địa để làm nổi bật những hình ảnh vấn vương trong tâm tư anh. Lời thơ có lúc thánh thoát, chập chờn, réo rắc như tiếng hạ uy cầm, hay tiếng sáo chiều trên các cánh đồng mênh mông... có lúc trôi nổi, trầm buồn, nhàn nhã như những phím dương cầm được trình tấu bằng những ngón tay điêu luyện trong các thính đường ấm cúng.
Dù được ký dưới bút hiệu nào, dù được trình bày dưới thể loại nào tựu trung những vần thơ đó vẫn đồng qui, mang một tính chất dịu ngọt, êm đềm, vẫn cùng một thi pháp vững vàng cùng các thi ngữ, thi ảnh phổ quát bình dị, gần gũi. Không có sự gọt dũa, sáng tạo trong ngôn ngữ thi ca nhưng dưới ngòi bút đầy tình của Lệ những hình ảnh thông thường kia như được tiếp hơi trở nên sinh động, đáng yêu và nên thơ. Và thơ của Trần Vấn Lệ mãi mãi là của riêng Trần Vấn Lệ: Chuyên biệt, lôi cuốn, không bị ràng buộc hay chịu ảnh hưởng của bất cứ người làm thơ nào dù họ đi trước hay đang cùng đi trên con đường thi-ca-viễn-mộng như anh.
Trong những cuộc điện đàm, gặp gở mới đây, con người trầm mặc, nhiều tư duy, dường như mang chút ít bất mãn thời thế ấy thường nhắc nhở với tôi về thời thiếu niên, về bằng hữu xưa, ngôi trường cũ... với giọng bùi ngùi, đầy xúc động, chân tình. Một trong những điện thư anh tâm sự: “Tôi làm thơ...vì không có công việc nào để làm dài hạn! Thơ trở thành hơi thở. Hết thơ...là chết.”
Trong số anh em thân thiết của tôi – những người đã từng viết văn làm thơ trước 75 đến nay nhiều người sau khi định cư an vui cuộc sống mới đã gác bút. Một số ít thì chỉ sáng tác cầm chừng hay làm chủ nhật báo, tuần báo, tạp chí... Riêng Lệ, Trần Vấn Lệ thì hầu như vẫn miệt mài làm thơ mỗi ngày. Quả đúng như lời anh đã tâm sự với tôi. Trần Vấn Lệ vẫn yêu thơ vì thơ là linh hồn, là nhịp sống là hơi thở của anh. Ngày nào máu vẫn luân lưu trong tim, trong cơ thể, Trần Vấn Lệ vẫn còn hăng say sáng tác, và con tằm sinh trưởng ở vùng ngoại ô Phan Thiết ấy vẫn còn tiếp tục nhả tơ cho đời và có thể để giãi trừ giải tỏa phần nào niềm u hoài, khắc khoải trong anh.
Phan Bá Thụy Dương
Trước khi Luật Báo Chí ra đời năm 72, lúc tôi còn viết feuilleton và phụ trách vài trang VHNT, Văn Nghệ Quân Đội, anh Tường Linh [TL] đã trao cho tôi đọc mấy bài thơ của Trần Vấn Lệ mà anh khen hay và cho biết người này gốc “xứ nước mắm, biển mặn” như tôi. Tôi hỏi anh TL có phải tác giả này là một bút hiệu khác của anh Thế Viên hay Kiều Thệ Thủy chăng. Hoặc giả là của Tôn Thất Trâm [Thi Thi/Đài Nguyên Vu] vì trong lớp bấy giờ trong khi tôi, Trần Thiện Thanh, Lê Văn Nghê, Lê Văn Trung, Bùi Minh Ngọc, Lê Bá Hùng chơi đàn giây, thổi sáo, tiêu, hoặc hát cho ban nhạc của vợ chồng “nhạc sĩ mù”, trình diễn cuối tuần trong khu công viên chateau d’eau Phan thiết - giúp Ty Thanh Niên và gia đình Phật tử - thì vào năm đệ ngũ Tôn Thất Trâm và anh tôi là Phan Bá Thuần Hậu [Anh Thuần/Phóng Viên Kính Trắng] đã khởi sự “giở chứng” mần thơ “tán gái”. Thơ của hai me xừ oắt con “mắc dịch” này thì luôn chứa chan khổ lụy, ướt đẫm tình sầu. Còn Bùi Thanh Minh, Bùi Nhật Huy, Nguyễn Thanh Liêm, Huỳnh Ngọc Hùng, Trần Thiện Trung, Phan Đổng Lý, Nguyễn Thượng Huyền, Huỳnh Tấn Thời, Tôn Thất Quý … thì y như bầy thú dữ luôn tìm cách vào sân banh nhà trường hay sân vận động Phan thành để phá phách, “đá cẳng” bạn bè. Trần Vấn Lệ thì lúc nào cũng ngoan hiền và chỉ lặng lẽ theo dõi các cuộc vui.
Anh Tường Linh nói rằng anh không rõ, anh chỉ nghe anh Tô Kiều Ngân [TKN] - người thay thế cố thi sĩ Đinh Hùng chăm sóc chương trình thi ca Tao Đàn, nói như vậy khi giao bài để anh chọn, phổ biến. Hỏi thêm các anh Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Thu Minh, Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang Hà Huy Hà, Hoài Thương, những người phụ trách việc tuyển chọn, giới thiệu thơ cho các báo lúc bấy giờ, thì họ cũng chẳng biết gì hơn . Bởi lúc đó Trần Vấn Lệ đang ở Đà Lạt và tên anh tương đối còn hơi mới mẻ đối với giới văn nghệ, làm báo tại Sàigòn.
Bạn học cũ bấy giờ lưu lạc khắp nơi. Kẻ vào quân ngũ, người về dạy lại trường xưa.
Hỏi thăm vài bạn đồng môn đang làm việc tại Sài Gòn thì cũng chẳng ai biết rằng anh học sinh chất phác, hiền hòa năm nào nay chẳng những đã làm thi sĩ mà còn dám gởi một tập bản thảo mỏng - bất hợp lệ - về dự thi giải sáng tác VHNT của tổng thống VNCH [Giải Văn Chương Toàn Quốc] để tranh tài với các “kiện tướng” đã có nhiều tác phẩm ấn hành như Trần Tuấn Kiệt, Trần Dạ Từ, Du Tử Lê…
Khi Luật Báo Chí ban hành năm 1972, tôi ngưng viết hẳn, nên thắc mắc trên cũng lắng chìm. Mãi đến năm 2005 sau hơn 5 năm tự cho phép mình về hưu, trôi nổi đó đây, ngao du Âu Á, tôi “ngứa nghề” bỏ tiền ra hợp tác, cứu sống một tạp chí đang “ngất ngư” theo lời đề nghị, kêu gọi của một số thân hữu cũ ở VN và hải ngoại mà Trần Vấn Lệ thường xuyên gởi bài. Nhờ nguyên do này cùng sự xác nhận của Nguyễn Tân Dân, Bùi Thanh Minh tại San José và Bùi Nhật Huy ở Falls Church - VA, tôi mới nhận ra người mà tôi tìm hỏi hơn 35 năm trước là người bạn ít năng động ngày xưa của xóm vắng Xuân Phong. Tôi chỉ còn biết tự trách trí nhớ kém cõi của mình. Vào lúc này tôi gặp chưởng môn Hà Thượng Nhân thì tiên sinh cho biết ông là người duy nhất trong ban giám khảo đề nghị hội đồng thông qua, hợp thức hóa để tác phẩm nhỏ bé kia có thể được cứu xét, chấm điểm. Thiểu số phục tùng đa số, nên tập bản thảo của bạn tôi đã bị loại. Thấy uổng tiên sinh đã trao những bài thơ này lại cho anh em quen biết tùy nghi sử dụng.
Trần Vấn Lệ sang Mỹ theo diện H.O và hiện cư ngụ tại Los Angeles. Mỗi cuối tuần đều chạy về quận Cam để hội ngộ, tửu đàm, nhàn đàm cùng bằng hữu. Tính tình Lệ vẫn trầm mặc, ít nói như thủa nào.
Cho tới nay, Trần Vấn Lệ đã có hơn 30 thi phẩm ấn hành. Một số do anh xuất bản, một số do những người ái mộ thực hiện mà anh còn nhớ được:
bay về đâu đó ở quê hương ▪ hồn tan trong thơ ▪ nắng rớt vườn xuân ▪ gửi em một đóa hoa hồng ▪ ta nhớ người xa cách núi sông ▪ trăm năm để lại ▪ nếu bước chân ngà có mỏi ▪ từ lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng ▪ may mà có em đời còn dễ thương ▪ mấy ai biết mình sống ▪ một thời trong trang thơ ▪ nói thầm với thơ ▪ áo dài em trắng bay trong gió nón lá bài thơ chuyện của chàng ▪ con trao trảo bờ ao bay đi buồn lẳng lặng ▪ hình như từ trong chiêm bao ▪ chiều bên sông đứng trông làn khói…
Tháng vừa rồi anh lại cho ra đời thêm một ấn phẩm thi ca mới: Trưa Buồn Bát Ngát Con Sông do họa sĩ Dương Ngọc Sum tại Westminster vẽ bìa.
Thơ Trần Vấn Lệ, vì thường viết liên tục nên có nhiều bài mới nhìn qua, người không rành chia nhịp, ngắt câu, có thể ngỡ anh làm thơ biền ngẫu, văn xuôi [poèm en prose]. Thí dụ một số bài tiêu biểu tôi giới thiệu dưới đây: Tùy Bút: Ngũ Ngôn, Đói Lòng Ăn Nửa Chén Cơm: Lục Bát, Mãi Mãi Sông Hương Nước Một Dòng: Thất Ngôn, Cúi Lậy Trời Cao, Gieo Gió: Bát Ngôn... thỉnh thoảng phá thể - chứ không phải hợp thể, một đôi câu thêm bớt chữ cho câu tròn ý hoặc để nhấn mạnh, truyền đạt nguồn cảm xúc. Xin hãy đọc qua một số thi phẩm của Lệ:
◙ Tùy Bút
Mấy hôm nay thật buồn. Buổi mai chim không hót. Trời mùa đông rét ngọt. Và mưa. Mưa bay. Bay... Mùa đông trong vòng tay, nhìn, mà thương, thương quá. Không còn gì nói nữa, những gì muốn nói thêm, giống như sợi tóc mềm nằm ngoan trên vầng trán. Người ta thấy chút nắng rơi hồn nhiên trong thơ... Ðó là một cơn mơ, kể không dài đến nỗi đưa người ta lạc lối về một chỗ xa xăm.
Lắng nghe mưa nói thầm chuyện ngàn năm kim cổ. Tôi bỗng nghe nhơ nhớ hơi rượu nào rất xưa qua những bàn tay đưa ấm nồng mùi khói đạn. Thời chiến chinh lãng mạn, nhớ lắm những nụ cười, mi với tao đang ngồi biết đâu lát nằm xuống bên gốc tre, bờ ruộng, thì cũng là... thời gian!
Ôi ba mươi ba năm! Tôi ngồi nhìn mưa rụng. Âm vang từng tiếng súng, vòng tay ôm mùa đông. Mưa vương vương mênh mông trên cành cây không lá. Buổi mai không gì nữa, cả tiếng chim bình minh! Tôi thảng thốt thấy mình cô đơn bao giờ vậy? Cái rét hay lửa cháy đốt hết bình minh xanh? Những tàu chuối mong manh cuộn tròn dòng nước mắt. Ruột gan nào không thắt hỡi Quê Hương xa xôi?
Hãy vỗ lên vai tôi hỡi những người khuất mặt! Tôi muốn mình đừng mất những tiếng chim ngày xưa, những buổi sáng không mưa, khu rừng thưa nắng rọi...
◙ Đói Lòng Ăn Nửa Chén Cơm
Nhiều khi muốn nói, lại ngừng Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, nghĩa gì? Vẫn là một cái vòng xoay Vẫn là trời, đất, bên này, bên kia Nếu trời có một, không chia! Nếu đất muôn dặm, đường về là đâu? Này em, tay hãy kê đầu Nhắm con mắt lại, quên màu thời gian...
Thời gian, xanh, đỏ, tím, vàng... Bao nhiêu màu cũng trong làn khói sương! Có người từng hỏi Quê Hương Cũng con người đó đáp buồn...mây bay! Từng con chim hạc bỏ bầy Trời xanh, mây trắng chan đầy thơ thơ... Đó là chuyện của ngày xưa Đó là chuyện của bây giờ, giống nhau!
Nhiều khi chẳng nói câu nào Lạ thay lau lách bên rào cứ vang Em ơi buồn chẳng muộn màng Cái vui chớp mắt đã tàn lửa rơm! Đói lòng ăn nửa chén cơm Uống lưng bát nước rồi ôm bóng mình Chiến Tranh, sau đó Hòa Bình. Tóc mai mấy sợi, ta hình dung em! Một lần tôi ngước mặt lên Em ơi sông núi đang nguyền rũa ai?
◙ Mãi Mãi Sông Hương Nước Một Dòng
Vẫn chảy kia em, chảy chẳng dừng. Sông Hương là Huế, nhớ là thương. Tại sao anh chẳng là Vua nhỉ, khi nhớ khi thương núi Ngự nằm? Tại sao em lại là mây nhỉ bay mãi trên đầu anh Nước Non? Anh nhắm mắt mơ mình ở Huế nghe sông Hương khóc sóng leo bờ, nghe cau Vỹ Dạ rung rinh lá, nghe rất êm tai những tiếng hò. Ôi Huế Huế thương và Huế nhớ ngàn năm ly biệt được trời ơi! Máu anh có lúc rồi ngưng chảy, mừng nhé sông Hương nước một dòng, em có thành tro hay cát bụi thì mưa tháng Chạp còn rưng rưng...
Em à em ạ em ơi Huế, ai khiến lòng anh đắm đuối mình? Ai khiến gặp em tan buổi học, tóc thề vai áo, dáng xinh xinh...Hồi nao tiếng súng vang vang dội nát hết tình ai những khối tình, còn chỉ sông Hương là khối nhớ, còn nguyên núi Ngự nắng bình minh! Còn anh từng bước đi lầm lũi đạp giẫm lên từng vũng máu khô. Tổ Quốc mênh mông không một chỗ, sông Hương thương quá lại hai bờ! Em trên bờ Bắc qua Nam học, Đại Nội nằm trong nón lá tình. Tình tứ tình tang tình bất tận, tình bao la tới núi rừng xanh!
Hồi xưa hồi xửa hồi xa lắm, xa lắm bây giờ em ở đâu? Anh biết chứ em, lòng đất lạnh, tro tàn nhang tắt, cõi Thiên Thu. Hỡi ơi một dãi sông Hương đó chảy mãi chảy hoài trong mắt anh! Muốn nói ghét em mà ghét được, tương tư không kể ngói trên đình!
◙ Cúi Lậy Trời Cao
Buổi sáng. Buổi trưa. Buổi chiều. Buổi tối. Chưa buổi nào mình quên gọi nhau! Em cuối chân mây, anh đầu ngọn ba đào, nghe chút gió cũng muốn trào nước mắt! Bao nhiêu năm chỉ một lần xa cách mà thiên thu không lẽ đã an bài? Hẹn. Hẹn hoài, không thấy một ngày mai, chỉ thấy sáng, thấy trưa, thấy chiều, thấy tối...
Nhiều lúc nghĩ: Chắc thời gian lạc lối, nên tháng ngày là lịch gió bay bay...Lá mùa Xuân xanh biếc đậu trên cây. Lá mùa Thu vàng mơ rơi xuống đất. Mùa Hạ ơi, nắng hồng chi chất ngất? Mùa Đông à, mưa bão tại vì sao? Trái đất xoay, thời tiết đổi ào ào. Mình, hai đứa, cứ đầu non, cuối biển!
Có nhiều lúc tôi làm thơ tê điếng, như lúc này, tôi mới gọi tên ai. Những câu thơ, tôi viết nối thành bài rồi tôi đốt thả ra ngoài muôn dặm. Thơ tôi đó...Không ai cầm, ai nắm. Chỉ em nhìn mây xám mỗi hoàng hôn. Tôi nhớ em từng ngõ ngách tâm hồn. Em nhớ tôi từng lối mòn đất nước...
Những con đường hai đứa từng chung bước, bây chừ răng? Có đau gót chân em? Hãy xuống bến sông Hương và vả nước cho mềm, cho anh ướt những bài thơ mai mốt...Nếu tới lúc không còn ai thưa thốt, cúi lây Trời xóa bỏ chữ Tang Thương! Con rất thèm nhìn lại nắng Quê Hương, nhưng lúc đó hai mắt mòn, con khép...
◙ Gieo Gió
Tôi gieo gió sang nhà em buổi sáng, cả buổi trưa, buổi xế buổi chiều. Nếu gió trời làm cây cối ngã xiêu mà em lạ, bình yên như diều cao vút! Tôi gieo gió sang nhà em tối mực, gió nói gì em có nghe không? Em ở đâu, trong một góc căn phòng, hay đang đứng ở hành lang đón gió?
Nếu gió trời làm cho hoa, cho cỏ phải tiêu điều như buổi chợ vừa tan. Gió của tôi sao chẳng động lòng nàng? Tôi chờ đợi một tờ thư, không thấy! Tôi gieo gió sang nhà em Thứ Bảy. Chúa Nhật, em, vẫn đi lễ nhà thờ! Bão mô hè? Tôi gặt những câu thơ thời con nít, tôi làm cho em, làm lại!
Em đi nhà thờ, em làm người con gái, rất hiền ngoan, quỳ kia, ôm hai tay. Tôi, con trai, nên phải đứng bên này, tôi ôm gió, thả ở đây, Chúa phạt! Tôi gieo gió hay gieo buồn ngơ ngác? Yêu người ta chi vậy, gió lang thang? Gió hình như...không đến cửa nhà nàng? Tôi nghe lạnh như trong tâm bão!
Ôi gió ơi hãy bay giùm tà áo, hãy bay giùm chút tóc mai kia, vắn, dài, thương ngàn nỗi phân chia mà mãi mãi không lìa câu dấu ái Ai bảo em được sinh làm con gái để tôi thề chê hết thảy giai nhân! Nếu em đừng tôi gặp một ngày Xuân, gió đâu đến nỗi nào thê thiết vậy! Tôi gieo gió sang nhà cho em thấy, em nhìn gì không thấy gió tôi bay?
Thơ anh nhẹ, rất nhẹ nhàng như hơi thở liên tục, như những sợi nắng chiều buông lơi trên kẻ lá, cành sen, phảng phất màu sắc hoài niệm u ẩn, hoài tình. Đó là những tiếng lòng chân ái, và tha thiết, nồng nàn. Đó cũng là những dấu ấn kỷ niệm, những lời kể lể, tự sự ngọt ngào hoặc đôi khi bởn cợt thân thiết với người yêu dấu hay bằng hữu cùng những hệ lụy, vấn nạn nhân sinh, thời thế... vương mang nỗi niềm hoài nhớ quê hương, tình yêu cũ.
Thơ Trần Vấn Lệ cấu trúc chặt chẽ, âm vận chuẩn mực, êm đềm đầy nhạc tính và biết khéo léo tận dụng để lồng hay đặt “deep images” vào những chỗ đắc địa để làm nổi bật những hình ảnh vấn vương trong tâm tư anh. Lời thơ có lúc thánh thoát, chập chờn, réo rắc như tiếng hạ uy cầm, hay tiếng sáo chiều trên các cánh đồng mênh mông... có lúc trôi nổi, trầm buồn, nhàn nhã như những phím dương cầm được trình tấu bằng những ngón tay điêu luyện trong các thính đường ấm cúng.
Dù được ký dưới bút hiệu nào, dù được trình bày dưới thể loại nào tựu trung những vần thơ đó vẫn đồng qui, mang một tính chất dịu ngọt, êm đềm, vẫn cùng một thi pháp vững vàng cùng các thi ngữ, thi ảnh phổ quát bình dị, gần gũi. Không có sự gọt dũa, sáng tạo trong ngôn ngữ thi ca nhưng dưới ngòi bút đầy tình của Lệ những hình ảnh thông thường kia như được tiếp hơi trở nên sinh động, đáng yêu và nên thơ. Và thơ của Trần Vấn Lệ mãi mãi là của riêng Trần Vấn Lệ: Chuyên biệt, lôi cuốn, không bị ràng buộc hay chịu ảnh hưởng của bất cứ người làm thơ nào dù họ đi trước hay đang cùng đi trên con đường thi-ca-viễn-mộng như anh.
Trong những cuộc điện đàm, gặp gở mới đây, con người trầm mặc, nhiều tư duy, dường như mang chút ít bất mãn thời thế ấy thường nhắc nhở với tôi về thời thiếu niên, về bằng hữu xưa, ngôi trường cũ... với giọng bùi ngùi, đầy xúc động, chân tình. Một trong những điện thư anh tâm sự: “Tôi làm thơ...vì không có công việc nào để làm dài hạn! Thơ trở thành hơi thở. Hết thơ...là chết.”
Trong số anh em thân thiết của tôi – những người đã từng viết văn làm thơ trước 75 đến nay nhiều người sau khi định cư an vui cuộc sống mới đã gác bút. Một số ít thì chỉ sáng tác cầm chừng hay làm chủ nhật báo, tuần báo, tạp chí... Riêng Lệ, Trần Vấn Lệ thì hầu như vẫn miệt mài làm thơ mỗi ngày. Quả đúng như lời anh đã tâm sự với tôi. Trần Vấn Lệ vẫn yêu thơ vì thơ là linh hồn, là nhịp sống là hơi thở của anh. Ngày nào máu vẫn luân lưu trong tim, trong cơ thể, Trần Vấn Lệ vẫn còn hăng say sáng tác, và con tằm sinh trưởng ở vùng ngoại ô Phan Thiết ấy vẫn còn tiếp tục nhả tơ cho đời và có thể để giãi trừ giải tỏa phần nào niềm u hoài, khắc khoải trong anh.
Phan Bá Thụy Dương