văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Showing posts with label giới thiệu sách. Show all posts
Showing posts with label giới thiệu sách. Show all posts

Saturday, April 27, 2013

Thanh Phong * Phan Xuân Sinh ra mắt tập thơ “Tát Cạn Đời Sông”



Add caption

WESTMINSTER - Từ Houston, Texas nhà thơ Phan Xuân Sinh đến Viện Việt Học ở số 15355 Brookhurst, Suite 222,City Westminster và ra mắt đồng hương Nam California tập thơ “Tát Cạn Đời Sông” vào chiều ngày Chủ Nhật 21-4-2013.

Saturday, April 20, 2013

Vườn Tao Ngộ * Giới thiệu sách

VTN vừa nhận được 2 thi tập:
1/ Tát Cạn Đời Sông của Phan Xuân Sinh


2/ Forget Me Not của Trần Vấn Lệ:



Tát Cạn Đời Sống sẽ ra mắt tại Viện Việt Học, Westminster, vào lúc 1 giờ trưa ngày 21 tháng 4, theo thư mời dưới đây:

Xin chân thành cám ơn 2 thi hữu và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

PBTD


Thursday, February 28, 2013

Lương Thư Trung * Nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm: một thời khai phá và những người đồng hành

-Tên thật : Ngô Tấn Thiền
-Sinh ngày 12/08/1944 tại Châu Đốc (Thất Sơn- Nam Việt)
-Tốt nghiệp Đại Học Dược Khoa Sài Gòn.
-Thơ văn được giới thiệu trên nhiều tạp chí văn chương trong và ngoài nước.
-Đã xuất bản riêng 14 tác phẩm, không kể có mặt trong hơn 40 tác phẩm chung với bạn hữu.
-Chủ trương tạp chí và nhà xuất bản Khai Phá trước 1975.
-Hiện đang sống và viết tại Thư trang Quang Hạnh, Sài Gòn.

Thursday, January 31, 2013

PHAN TẤN HẢI * GIỚI THIỆU SÁCH ‘VĂN HÓA GÌ ?’ CỦA TRẦN VĂN GIANG


Đó là một cuốn sách nên tìm đọc, nên lưu giữ. Không chỉ vì Trần Văn Giang là một người viết có tài, nhưng cũng vì không mấy ai trình bày sắc bén được như tác giả về một “nền văn hóa” đa dạng như thế ở quê nhà: đó là văn hóa chạy, văn hóa tham nhũng, văn hóa ru ngủ,  văn hóa cầm nhầm, văn hóa đaí đường, văn hóa ăn nhậu, văn hóa con nhái, văn hóa nói nhảm, văn hóa rọ mõm, văn hóa răn đe, văn hóa thích hàng ngoại... Và tận cùng, là câu hỏi “văn hóa gì” trong khi quê nhà đã bị nhà nước xã hội chủ nghĩa bóp cho méo tới không còn bao nhiêu hình dạng truyền thống.

Tuyển tập 21 bài viết, dày 340 trang tuy chủ đề về những nét “văn hóa kinh dị XHCN,” mang tới những tràng cười vì độc giả sẽ không chịu nổi những “văn hóa đảng bát nháo” với Lại Văn Sâm phiên dịch kiểu trật chìa, và cả những phẩn nộ khi thâý một quê hương đã biến đổi tàn hoại, nhưng cũng đầy những giây phút bùì ngùi khi đọc về những ngôi làng trong đó thiếu nữ Việt rủ nhau lấy chồng ngoại, và cả những thâm tình xúc động  khi đọc lời tác giả viết tặng các con nhân Ngày Phụ Thân.

Hãy xem Trần Văn Giang khắc họa về một xã hội ở quê nhà:

"Văn hóa con nhái: Khuyến khích dân tranh nhau phá các kỷ lục ruồi bu (để được ghi trong sách kỷ lục thế giới – world records / Guiness book): nồi phở to nhất thế giới, bánh chưng, bánh dầy to nhất thế giới, áo dài dài nhất thế giới, bình hoa lớn nhất thế giới, lá cờ lớn nhất thế giới… tốn 4 tỉ đô la để tổ chức 1000 năm Thăng long… toàn những cái to nhất, dài nhất, cao nhất, khủng nhất, hãi nhất… không hề giúp ích mảy may gì cho việc thăng tiến đời sống của dân.  Trong khi các vấn đề quan trọng cấp bách hơn như giao thông bế tắc, thiếu cơ sở phương tiện y tế tối thiểu, thiếu trường học, môi sinh bị hủy diệt, thiếu nước sạch để uống, thực phẩm nhiễm độc đủ loại… là chuyện mà dân được toàn quyền “tự lo"”  Đảng còn đang bận tiếp đối tác thương mại, tổ chức đại hội đảng, đề cử đại biểu để dân tha hồ lựa chọn, tuyển lựa hoa hậu…" (Cuốn "Văn Hóa Gì," trang 9)

Hay là chuyện Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết nói nhảm và rồi một sếp lớn khác ra điều kiện vòng ngực khi cấp bằng lái xe gắn máy cho phụ nữ, trích:

“Đứng đầu danh sách nói nhảm phải kể chủ tịch nhà nước kiêm danh hài Nguyễn Minh Triết lùn. 
Câu nói bất hủ của Triết lùn trước quan viên thông tín quốc tế ở Havana, Cuba là:

“Cu ba ngủ thì Cu ta thức!”...(...)


...Tuy nhiên lời của đ/c Trần Quý Tường nổi bật hơn lời của Triết lùn bởi vì nó quàng theo cái “lô gíc” thâm thúy, cái “tư duy” khoa học phân tách theo biện chứng Mác-Lê của con người cộng sản.  Đó là câu:

“Người có vòng đo ngực trung bình dưới 72 cm không được cấp bằng lái hạng A1, tức cũng không được đi xe trên 50 cc.”...”(Trang 32 và 37)

Nhưng vẫn có những chỗ tác giả Trần Văn Giang không sử dụng ngôn ngữ giễu cợt, thí dụ như khi ông nói nghiêm túc về chuyện ông Hồ Chí Minh dựa trên biên khảo của sử gia Sophie Judge-Quinn để nói rằng ông Hồ đã “cầm nhầm” bút hiệu “Nguyễn Ái Quốc” của LS Phan Văn Trường năm 1919, vì ông Hồ không đủ trình độ viết Pháp ngữ như thế (xem trang 93).

Và cũng rất mực nghiêm túc khi tác giả Trần Văn Giang đề nghị chữa bệnh nói ngọng đang trở thành dịch ở nhiều phần đất nước, trích:

"Muốn chữa nói ngọng thì phải nói cho chậm rãi để có thời giờ nghĩ và chỉnh các âm sai. Thầy giáo và bạn bè thân thiết có thể giúp đỡ rất hữu hiệu trong việc nhận diện các âm sai và sửa sai. Quan trọng nhất là sự kiên tâm, chịu khó luyện tập lâu dài. Ở Mỹ có những chuyên viên về sửa chỉnh ngôn ngữ (Speech Therapist / Speech Therapy) được đào tạo đặc biệt để giúp các công dân Mỹ có vấn đề phát âm Anh Ngữ như ngọng, cà lăm. Các tay chơi thể thao nổi tiếng như Bill Walton (basketball), Bo Jackson (football) bị cà lăm rất nặng khi họ mới xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn từ của các đài truyền hình thể thao phát hình các trận đấu giữa các trường đại học hoặc thể thao chuyên nghiệp. Thế mà chỉ sau một thời gian ngắn, nhìn thấy rõ là họ đã có thể trở thành người ăn bình thường, trôi chẩy khi họ đảm nhận các vai trò phân tích thể thao (sport analysts) cho truyền hình Mỹ trong các trận đấu..."(trang 114)

Hay khi tác giả Trần Văn Giang ngậm ngùi nhìn lại một thời nội chiến và rồi bây giờ, và chỉ nói là “rất buồn” mà vẫn không nỡ nặng lời với những kẻ “nối giáo cho VC,” trích:

"Có những “cựu” cảm tình viên cs, “hùa” viên cs (loại này rất đông đảo – Họ hầu như mù tịt về cs nhưng lại thích làm dáng cs; lọai “Nếu là chim tôi sẽ là bồ câu trắng / Nếu là hoa tôi sẽ là hoa hướng dương / Nếu là người tôi sẽ là người cộng sản…  Người quốc gia cỡ phó thường dân thôi cũng hiểu là cs không phải là bồ câu trắng; và cs cũng chẳng có ưa gì hoa hướng dương, hoa hướng âm gì ráo trọi!) thích và mơ tưởng thiên đường bánh vẽ cs; ăn cơm quốc gia thờ ma cs.  Đám đông này trước đây rất ồn áo, đã từng nhẩy múa điên cuồng theo nhịp đập trống bịp bợm của cs rồi bây giờ rất buồn; đành phải im lặng vì cái thực tế cs quá bẽ bàng làm họ không thể nói và làm gì hơn để biện minh cho cái sự kiện “bé cái lầm” của mình..." (Trang 119).

Nhưng tuyệt vời là hình ảnh những người mẹ, những người cha được kể lại trong tuyển tập của Trần Văn Giang. Trong đó tác giả kể về mẹ của ông trong bài viết nhân Ngày Lễ Mẹ 2011:

"Mẹ là tình cảm dạt dào, là sự hy sinh vô bờ bến cho các con qua bao ngày tháng.Con có thể quên đi thù hận, ân huệ, hạnh phúc, bất hạnh, đói khát? của cuộc đời; nhưng con không thể quên Mẹ.  Bởi vì Mẹ là biểu tượng của gia đình, của tổ tiên giòng họ, của lịch sử, của dân tộc? là tất cả những gì quý giá nhất của con. Mẹ là sự kiên nhẫn, là bài học của sự chịu đựng, của sự hy sinh. Mẹ là nguồn an ủi khi con thất vọng, là sự nâng đỡ khi con vấp ngã, thất bại..." (Trang 208).

Và trong một bài do Trần Văn Giang sưu tầm kể về lòng hy sinh của người cha muốn con mình tiếp tục đi học, qua bài “Lá Thư Sai Chính Tả,” trích:

“...Thầy ngừng đọc, nhìn cả lớp:

- Các em, thầy sẽ viết lại nguyên văn lá thư của ba bạn Dũng lên bảng cho chúng ta cùng đọc.

Một chuyện lạ! Tất cả chúng tôi hồi hộp tò mò từng chữ hiện ra dưới tay thầy.

"Con iu thươn của ba. Chìu hôm qua ba kiu người báng con heo đễ có tiềng gưởi cho con con nhớ nhà khôn? Cã nhà nhớ con nhìu lấm cố họch nge chừn nào mùa màn song ba má xẻ ra thăm con".

Lá thư vọn vẹn có 45 chữ.

Khi thầy quay lại thì Dũng đã úp mặt xuống bàn, hai vai run run. Mắt thầy cũng hoe đỏ.

Cả lớp im phăng phắc trước lá thư đầy lỗi chính tả trên bảng, lá thư yêu thương và gởi gấm của một người cha vốn chỉ quen với cày cuốc lần đầu cầm bút viết thư cho con.”
(Trang 335).

Thế đấy, những tràng cười, và những giọt nước mắt đã trải đều trên các trang giấy của tuyển tập “Văn Hóa Gì” của Trần Văn Giang.

Sách gồm có 21 bài, dầy 340 trang.  Tác giả Trần Văn Giang lần lượt mô tả cái văn hóa “lạ” mà csvn đang dùng để dần dà tiêu diệt nền văn hóa nhân bản dân tộc Việt Nam mà tiền nhân đã gầy dựng trên 4000 năm.

Nội dung gồm các bài: 1)-Văn hóa gì? 2)-Ngàn năm Thăng Long. 3)-Văn hóa nói nhảm. 4)-Con cháu các cụ. 5)-Văn hóa con nhái. 6)-Văn hóa cầm nhầm. 7)-Văn hóa ngọng. 8)-30 tháng 4. 9)-Tội ác và xã hội chủ nghĩa. 10)-Từ Nọc Nạn đến Cống Rộc. 11)-Khóc thi đua. 12)-Lậm Văn Sai. 13)-Người thợ mỏ Chí Lợi. 14)-Tiên sư bố. 15)-Huy chương chì. 16)-Tình cha. 17)-Mẹ tôi. 18)-Năm Thìn nói chuyện Rồng. 19)-Chân dung người phụ nữ Viêt Nam qua lịch sử. 20)-Nói tiếng Mễ. 21)-Lá thư sai chính tả (st).

Đây là một tác phẩm cần có trong mọi tủ sách của những người quan tâm về văn hóa Việt Nam.


Phan Tấn Hải

Monday, October 29, 2012

giới thiệu sách * Người Đồng Hành Quanh Tôi, Tập IV


NXB Thanh Niên vừa giới thiệu bộ sách nghiên cứu phê bình TÁC GIẢ TÁC PHẨM NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI, tập IV của nhà thơ NGÔ NGUYÊN NGHIỄM.

Sách dày 1000 trang giới thiệu 32 văn nghệ sĩ trong và ngoài nước: LÂM ANH- PHẠM TƯỜNG BÁ - HỒNG BĂNG - NGUYỄN TĂNG BÌNH - LÂM HẢO DŨNG - PHẠM NHÃ DỰ - THẾ ĐỆ - NGUYỄN VĂN HẦU - DƯƠNG TRỮ LA - NGUYỄN TÔN NHAN - NGUYỄN NHI - TRỌNG NGHĨA - TRUNG NGUYÊN - JACQUESPOTIER - VŨ TRỌNG QUANG - NGUYỄN LANG QUÂN - NGUYỄN LÊ LA SƠN - TRẦN VĂN SƠN - HOÀNG ANH TÂM - SA VŨ - PHẠM YẾN ANH - PHẠM THƯỜNG GIA - NGUYỄN BÁ KHANH - HỒ VIỆT KHUÊ - UYÊN LINH - HỒ DUY NGỮ - JOSEPH HUỲNH VĂN - TÔ NHƯỢC CHÂU - LÊ QUANG ĐÔNG - LÊ THANH MY - TRẦN YÊN THẢO - KINH DƯƠNG VƯƠNG.

Tác phẩm được sự chung tay của các nghệ sĩ, điêu khắc gia, nhiếp ảnh gia, họa sĩ như: HỒ HỮU THỦ, CAO BÁ MINH, RỪNG, LÊ TRIỀU ĐIỂN, TRƯƠNG THANH VÂN, HÀ CẨM TÂM, LƯU NHỮ THỤY, TRẦN ĐẠI, CHÓE, NGUYỄN TRỌNG KHÔI, VŨ UYÊN GIANG, CÙ NGUYỄN, ƯU ĐÀM, PHÚ THẢO, THÁI VĂN SƠN, NGUYỄN TÍN TRUNG, NGUYỄN BẠCH DƯƠNG....

Bộ sách TÁC GIẢ TÁC PHẨM NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI đã ra mắt được 4 quyển dày trên 1000 trang với sự cật lực của tác giả và sự liên tay chân tình của anh em văn nghệ đồng hành. Gây được nhiều dư luận đồng tình trong giới văn nghệ.

Trân trọng giới thiệu với đọc giả yêu thích văn học nghệ thuật.

MINH NGUYỄN VÀ BẰNG HỮU

Wednesday, July 4, 2012

Đặng Tiến * Mùa biển động tập 5 của Nguyễn Mộng Giác



Mùa biển động tập 5, Tha hương là tập cuối, dày nhất, hơn 600 trang, quan trọng nhất và được độc giả mong đợi, để biết số phận nhân vật sẽ ra sao, qua cuộc «đổi đời» tháng 4-1975.
Sự kiện dồn dập, xen kẽ vào nhau, gồm năm chuyển động chính:
Quân lực VNCH «rút lui chiến thuật» ra khỏi Cao nguyên và vùng Trị Thiên (chương 124-142)

Những ngày cuối cùng của chế độ VNCH trong âu lo, sợ hãi, chuyện di tản, những người chiến đấu tuyệt vọng đến khi chính quyền Sài Gòn hoàn toàn sụp đổ (chương 143-155)

Sau ngày 30-4-1975: các nhân vật chính, Ngữ, Lãng, Tường… lần lượt trở về, kẻ thoát chết từ phía này, kẻ chiến thắng từ phía kia, họ gặp lại gia đình, vợ con, bạn bè (chương 156-161).

Đời sống Sài Gòn dưới chế độ mới. Tác giả dành một phần quan trọng cho sinh hoạt văn nghệ (chương 161-166) và phần khác cho những dị biệt, va chạm về tư tưởng, thái độ chính trị giữa các nhân vật, nhất là khi Ngô từ Hà Nội bỏ nhiệm vụ về Sài Gòn (chương 167-173).

Đời sống dân chúng Sài Gòn chiếm trọn phần cuối: những khó khăn tinh thần, vật chất của người dân, chủ yếu là những gia đình có thân nhân đi học tập cải tạo; sự biến chất, chao đảo của một số cán bộ cộng sản, như Tám Lúa, Ngô, Mười Chí…

Vào trang cuối, Ngữ vượt biên, bị chủ bãi bỏ lại, bị bắn chết (chương 174-186).

 Tác giả có thêm mười hai trang giải bày tâm sự trong «lời cuối cho một bộ trường thiên»

Năm phần nói trên xòe ra và gắn bó như năm ngón tay trên một bàn tay; Tha hương là một cuốn tiểu thuyết hay, hấp dẫn, linh động. Nếu xem Tha hương là một ngón tay, ngón út của Mùa biển động, lại càng lý thú hơn, vì tác giả đã tháo gỡ nhẹ nhàng những mối tơ rối rắm, từ Những đợt sóng ngầm.

Phần đầu, mô tả chuyện lính VNCH tháo chạy khỏi vùng II và vùng I chiến thật, là phần dài nhất và dở nhất. Về hai cuộc rút quân này, Nguyễn Mộng Giác dựa theo cuốn Ngày N của Hoàng Khởi Phong, một cựu sĩ quan quân cảnh ở Pleiku, và cuốn Tháng ba gãy súng của Cao Xuân Huy, cựu sĩ quan thủy quân lục chiến đóng tại Trị Thiên, dĩ nhiên là với sự đồng tình của hai tác giả. «Có thể nói rằng Cao Xuân Huy và Hoàng Khởi Phong là đồng tác giả với tôi trong hai đoạn viết về cuộc rút lui trên liên tỉnh lộ 7 và cuộc tan hàng ở Thừa Thiên năm 1975 » (tr.1859).

Dù sao, viết theo tác phẩm người khác, vừa được ấn hành, vẫn là một việc không nên, gây ra một tiền lệ phiền phức. Nguyễn Mộng Giác giải thích: «Tôi thiếu những kiến thức và kinh nghiệm cụ thể về quân sự […]. Mỗi lần viết về chiến tranh là ngòi bút tôi trở nên gập ngừng, lúng túng.» (tr.1858). Lý do chính có lẽ còn vượt xa lời tâm sự và trường hợp cá nhân Nguyễn Mộng Giác. Văn chương Việt Nam, ở đâu cũng vậy, vẫn có những khu rừng cấm. Nguyễn Mộng Giác không viết về chiến tranh vì không có «con tem», chỉ vậy thôi.

Mười sáu chương đầu mang nhiều tư liệu chiến sự, và có giá trị lịch sử nhất định, nhưng trong cơ cấu tiểu thuyết Mùa biển động thì lạc lõng. Tác giả cố gắng cho nhân vật của mình lăn lộn với biến cố, nhưng họ vẫn là những hình bóng mờ nhạt: trong cuộc tháo chạy bi đát trên liên tỉnh  lộ 7B, trung úy Ngữ không làm được gì, chỉ nhìn và triết lý vụn vặt, lẩn thẩn. Trong cuộc rã ngũ tại Huế, Lãng vẫn còn khôn vặt, chuồi cho sếp mình nắm tiền và khẩu súng lục, nhưng chẳng có hành động gì – ngoài việc luộc một con chó mà luộc không chín. Suốt non hai trăm trang, nhân vật chính là đại úy Vinh, trung úy Huy – ngoại cuộc trong thế giới Mùa biển động.

Khi mô tả không khí Sài Gòn trước giờ chính quyền tan rã, ngòi bút Nguyễn Mộng Giác, lúc đầu còn lúng túng, nhạt loãng, nhưng dần dần tìm lại được mạch văn: ông phớt lờ những biến cố lịch sử, ví dụ ông chỉ viết một dòng, một dòng thôi, nhắc lại «lúc 11 giờ 55 bộ đội đã chiếm dinh Độc Lập» (tr.1512). Ngược lại, ông đã dành nhiều tâm tình để làm sống lại không khí thành phố, tâm trạng người dân thuộc nhiều hoàn cảnh khác nhau.

Bút pháp Nguyễn Mộng Giác luôn luôn chừng mực. Ông thuyết phục người đọc bằng những chuyện vừa phải, đáng tin, mà vẫn bi đát: ví dụ chuyện bà trung tá Thanh ăn cắp mắm sả của Quỳnh Trang là một đoạn văn cảm động (tr.1733).  Văn Nguyễn Mộng Giác đặc biệt ở chỗ dí dỏm (humour), u mặc nhẹ nhàng, không cay chua, không độc ác, nhưng thâm trầm.Như đoạn Quỳnh Trang chuẩn bị cho chồng đi học tập cải tạo. «Đây là cái túi vải em may để anh dùng pha cà phê. Cái gói này là hộp tăm em đã luộc chín để khử vi trùng. Tăm tre tụi Chợ Lớn làm ở đường Tản Đà, em có tới, họ làm cẩu thả, dơ dáy lắm, mình dùng tăm dơ xỉa răng mà không biết.» (tr.1633). Lối hóm hỉnh kiểu ăng-lê này, trước kia thỉnh thoảng có gặp trong văn Nhất Linh, càng về sau càng hiếm. Văn chương ngày này thường chuộng dao chuộng búa, chắc ăn hơn.

Về số phận nhân vật, Nguyễn Mộng Giác giải quyết ổn thỏa, công bình. Nhân vật Mùa biển động, tuy đông đảo, phức tạp, truân chuyên, nhưng không có ai xấu, họ đều ở hiền, gặp lành: đây là một nét đặc biệt trong phong cách Nguyễn Mộng Giác. Người Việt Nam suốt trong hai mươi năm Mùa biển động đã sống bao nhiêu đọa đày, khổ nhục, giá dụ ai cũng được số phận của nhân vật Nguyễn Mộng Giác thì đỡ quá. Muốn bàn cãi, người đọc vẫn có thể bàn cãi về một số kết cuộc: tại sao đại úy Thường, một người công giáo có lý tưởng, lại tự vẫn; động cơ nào đưa Mười Chí vượt biên; tại sao Ngô lại bất mãn, đào nhiệm. Và cái chết của Ngữ có cần thiết không, nhất là Ngữ chết… lẹ quá, chỉ trong mấy dòng, và chết lãng xẹt; người đọc cho rằng tác giả cho Ngữ chết lẹ cho xong chuyện vì … lười. Chưa chắc đã sai.

Những sự kiện tiểu thuyết, do tác giả tưởng tượng, ta có thể thích hay không thích, vẫn thuộc quyền sinh sát của tác giả. Điều chính và hay, là Nguyễn Mộng Giác đã mô tả được đời sống thành phố Sài Gòn những năm 1975-80. Có gian khổ, đọa đày, lam lũ, nhưng đến một mức nào đó. Nguyễn Mộng Giác gây được cảm tình lâu dài của người đọc nhờ sự chừng mực và công bình của ngòi bút. Nhưng từ đó, người đọc có thể đặt ra một đôi vấn đề với tác giả.

Nhân vật Mùa biển động, dù là nhân vật phụ, phiá bên này hay bên kia, đều là những người thất bại. Nguyễn Mộng Giác giải quyết định mệnh của họ theo xu hướng tự nhiên, nhưng cuối cùng cũng nhận ra điều đó, và đúc kết là đã cố gắng «ghi lại tâm tình của thế hệ tôi, thế hệ lớn lên đã bị cuốn vào chiến tranh, rồi cũng bị chiến tranh vùi dập» (tr.1851), «cái thế hệ thất bại của lớp tuổi tôi » (trang cuối).

Về mặt tiểu thuyết, Nguyễn Mộng Giác đã thành công trong dụng ý, trên những …thất bại của một lứa tuổi nào đó – nói rõ hơn là của một lớp thanh niên trí thức trung lưu ở thành thị miền Nam.

Nhưng bản thân tác giả có nên tự mình nêu vấn đề để hướng dẫn người đọc hay không? Và nêu lên có đúng không? Tôi trả lời hai lần không.

Trước hết, thành công hay thất bại, trong một đời người, chỉ là những cảm giác chủ quan, tương đối. Nói chi đến một thế hệ? Có kẻ được xem thành công vì toại nguyện trong cuộc sống, hoặc có địa vị nào đó trong xã hội, có kẻ thành tài, thành danh hoặc … thành nhân. Những nhân vật chính của Mùa biển động cho ta cảm giác là họ đồng tình thất bại. Lý do không phải chỉ có việc «thế hệ», mà họ là những con người thiếu nghị lực, không biết mình muốn gì nên không đi đến cùng định mệnh. Lấy Ngữ và Tường làm ví dụ.

Ngữ, nhân vật chính được tác giả o bế nhất, là một sĩ quan suốt đời hầu cận, hết vin vào ông tá này thì dựa vào ông tá kia, hết tá rồi lại bám vào một ông đại úy, và trong những giai đoạn căng thẳng nhất trên chiến trường, Ngữ không có hành động nào xuất sắc. Mang danh là nhà văn, Ngữ không viết lách gì, cũng không tỏ được tiết tháo của người cầm bút. Mọi việc trong đời sống đều nhờ vào tay vợ; sau khi học tập vài ba năm, thì được vợ mua sẵn cho một khu vườn đất đỏ ở Bảo Chánh, gần ga xe lửa đường Xuân Lộc, nhưng không thấy Ngữ cày cuốc bao nhiêu, chỉ thấy chàng cà phê, thuốc lá, ngâm thơ Đường, thơ Tống, thỉnh thoảng làm tình với cô Diễm, khi người yêu cũ ghé qua, rồi để lại «mùi da thịt trên nếp chăn […]sợi tóc mảnh trên gối, […] thỏi son Elizabeth Arden còn bỏ quên» (tr.1791). Chán làm rẫy thì về lại thành phố, có đạp xích lô, có vá bánh xe đạp… nhưng vẫn nhờ vợ buôn bán sau lưng và cô em gái ở Mỹ gửi quà về. Lúc vượt biên là do vợ và người tình thu xếp, còn Ngữ chỉ « chuẩn bị ra đi một cách khác, lãng đãng tài tử » (tr.1834). Nguyễn Mộng Giác có ý thức chỗ yếu của Ngữ nên đã rào đón: «Ngữ không thuộc vào thiểu số những người có cá tính liều lĩnh, mạnh bạo, dám bước ra ngoài luật lệ, dám chấp nhận thử thách […] để trở thành những kẻ làm lịch sử. Trong thiểu số đó, chắc chắn rất nhiều người thất bại, nhưng cuối cùng một số ít sẽ thành công […] Ngữ thuộc vào đa số những người bình thường và tầm thường, bị hoàn cảnh đưa đẩy nên phải gắng chịu đựng để sống còn, lặn trong đám đông vô danh, vui buồn theo những vui buồn vụn vặt từng ngày từng giờ. Cái đám đông ấy cũng cố gắng tìm ra một thứ triết lý để biện minh cho cái tầm thường thụ động của mình.» (tr.1734).

Nguyễn Mộng Giác thấy đúng quá. Nhưng đã thấy vậy rồi, sao lại còn đặt ra chuyện thất bại và thành công, và khái quát thành một «thế hệ thất bại», trong một xã hội mà những giá trị tinh thần thường xuyên bị đảo lộn?

Nói rằng Ngữ – và thế hệ – thất bại vì không có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam sau ngày 30-4-1975 và họ cảm giác «bẽ bàng lơ láo như sống tha hương» (tr.1829), thì cũng được. Nhưng thực ra là lúc đó họ bị đàn áp, miệt thị, khai trừ, đày đọa. Chế độ mới có cho họ cái cơ hội nào để sống bình thường đâu mà nói chuyện thất bại với thành công?

Cuối cùng, nói rằng Ngữ đã thất bại vì thua trận là gán cho cuộc đời quân ngũ của Ngữ một nội dung chính trị – điều mà Nguyễn Mộng Giác không làm suốt 2 000 trang giấy. Mà dù có chấp nhận lập luận này, vẫn không thể nói đến «một thế hệ thất bại». Giá dụ « thế hệ» ấy thành công, thì sẽ thành công ra sao? «Nếu miền Nam đứng được năm năm nữa, qua vài nhân vật đã giới thiệu trong cuốn bốn. Lớp người đó mà nắm được quyền thì miền Nam chưa đến nỗi.» (
*). Chưa đến nỗi, là chưa đến nỗi … nào?

Nhân vật chính «phiá bên kia» là Tường. Bị cuốn hút vào cơn bão lửa chính trị đã đốt cháy miền Trung vào những năm 1963-66, Tường «nhảy núi» – cùng với nhiều thanh niên khác –, để lại một bào thai trong bụng người yêu, cô Nam, em Ngữ. Tường về lại Huế trong cuộc tổng công kích Mậu Thân, 1968, chỉ còn là một hình bóng co ro, mờ nhạt, sợ sệt; và còn nhếch nhác hơn nữa khi trở về Sài Gòn, năm 1975, làm cán bộ thành đoàn, rồi xin sang tuyên huấn. Tường chỉ hùng hồn với bạn bè, hùng hổ với cha mẹ, còn với cán bộ quyền uy thì nín khe, sẵn sàng viết bài chửi bới anh em cũ. Con người quỵ lụy, trái với hình ảnh hào hùng thuở nắm micrô trước các giảng đường đại học, biểu tình, hội thảo, xem thường xe tăng, lựu đạn. Với vợ con, Tường cũng hững hờ, chắp vá, vì lý nhiều hơn vì tình. Bất mãn, thất vọng với chính quyền, Tường cho bé Thúy, đứa con gái mười tuổi – giọt máu của cách mạng hiểu theo cái nghĩa lãng mạn nhất – vượt biển để sang sống nhờ em gái là Quỳnh Như, lấy chồng Mỹ, được liệt vào hạng CIA. Sự chọn lựa này, và những hậu quả hiển nhiên, chứng tỏ Tường không còn tin tưởng vào chế độ mà mình đã xây dựng và phục vụ. Cho rằng Tường «thất bại» là đúng, nhưng Tường không tiêu biểu được cho «thế hệ thất bại». Có lần hỏi Ngữ, «Tường tức giận, nói như quát: «Vậy mày muốn cái gì?» Một lần nữa, họ đi vào lối cụt.» (tr.244). Đoạn cuối, đáng lẽ Tường cũng nên tự vấn mình muốn gì. Muốn đất nước được giải phóng, thống nhất, hòa bình, trong chế độ xã hội chủ nghĩa ư? Tường đã xả thân và hy sinh cho vợ con, cho lý tưởng đó, bây giờ, đã đến bờ, đến bến, còn thở dài than vắn gì nữa? Chế độ của Tường nay không đáp ứng hoài bão của Tường, hoặc cho anh một địa vị anh nghĩ rằng không xứng đáng, thì là tâm sự của Tường, không phải là thất bại hay thành công của thế hệ.

Những «đồng chí» của Tường đều mang chung một niềm u uất: Ngô đang làm đài phát thanh Hà Nội, đào nhiệm, vào Sài Gòn sống bụi đời; Mười Chí, đảng viên cốt cán, vượt biển. Còn lại Năm Được, có chức mà không có quyền… Nguyễn Mộng Giác đã gợi ra được một xã hội đang tan rã, «tha hương trên quê hương», từ những cán bộ nòng cốt, chiến thắng và nắm quyền đến người dân vô danh, muôn đời làm nạn nhân cho thời cuộc; chúng ta hiểu tâm sự Nguyễn Mộng Giác khi ông nói đến «tâm tình của một thế hệ […], cái thế hệ thất bại». Chúng ta, thế hệ nào cũng vậy thôi, đều thất bại khi cảm thấy mình không đóng góp gì được cho một đất nước rách nát, đau thương mà mình yêu mến. Mặc cảm thất bại còn thấm thía hơn nữa với những người phải sống xa đất nước. Tôi hiểu tác giả, nhưng vẫn muốn được bàn lại, để nói rằng Mùa biển động chỉ là một mảnh nhỏ của thời cuộc.

Một vấn đề, nhỏ thôi, làm tôi suy nghĩ, về mặt tâm cảm: nhân vật Mùa biển động, thôi thì cứ nhận phức là bạn của Nguyễn Mộng Giác, và của cả tôi nữa, đã thất bại về mặt xã hội. Họ còn thất bại về mặt mưu cầu hạnh phúc. Những chàng tuổi trẻ ấy, dường như không ai thực sự có hạnh phúc, vì họ không có khả năng yêu đương đến nơi đến chốn. Vàng của họ chưa bao giờ thử lửa đến nồng độ của tình yêu. Đừng nói gì đến Tường, trong cơn cuồng say chính trị, đã đẩy người yêu đến chỗ tự thiêu; hãy lấy Ngữ làm ví dụ.

Anh chàng này đào hoa, được cả vợ, Quỳnh Trang, và Diễm, người tình, yêu tha thiết. Ngữ ái ân với Diễm, trước khi nàng lấy chồng, có con với Diễm, mà…mười năm sau vẫn không biết (tr.1548), khi vẫn tiếp tục ái ân. Chưa hết. Đây là cách chàng yêu vợ: «Giữa lúc ta lắng nghe xúc cảm càng lúc càng cao trên từng thớ thịt làn da, thì nghe Trang khóc. Ban đầu ta tưởng nàng rên rỉ vì cảm khoái.» (tr.1786). Có thể đây là lối hóm hỉnh của tác giả, nhưng nó đã đưa nhân vật đi quá xa.

Cô Nam lấy chồng cán bộ, cô Diễm lấy chồng giàu, đều không hạnh phúc. Cô Quỳnh Trang, nếu được bình an, thì là sức chịu đựng và cố làm ngơ. Thậm chí cô Quỳnh Như, lấy chồng Mỹ cũng hẩm hiu. Sao vậy?
Nguyễn Mộng Giác thuộc một thế hệ thanh niên đã đánh mất đóa hoa hồng cài trên mũ. Đã xa rồi thời của chàng Siêu chầm chậm lau bàn chân cô Mùi trong Xóm Cầu Mới của Nhất Linh, thời của chàng Triệu một buổi trưa thong thả của Nhất Linh, thong thả đu đưa trên võng, thỉnh thoảng nắm tay cô Dung trong Nguyên vẹn của Võ Phiến.

Nhân vật Mùa biển động là lớp người khi thì chạy giặc, khi thì chữa cháy. Họ ít chú tâm vào hạnh phúc.
Về mặt xã hội, người đọc cũng có thắc mắc. Trong ba gia đình người Huế, ông bà Văn, ông bà Thanh Tuyến và ông bà Bỗng làm tam giác để Nguyễn Mộng Giác đặt trọng tâm cho Mùa biển động, thì gia đình ông bà Bỗng, với ba người con Ngô, Ngọc và cô Diễm là ít được tình cảm nhất và đồng thời là gia đình nghèo nhất.
Trong các cô gái Huế thướt tha dọc Mùa biển động, Diễm là người đàn bà tội lỗi nhất. Diễm lấy chồng giàu chỉ vì tiền, và trước đám cưới đã cẩn thận trao thân cho người tình, và có thai. Lấy chồng rồi, cô đi lại với ông nọ, ông kia để buôn bán, đồng thời xướng ngôn cho đài Mẹ Việt Nam của Mỹ tuyên truyền chống cộng, và vì những nguồn lợi khác. Sau ngày 30-4-1975, Diễm vẫn tiếp tục móc nối với cán bộ, buôn bán vật tư, bị bỏ tù. Giữa hai chuyến áp phe, nàng ghé lại làm tình với Ngữ. Cuối cùng, nàng tổ chức vượt biên để lấy tiền, và vượt biên. Động cơ đầu tiên là nghèo: «Em không muốn con cái em phải khổ, phải nhục như em vì nghèo đói.» (tr.1433). Diễm có quyền chọn cuộc đời mình. Còn Ngọc, anh cô? Học xong y khoa, Ngọc lấy vợ giàu, mua mấy tiệm thuốc Tây ở Sài Gòn, sang Mỹ có đứa cháu ruột (con Diễm) cũng bỏ rơi… Còn ông Bỗng, bà Bỗng, thậm chí đến Ngô đều là những nhân vật xoàng. Cái khó nó bó cái đẹp chăng? Hỏi như vậy là có phần oan cho Nguyễn Mộng Giác, vì trong thâm tâm, ông không đặt vấn đề như thế: Diễm là nhân vật được tác giả âu yếm, nuông chiều nhất, và có lẽ là nhân vật đạt nhất trong Mùa biển động, linh động, đa dạng và sắc sảo nhất. Các cụ bảo «con chiều là con hư», cũng phải.

Mùa biển động, tiểu thuyết thời đại, vắng bóng đa số quần chúng, số dân nghèo gồm những kẻ buôn thúng bán bưng, những công nhân và khối nông dân. Hình ảnh Việt Nam trong Mùa biển động không có «lũy tre còm tả tơi» như trong nhạc Phạm Duy, không có «bóng cau với con thuyền một dòng sông» như trong Văn Cao. Nguyễn Mộng Giác kể chuyện đô thị, nhưng chúng ta không thấy bóng hằng chục triệu người tránh chiến tranh trôi dạt về thành phố. Tác giả biết chỗ yếu của mình nên có lần chống chế:  «Mình chỉ thỏa mái khi nói, nghĩ, viết đối với một giới nào đó thôi […]. Quả tình tôi chỉ thấy thỏa mái trong giới tôi biết rõ cho nên không dám viết về nông dân, về quần chúng lao động. Bởi vì nếu viết về họ cũng chỉ là viết gượng mà thôi.» (*). Chúng ta quý trọng sự lương thiện ấy, nhưng muốn hỏi lại ông: khi vẽ lại tâm tình một thời đại, mà ông không viết về đa số người nghèo, vì không thỏa mái; không viết về chiến tranh, vì không sành quân sự, không viết về người cộng sản chính hiệu, mà chưa giải thích tại sao, thì bức tranh thời đại của ông có sơ lược chăng? Mùa biển động là một bữa tiệc lớn, mà chủ nhân chỉ lưu ý nến nước ngọt và các món tráng mệng, Nguyễn Mộng Giác lại giải thích là muốn «viết về những người tầm thường, như chính tôi… Họ là đám đông góp phần lớn vào các biến chuyển của lịch sử, nhưng họ chưa đáng được nhắc tới, dù là một dòng […]. Thế thì tôi phải chú tâm đến đám đa số thiếu tiếng nói.» (tr.1855). Những Ngữ, Tường mà thiếu tiếng nói ư? Hay là ở thính đường nào, lớp học nào, micrô nào, tờ báo nào, quần chúng cũng phải nghe họ ra rả ít nhất là trong mười năm? Họ lên đường, xuống đường, xây dựng nông thôn, chỉnh trang quận 8, tâm ca để nối vòng tay lớn, du ca để tiếng hát át tiếng bom, nghe họ đến đinh tai nhức óc, sao bảo không có tiếng nói? Còn lịch sử, thì họ viết chứ ai viết nữa?

Quần chúng thật sự trầm lặng không được lời nói, tiếng thở dài nào trong cơn xôn xao vô tận của Mùa biển động. Về người nông dân những năm 1970, Nguyễn Mộng Giác còn những câu như «anh nhà quê lúng ta lúng túng đứng xớ rớ cho các quan trên sai vặt» (tr.1069). Nhất Linh viết một câu về Hai Lẫm mà bị mang tiếng cả đời, ông Giác không nhớ sao? Trong suốt nửa thế kỷ, người nông dân đã có những đóng góp lớn lao cho lịch sử, điều này đã rõ. Nhưng Nguyễn Mộng Giác lại bảo: «Họ nắm chính quyền, và cái mộng được làm lý tưởng, trương tuần họ giấu kín bao nhiêu đời, bây giờ họ nắm «giấc mộng» ấy trong tay. Cộng sản thuyết phục được dân quê nghèo khổ vì cái tham vọng quyền lực bị ẩn ức đời đời kiếp kiếp ấy.» (tr.1079).
Những câu đại ngôn như thế, may thay, ít có trong sách, và chúng ta không nên dựa vào đó mà phê phán Nguyễn Mộng Giác.

Tôi xin chỉ góp ý với tác giả về hai chi tiết nhỏ:
Vụ bầu cử, khoảng 1970, tại «xã Nhơn Mỹ, thuộc loại xôi đậu», «tổ chức hội đồng xã thật dân chủ» (tr.1137), nhưng kết quả là mấy ông dưới thành phố đắc cử: «ông chủ tiệm chạp phô gốc Hoa trốn lính, ông y sỹ quân y mở phòng mạch tư hốt bạc» (tr.1138). Chuyện đó có thể có thật, nhưng chỉ là một ví dụ đơn lẻ. Từ thời cải lương hương chính rất xa xôi, 1920, 1930… tại một số thôn xã Trung kỳ và Bắc kỳ đã có bầu cử, tranh cử, tranh chấp, có nơi đã bầu dân chủ; và sau này, người dân quê đã biết vào dân vệ cầm súng chống cộng hay đào hầm nuôi cán bộ, thì nhất định là họ biết sử dụng lá phiếu. Vì tác giả đánh giá thấp nông thôn nên mới để «ông Thường tuyệt vọng vì cái thực tế không chối cãi được này » (tr.1158). Nói chung, Nguyễn Mộng Giác, nếu có sai lầm, là do hời hợt về chính trị, chứ không phải vì quan điểm.

Ở đoạn cuối, ông nhấn mạnh vào các nhân vật đảng viên như Mười Chí, Năm Được, nhắc lại vai trò của họ trong phong trào sinh viên tranh đấu tại Huế khoảng 1963-68. Điều này, trong hai tập đầu, rất hay và sôi nổi, ông không đề cập đến. Ông muốn điều chỉnh đạn đạo? Có nên không? Vai trò của Đảng cộng sản trong giai đoạn này, cho đến nay, vẫn chưa được sáng tỏ. Trong hồi ký Đất nước vào xuân, tướng Lê Chưởng, chính ủy thời đó, cho rằng thanh niên sinh viên thất bại vì không được nông thôn yểm trợ; trong hồi ký Huế Xuân 1968, tướng Lê Minh, tư lệnh mặt trận lúc đó, cho rằng sinh viên học sinh không có lực lượng đặc công. Hai ý kiến này gặp nhau một điểm: Đảng cộng sản lúc đó (có lẽ?) không quyết tâm ủng hộ cuộc tranh đấu của dân thành phố. Vì nông thôn là … ông Lê Chưởng nắm, còn đặc công thì … trong tay ông Lê Minh ! Về mặt tiểu thuyết, thà để lửng câu chuyện, còn hơn là gán cho phong trào tranh đấu miền Trung 1963-68 một cốt lõi chính trị không lấy gì làm bằng.

Tiểu thuyết, trước tiên, là nghệ thuật, giống như một bức tranh. Chỗ mạnh, chỗ yếu, nét đậm, nét nhạt bổ sung cho nhau, nuôi dưỡng nhau; không có chỗ yếu, thì không có chỗ mạnh; từ những nét đậm, gạt đi những nét nhạt, là phá bức tranh. Nguyễn Mộng Giác là một nhà văn sáng suốt, nên thấy trước hơn ai hết chỗ yếu của mình, «tôi chỉ mô tả được biến động xã hội trên bề mặt» (*). Mùa biển động mạnh ở hai điểm: lối kể chuyện linh hoạt, hấp dẫn, làm nổi bật tâm tình một thế hệ thanh niên trung bình, trưởng thành trong các đô thị niềm Nam vào những năm 1960. Đó là hai trục chính: truyện kể và tâm tình. Những thành tố khác – lịch sử, tư tưởng, hành văn… – chỉ xê dịch trên hai trục đó. Trích dẫn câu văn này, chi tiết nọ để khen hay chê, đều không khó, mà không đúng vì đưa những lưu điểm ra khỏi tọa độ thẩm mỹ của nó.

Mùa biển động là một sự cố quan trọng trong đời sống văn học Việt Nam, trong và ngoài nước. Trước hết là do bề thế lớn lao: bộ sách non hai ngàn trang, viết trong bảy năm (1982-89) trong hoàn cảnh khó khăn, trong tâm trạng chưa chìm lắng của một thuyền nhân vượt biển. Non hai trăm  chương sách mà không có chương nào non yếu hoặc xu thời, nịnh thị hiếu.

Thứ đến là nghệ thuật: Nguyễn Mộng Giác có lối viết nhanh nhẹn, dễ dàng; cũng có câu dễ dãi, vội vàng, nhưng không độc hại gì mấy cho lối kể chuyện. Ngòi bút linh động phục vụ cho óc quan sát nhạy bén và nhận định tinh tế – có khi còn tinh quái. Từ chương này sang chương khác, ngòi bút có lúc thiếu sức, nhất là ở tập ba và tập bốn, nhưng nói chung không nhàm, không nhảm, thậm chí khi đọc lại vẫn thấy vui. Đóng góp lớn của Nguyễn Mộng Giác là đã đưa lối kể chuyện miền Nam – quay chung quanh số phận một nhân vật trung tâm – vào địa bàn của tiểu thuyết hiện đại, với nhiều tuyến nhân vật đông đảo trong một xã hội đảo điên. Khác với truyện Vân Tiên: đời Vân Tiên truân chuyên, nhưng xã hội Vân Tiên im lìm trong những giá trị tinh thần không biến chuyển.

Điều thứ ba, điều cuối cùng nâng cao giá trị tinh thần Mùa biển động là thái độ ung dung, thanh thoát của Nguyễn Mộng Giác. Ông là người vượt biển, với những động cơ nhất định, ông viết một pho sách về những năm 1963-80 khi miền Nam gập tràn máu lửa, mà ngòi bút ông không thù hận, không biểu dương, thậm chí không cay đắng. Dĩ nhiên là ông phải có cảm tình với nhân vật này, mỉa mai sự kiện kia, nhưng tình cảm nằm ngoài vòng ân oán, thành kiến và chính kiến. Thái độ ung dung ấy, có lẽ là do bản tánh tác giả, như ông đã có lần nói «tôi không hận thù đến độ viết tàn nhẫn» (*), nhưng có phần do tác giả biết tự chủ, ý thức được giá trị đạo đức của văn chương, nó nằm bên ngoài những tranh chấp và bên trên những mê chấp. Mùa biển động không có anh hùng, không có gian hùng và không có thị phi, chỉ có những con người tầm thường – trong đời sống tầm thường bị lich sử bẻ gãy, giày xéo.

Nguyễn Mộng Giác là một tác gia chừng mực, từ tốn. Quàng cho ông nhiều vòng hoa đạo đức, nghệ thuật thì có cái gì không chỉnh. Nhưng Mùa biển động là một trường hợp Việt Nam đáng được chúng ta suy nghĩ.
Những đợt sóng ngầm đã đưa bao nhiêu bèo giạt tha hương. Quê nhà đã quá xa xôi và pha phôi. Mùa biển động để lại trong tôi âm hao bài hát Jean Ferrat phổ nhạc Aragon: «une saison d’homme… entre deux marées… Quelque chose comme… un chant égaré… Au bout de mon âge… Qu’aurais-je trouvé…Vivre est un village… Où j’ai mal rêvé…»

Một mùa người…  giữa hai đợt sóng…
Có chút gì lạc lõng… như bài hát bơ vơ…
Tôi thấy được gì… khi tuổi chiều xế bóng…
Sống là một thôn làng…
Tôi lỗi mộng lầm mơ…


Đặng Tiến

Theo cáo phó của gia đình NMG thì nhà văn đã thất lộc ngày 2 tháng 7 năm 2012 tại Westminster - CA.

 

Monday, July 2, 2012

Mang Viên Long ◘ Tham Thâm, Lận Mạt Lấn Bán

        Chưa có nhà nghiên cứu văn học nào xác định rõ ràng dòng “văn học bình dân” ( văn chương truyền khẩu) đã được thiết lập - khởi đi từ tháng năm nào trong quá trình hình thành văn học Việt Nam. Tuy vậy – không ai có thể phủ nhận những giá trị thiết thực của dòng văn học này trong đời sống cộng đồng xã hội về nhiều lảnh vực. Tủ những tình cảm nhỏ hẹp là tình yêu lứa đôi, gia đình, dòng tộc  đến làng quê. đất nước;  (…) cho đến kinh nghiệm sinh hoạt, kinh nghiệm sống đời thường, đến nền  tảng đạo đức, luân lí,  tôn giáo (…) qua bao đời của tiến trình lập nước – dựng nước, đều đã dược dòng văn học truyền khẩu đề cập, phản ảnh trung thực -  rất phong phú và giá trị. Có thể nói – đây là “tấm gương” chân xác cho sự phát triển, đổi thay từ nếp sống đến tư tưởng, tình cảm  của dân tộc…
        Từ thuở nhỏ - tôi đã “bị” dòng văn chương bình dân  ( mà rất thâm thúy này) ảnh hưởng sâu sắc! Theo tháng năm – tôi đã dần dần được soi sáng, dẫn dắt thâm nhập vào kho tàng vô giá khổng lồ này để có thể tự rút ra một điều gì đó cho cuộc sống đa đoan của mình trong nhiều lảnh vực! Mỗi câu ca dao ( hay tục ngữ) – dường như là một sự đúc kết tinh tế lặng thầm qua bao tháng năm của nhiều thế hệ kế tiếp để trở thành những “viên ngọc quí” cho đời sống…Câu tục ngữ “ Tham Thâm, Lận Mạt – Lấn Bán” là một bài học đạo đức vô giá đã được tóm gọn trong 6 từ đơn giàn, dễ nhớ ( nhưng khó làm ?) biết bao!
           Tham – là “tham lam, vơ vét, chụp giựt” của người theo bản năng sinh tồn thấp kém  - không hề nghĩ đến người khác. Không cần biết “tiền tài & của cải” mình  thu được – có phương hại, tổn thương đến ai,  hay có phù hợp với căn bản đạo đức làm Người hay không?. Nói tóm, là không hề nghĩ đến cái “hậu quả” rất nguy hại cho mình (và cho người) chung quanh!
           Kinh nghiệm người xưa đã dạy: “ đã tham thì…ắt sẽ phải thâm”!
Thâm là “thâm vào. mất thêm đi” còn nhiều hơn cái mà mình đã “tham”; đã hao tốn công sức và thời gian đêm ngày suy tính kê sách để vơ vét, hay thực hiện cho kỳ được “lòng tham vô đáy” của mình! Chụp giưt của người một cách vô lí ( hay trái với pháp luật) không có chút đạo đức, ý thức như vậy - nhất định sẽ không bao giờ “lời” ( mà thâm là cái chắc). Giản dị là “tham” của người 10 triệu – thì chẳng bao lâu –  ắt sẽ phải “trả nợ”…15, 20 triệu ( hay nhiều hơn thế nữa) cho kẻ khác ( hay cho vụ việc khác)!  Đây là một quy trình công bằng và  chính xác của lý “nhân quả” mà nhà Phật đã khuyến dạy từ hơn 25 thế kỷ trước!
           Một chuyện nhỏ: Bà Tư mua được mảnh đất 100 mét vuông để xây nhà! Lúc làm móng nền – bà kêu thợ làm rộng thêm phía trước mặt đường vài tất. Rộng sang lô đất kế bên 0,5 tất tất. Nhà đang xây – nhân viên quy hoạch nhà đất đi đo đạt kiểm tra để làm đường – phát hiện ra tình trạng “tham” 2 tất nền nhà phía trước mặt tiền và 0,5 tất của lô đất kế bên của bà Tư. Họ ra lệnh đình chỉ xây dựng. Sau mấy ngày phải “hầu” ở các cơ quan ( và chạy đi thương lượng bồi thường cho chủ lô đất bên cạnh để khỏi bị khiếu nai)– rút cục, bà Tư phải nộp 2 triệu tiền phạt, 5 triệu tiền lấn chiếm và dở bỏ phần đã xây dựng “dư 2 tất đất của lòng lề đường” – mới được tiếp tục. Việc xây dựng đình trệ. Tốn thời gian, công sức “ chạy vạy” năn nỉ các nơi. và …”thâm” cũng khá nhiều!
           Lận – có nghĩa là “gian lận – làm việc không chính đáng, công bình, để thủ lợi riêng” – thì thế nào? Người xưa đã dạy: “ Lận thì mạt”!
Gian lận, làm điều phi pháp, không có lương tâm – thì trước sau gì đời mình ( và ngay cả đời con cháu mai sau) cũng sẽ “mạt”! Mạt –hay “mạt rệp” ( thường nói) – là không làm ăn nên nổi gì, không thể trở nên khấm khá hơn, và sẽ nhận cái “quả” nghèo khổ, gian nan suốt đời! Ở khu chợ BĐ, người ta thường nhắc kể cho nhau nghe về “lai lịch” của một gã thanh niên vóc dàng khôi ngô nhưng… khùng điên. làm điều xằng bậy, để kiếm ăn ( và các anh chị cũng đều ngớ ngẩn, nghéo đói ở quê) vì người cha  thuở trước cậy có chút kiến thức lý lẽ, chuyên làm đơn tranh kiện cho kẻ tham lam thế lực để hiếp đáp. “lấy không” nhiều của cải, ruộng vườn của bà con nghèo trong xã để đươc “chia phần” hậu hỉ bao năm!
           Và bài học cuối cùng của người xưa cũng không thể xem thường: “ Lấn thì bán”! Lấn – mà 1 trong 3 cái “túi tham” của con người thiếu suy xét, không có trái tim – chỉ nghĩ đến việc tóm thu. giành giựt về cho mình, càng nhiều. càng to – càng tốt; mà không phù hợp với đạo lý, lẽ phải trong đời sống. Lấn – là tìm cách “lấy phần hơn, giành phần hơn người” trong mọi giao tiếp, cư xử. Từ “lấn” ở đây –có nghĩa cụ thể chỉ về đất đai, nhà của, ruộng vườn. ( Ngày xưa – mối quan hệ tranh chấp đụng chạm nhiều nhất trong đời sống là đất đai. vì chưa có những “sở hữu”quý giá hơn ). Đã “lấn”  của người làm của mình – thì chắc chắn sẽ không được tồn tại lâu dài. Sẽ có nhiều “nhân duyên”mầu nhiệm bất ngờ xảy ra cho đời mình ( hay đời con cháu) – thì ngôi nhà, thửa vườn, đám ruộng kia (…) sẽ lọt vào tay người khác!
             Lúc còn ở quê – người láng giềng của tôi chờ người hàng xóm cạnh mình đi xa vài hôm – bèn kêu thợ đến dựng lên dãy hàng rào trụ đúc xi măng, rào kẽm gai. Lấn sang vườn nhả người bạn đến 1 mét! Trở về, phát hiện được –nhưng người bạn vẫn im lặng không thưa kiện gì.  Chỉ sau đó vài năm thôi – biến cố xảy đến cho người nọ - không thể ở lại được trong ngôi nhà có vườn rộng được rào ngăn cẩn thận. Ông ta đã phải bán căn nhà và khu đất đó đi. Và người mua – không ai khác, là người hàng xóm tốt bụng bị “lấn” đất thuở nào vậy!
            Nhìn lại quanh đời sông , chúng ta có thể nhận ra vô vàn trường hợp “ tham thâm, lận mạt, lấn bán” – (có nhiều hoàn cảnh đau lòng hơn thế nữa), nhưng đã có bao nhiêu người giữ được tấm lòng trong sáng, an tịnh – để tránh đi hậu quả đáng tiếc ây cho đời mình  và con cháu đời sau?
              Bài học của người xưa truyền lại đơn giản là vậy – từ bao thế kỷ rồi – chỉ trong 6 từ ngắn ngủi, nhưng sao vẫn mãi còn là vấn nạn. là thảm trạng cho bao cảnh đời bất hạnh, tối tăm?
MANG VIÊN LONG
                    

Wednesday, September 14, 2011

DU TỬ LÊ * Trần Hoài Thư, Truyện từ Bách Khoa.


Với 19 truyện ngắn đã được đăng tải trên tạp chí bách Khoa từ nhiều chục năm trước, ở quê nhà, tuyển tập “Trần Hoài Thư, Truyện Từ Bách Khoa” là một một ấn bản đặc biệt, giá trị của tủ sách Thư Ấn Quán, năm 2011.

Trong “Lời Mở” nhà văn Trần Hoài Thư viết:

“Tập Truyện Từ bách Khoa này gồm một số bài văn do chúng tôi may mắn sưu tầm được hay được bạn bè gởi tặng. Vẫn còn một số truyện khác chúng tôi chưa tìm ra. Hy vọng trong tương lai, chúng tôi sẽ tái bản và bổ túc đầy đủ hơn.

Tuesday, July 19, 2011

giới thiệu sách: tuyển tập thơ tường linh.

Nhà thơ Tường Linh vừa hoàn tất việc ấn loát "Thơ Tường Linh tuyển tập" vào hạ tuần tháng 7-2011 tại Saigon. Tập thơ được Nhà xuất bản Văn Học (Hà Nội) duyệt và cấp Quyết định cho ấn hành. Đây là tuyển tập cả đời thơ - ngót 60 năm cầm bút của TL do chính tác giả tự tuyển trong số hơn nghìn bài thơ của anh.

Tuyển tập thơ này dày 672 trang, gồm 396 bài và may mắn là không bị duyệt bỏ một bài hay một chữ nào. Hiện nay, nhà thơ đã 81 tuổi và chắc chắn "Thơ Tường Linh tuyển tập" là tác phẩm thi ca cuối cùng của anh, sau:
- Thơ Tập Làm Thuở Nhỏ [in thạch bản, Tam Kỳ 1950] – Mùa Di [in thạch bản, Bồng Sơn 1953] – Mùa Hoa Cải [Huế 1955] – Mây Cố Quận [nxb Tao Đàn, Saigon 1962] – Nghìn Khuya [ nxb Tao Đàn, Saigon 1965] – Thu Ơi Từ Đó [ nxb Tao Đàn, Saigon 1972] – Giọt Cổ Cầm [nxb Đà Nẳng 1998] – Về Hỏi Lại [nxb Đà Nẳng 2001].

Được biết, vì tài chính eo hẹp, nhà thơ Tường Linh chỉ in được một số lượng sách hạn chế nên anh không gửi bán rộng khắp qua hệ thống phát hành của các nhà sách. Muốn mua tuyển tập thơ “đồ sộ” này bạn đọc và các thân hữu gần xa có thể liên hệ với tác giả qua địa chỉ:

Ông Nguyễn Linh
72/6 Bạch Đằng (Phường 24) Quận Bình Thạnh - Saigon - Việt Nam
Tel: (08) 35112490

Nhận sách tại nhà riêng, dù mua hay tặng, trang đầu sách đều có chữ ký và triện son của tác giả Tường Linh.

Phan Bá Thụy Dương
Sau đây người viết xin giới thiệu trước một số bài tiêu biểu trong "Thơ Tường Linh tuyển tập".


Trường Xuân Tứ Tuyệt
 Nam quốc sơn hà Nam đế cư
 Lý Thường Kiệt 

Cả Tống triều run
Trước một bài tứ tuyệt
Thơ đắp lửa phòng tuyết sông Như Nguyệt
Vun cao sức cháy hoả thành
Nam quốc sơn hà” vòi vọi
Ba vần thơm ngát sử xanh

Người đã viết bốn câu trên giấy
Hay trên lá cờ, đốc kiếm, thanh tre…
Thì lực bút cũng chuyển thành sấm dậy
Mọi vùng đất trời, sông biển đều nghe

Người đã viết bôn câu bằng tiếng máu
Bằng hành khúc quân dân hợp tấu
Nung lửa quyết sinh lên ngọn biếc
Thành thơ
Lưỡi thép hùng văn
Dũng mãnh vô bờ !
Giặc cường bạo phải vứt cờ, xếp giáo
Tiếng thơ ngân dài phương cảo
Dài theo tuổi nước trường tồn
Mỗi nét sử hồng máu rực nét son
Tổ quốc trường xuân bài tứ tuyệt !
                                   
Mưa Hải Vân

Trở về thăm Huế xưa đây
Mùa thơ lỗi hẹn chiều mây Ngự Bình
Hành trang của chuyến hành trình
Vuông khăn ký ức gói tình mang theo
Sông Hàn tiễn. Gió sông reo
Xe tầm tã vượt mưa đèo Hải Vân
Gió xoay sóng biển thêm tầng
Rèm thương phía Huế hỏi phần ai buông ?
Hỏi mưa khó giải ngọn nguồn
Hỏi lòng ngại chạm vết buồn không tên
Mưa nhoà đỉnh dốc xe lên
Quán đèo thả khói lan nền chiều nghiêng
Chênh vênh suối toả băng triền
Tình phương ẩn tích vọng miền nhớ nhung
Mây đùn lợp kín không trung
Rừng run tiếp biển mịt mùng. Vẫn mưa…
                       
Hạt mưa

Chiêm bao tôi thấy
đời mình là hạt mưa
hạt mưa đơn côi
rơi hoài chưa tới đất

Hạt mưa rơi giữa vòm trời đang nắng
đất dậy hương mùa
bởi mai đầu xuân
sen giữa hạ
những đàn chim quen, chim lạ
bay ngược chiều, khác hướng thiên di

Giọt mưa lẻ loi
rơi hoài chưa tới đất
rơi mà như treo

Một dải ngân hà
lớp lớp phù vân
kia biển
nọ rừng…
những vật thể mông mênh như không có thật
giọt mưa chỉ dừng
khi mặt đất hiện vài tích tắc
cái dấu chấm hết tròn nhoè.

Sóng

Mãi mãi vỗ bờ
Đợt sau ùn đợt trước
Tiếng trùng dương đơn sơ

Rì rào cuồng điệu biển
Mong vô cùng dấu lặng rớt hồn ta
Mong vô cùng từ hướng mịt mù xa
Khoảnh khắc gió ngừng xôn xao biển sóng

Biển chiều tím
Biển càng cao sức vọng
Hoài công mong tiếng đáp bãi bờ
Vô tình len một ý thơ
Nói với sóng, với hồn ta trước biển
Cái đơn điệu bỗng gợi niềm xao xuyến
Thơ bâng khuâng
Sóng cắt tả tơi chiều.

Đẹp xưa

Em thuở ấy là hồng nhan tri kỷ
Không phải với ta mà với thơ ta
Chẳng hề có “sông Ngân” nào ngăn cách
Em cứ là chiếc bóng vạn trùng xa

Những phương danh thường là Hương, là Tuyết,
Cũng là Vân hay Thảo… rất diễm kiều
Ta chắc thế, dù không hề hạnh kiến
Cái Đẹp tìm cái Đẹp nối tin yêu

Trăng độc hành luôn cùng ta thao thức
Dòm qua song gác hàn sĩ đòi thơ
Và ngầm mách em cũng lừa giấc ngủ
Ngồi chong đèn đối cảm những dòng mơ…

Lưu nỗi nhớ không tên vào cõi nhớ
Một đời thơ đến với những đời người
Hãy thoả nguyện cả hai bờ viễn cách
Chân dung tình trẻ mãi tuổi đôi mươi.
( Trích “Thơ Tường Linh tuyển tập” )

Tuesday, May 17, 2011

VŨ ÁNH * Đọc “Lối Cũ Chẳng Sao Quên” của Bích Huyền





Những đoản khúc của người góa phụ can đảm này được cất lên cùng với tiếng thở dài và những dòng nước mắt lặng lẽ trong những đêm thanh vắng, của những ngày tháng cũ, và của cả những ngày tháng hiện tại. Tôi đã nghe những đoản khúc nhẹ nhàng ấy nhiều lần trên làn sóng phát thanh của Đài Văn Nghệ Truyền Thanh và sau này trên các luồng sóng của một vài đài phát thanh khác. Nhưng khi đọc lại Lối Cũ Chẳng Sao Quên của Bích Huyền mới thấy trọn vẹn được bối cảnh những tùy bút mà bà mô tả.

Một điều dễ hiểu: tôi, chúng tôi, cũng như chồng bà đã trải qua, đã sống trong những bối cảnh ấy.

Bởi vậy, những ngôn ngữ mà bà sử dụng trong mẩu ký ức nhẹ nhàng về cả một quãng đời đau khổ của bà chính là một nỗi dằn vặt đối với chúng tôi. Vâng, tại sao chúng tôi lại không giữ nổi một mảnh đất đáng giữ như vậy, để cho sau khi đã hòa bình rồi còn có những người trở thành goá phụ? Không những thế, biến cố và những biển dâu mà chúng tôi góp phần tạo nên, nó đã biến những người phụ nữ như Bích Huyền, cũng như hàng triệu phụ nữ Việt Nam khác phải nối thêm cuộc đời bằng một đoạn đường long đong, cay đắng.

Phu quân của Bích Huyền là một sĩ quan cấp tá, giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng trường Đại Học CTCT Đà Lạt, ông và nhiều sĩ quan khác, dù đau khổ trong bao nhiêu năm lưu đầy, dù kẻ chiến thắng để lên vai ông cũng như trên vai chúng tôi cái gánh trĩu nặng của thù hận, nhưng ông vẫn còn được chút hạnh phúc để mà vượt lên: còn người vợ. Tôi không có cái may mắn như Trung tá Nguyễn Quang Hưng và nhiều sĩ quan khác. Nhưng nghĩ cho cùng, thì, cũng chính vì không có được cái hạnh phúc cần thiết ấy mà tôi hiểu được vai trò của người vợ quan trọng như thế nào trong cảnh hoạn nạn của chúng tôi. Khi còn mũ cao áo dài, có thể ít người nhìn ra những vị trí quan trọng của phụ nữ trong cuộc đời mình. Nhưng khi rơi xuống vực thẳm, mới thấy cái cần thiết của lòng chung thuỷ.

Tôi đã trải qua một câu chuyện cảm động và cho tới bây giờ tôi vẫn chưa quên được người bạn ấy. Anh là một Tiểu Đoàn Trưởng, suốt cả một đời trận mạc, không tơ hào của ai một đồng. Lương lính tháng nào xào tháng ấy, cho nên gia đình đã gần như khánh kiệt ngay sau khi Cộng quân chiếm được thành phố Huế. Tôi gặp lại anh vào năm 1985, trong một trại tù khác nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh. Người vợ lặn lội từ Huế vào để thăm chồng. Quà cáp, chỉ là một vài gói cám rang trộn gừng và đường cùng một gói thuốc. Khi gặp nhau ở nhà thăm nuôi, hai vợ chồng chỉ ngồi nhìn nhau trong nước mắt…

Tôi hỏi anh, thì được trả lời: “Tao không thể nói được gì, dù tao rất muốn nói để xin lỗi vợ tao là chúng mình chưa chiến đấu hết mình nên đến nay nàng mới khổ. Mày biết không, một nách bốn đứa con, vợ tao làm sao sống nổi trong cái thành phố ấy.”

Những lúc như thế, tôi biết rằng bạn tôi nói thật. Người bạn đời của bạn tôi, vẫn sống được để đón người lính trở về. Nhưng người phụ nữ can đảm ấy chỉ được hưởng hạnh phúc còn sót lại đúng ba tháng trời trong cơn đau đớn của chứng ung thư. Rồi qua đời, rồi đem đi trái tim đã tan vỡ trong lòng người lính già nay đang định cư tại vùng hoang dã phía Bắc Minnesota.

Tôi không biện bạch cho chúng tôi trong thời kỳ đen tối ấy, thời kỳ mà cho đến nay, 25 năm đã qua, tôi cũng muốn quên đi để làm được những chuyện khác, nhưng nó vẫn như một vết thương , lúc nào cũng chỉ chực sưng tấy lên mỗi khi nhớ tới. Bởi vậy Lối Cũ Chẳng Sao Quên của Bích Huyền, là một tập hợp của nhiều đoản khúc góp lại thành một bi hùng ca của giới phụ nữ trong những năm tháng đen tối và vỡ vụn sau 30/4. Trường ca ấy, Bích Huyền không phải chỉ viết cho riêng bà, viết cho người con gái duy nhất của bà, Nguyễn Quang Diễm Uyển, mà cho biết bao nhiêu người phụ nữ đồng cảnh với bà trong những năm tháng khốn đốn, thay chồng nuôi con, gánh bớt cho chồng bao nhiêu nhọc nhằn.

Nuôi con. Vâng, hai từ ngữ đó là một âm điệu cổ điển từ ngàn xưa, thời mà chốn nhân gian hay hát những khúc hát nhẹ nhàng và thấm đượm của lòng từ mẫu. Cái khó khăn của công việc này cũng chỉ giản dị như cách diễn tả một trạng thái tự nhiên, không nói ra, không hát lên những điệu ru bên chiếc nôi đong đưa, người ta cũng biết, cũng hiểu. Nhưng nuôi con ở giai đoạn sau 30/4/1975 đã trở thành những thử thách. Người phụ nữ có chồng bị đẩy vào những trại tập trung không những phải gánh chịu những mỉa mai, trì siết của cuộc đổi đời cay đắng, mà còn gặp phải những khó khăn sập xuống từ lòng thù hận, khi họ chưa bao giờ biết buôn chui bán lậu,phải lăn lưng xuống đường phố buôn lậu bán chui, chưa bao giờ biết nói dối cũng phải nói dối, để cố bơi qua một dòng sông đầy những rác rến của một xã hội tan hoang, dối trá và lừa đảo. Trên dòng sông ây, có người phụ nữ vượt thoát được và cũng không thiếu những người phải buông trôi …

Nhưng cũng chẳng có người phụ nữ nào đáng trách trong hoàn cảnh ấy. Bởi vì, những khúc bi hùng tráng mà họ hát lên không phải là những biến khúc của sự tuẫn tiết, cũng không phải là những ngày tháng hào hùng của những nhân vật lịch sử như Trưng Triệu, mà đó là những biến khúc của sự nhẫn nại, khôn ngoan, chịu đựng trước những sóng gió khi không còn người đàn ông trong nhà.

“Trong gió bụi, tôi vẫn nhìn thấy một đôi mắt đẹp…”. Hình như Ernest Hemingway viết câu văn này khi mô tả những phụ nữ Tây Ban Nha bị kẹt giữa cái không khí đậm đặc oán thù của thời kỳ hậu nội chiến, tôi thấy thấm hơn là câu “Thân gái dặm trường”. Cái thấm hơn đó, không phải là do hình ảnh mà Hemingway đưa ra lãng mạn hơn, mà là vì hoàn cảnh của những người phụ nữ Tây Ban Nha những năm đầu thế kỷ 20 không khác gì hoàn cảnh của Bích Huyền 50 năm sau. Mỗi một kỷ niệm có liên hệ với đời sống Bích Huyền từ thời thơ ấu ở miền Bắc cũng như những năm tháng sau này ở miền Nam đều xuất hiện trong câu chuyện, giống như nó được trao cho vai trò tạo những hình ảnh phản diện để bà có thể vẽ lên được những bức tranh của sự thay đổi về cả không gian và thời gian. Giữa những hình ảnh đối chọi đó, người ta thấy hình ảnh nhỏ bé của người đàn bà trong cơn giông bão của lịch sử. Chỉ cần một mẩu nhỏ ký ức của Bích Huyền trong Đường Ra Vĩnh Phú, chúng ta có thể có được một bản vẽ chính xác:

“Ngồi trong toa con tàu Thống Nhất, tôi vẫn chưa hoàn hồn. Tay khư khư ôm chặt túi xách trong lòng, tôi nhìn theo Nụ len lỏi tìm lối ra giữa những người đang đứng lố nhố tranh giành nhau xếp đồ đạc. Gần tới cửa, Nụ còn ngoảnh lại nhìn tôi, mắt đỏ hoe. Nước mắt tôi làm nhòa đi hình ảnh Nụ trong phút giây ngắn ngủi chia tay. Nụ như bị xô xuống khỏi tầu. Xa xa, sân ga Bình Triệu dưới những ngọn đèn không đủ sáng, cảnh tượng vô cùng hỗn độn… Tiếng còi tàu hú vang báo hiệu đến giờ khởi hành. Tiếng còi dài văng vẳng trong đêm tối. Ngày xưa, khi còn bé, tôi đã từng được học những bài văn tả cảnh sân ga. Niềm vui xum họp, nỗi buồn chia ly, tiếng còi tàu lanh lảnh âm vang trong lòng, tùy theo tâm trạng mỗi người.”
“…Lòng tôi hôm nay, tiếng còi tàu nghe ghê rợn quá! Như tiếng rú, tiếng thét đe doạ con người thất thế, một thân một mình đi thăm nuôi chồng “học tập cải tạo”. Không có một bóng người đứng trên thềm ga tiễn đưa, không có một ngọn đèn vàng lẻ bóng hắt hiu, chỉ có hàng ngàn những con người lam lũ, hối hả, vội vàng trên sân ga, giành giựt từng miếng cơm thừa, từng manh áo rách…”.

Hoặc chúng ta có thể đọc một đoạn khác khi nhà văn, nhà giáo này gặp được mặt chồng:

“Bốn năm xa cách, chúng tôi nhận ra ngay những thay đổi của nhau. Thời gian và khổ cực. Cuộc sống bên ngoài cũng không mấy tự do. Khóc thì sẽ bị đuổi ra. Nhưng những giọt nước mắt vẫn lặng lẽ rơi.”
“Năm phút. Mười phút. Gần hết giờ thăm. Những câu hỏi, câu trả lời lạc lõng. Toàn những chuyện đã viết trong thư. Mấy cái gai nhọn lúc nào cũng muốn như đâm vào da thịt. Đi suốt cả chiều dài đất nước để có được mười lăm phút gặp nhau. Quà thăm được sắp lên xe trâu. Tôi nhìn theo chồng đứng vào hàng để giải về trại. Chồng tôi theo ra cổng nhà thăm nuôi, nhưng chỉ được đứng bên hàng giậu nhìn theo cho đến khi toán người đã khuất vào lùm cây …Thuở còn đi học, nghe cô giáo Tỉnh giảng Kiều say mê, nhưng lại chỉ thích Chinh Phụ Ngâm, để rồi ngày nay phải mang nỗi sầu cô phụ. Tôi nuốt nước mắt và bỗng dưng vạn vật mờ tất cả…”

Trong cái xã hội hoang nát, tiêu điều của bao nhiêu năm phải gò lưng dưới cái ách Cộng Sản, người ta vẫn có thể tìm lại được khá nhiều tấm lòng, những tấm lòng không bị chai mòn bởi hà khắc, bởi những cái đói khổ vô lý mà những người Cộng Sản mang cho họ. Điển hình của những người đó là ông Tuyển trong câu chuyện Lối Cũ Chẳng Sao Quên. Những tấm lòng ấy chẳng phải là di sản của một chủ nghĩa nào tạo nên cả. Nhưng khi đọc Lối Cũ Chẳng Sao Quên, tôi vẫn cứ tin rằng phải có điều gì linh thiêng lắm nên ở miền đất nước ấy, người ta vẫn có thể nhìn thấy những cánh hoa của tâm hồn người Việt mọc lên từ sỏi đá. Hãy nghe Bích Huyền mô tả về ông Tuyển:
“Ông Tuyển đặt ly trà thơm phức trước mặt tôi. ‘Được biết cô về đây bốc mộ chồng, chúng tôi vô cùng cảm kích. Gia đình chúng tôi sẽ hết sức giúp đỡ cô và các ông anh đây.’ Vầng trán cao, khuôn mặt chữ điền. Cách nói chuyện lưu loát cùng dáng điệu từ tốn, cử chỉ lịch sự, chứng tỏ ông Tuyển là một người có số vốn kiến thức về học vấn cũng như về xã hội. Ông cho biết có một người anh là linh mục trong một ngôi nhà thờ vùng đất đỏ Long Khánh.”

Cũng do tấm lòng này mà công cuộc bốc mộ chồng của Bích Huyền xuông sẻ vào những phút chót:

“Gỗ áo quan dầy và chắc. Khi chiếc nắp được bật lên, tôi lạnh người: chiếc chăn len màu đỏ. Suốt đêm qua, người anh lớn cứ chợp mắt là nằm mơ thấy xác chồng tôi quấn bằng mảnh vải màu đỏ. Gương mặt anh tôi xúc động.Bóc lượt chăn len ra là quần áo. Hết lớp áo này đến lớp quần khác. Bạn bè đã dồn tất cả cho người chết mang theo. Nước mắt tôi dàn dụa. Màu xanh lá cây đậm của chiếc áo len mẹ tôi mua tặng gửi trong 5 ký lô quà đầu tiên ra Bắc. Chiếc sơ mi trắng ngà, có từng sợi chỉ xanh, hồng nhạt sau chuyến du học tại Mỹ năm 1971. Chai dầu gió, đôi giày ba ta…tất cả tôi đã tự tay xếp vào chiếc ba lô trước ngày anh đi trình diện…”

Khi đọc mẩu ký ức này trong Lối Cũ Chẳng Sao Quên của Bích Huyền, hình ảnh làm tôi chú ý chính là chiếc chăn đỏ. Chiếc chăn này trại tù thường phát cho những người tù. Nó dệt bằng một loại len làm từ những mẩu vải vụn ở những đống rác, do Trung Cộng dệt và sản xuất. Chăn rất nặng nhưng không được ấm lắm. Hành trang này để người tù đắp, gối đầu hay lót sàn nằm, và khi người tù chết, các bạn bè thường dùng nó để quấn xác người đồng cảnh xấu số. Ở trại tôi, do không có áo quan, nên chỉ quấn như thế và đem chôn. Những bộ quần áo trận đã vá đùm vá chặp cũng được bạn bè mặc vào hết cho đồng đội qua đời. Và cũng chính vì thế mà khi bốc mộ chồng, Bích Huyền mới nhìn thấy chiếc chăn đỏ ấy.

Khi còn chiến trận, người nằm xuống được đồng đội quấn bằng tấm poncho. Khi thua trận, lâm vào cảnh tù đầy, bạn bè dùng tấm chăn đỏ của nhà tù để quấn cái thân xác tả tơi của người lính. Nhưng chúng tôi vẫn gọi chiếc chăn đỏ là “da xích thố”. Không biết khi còn sống, Nguyễn Quang Hưng có khi nào nói tới chữ nghĩa đau đớn và bi hùng ấy, khi gặp vợ không? Dù sao, tôi vẫn nghĩ, những hình ảnh ấn tượng và xót xa nhất trong mẩu ký ức này là tấm chăn đỏ bọc thi thể của Hưng.

Dĩ nhiên trong Lối Cũ Chẳng Sao Quên, chúng ta còn bắt gặp không thiếu những hình ảnh nhẹ nhàng, mà phần lớn còn đọng lại từ tuổi thơ của nhà văn nữ này về đời sống thực, thiếu thốn, nhếch nhác, thiếu văn minh, văn hóa của một xã hội sau mấy chục năm bị những người Cộng Sản làm cho tha hóa, mai một. Những liên tưởng của Bích Huyền được mô tả một cách tự nhiên, và cũng chính vì thế nó tạo được ảnh hưởng trên toàn bộ tác phẩm của bà. Nó chợt đến chợt đi như tương lai chẳng bao giờ chắc chắn mà người dân miền Nam Bắc dường như đã quen mòn rồi. Cái khổ đã hằn lên khuôn mặt người dân như những nhát dao chém xuống đá, và con đường mà cả dân tộc bị buộc phải bước đi trên đó sẽ chỉ là một con đường cụt. Nó giống như những con đường mà Bích Huyền đã từng bước lên để theo dấu chân chồng. Nó cũng giống như những con đường đầy lau lách mà Bích Huyền trở lại để khai quật và chuyển hài cốt của chồng vào trong Nam. Đó là hai khối màu chính của bức tranh. Những con đường ấy dẫn đến thảm kịch cho Hưng. Không những Bích Huyền chẳng bao giờ quên mà còn nhiều phụ nữ ở đây chắc cũng có những con đường không quên được của một giai đoạn buồn bã trong đời họ.

“Không gian mênh mông yên lặng. Tôi lặng lẽ theo các anh tôi cho kịp chuyến đò cuối cùng…”

Đó là câu kết của Lối Cũ Chẳng Sao Quên. Câu văn buồn man mác. Bởi vì, cũng chẳng biết cả dân tộc này rồi có kịp được chuyến đò cuối cùng hay không?

Bản tiếng Anh là của Quỳnh Diễm, một luật gia trẻ tuổi vừa mới tốt nghiệp. Quỳnh Diễm định cư tại Úc châu khi mới lên hai tuổi, nhưng tiếng Việt vẫn còn chảy mạnh trong trái tim người phụ nữ thế hệ thứ hai này. Cô đã tự nguyện dịch Lối Cũ Chẳng Sao Quên ra tiếng Anh “The Trail I Will Never Forget” để cho lớp trẻ có thể đọc được. Bản tiếng Anh khá hoàn chỉnh, nhưng tôi vẫn ngại rằng nếu không thêm phần chú thích thì các em sẽ không hiểu những từ ngữ mà chỉ có tù nhân và thân nhân mới hiểu được . Dù sao, tôi cũng vẫn nghĩ rằng, lớp trẻ sẽ rất hoan nghênh The Trail I Will Never Forget và cả người dịch nữa.

Vũ Ánh